Tải bản đầy đủ (.docx) (15 trang)

tiểu luận cao học môn triết học vấn dề nhận thức trong triết học mác lênin

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (111.43 KB, 15 trang )

LỜI MỞ ĐẦU
Con đường nhận thức của chân lý là con đường của quá trình nhận thức, nhờ
có nhận thức đúng đắn về con đường nhận thức nên Đảng ta đã vận dụng chủ nghĩa
Mác- Lê Nin một cách đúng đắn, sáng tạo vào hoàn cảnh cụ thể của Việt Nam và
nó đã giúp nước ta thoát khỏi ách nô lệ, đi lên chủ nghĩa xã hội. Chính vì vậy mà
Việc nghiên cứu quan điểm của chủ nghĩa Mác- Lênin về con đường biện chứng về
nhận thức chân lý là công việc vô cùng quan trọng đối với Đảng đặc biệt là trong
giai đoạn đất nước đang đi lên chủ nghĩa xã hội.
Trong lịch sử triết học đã có nhiều quan điểm khác nhau về con đường nhận
thức của con người. Chủ nghĩa duy tâm cho rằng: “ Nhận thức chỉ là phức hợp
những cảm giác của con người”. Chủ nghĩa duy tâm khách quan coi nhận thức là
sự hồi tưởng lại của linh hồn bất tử về thế giới các ý niệm mà nó đã chiêm nghiệm
được nhưng đã lãng quên hoặc cho rằng nhận thức là sự tự ý thức về mình của ý
niệm tuyệt đối. Bên cạnh đó những người theo thuyết hoài niệm lại cho rằng: “
nhận thức là trạng thái hoài nghi về sự vật và biến sự hoài nghi, nghi ngờ về tính
xác thực của tri thức thành một nguyên tắc của nhận thức”.
Đối lập với chủ nghĩa duy tâm. Chủ nghĩa duy vật khẳng định con người có
khả năng nhận thức về thế giới và khẳng định nhận thức là quá trình phản ánh hiện
thực khách quan vào đầu óc con người. nhưng do một vài hạn chế và một số nhà
triết học duy vật trước Mác chưa thấy được vai trò của thực tiễn đối với quá trình
nhạn thức.

1


Tất cả các quan điểm trước Mác đều sai lầm hoặc phiến diện về con đường
quá trình nhận thức “ những vấn đề nhận thức chưa được giải quyết một cách khoa
học, đặc biệt là chưa thấy được đầy đủ vai trò của thực tiễn đối với nhận thức.
Chỉ đến khi triết học Mác – lê Nin ra đời mới đưa ra được quan điểm đúng đắn
nhất về nhận thức chân lý, nhận thức của con người; điều đó được thể hiện rất rõ
ràng trong “ quan điểm của chủ nghĩa Mác- Lênin về con đường nhận thức chân lý.


Đây là một trong những quan điểm cơ bản nói lên quá trình nhận thức của
con người. Qua đó đã cho chúng ta thấy vai trò và vị trí quan trọng của quá trình
nhận thức. Nhờ có nhận thức mà con người có thể am hiểu được thế giới tự nhiên,
nắm bắt được những quy luật của thế giới khách quan từ đó con người có thể cải
tạo thế giới tự nhiên theo ý muốn của mình, hình thành những kinh nghiệm trong
sản xuất, nâng cao chất lượng cuộc sống và cũng với đó thì trí tuệ của con người
ngày càng phát triển.
Quan điểm của chủ nghĩa Mác – Lê Nin đã chỉ rõ qua trình nhận thức đi từ
cái chưa biết đến cái biết, từ cái biết ít đến cái biết nhiều, từ cái biết chưa sâu sắc
đến biết sâu sắc.Để hiểu rõ hơn về quan điểm trên thì chũng ta sẽ đi tìm hiểu nội
dung sau đây

