ĐẠI HỌC THÁI NGUYÊN
TRƯỜNG ĐẠI HỌC NÔNG LÂM
------------------------
------------------------
NGUYỄN HỒNG PHONG
ĐÁNH GIÁ THỰC TRẠNG VI PHẠM HÀNH
CHÍNH TRONG SỬ DỤNG ĐẤT NÔNG NGHIỆP
TRÊN ĐỊA BÀN HUYỆN ĐAN PHƯỢNG,
THÀNH PHỐ HÀ NỘI GIAI ĐOẠN 2010 - 2014
LUẬN VĂN THẠC SĨ
QUẢN LÝ ĐẤT ĐAI
THÁI NGUYÊN - 2015
ĐẠI HỌC THÁI NGUYÊN
TRƯỜNG ĐẠI HỌC NÔNG LÂM
--------------------
--------------------
NGUYỄN HỒNG PHONG
ĐÁNH GIÁ THỰC TRẠNG VI PHẠM HÀNH
CHÍNH TRONG SỬ DỤNG ĐẤT NÔNG NGHIỆP
TRÊN ĐỊA BÀN HUYỆN ĐAN PHƯỢNG,
THÀNH PHỐ HÀ NỘI GIAI ĐOẠN 2010 - 2014
NGÀNH: QUẢN LÝ ĐẤT ĐAI
MÃ SỐ: 60.85.01.03
LUẬN VĂN THẠC SĨ
QUẢN LÝ ĐẤT ĐAI
Người hướng dẫn khoa học: PGS.TS. Nguyễn Khắc Thái Sơn
THÁI NGUYÊN - 2015
LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu của riêng tôi. Các số
liệu, kết quả nghiên cứu trong luận văn là trung thực và chưa được ai công
bố trong bất kỳ công trình nào khác.
Tôi xin cam đoan rằng các thông tin trích dẫn trong luận văn đều đã
được chỉ rõ nguồn gốc./.
Tác giả luận văn
Nguyễn Hồng Phong
LỜI CẢM ƠN
Trong suốt quá trình học tập và thực hiện đề tài, tôi đã nhận được sự
giúp đỡ, những ý kiến, chỉ bảo quý báu của các thầy, cô giáo Khoa Quản lý
Tài nguyên, phòng Quản lý đào tạo Sau Đại học, trường Đại học Nông lâm
Thái Nguyên.
Để có được kết quả nghiên cứu này, ngoài sự cố gắng và nỗ lực của
bản thân, tôi còn nhận được sự hướng dẫn chu đáo, tận tình của PGS. TS
Nguyễn Khắc Thái Sơn là người hướng dẫn trực tiếp tôi trong suốt thời gian
nghiên cứu đề tài và viết luận văn.
Trong thời gian nghiên cứu đề tài, tôi đã nhận được sự giúp đỡ, tạo
điều kiện của UBND huyện Đan Phượng, thành phố Hà Nội, phòng Tài
nguyên và Môi trường, phòng Quản lý đô thị, phòng Thống Kê, các hộ gia
đình tham gia phỏng vấn, các anh chị em và bạn bè đồng nghiệp, sự động
viên, tạo mọi điều kiện về vật chất,tinh thần của gia đình và người thân.
Với tấm lòng biết ơn, tôi xin chân thành cảm ơn mọi sự giúp đỡ quý
báu đó !
Thái Nguyên, ngày tháng
Tác giả luận văn
Nguyễn Hồng Phong
năm
MỤC LỤC
DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT
Ký hiệu
Chú giải
LĐĐ
: Luật Đất đai
SDĐ
: Sử dụng đất
STT
: Số thứ tự
TNMT
: Tài nguyên và môi trường
TP
: Thành phố
TX
: Thị xã
UBND
: Uỷ ban nhân dân
LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu của riêng tôi. Các số
liệu, kết quả nghiên cứu trong luận văn là trung thực và chưa được ai công
bố trong bất kỳ công trình nào khác.
Tôi xin cam đoan rằng các thông tin trích dẫn trong luận văn đều đã
được chỉ rõ nguồn gốc./.
Tác giả luận văn
Nguyễn Hồng Phong
2
về kinh tế - xã hội. Do chịu tác động rất lớn của quá trình mở rộng đô thị
hoá, công nghiệp hoá, nhu cầu thị trường quyền sử dụng đất cho yêu cầu
phát triển kinh tế - xã hội có xu hướng ngày càng gia tăng. Công tác quản
lý và sử dụng đất của huyện có nhiều vướng mắc, trở ngại đang cần được
khắc phục. Công tác cấp GCN QSD đất, thực hiện các quyền sử dụng đất
còn nhiều bất cập và vướng mắc. Đứng trước thực trạng đó, để công tác
quản lý và sử dụng đất đai ngày càng có hiệu quả, cần phải rút kinh
nghiệm từ thực tế trong quá trình quản lý và sử dụng đất. Trên cơ sở đó,
xây dựng các biện pháp nhằm quản lý và sử dụng đất hiệu quả hơn, bền
vững hơn.
Để có cách nhìn một cách khách quan dựa trên những cơ sở luận cứ
khoa học và nhằm góp phần làm sáng tỏ những vấn đề nêu trên chúng tôi
tiến hành nghiên cứu đề tài “Đánh giá thực trạng vi phạm hành chính trong sử
dụng đất nông nghiệp trên địa bàn huyện Đan Phượng, thành phố Hà Nội giai
đoạn 2010 - 2014”.
2. MỤC TIÊU CỦA ĐỀ TÀI
2.1. Mục tiêu tổng quát
Đánh giá được thực trạng vi phạm và kết quả xử lý vi phạm hành
chính trong sử dụng đất nông nghiệp của hộ gia đình, cá nhân nhằm chỉ ra
những mặt làm được, những mặt chưa làm được; từ đó đề xuất một số giải
pháp góp phần hạn chế, từng bước đẩy lùi tình trạng vi phạm pháp luật về
đất đai trong sử dụng đất nông nghiệp, nâng cao hiệu quả công tác quản lý
đất đai trên địa bàn huyện Đan Phượng, Thành phố Hà Nội.
2.2. Mục tiêu cụ thể
- Đánh giá được tình hình cơ bản của của huyện Đan Phượng ảnh
hưởng đến sử dụng đất nông nghiệp;
- Đánh giá được thực trạng vi phạm hành chính trong sử dụng đất
nông nghiệp trên địa bàn huyện Đan Phượng, thành phố Hà Nội giai đoạn
2010-2014;
3
- Đánh giá được kết quả xử lý vi phạm hành chính trong sử dụng đất
nông nghiệp trên địa bàn huyện Đan Phượng, thành phố Hà Nội giai đoạn
2010 - 2014;
- Chỉ ra được nguyên nhân vi phạm, khó khăn trong giải quyết, giải pháp
hạn chế và xử lí vi phạm hành chính trong sử dụng đất nông nghiệp tại huyện
Đan Phượng, thành phố Hà Nội.
3. Ý NGHĨA CỦA ĐỀ TÀI
3.1. Ý nghĩa khoa học
- Góp phần làm sáng tỏ cơ sở lý luận về xử lý vi phạm hành chính và
pháp luật xử lý vi phạm hành chính trong lĩnh vực đất đai ở Việt Nam;
- Tạo lập cơ sở khoa học trong việc đề xuất các giải pháp nhằm hoàn
thiện việc xử lý vi phạm hành chính trong lĩnh vực đất đai ở nước ta hiện nay.
3.2. Ý nghĩa thực tiễn
- Làm tài liệu tham khảo cho các chuyên gia xây dựng pháp luật về xử
lý vi phạm hành chính trong lĩnh vực đất đai;
- Góp phần nâng cao hiệu quả trong công tác quản lý nói chung và xử
lý vi phạm hành chính về đất đai nói riêng tại huyện Đan Phượng.
4
CHƯƠNG 1
TỔNG QUAN TÀI LIỆU NGHIÊN CỨU
1.1. CƠ SỞ KHOA HỌC CỦA ĐỀ TÀI
1.1.1. Cơ sở lý luận của đề tài
Đất đai ngày càng thể hiện được tầm quan trọng bậc nhất trong việc
ảnh hưởng tới sự phát triển toàn diện của đất nước. Việc làm thế nào để
quản lý và SDĐ một cách tiết kiệm, hiệu quả nhất là vấn đề luôn luôn được
nhà nước ta coi trọng. Nó được thể hiện qua việc nhà nước ta dần hoàn thiện
pháp luật đất đai qua các thời kỳ và giai đoạn gần đây nhất là LĐĐ năm
2003 [24]. Tuy nhiên, nó chỉ đáp ứng được phần nào trong việc quản lý và
SDĐ mà còn nhiều bất cập trong việc quản lý và xử lý các vi phạm về đất
đai. Ngoài việc pháp luật về đất đai còn nhiều bất cập thì việc quản lý SDĐ
ở các địa phương nói chung và huyện Đan Phượng, Thành phố Hà Nội nói
riêng còn nhiều hạn chế trong việc phát hiện và xử lý nghiêm các trường hợp
vi phạm về đất đai dẫn đến việc vi phạm về đất đai là khá phổ biến trên địa
bàn huyện Đan Phượng.
Để từng bước hạn chế tiến tới đẩy lùi tình trạng này, góp phần đưa
công tác quản lý, sử dụng đất đai đi vào nề nếp, tuân thủ các quy định của
pháp luật thì việc “Đánh giá thực trạng vi phạm hành chính trong sử dụng
đất nông nghiệp của hộ gia đình, cá nhân trên địa bàn huyện Đan Phượng,
thành phố Hà Nội” là vấn đề rất cần được nghiên cứu.
1.1.2. Cơ sở thực tiễn của đề tài
Trong quá trình sử dụng đất nông nghiệp được giao 20 năm của hộ gia
đình, cá nhân trên địa bàn thành phố Hà Nội nói chung và huyện Đan
Phượng nói riêng tình trạng tự ý chuyển đổi sang sử dụng vào các mục đích
khác như: Làm nhà ở; xây dựng các công trình sản xuất, kinh doanh, dịch
vụ; đào ao thả cá trên đất chuyên trồng lúa…không được phát hiện và xử lý
kịp thời, cương quyết, đúng pháp luật đã gây nhiều khó khăn cho công tác
quản lý đất đai, mất công bằng trong sử dụng đất đai, trong nhiều trường hợp
5
là nguyên nhân gây mất ổn định tình hình an ninh chính trị và trật tự an toàn
xã hội tại cơ sở. Vì vậy việc nghiên cứu “Đánh giá thực trạng vi phạm hành
chính trong sử dụng đất nông nghiệp của hộ gia đình, cá nhân trên địa bàn
huyện Đan Phượng, thành phố Hà Nội” từ đó đề xuất các giải pháp góp
phần hạn chế, tiến tới đẩy lùi tình trạng vi phạm pháp luật về đất đai trong
sử dụng đất nông nghiệp là hết sức cần thiết và cấp bách.