Chương I: Một số vấn đề chung về nhận thức
Trong lịch sử triết học đã có nhiều khái niệm khác nhau về nhận thức.
Theo chủ ngĩa duy tâm: Chủ thể sáng tạo ra khách thể do đó khách thể phụ
thuộc vào chủ thể, theo họ nhận thức xuất phát từ ý niệm, ý thức, ý thức có trước
vật chất, ý thức đó chính là ý niệm mà theo Platon đó là ý niệm tuyệt đối. Các nhà
triết học duy vật cổ đại thì nhận thức bắt đầum từ những vật chất cơ bản của tự
2


nhiên và từ đó hình thành nên những ý thức tiêu biểu như Talet, Đemocrit ( nguyên
tử) và nhận thức là nhờ lý tính. Nhận thức khách thể tồn tại tuyệt đối độc lập,
không phụ thuộc vào chủ thể. Con người nhận thức thông quua sự tác động của
khách thể vào các giác quan cho nên nhận thức là thụ động. tuy nhiên theo lý luận
của chủ nghĩa duy vật biên chứng thì con người là sự kết hợp của hai mặt tự nhiên(
bộ óc) và xã hội( thế giới khách quan) hay khách thể nhận thức không chỉ có thế
giới vật chất mà còn có cả thế giới tinh thần( hiện tượng tinh thần).
Chủ nghĩa Mác – Lênin đã thừa nhận thế giới vật chất tồn tại khách quan
độc lập với ý thức của con người, thừa nhận con người hoàn toàn có thể nhận thức

được thế giới, bác bỏ quan niệm “ bất khả tri” của con người và khẳng định nhận
thức là một quá trình tích cự, tự giác và sáng tạo của con người, coi thực tiễn là cơ
sở chủ yếu của nhận thức, là động lực và mục đích của nhận thức và là tiêu chuẩn
để kiểm tra chân lý.
Từ những nguyên tắc trên, chủ nghĩa duy vật biện chứng khẳng định: nhận
thức là một quá trình phản ánh tích cực, tự giác và sang tạo thế giới khách quan
vào bộ óc con người trên cuộc sống nhằm tạo ra tri thức về thế giới khách quan,
nhận thức là quá trình làm phong phú thêm chính mình bằng những tri thức mới.
Nhận thức chân lý là hình thức cơ bản của nhận thức lý tính phản ánh những tính
chất cơ bản, những đặc tính bản chất của sự vật.

Chương II: Quá trình nhận thức chân lý theo quan điểm
của chủ nghĩa Mác – Lênin
Nhận thức là quá trình diễn ra trong bộ óc chúng ta, nhưng quá trình ấy diễn
ra như thế nào?- điều này được trình bày đầy đủ trong Lênin toàn tập 29. “ tư duy
3


khi tiến lên từ cái cụ thể đến cái trừu tượng không xa rời chân lý mà nó đến gần
với chân lý hơn”.
Trong tác phẩm Bút ký triết học, Lênin khái quát con đường biện chứng của
sự nhận thức chân lý như sau: Từ trực quan sinh động đến tư duy trừu tượng, và từ
tư duy trừu tượng đến thực tiễn - đó là con đường biện chứng của sự nhận thức
chân lý, nhận thức hiện thực khách quan.

A.Nhận thức
1. nhận thức cảm tính
Nhận thức cảm tính là giai đoạn mở đầu của quá trình nhận thức. Đó là giai
đoạn nhận thức mà con người trong hoạt động thực tiễn sử dụng các giácquan để
tiến hành phản ánh các sự vật khách quan, mạng tính chất cụ thể, cảm tính với

những biểu hiện phong phú của nó trong mối quan hệ với sự quan sát của con
người. Do vậy, trong giai đoạn này con người mới chỉ phản ánh được cái hiện
tượng, biểu hiện bên ngoài của sự vật mà chưa phản ánh được cái bản chất, quy
luật, nguyên nhân của hiện tượng.
Nhận thức cảm tính được thực hiện qua ba hình thức cơ bản là: cảm giác, tri
giác và biểu tượng:

a.cảm giác
Cảm giác của con người về sự vật khách quan là hình ảnh sơ khai nhất, đơn
giản nhất của quá trình nhận thức nhưng nếu không có nó thì sẽ không có bất cứ
nhận thức nào về sự vật khách quan. Ông cho rằng: cảm giác là hình ảnh chủ quan
về thế giới khách quan. Ông phê phán thuyết tượng hình là một lý thuyết bất khả
4