1.1.3. Cơ sở pháp lí của đề tài
Cơ sở pháp lí của đề tài là các văn bản của cơ quan Nhà nước có thẩm
quyền liên quan đến công tác xác định và xử lý vi phạm luật đất đai, bao
gồm những văn bản chính sau:
1- Hiến pháp Nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam năm 1992;
2- Luật Đất đai năm 2003;
3- Bộ luật Dân sự năm 2005;
4. Pháp lệnh Xử lý vi phạm hành chính năm 2002 đã được sửa đổi
năm 2007 và năm 2008;
5- Nghị định số 181/2004 NĐ-CP ngày 29/10/2004 của Chính phủ về
thi hành Luật Đất đai.
6- Nghị định số 37/2005/NĐ-CP ngày 18/3/2005 của Chính phủ quy
định thủ tục áp dụng các biện pháp cưỡng chế thi hành quyết định xử phạt vi
phạm hành chính;
7- Nghị định số 84/2007/NĐ-CP ngày 25/5/2007 của Chính phủ quy
định bổ sung về cấp GCNQSD đất, thu hồi đất, thực hiện quyền sử dụng đất,
trình tự, thủ tục bồi thường, hỗ trợ, tái định cư khi nhà nước thu hồi đất và
giải quyết khiếu nại về đất đai;
8- Nghị định số 128/2008/NĐ-CP ngày 16/12/2008 của Chính phủ
quy định chi tiết thi hành một số điều của Pháp lệnh Xử lý vi phạm hành
chính năm 2002 và Pháp lệnh sửa đổi, bổ sung một số điều của Pháp lệnh
Xử lý vi phạm hành chính năm 2008;
LỜI CẢM ƠN
Trong suốt quá trình học tập và thực hiện đề tài, tôi đã nhận được sự
giúp đỡ, những ý kiến, chỉ bảo quý báu của các thầy, cô giáo Khoa Quản lý
Tài nguyên, phòng Quản lý đào tạo Sau Đại học, trường Đại học Nông lâm
Thái Nguyên.
Để có được kết quả nghiên cứu này, ngoài sự cố gắng và nỗ lực của
bản thân, tôi còn nhận được sự hướng dẫn chu đáo, tận tình của PGS. TS
Nguyễn Khắc Thái Sơn là người hướng dẫn trực tiếp tôi trong suốt thời gian
nghiên cứu đề tài và viết luận văn.
Trong thời gian nghiên cứu đề tài, tôi đã nhận được sự giúp đỡ, tạo
điều kiện của UBND huyện Đan Phượng, thành phố Hà Nội, phòng Tài
nguyên và Môi trường, phòng Quản lý đô thị, phòng Thống Kê, các hộ gia
đình tham gia phỏng vấn, các anh chị em và bạn bè đồng nghiệp, sự động
viên, tạo mọi điều kiện về vật chất,tinh thần của gia đình và người thân.
Với tấm lòng biết ơn, tôi xin chân thành cảm ơn mọi sự giúp đỡ quý
báu đó !
Thái Nguyên, ngày tháng
Tác giả luận văn
Nguyễn Hồng Phong
năm
7
1.2. KHÁI QUÁT VỀ VI PHẠM VÀ XỬ LÝ VI PHẠM HÀNH CHÍNH
TRONG LĨNH VỰC ĐẤT ĐAI
1.2.1. Một số khái niệm cơ bản liên quan đến đề tài
1.2.1.1. Khái niệm vi phạm pháp luật
Pháp luật là hệ thống các quy tắc xử sự chung, là tiêu chuẩn của hành
vi con người. Hành vi là những phản ứng, cách ứng xử được biểu hiện ra
bên ngoài của con người trong những điều kiện và hoàn cảnh nhất định. Mỗi
hành vi đều được hình thành trên cơ sở nhận thức và kiểm soát của chủ thể,
mà chủ thể ý thức được và chủ động thực hiện nó. Có thể hiểu vi phạm pháp
luật là hành vi trái pháp luật, có lỗi, do chủ thể có năng lực trách nhiệm pháp
lý thực hiện một cách cố ý hoặc vô ý, xâm hại các quan hệ xã hội được pháp
luật bảo vệ.
1.2.1.2. Khái niệm vi phạm hành chính
Ở một số nước trên thế giới, vi phạm hành chính thường được hiểu
chung là “các hành vi vi phạm pháp luật mà không phải là tội phạm, bị xử
phạt bằng các chế tài hành chính” [6].
Ở Việt Nam, định nghĩa Vi phạm hành chính lần đầu tiên được nêu tại
Điều 1, Pháp lệnh xử phạt Vi phạm hành chính ngày 30/11/1989 như sau:
“Vi phạm hành chính là hành vi do cá nhân, tổ chức thực hiện một
cách cố ý hoặc vô ý, xâm phạm các quy tắc quản lý nhà nước mà không phải
là tội phạm hình sự và theo quy định của pháp luật phải bị xử phạt hành
chính”.[21]
Pháp lệnh xử lý Vi phạm hành chính năm 1995 và sau đó là Pháp lệnh
xử lý Vi phạm hành chính năm 2002, không định nghĩa Vi phạm hành chính
trực tiếp mà được quy định một cách gián tiếp thông qua khái niệm “xử phạt
Vi phạm hành chính”:
“Xử phạt Vi phạm hành chính được áp dụng đối với cá nhân, tổ chức
(sau đây gọi chung là cá nhân, tổ chức) có hành vi cố ý hoặc vô vi phạm các
quy định của pháp luật về quản lý nhà nước mà không phải là tội phạm và
8
theo quy định của pháp luật phải bị xử phạt hành chính”.[24]
Hiện nay, có nhiều quan điểm cho rằng Vi phạm hành chính có lẽ còn
nguy hiểm hơn nhiều lần một số tội phạm nặng nhất như giết người, vì
chúng giết môi trường sống của con người, tức là gián tiếp, có khi là trực
tiếp giết nhiều người và hủy hoại môi trường sống của nhiều thế hệ mai sau.
Vì vậy, “Vi phạm hành chính ở nước ta là loại hành vi gây bất ổn cho xã
hội rất lớn, gây nguy hiểm cho xã hội rất lớn so với nhiều nước”. [20].
Tuy nhiên về mặt lý luận chung, các nhà khoa học pháp lý đều thừa nhận:
“Vi phạm hành chính là hành vi do cá nhân, tổ chức thực hiện với lỗi cố ý
hoặc vô ý, vi phạm các quy định của pháp luật về quản lý nhà nước mà không
phải là tội phạm và phải bị xử phạt hành chính theo quy định của pháp luật” [17].
1.2.1.3. Khái niệm vi phạm hành chính trong lĩnh vực đất đai
Các nhà khoa học pháp lý đã đưa ra khái niệm vi phạm pháp luật đất
đai như sau:
Vi phạm pháp luật đất đai là hành vi trái pháp luật, được thực hiện
một cách cố ý hoặc vô ý, xâm phạm đến quyền, lợi ích của Nhà nước, với vai
trò là đại diện cho chủ sở hữu, quyền và lợi ích của người SDĐ đai, cũng
như các quy định và chế độ sử dụng các loại đất [23].
Khái niệm Vi phạm hành chính trong lĩnh vực quản lý, SDĐ đai lần
đầu tiên được ghi nhận tại Điểm 1 mục I Thông tư số 278-TT/ĐC ngày
07/3/1997 của Tổng cục Địa chính hướng dẫn thực hiện Nghị định số 04-CP
ngày 10/01/1997 của Chính phủ về xử phạt Vi phạm hành chính trong lĩnh
vực đất đai: “Vi phạm hành chính trong lĩnh vực quản lý, SDĐ đai là những
hành vi làm trái với quy định về quản lý, SDĐ đai nhưng chưa đến mức phải
truy cứu trách nhiệm hình sự” [28]. Khái niệm này mới chỉ phản ánh được
mặt khách quan của vi phạm, mà không đề cập đến mặt chủ quan và chủ thể
của Vi phạm hành chính.
Khoản 1 Điều 1 Nghị định số 182/2004/NĐ-CP ngày 29/10/2004 của
Chính phủ về xử phạt Vi phạm hành chính trong lĩnh vực đất đai (sau đây
9
gọi là Nghị định số 182/2004/NĐ-CP) đã sửa lại khái niệm trên như sau:
“Vi phạm hành chính trong lĩnh vực đất đai quy định trong Nghị định
này là hành vi cố ý hoặc vô ý của cá nhân, tổ chức vi phạm các quy định của
pháp luật về đất đai mà không phải là tội phạm và theo quy định của pháp luật
phải bị xử phạt hành chính” [7].
Khoản 2 Điều 1 Nghị định số 105/2009/NĐ-CP ngày 11 tháng 11
năm 2009 về xử phạt Vi phạm hành chính trong lĩnh vực đất đai (sau đây
gọi là Nghị định số 105/2009/NĐ-CP) đã sửa đổi, bổ sung thêm chủ thể Vi
phạm hành chính trong lĩnh vực đất đai:
“Vi phạm hành chính trong lĩnh vực đất đai quy định trong Nghị định
này là hành vi cố ý hoặc vô ý của người SDĐ, tổ chức, cá nhân có liên quan,
tổ chức hoạt động dịch vụ về đất đai vi phạm các quy định của pháp luật về
đất đai mà chưa đến mức bị truy cứu trách nhiệm hình sự theo quy định của
pháp luật”[10].
1.2.2. Đặc điểm của vi phạm hành chính trong lĩnh vực đất đai
Vi phạm hành chính trong lĩnh vực đất đai là một dạng của vi phạm
hành chính vì vậy mà đặc điểm của vi phạm hành chính trong lĩnh vực đất đai
cũng được thể hiện ở bốn yếu tố là mặt khách quan, mặt chủ quan, chủ thể và
khách thể.
+ Mặt khách quan của vi phạm hành chính trong lĩnh vực đất đai là
những biểu hiện ra bên ngoài của vi phạm hành chính về đất đai, nó gồm có
những yếu tố sau:
- Hành vi trái pháp luật đất đai. Để xác định có hành vi trái pháp luật
đất đai thì ta phải căn cứ vào những quy định của pháp luật về đất đai, về
đường lối chính sách của Đảng và Nhà nước liên quan đến việc quản lý, sử
dụng đất đai để xem xét về một hành vi cụ thể.