thi- cảm giác chỉ là một ký hiệu ước lệ chứ không phải hình ảnh của những vật có
thực. Những gì con người cảm nhận được là do giác quan cảm biến được. Nhờ có
thị giác mà con người có ý niệm về ánh sáng, màu sắc; nhờ có xúc giác mà biết
được cứng, mềm, nóng, lạnh; nhờ có khứu giác mà con người biết mùi; nhờ có vị
giác mà người ta biết được đắng, cay, mặn, ngọt…Ví dụ như khi sờ vào một viên
đá ta cảm thấy lạnh, vô tình chạm vào hòn than ta cảm thấy nóng, ăn muối làm ta
cảm thấy mặn…

b.tri giác
Tri giác là sự phản ánh tương đối toàn vẹn của con người về những biểu hiện
của sự vật khách quan, cụ thể, cảm tính; nó được hình thành trên cơ sở liên kết,
tổng hợp những cảm giác về sự vật đó. Tri giác là hình thức nhận thức cao hơn
cảm giác, đầy đủ hơn, phong phú hơn về sự vật nhưng vẫn chỉ là sự phản ánh đối
với những biểu hiện bề ngoài của sự vật.
Tri giác là hành động tích cực, trong đó có sự kết hợp chặt chẽ của các yếu

tố cảm giác và vận động. Ở con người, tri giác là thành phần chính của nhận thức
cảm tính, là điều kiện quan trọng của nhận thức lý tính, định hướng hành vi và
hành động. Hình ảnh tri giác là vật điều chỉnh các hành động, hình thức tri giác
tích cực có chủ định là quan sát. Ví dụ: khi sờ vào quả cam, ta thấy vỏ sần sùi, khi
ăn thấy ngọt có mùi thơm…

c.biểu tượng
Biểu tượng là sự tái hiện hình ảnh về sự vật khách quan vốn đã được phản
ánh bởi cảm giác và tri giác, là hình thức phản ánh cao nhất và phức tạp nhất của

5


giai đoạn nhận thức cảm tính, là bước quá độ từ nhận thức cảm tính sang nhận thức
lý tính, là tiền đề của sự trừu tượng hóa của giai đoạn nhận thức lý tính.
Biểu tượng thể hiện trình độ đầu tiên về sự khái quát, là hình thức trung gian
giữa cảm tình và lý tính, nó đóng vai trò rất lớn trong sáng tạo nghệ thuật khoa
học.Biểu tượng chính là sự kết hợp bổ sung lẫn nhau của cảm giác và tri giác, và
chính bộ óc là một phức hợp cảm giác. Biểu tượng còn mang tính chất trùng hợp,
hình ảnh của nó trong bộ óc của chúng ta chỉ khác bên ngoài một chút ít.
Như vậy, cảm giác, tri giác, biểu tượng là những giai đoạn kế tiếp nhau của
quá trình nhận thức cảm tính, nhờ nhận thức cảm tính giúp cho chúng ta nhận thức
được cả cái bản chất và không bản chất, cả cái tất yếu và cái ngẫu nhiên, cả cái bên
trong và cái bên ngoài. Tuy nhiên, ta rất khó có thể phân biệt được đâu là cái
không cơ bản, đâu là cái cơ bản, đâu là cái bản chất, đâu là cái không bản chất…vì
vậy chúng ta cần vượt lên một trình độ mới cao hơn về chất đó là tư duy trừu tượng
nhận thức lý tính.

2.nhận thức lý tính
Nhận thức lý tính lý tính là giai đoạn cao hơn của quá trình nhận thức, đó là

sự phản ánh gián tiếp, trừu tượng và khái quát những thuộc tính, những đặc điểm
bản chất của sự vật khách quan. Đây là giai đoạn nhận thức thực hiện chức năng
quan trọng nhất là tách ra và nắm lấy cái bản chất, có tính quy luật của các sự vật,
hiện tượng.
Nhận thức lý tính được thực hiện thông qua ba hình thức cơ bản là khái
niệm, phán đoán và suy lý.