- Hậu quả (sự thiệt hại của xã hội) do hành vi trái pháp luật đất đai
gây ra. Tính nguy hiểm cho xã hội của hành vi trái pháp luật đất đai thể hiện
10
ở chỗ nó xâm hại quyền đại diện chủ sở hữu của Nhà nước đối với đất đai
hoặc xâm hại đến quyền lợi của người sử dụng đất.
- Mối quan hệ nhân quả giữa hành vi vi phạm hành chính về đất đai
với hậu quả mà nó gây ra cho xã hội thể hiện sự thiệt hại cho xã hội là do
chính hành vi vi phạm hành chính về đất đai gây ra. Song không phải mọi vi
phạm hành chính về đất đai đều bắt buộc phải có dấu hiệu hậu quả và quan
hệ nhân quả mà nhiều vi phạm hành chính về đất đai chỉ cần dấu hiệu “cấu
thành hình thức” là đủ căn cứ để xử phạt hành chính.
+ Mặt chủ quan của vi phạm hành chính về đất đai là những biểu hiện
tâm lý bên trong của chủ thể vi phạm, gồm lỗi, động cơ và mục đích:
- Lỗi là trạng thái tâm lý, là ý chí chủ quan của con người đối với
hành vi vi phạm và hậu quả do hành vi đó gây ra được thực hiện một cách cố
ý hoặc vô ý. Vì vậy phải xét yếu tố lỗi chính xác để xác định được hình thức
xử lý phù hợp với hành vi vi phạm pháp luật đất đai.
- Mục đích, động cơ trong vi phạm hành chính về đất đai.
+ Khách thể của vi phạm hành chính về đất đai.
Khách thể của vi phạm hành chính là những quan hệ xã hội được pháp
luật bảo vệ nhưng bị hành vi vi phạm hành chính xâm hại. Vậy khách thể
của vi phạm hành chính trong lĩnh vực đất đai là những quan hệ trong quản
lý, sử dụng đất đai bị hành vi vi phạm hành chính xâm hại.
+ Chủ thể của vi phạm hành chính về đất đai.
Vi phạm hành chính về đất đai là hành vi do cá nhân, tổ chức thực
hiện cố ý hoặc vô ý xâm hại đến các quan hệ xã hội được pháp luật đất đai
bảo vệ. Do vậy, chủ thể của vi phạm hành chính về đất đai là những cá nhân,
tổ chức có năng lực chủ thể. Những hành vi này đều xâm hại đến các quan
hệ pháp luật đất đai đang được duy trì, làm ảnh hưởng đến hiệu lực, hiệu quả
quản lý nhà nước. Song do tính chất và mức độ xâm hại của hành vi chưa
đến mức nguy hiểm cho xã hội để trở thành tội phạm hình sự và theo quy
định của pháp luật phải bị xử phạt hành chính [4], [5].
11
1.2.3. Các loại hành vi vi phạm hành chính trong sử dụng đất nông
nghiệp của hộ gia đình, cá nhân
Nghị định số 105/2009/NĐ-CP quy định tổng số có 17 hành vi vi
phạm và bị xử phạt, trong đó có 14 hành vi Vi phạm hành chính trong sử
dụng đất và 03 hành vi Vi phạm hành chính trong hoạt động dịch vụ về đất
đai. So với Nghị định số 182/2004/NĐ-CP, có một số hành vi bị loại bỏ và
một số hành vi được bổ sung, cụ thể:
Nghị định số 105/2009/NĐ-CP loại bỏ 02 hành vi:
- Bỏ hành vi "chậm thực hiện bồi thường và chậm nộp tiền sử dụng
đất, tiền thuê đất mà không được cơ quan nhà nước có thẩm quyền giao đất,
cho thuê đất cho phép" [13]. Việc bỏ hành vi này vì việc chậm thực hiện bồi
thường là hành vi vi phạm của cán bộ, công chức được giao nhiệm vụ thực
hiện việc bồi thường, không phải là hành vi của người có đất bị thu hồi; do
đó không thuộc phạm vi điều chỉnh của Nghị định.
- Bỏ hành vi "chậm nộp tiền sử dụng đất, tiền thuê đất mà không được
cơ quan nhà nước có thẩm quyền giao đất, cho thuê đất cho phép” [13]. Việc
bỏ hành vi này vì đã được xử lý theo quy định của pháp luật về tài chính.
Nghị định số 105/2009/NĐ-CP bổ sung 03 hành vi:
- Nhận chuyển quyền sử dụng đất nhưng không đủ điều kiện nhận
chuyển quyền sử dụng đất theo quy định tại Điều 103 của Nghị định số
181/2004/NĐ-CP;
- Chậm đưa đất vào sử dụng theo quy định của pháp luật về đất đai;
- Chậm hoặc không cung cấp thông tin, giấy tờ, tài liệu có liên quan
đến việc thanh tra, kiểm tra; cản trở việc thanh tra, kiểm tra về đất đai.
Các hành vi Vi phạm hành chính được quy định trong Nghị định số
105/2009/NĐ-CP, gồm:
Một là, sử dụng đất không đúng mục đích (Điều 8). Hành vi này được
khoản 1 Điều 3 Nghị định số 105/2009/NĐ-CP định nghĩa là hành vi sử
dụng đất không đúng với mục đích sử dụng, loại đất ghi trong Giấy chứng
12
nhận quyền sử dụng đất hoặc Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, quyền sở
hữu nhà ở và tài sản khác gắn liền với đất hoặc quyết định giao đất, quyết
định cho thuê đất, quyết định cho phép chuyển mục đích sử dụng đất hoặc
giấy tờ khác về quyền sử dụng đất quy định tại các khoản 1, 2 và 5 Điều 50
của LĐĐ [14].
Hành vi sử dụng đất không đúng mục đích đối với 04 loại đất là:
- Chuyển đất chuyên trồng lúa nước sang đất phi nông nghiệp, chuyển
đất trồng cây lâu năm sang đất ao, hồ, đầm, nuôi trồng thuỷ sản sử dụng
nước mặn;
- Chuyển đất rừng đặc dụng, đất rừng phòng hộ sang sử dụng vào mục
đích khác;
- Chuyển từ đất phi nông nghiệp được Nhà nước giao không thu tiền
sử dụng đất sang đất phi nông nghiệp theo quy định phải nộp tiền sử dụng
đất hoặc chuyển từ đất phi nông nghiệp không phải là đất ở sang đất ở;
- Sử dụng đất để xây dựng công trình, đầu tư bất động sản thuộc khu
vực đô thị, khu công nghiệp, khu công nghệ cao, khu kinh tế trái với quy
hoạch sử dụng đất chi tiết, kế hoạch sử dụng đất chi tiết đã được công bố;
Hai là, lấn, chiếm đất (Điều 9). Khoản 2 và khoản 3 Điều 3 Nghị định
số 105/2009/NĐ-CP lần lượt định nghĩa:
- Lấn đất là việc người đang sử dụng đất tự chuyển dịch mốc giới
hoặc ranh giới thửa đất để mở rộng diện tích đất [14].
- Chiếm đất là việc sử dụng đất mà không được cơ quan Nhà nước có
thẩm quyền cho phép hoặc không được chủ sử dụng đất cho phép hoặc việc
sử dụng đất do được Nhà nước tạm giao hoặc mượn đất nhưng hết thời hạn
tạm giao, mượn đất mà không trả lại [14].
Ba là, huỷ hoại đất (Điều 10). Hành vi này không được Nghị định số
105/2009/NĐ-CP chính thức định nghĩa. Tuy nhiên căn cứ vào quy định tại
Điều 10 của Nghị định số 105/2009/NĐ-CP, chúng ta có thể hiểu hủy hoại
đất là hành vi làm suy giảm chất lượng đất hoặc làm biến dạng địa hình hoặc
13
gây ô nhiễm đất dẫn đến hậu quả làm cho đất giảm hoặc mất khả năng sử
dụng theo mục đích sử dụng đã được xác định.
Bốn là, gây cản trở cho việc sử dụng đất của người khác (Điều 11).
Khoản 4 Điều 3 Nghị định số 105/2009/NĐ-CP định nghĩa gây cản trở cho
việc sử dụng đất của người khác là hành vi đưa vật liệu xây dựng, chất thải,
chất độc hại hay các vật khác lên thửa đất của người khác hoặc lên thửa đất
của mình hoặc đào bới, xây tường, làm hàng rào và các hành vi khác mà
hành vi này gây cản trở, làm giảm khả năng sử dụng đất của người khác
hoặc gây thiệt hại cho việc sử dụng đất của người khác [14].
Năm là, chuyển đổi, chuyển nhượng, cho thuê, cho thuê lại, thừa kế,
tặng cho quyền sử dụng đất hoặc thế chấp, bảo lãnh, góp vốn bằng quyền sử
dụng đất mà không thực hiện đúng thủ tục hành chính theo quy định của
pháp luật về đất đai. Nghị định số 105/2009/NĐ-CP không có giải thích về
hành vi này, nhưng chúng ta có thể hiểu là người sử dụng đất khi thực hiện
các quyền của người sử dụng đất đã không tuân thủ theo đúng quy định của
pháp luật đất đai.
Sáu là, tự ý chuyển đổi, chuyển nhượng, tặng cho, cho thuê, cho thuê
lại, thừa kế, thế chấp, bảo lãnh, góp vốn bằng quyền sử dụng đất đối với đất
không đủ điều kiện. Hành vi này cũng không được Nghị định số
105/2009/NĐ-CP giải thích, nhưng có thể hiểu là đất không đủ điều kiện để
thực hiện các quyền theo quy định tại Điều 106 LĐĐ năm 2003, cụ thể là:
quyền sử dụng đất được chuyển nhượng phải có giấy chứng nhận quyền sử
dụng đất, quyền sở hữu nhà ở và tài sản khác gắn liền với đất; đất không có
tranh chấp; quyền sử dụng đất không bị kê biên để bảo đảm thi hành án;
trong thời hạn sử dụng đất.
Bảy là, nhận chuyển quyền sử dụng đất nhưng không đủ điều kiện
nhận chuyển nhượng quyền sử dụng đất theo quy định của pháp luật về đất
đai. Giống với hai hành vi trên, hành vi này cũng không được định nghĩa rõ
MỤC LỤC
15
đến tình trạng tùy tiện trong việc áp dụng pháp luật và phát sinh các tiêu cực
trong công tác xử lý vi phạm.