a.khái niệm
6


Khái niệm là hình thức cơ bản của nhận thức lý tính, phản ánh những đặc
tính bản chất của sự vật. Sự hình thành khái niệm là kết quả của sự khái quát, tổng
hợp các đặc điểm, thuộc tính của sự vật hay một lớp các sự vật. Nó là cơ sở hình
thành nên những phán đoán trong quá trình con người tư duy vềsự vật khách quan.
Phán đoán là hình thức cơ bản của nhận thức lý tính được hình thành thông qua
việc liên kết các khái niệm lại với nhau theo phương thức khẳng định hay phủ định
một đặc điểm, một thuộc tính nào đó của đối tượng nhận thức.
Khái niệm có tính biện chứng vì đối tượng nghiên cứu của khái niệm là thế
giới khách quan, mà thế giới khách quan thì luôn luôn vận động và phát triển, biến
đổi không ngừng, vì vậy khái niệm rất linh động, mềm dẻo.

b.phán đoán
Phán đoán: là một hình thức của tư duy trừu tượng được hình thành thông
qua liên kết các khái niệm với nhau thông qua phương thức khẳng định hoặc phủ
định một đặcm điểm, thuộc tính nào đó của đối tượng nhận thức.
Phán đoán thường là một câu mệnh đề hay một câu. Khi xem xét một phán
đoán nào đó ta cần phải đặt nó trong các mối liên hệ, không nên để nó ở trạng thái
cô lập tách rời hoặc coi là tổng số giản đơn các khái niệm tạo thành. Người ta vận
dụng phán đoán trong quá trình suy lý.


c.suy lý
Suy lý là hình thức cơ bản của nhận thức lý tính được hình thành trên cơ sở
liên kết các phán đoán nhằm rút ra tri thức mới về sự vật. Điều kiện để có bất cứ
một suy lý nào là phải trên cơ sở những tri thức đã có dưới dạng những phán đoán,
đồng thời tuân theo các quy tắc lôgic của các loại hình suy luận: suy luận quy nạp
7


(đi từ cái riêng đến cái chung), suy luận diễn dịch (đi từ cái chung đến cái riêng,
cái cụ thể).

3.Mối quan hệ giữa nhận thức cảm tính , nhận thức lý tính với thực
tiễn
Nhận thức cảm tính và nhận thức lý tính đều là những nấc thang hợp thành
chu trình nhận thức, chúng thường diễn ra đen xen vào nhau nhưng có chức năng,
nhiệm vụ khác nhau:
Nhận thức cảm tính gắn liền với thực tiễn, với sự tác động của khách thể
cảm tính, là cơ sở cho nhận thức lý tính.
Nhận thức lý tính có tính khái quát cao nhờ đó hiểu được bản chất, quy luật
vận động của sự vật, giúp cho nhận thức cảm tính có được sự định hướng đúng và
trở nên sâu sắc hơn.
Nhận thức lý tính mới chỉ đạt được những tri thức về đối tượng nhưng
những tri thức đó có chính xác hay không cần phải có sự kiểm nghiệm của thực
tiễn, tức là nhận thức nhất thiết phải quay trở về với thực tiễn, dùng thực tiễn để đo
lường tính chân thực của nhận thức. Mặt khác, mọi nhận thức, suy đến cùng đều là
xuất phát từ nhu cầu thực tiễn và trở lại phục vụ thực tiễn.
Tóm lại, quy luật chung của quá trình nhận thức là: từ thực tiễn đến nhận
thức - tái thực tiễn - tái nhận thức...quá trình này không có điểm dừng cuối cùng,
nhờ đó mà quá trình nhận thức đạt dần tới tri thức ngày càng đầy đủ hơn, đúng đắn

hơn, sâu sắc hơn về thực tại khách quan. Đây cũng chính là quan điểm về tính
8


tương đối của nhận thức của con người trong quá trình phản ánh thực tại khách
quan.
Quy luật chung của nhận thức có ý nghĩa quan trọng về mặt phương pháp
luận, giúp chúng ta nắm được quy luật khách quan của quá trình nhận thức đồng
thời đây cũng chính là phương pháp học tập, nghiên cứu khoa học và hoạt động
thực tiễn; học đi đôi với hành; học liên tục, suốt đời tránh bệnh tự mãn hoặc hời
hợt trong hoạt động nhận thức.