Chín là, hành vi gây cản trở trong việc Nhà nước giao đất, cho thuê
đất, thu hồi đất, bồi thường, giải phóng mặt bằng. Trước đây hành vi này
được Điều 18 của Nghị định số 182/2004/NĐ-CP quy định là “Cố ý gây cản
trở cho việc giao đất, cho thuê đất, thu hồi đất” [13]. Các dạng cụ thể của
hành vi được quy định rõ tại khoản 1 và khoản 2 Điều 16 của Nghị định số
105/2009/NĐ-CP về cơ bản vẫn giữ nguyên như Điều 18 của Nghị định số
182/2004/NĐ-CP chỉ bổ sung thêm cụm từ “bồi thường, giải phóng mặt
bằng”, bao gồm: hành vi không có mặt tại địa điểm để bàn giao đất theo yêu
cầu của cơ quan nhà nước có thẩm quyền mà không có lý do chính đáng;
hành vi ngăn cản cán bộ, công chức của cơ quan nhà nước có thẩm quyền
tiến hành xác định mốc giới, bàn giao đất, cho thuê đất, thu hồi đất, bồi
thường, giải phóng mặt bằng. Mặc dù, Nghị định số 105/2009/NĐ-CP đã bổ
sung thêm hành vi gây cản trở trong việc bồi thường giải phóng mặt bằng
nhưng vẫn chưa giải quyết được vướng mắc của các địa phương trong việc
thực hiện công tác này đó là: tại điểm a khoản 3 Điều 29 của Nghị định số
69/2009/NĐ-CP quy định “Chủ đầu tư tiến hành khảo sát, đo đạc lập bản đồ
khu vực dự án ngay sau khi được chấp thuận chủ trương đầu tư” [12]. Tuy
nhiên, khi các chủ đầu tư tiến hành các công việc này, người sử dụng đất cản
trở không cho họ vào thửa đất của mình để đo vẽ, kiểm đếm khiến cho công
tác bồi thường giải phóng mặt bằng không thực hiện được. Nhưng hành vi
này của người dân lại không bị xử phạt do Nghị định số 105/2009/NĐ-CP
không quy định hành vi này. Như vậy, nhà làm luật cần bổ sung hành vi này
vào Nghị định quy định về xử phạt Vi phạm hành chính trong lĩnh vực đất
đai trong thời gian tới.
Mười là, hành vi không trả lại đất đúng thời hạn theo quyết định thu
hồi đất của cơ quan nhà nước có thẩm quyền. Về cơ bản nội dung Điều 17
của Nghị định số 105/2009/NĐ-CP vẫn kế thừa quy định tại Điều 19 của
16
Nghị định số 182/2004/NĐ-CP đối với hành vi này. Tuy nhiên, có sửa một
chút tiêu đề của điều luật đó là đảo cụm từ “Không thực hiện đúng thời hạn
trả lại đất…” thành “Không trả lại đất đúng thời hạn…”.
Mười một là, tự tiện di chuyển làm sai lệch, hư hỏng mốc chỉ giới quy
hoạch sử dụng đất, mốc chỉ giới hành lang an toàn của công trình, mốc địa
giới hành chính. Điều 18 của Nghị định số 105/2009/NĐ-CP giữ nguyên quy
định của Điều 20 của Nghị định số 182/2004/NĐ-CP.
Mười hai là, hành vi làm sai lệch các giấy tờ, chứng từ trong việc sử
dụng đất. Điều 19 của Nghị định số 105/2009/NĐ-CP và Điều 21 của Nghị
định số 182/2004/NĐ-CP đều xác định rõ đây là hành vi tẩy xóa, sửa chữa
giấy tờ, chứng từ trong việc sử dụng đất dẫn đến việc cấp Giấy chứng nhận
quyền sử dụng đất không đúng quy định; việc chuyển đổi, chuyển nhượng,
cho thuê, thừa kế, tặng cho, thế chấp, bảo lãnh, góp vốn bằng quyền sử dụng
đất không đúng thực tế và gây ra những hậu quả phức tạp.
Tuy nhiên, Nghị định 105/2009/NĐ-CP lại bỏ đi cụm từ “mà chưa
đến mức truy cứu trách nhiệm hình sự”. Điều này dẫn đến khó khăn cho các
cơ quan có thẩm quyền trong việc áp dụng luật. Bởi vì, Bộ luật Hình sự năm
1999 có một điều quy định về tội làm giả con dấu, tài liệu của cơ quan, tổ
chức (Điều 267) [10]. Như vậy, sẽ khó có cơ sở để cơ quan có thẩm quyền
xử lý Vi phạm hành chính khi phát hiện hành vi phạm sẽ chuyển cho cơ
quan điều tra truy cứu trách nhiệm hình sự.
Mười ba là, hành vi chậm đưa đất vào sử dụng theo các quy định của
pháp luật về đất đai. Đây là hành vi mới được quy định trong Nghị định số
105/2009/NĐ-CP. Hành vi này được hiểu là người sử dụng đất có các hành
vi: không sử dụng đất trồng cây hàng năm quá thời hạn mười hai (12) tháng
liền; không sử dụng đất trồng cây lâu năm quá thời hạn mười tám (18) tháng
liền; không sử dụng đất trồng rừng quá thời hạn hai mươi bốn (24) tháng
liền; không sử dụng đất được Nhà nước giao, cho thuê để thực hiện dự án
đầu tư quá thời hạn mười hai (12) tháng liền hoặc tiến độ sử dụng đất chậm
17
hơn hai bốn (24) tháng so với tiến độ ghi trong dự án đầu tư, kể từ khi nhận
bàn giao đất trên thực địa mà không được cơ quan nhà nước có thẩm quyền
quyết định giao đất, cho thuê đất đó cho phép.