B.Chân lý và vai trò của chân lý với thực tiễn
Mọi quá trình nhận thức đều sáng tạo ra những tri thức, tức những hiểu biết
của con người về thực tế khách quan, nhưng không phải mọi tri thức đều có nội
dung phù hợp với thực tế khách quan. Thực tế lịch sử chứng minh rằng những tri
thức mà con người đạt được có nhiều trường hợp không phù hợp thậm chí hoàn
toàn đối lập với thực tế khách quan.

1.Khái niệm chân lý
Khái niệm chân lý được dùng để chỉ những tri thức có nội dung phù hợp với
thực tế khách quan mà sự phù hợp đó đã được kiểm tra và chứng minh bởi thực
tiễn.
Theo nghĩa như vậy, khái niệm chân lý không đồng nhất với khái niệm tri
thức và cũng không đồng nhất với khái niệm giả thuyết (dù là những giả thuyết
khoa học), đồng thời chân lý là một quá trình. Theo Lênin “sự phù hợp giữa tư
tưởng và khách thể là một quá trình: tư tưởng không nên hình dung chân lý dưới
dạng đứng im, một bức tranh (hình ảnh) đơn giản, nhợt nhạt (lờ mờ), không
khuynh hướng, không vận động”.
9



2.Các tính chất của chân lý
Mọi chân lý tồn tại đều có tính khách quan, tính tương đối, tính tuyệt đối và
tính cụ thể.
Tính khách quan của chân lý là chỉ tính độc lập về nội dung phản ánh của nó
đối với ý chí chủ quan của con người; nội dung của tri thức phải phù hợp với thực
tế khách quan, thuộc về thế giới khách quan, do thế giới khách quan quy
định.Khẳng định chân lý có tính khách quan là một trong những điểm cơ bản phân
biệt quan niệm về chân lý của chủ nghĩa duy vật biện chứng với chủ nghĩa duy tâm
và thuyết bất khả tri – là những học thuyết phủ nhận sự tồn tại khách quan của thế
giới vật chất và phủ nhận khả năng của con người nhận thức được thế giới đó.
Tính tuyệt đối của chân lý là chỉ tính phù hợp hoàn toàn và đầy đủ giữa nội
dung phản ánh của tri thức với hiện thực khách quan. Về nguyên tắc chúng ta có
thể đạt đến chân lý tuyệt đối vì không có sự vật, hiện tượng nào mà con người
hoàn toàn không thể nhận thức đựợc song khả năng đó lại bịhạn chế bởi những
điều kiện cụ thể của từng thế hệ khác nhau, của từng thực tiễn cụ thể và bởi điều
kiện xác định về không gian và thời gian của đối tượng được phản ánh...do đó chân
lý có tính tương đối.
Tính tương đối của chân lý là tính phù hợp nhưng chưa hoàn toàn đầy đủ
giữa nội dung phản ánh của những tri thức đã đạt được với hiện thực khách quan
mà nó phản ánh mà mới chỉ đạt được sự phù hợp từng phần, từng bộ phận, ở một
số mặt, khía cạnh nào đó và trong những điều kiện nhất định.
Chân lý tuyệt đối và chân lý tương đối không tồn tại tách rời nhau mà có sự
thống nhất biện chứng với nhau. Một mặt, chân lý tuyệt đối là tổng sốcủa các chân
lý tương đối; mặt khác trong mỗi chân lý mang tính tương đối bao giờ cũng chứa
10


đựng những yếu tố của tính tuyệt đối. Chân lý tuyệt đối và chân lý tương đối là hai

mặt của một chân lý cụ thể. Một chân lý cụ thể vừa có tính tuyệt đối (vì nếu áp
dụng trong điều kiện cụ thể của nó thì nó luôn luôn đúng và không bao giờ trở
thành sai lầm), vừa có tính tương đối (vì nó chưa đầy đủ, chưa toàn diện, nếu áp
dụng trong điều kiện khác thì sẽ trở thành sai lầm).
Như vậy, không thể có chân lý vĩnh cữu, tức chân lý bất di bất dịch. Tư duy
con người trong quá trình tiến lên vô cùng tận ngày càng tiệm cận đến chân lý
tuyệt đối, chứ không bao giờ có thể đạt được một cách đầy đủ, hoàn toàn.
Tính cụ thể của chân lý là đặc tính gắn liền và phù hợp giữa nội dung phản
ánh với một đối tượng nhất định cùng các điều kiện, hoàn cảnh lịch sửcụ thể. Bất
kỳ chân lý nào cũng có gắn liền với những điều kiện lịch sử cụ thể, do đó “ không
có chân lý trừu tượng, chân lý luôn luôn là cụ thể.

3.Vai trò của chân lý đối với thực tiễn
Để sinh tồn và phát triển, con người phải tiến hành các hoạt động thực tiễn
nhưng hoạt động thực tiễn chỉ có thể thành công và có hiệu quả khi con người có
tri thức đúng đắn về thực tế khách quan và vận dụng đúng đắn tri thức đó trong
hoạt động thực tiễn do vậy, chân lý là một trong những điều kiện tiên quyết đảm
bảo sự thành công và tính hiệu quả của hoạt động thực tiễn.
Mối quan hệ giữa chân lý và hoạt động trong thực tiễn là mối quan hệ song
trùng trong quá trình vận động, phát triển của cả chân lý và thực tiễn.Chân lý phát
triển nhờ thực tiễn nhưng thực tiễn lại phát triển nhờ vận dụng đúng đắn những
chân lý mà con người đã đạt được trong hoạt động thực tiễn.

11


Quan điểm biện chứng về mối quan hệ giữa chân lý và thực tiễn đòi hỏi
trong hoạt động nhận thức con người phải xuất phát từ thực tiễn để đạt được chân
lý, coi chân lý là một quá trình, đồng thời phải thường xuyên tự giác vận dụng
chân lý vào hoạt động thực tiễn để phát triển thực tiễn.Coi trọng tri thức khoa học

và tích cực vận dụng sáng tạo những tri thức đó vào các hoạt động kinh tế xã hội,
nâng cao hiệu quả của hoạt động thực tiễn của con người. Về thực chất đó chính là
việc phát huy vai trò của chân lý khoa học trong hoạt động thực tiễn

Chương III: Vận dụng quan điểm chủ nghĩa Mác – Lênin
về con đường nhận thức chân lý vào công cuộc xây dựng
đất nước hiện nay
Dựa vào quan điểm của chủ nghĩa Mác- Lênin về con đường nhận thức chân
lý và dựa trên những kinh nghiệm thực tế đã có, Đảng ta đã vận dụng những quan
điểm trên một cách sáng tạo, đem lại hiệu quả cao cho công tác quản lý đất nước.
Cụ thể những sự vận dụng được thể hiện dưới đây:
Đảng đã nhận định rằng: quá trình nhận thức phải đi từ thực tiễn khách quan
đến quá trình từ duy của con người, quua quá trình này con người sẽ tìm ra những
chân lý, những quy luật, những kinh nghiệm sản xuất. Để biết được những cái đó
có đúng không thì nhất định phải đem chúng vào thực tiễn để kiểm nghiệm vì thực
tiễn là thước đo chuẩn mực để kiểm tra chân lý. Quan quá trình kiểm tra, ta rút ra
được chân lý nào là đúng đắn, phù hợp, đáp ứng yêu cầu của thế giới khách quan
thì coi đó là chân lý đúng đắn, và ngược lại, những chân lý không phù hợp với thực
tế thì cần phải chỉnh sửa, cải tạo, hoàn thiện nó để cho chân lý ấy phù hợp với thực
tiễn.

12


Nếu qua quá trình vận dụng không thể thấy được những hạn chế của lý luận
sẽ dẫn đến kìm hãm sự phát triển của sự vật, hiện tượng xã hội, sự vật sẽ không
phát triển hoặc phát triển đi xuống. Điều này thể hiện rất rõ trong quá trình phát
triển kinh tế nước ta giai đoạn 1975- 1986. Trong giai đoạn này, nước ta chưa nhìn
thấy được sự khác biệt giữa lý luận của Mác và thực tiễn ở Việt Nam. Chủ nghĩa
Mác xây trên thực tiễn của châu Âu và được kiểm nghiệm rất thành công ở châu