Mười bốn là, hành vi chậm hoặc không cung cấp thông tin, giấy tờ, tài
liệu có liên quan đến việc thanh tra, kiểm tra; cản trở việc thanh tra, kiểm tra
về đất đai. Đây cũng là hành vi mới được quy định trong Nghị định số
105/2009/NĐ-CP. Tuy nhiên, khoản 6 Điều 3 của Nghị định số
105/2009/NĐ-CP chỉ định nghĩa về hành vi chậm cung cấp dữ liệu đất đai:
“Là hành vi chậm cung cấp thông tin, giấy tờ, tài liệu có liên quan đến
việc thanh tra, kiểm tra sau mười (10) ngày kể từ ngày công bố quyết định
thanh tra hoặc kể từ ngày nhận được văn bản yêu cầu của người có thẩm
quyền, của cơ quan nhà nước theo quy định của pháp luật” [14].
Các hành vi không cung cấp thông tin, giấy tờ, tài liệu có liên quan
đến việc thanh tra, kiểm tra; cản trở việc thanh tra, kiểm tra về đất đai không
được Nghị định giải thích.
Mười lăm là, hành vi hành nghề tư vấn về giá đất mà không thực hiện
đúng nguyên tắc, phương pháp xác định giá đất theo quy định của pháp luật
hoặc không được cơ quan nhà nước có thẩm quyền cho phép. Nghị định số
105/2009/NĐ-CP không định nghĩa về hành vi này, nhưng chúng ta có thể
hiểu là tổ chức, cá nhân hành nghề nhưng không tuân thủ đúng các nguyên
tắc, phương pháp đã được quy định trong Luật, các Nghị định và Thông tư
hướng dẫn hoặc hành nghề mà không có giấy phép của cơ quan nhà nước có
thẩm quyền cấp theo quy định của pháp luật.
Mười sáu là, hành nghề tư vấn về lập quy hoạch, kế hoạch sử dụng đất
mà không đăng ký hoạt động hành nghề, được quy định tại Điều 23 của
Nghị định số 105/2009/NĐ-CP. Đây là hành vi hành nghề tư vấn về lập quy
hoạch, kế hoạch sử dụng đất mà không đăng ký hoạt động theo quy định của
pháp luật về đất đai.
18
Tuy nhiên, cho đến thời điểm hiện nay pháp luật đất đai vẫn chưa có
quy định về việc đăng ký hành nghề tư vấn về lập quy hoạch, kế hoạch sử
dụng đất. Như vậy, quy định này vẫn chưa có cơ sở thực hiện trên thực tế.
Mười bảy là, hành vi cung cấp dữ liệu đất đai không đúng quy định
của pháp luật quy định tại khoản 5 Điều 3 Nghị định số 105/2009/NĐ-CP và
được định nghĩa [10].
“Là hành vi cung cấp các số liệu, tài liệu về đất đai gồm: số hiệu, kích
thước, hình thể, diện tích, vị trí, người sử dụng thửa đất, nguồn gốc, mục
đích, thời hạn sử dụng đất, giá đất, tài sản gắn liền với đất, nghĩa vụ tài
chính về đất đai đã thực hiện và chưa thực hiện; Giấy chứng nhận quyền sử
dụng đất; Giấy chứng nhận quyền sở hữu nhà ở và quyền sử dụng đất ở;
Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, quyền sở hữu nhà ở và tài sản khác gắn
liền với đất; quyền và những hạn chế về quyền của người sử dụng đất, biến
động trong quá trình sử dụng đất và các thông tin khác có liên quan không
đúng với quy định của pháp luật về thu thập, quản lý, khai thác, sử dụng dữ
liệu đất đai”[14].
1.2.4. Các quy định của pháp luật về xử lý vi phạm hành chính trong lĩnh
vực đất đai
1.2.4.1. Nguyên tắc xử lý vi phạm hành chính trong lĩnh vực đất đai
Việc xử lý vi phạm hành chính trong lĩnh vực đất đai nói chung và
trong sử dụng đất nông nghiệp nói riêng phải đảm bảo các nguyên tắc sau:
a. Mọi vi phạm hành chính phải được phát hiện, đình chỉ, xử lý kịp
thời; việc xử phạt vi phạm hành chính phải được tiến hành nhanh chóng,
công khai; triệt để; mọi hậu quả do vi phạm hành chính gây ra phải được
khắc phục theo quy định của Nghị định 105/2009/NĐ-CP và quy định của
pháp luật có liên quan.
b. Việc xử phạt vi phạm hành chính phải do người có thẩm quyền quy
định tại các Điều 25, 26 và 27 của Nghị định 105/2009/NĐ-CP thực hiện.
DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT
Ký hiệu
Chú giải
LĐĐ
: Luật Đất đai
SDĐ
: Sử dụng đất
STT
: Số thứ tự
TNMT
: Tài nguyên và môi trường
TP
: Thành phố
TX
: Thị xã
UBND
: Uỷ ban nhân dân