Âu. Việt Nam có hoàn cảnh khác hoàn toàn so với các nước châu Âu. Điều kiện
kinh tế của nước ta chưa đủ yêu cầu để phát triển nền kinh tế hai thành phần( quan
liêu bao cấp), lý luận tiến bộ hơn thực tiễn. Chính vì không nhận ra được những
hạn chế này nên khi vận dụng, ta chưa cải tổ, chỉnh sửa, bổ sung, sửa đổi và cải
cách đã dẫn đến hâu quả là nền kinh tế nước ta không những không phát triển mà
còn rơi vào trạng thái suy thoái nghiêm trọng, đời sống nhân dân gặp nhiều khó
khăn…
Trước tình hình đó, năm 1986, sau khi đã nhận ra được những hạn chế trên,
Đảng đã tiến hành công cuộc cải tạo toàn diện nền kinh tế, phát triển kinh tế nhiều
thành phần, xóa bỏ nền kinh tế tập trung quan liêu bao cấp, cải tổ chính trị. Nhờ có
đường lối của Đảng đúng đắn với thực tiến nên đã đưa nước ta thoát ra khỏi khủng
hoảng, lạm phát được hạ thấp, nền kinh tế không ngừng phát triển, đời sống của
người dân ngày càng được nâng cao.
Từ khi nắm vững được con đường và quá trình nhận thức đúng đắn Đảng ta
đã vận dụng rất linh hoạt, mềm dẻo, toàn diện trên tất cả các lĩnh vực và đã đạt
được nhiều thành công. Thứ nhất đó là: giáo dục, y tế. Nước ta đã liên tục tiến
hành cải cách giáo dục, để tìm ra những phương pháp giảng dạy tốt nhất cho ngành
giáo dục. Hiện nay trong các trường đại học của nước ta nói chung và Học viện
Báo chí và Tuyên truyền nói riêng đã và đang áp dụng rất tốt con đường nhận thức:
học đi đôi với hành, giảm số tiết lý thuyết trên lớp và tăng cường các tiết học thực
13


hành. Từ việc áp dụng đó đã đem lại nhiều thành công lớn trong công tác giáo dục
của nhà trường: chất lượng sinh viên được nâng lên đáng kể, đảm bảo cho các bạn
sinh viên sau khi ra trường sẽ có đủ những kiến thức chuyên môn cần thiết để áp
dụng vào công việc của mình.Thứ hai đó là: về kinh tế. Đảng ta đã đưa ra chiến
lược phát triển kinh tế rất hiệu quả- đẩy mạnh phát triển các ngành công nghiệp
trọng điểm. Dựa trên những thế mạnh sẵn có như lao động, nguyên liệu…đưa nước
ta từ một nước nông nghiệp lạc hậu trở thành một nước có tỷ trọng công nghiệp

cao, tiến lên chủ nghĩa xã hội.Thứ ba đó là: vấn đề văn hóa- xã hội ngày càng được
giải quyết tốt hơn, các công trình phúc lợi ngày càng được đảm bảo hơn, môi
trường được quan tâm hơn, đời sống của người dân ngày càng được nâng cao.

KẾT LUẬN
Như vậy, nhận thức là một quá trình biện chứng đi từ hiện thực khách quan
đến tư duy trừu tượng. Hiện thực có một vai trò đặc biệt quan trọng- vừa là cơ sở,
nguồn gốc, vừa là tiêu chuẩn, thước đo kiểm nghiệm chân lý. Muốn biết được sự
đúng đắn của nhận thức, ta phải đưa chúng vào thực tiễn để kiểm tra. Muốn nhận
thức được sự vật, hiện tượng một cách đầy đủ, toàn diện ta cần phải vận dụng kết
hợp cả hai quá trình nhận thức đó là nhận thức cảm tình và nhận thức lý tính, qua
đó, một lần nữa vai trò của thực tiễn được khẳng định. Thực tiễn là cơ sở, nhu cầu,
nhiệm vụ, phương hướng của nhận thức, là cơ sở của nhận thức và hành động, là
tiêu chuẩn để kiểm tra chân lý. Nhờ có quá trình nhận thức đúng đắn, Đảng ta đã
vận dụng rất thành công những nguyên lý của chủ nghĩa Mác – Lênin vào Việt
Nam, dẫn dắt cho dân tộc ta tiến vào kỷ nguyên công nghiệp, dần chạm vào được
mục tiêu chủ nghĩa xã hội.

14


MỤC LỤC

15



×