Tải bản đầy đủ (.doc) (19 trang)

tiểu luận cao học tổng quan triết học phật giáo

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (137.94 KB, 19 trang )

A. LỜI NÓI ĐẤU
1. Lí do chọn đề tài
Hiện nay, trong nền kinh tế thị trường đã mang lại cho chúng ta những
thành tựu to lớn về kinh tế xã hội, bên cạnh đó cũng để lại cho chúng ta những
thách thức không nhỏ trong đó có vấn đề đạo đức con người bị tha hóa biến chất
diễn ra trên tất cả các lĩnh vực của đời sống. Chính vì lí do đó em đã chọn “tổng
quan Triết học Phật giáo” để trình bày, nghiên cứu vì Đạo Phật - giáo lý Phật

là nền tảng cho việc xây dựng con người vị tha và coi cuộc sống vị tha là lý
tưởng cao quý nhất của đời mình, tiến tới con người vị tha và coi cuộc sống
vị tha là lý tưởng cao quý nhất, để con người đạt được trạng thái từ, bi, hỷ,
xả, con người Phật. Đạo phật ra đời khoảng năm 563 trước Công nguyên.
Đạo phật có 3 môn phái khác nhau về giáo lý, tổ chức, giáo đoàn. Để hiểu
bản chất thật của đạo phật chúng ta đi nghiên cứu cụ thể như sau:
2. Mục đích:
Cung cấp kiến thức cơ bản giúp chúng ta có sự hiểu biết về thế giới quan và
nhận thức luận, thế giới quan của phật giáo.

1


B. NỘI DUNG:
I.Về thế giới quan Phật giáo.
Thế giới quan Phật giáo được thể hiện qua 4 luận thuyết cơ bản: thuyết vô
thường, thuyết vô ngã, thuyết nhân quả, thuyết nhân duyên khởi.
1. Thuyết vô thường.
Vô thường là không thường còn, là chuyển biến thay đổi. Luật vô thường
chi phối vũ trụ, vạn vật, thân và tâm ta. Sự vật luôn luôn biến đổi không có gì là
thường trụ, bất biến, nó luôn luôn ở thể động, nó chuyển biến không ngừng. Sự
chuyển biến ấy diễn ra dưới hai hình thức.
a) Một là Sátna( Kshana ) vô thường: là một sự chuyển biến rất nhanh,


trong một thời gian hết sức ngắn, ngắn hơn cả một nháy mắt, một hơi thở, một
niệm, một sự chuyển biến vừa khởi lên đã chấm dứt. Phật dùng danh từ Satna để
chỉ một khoảng thời gian hết sức ngắn.
b) Hai là: Nhất kỳ vô thường. Là sự chuyển biến trong từng giai đoạn.
Nếu sự chuyển biến thứ nhất của Sự vô thường là trạng thái chuyển biến nhanh
chóng, liên tiếp, ngắn ngủi, thường là ta không nhận ra mà kết quả là gây ra sự
vô thường thứ hai. Nhất kỳ vô thường là trạng thái chuyển biến rõ rệt, kết thúc
một trạng thái cũ, chuyển sang một trạng thái mới. Vạn vật trong vũ trụ đều tuân
theo luật: Thành - Trụ - Hoại - Không. Vạn vật được cấu thành, trụ một thời
gian, sau đó chuyển đến diệt, thành, hoại, không vì các sinh vật đều tuân theo qui
luật của nó đó là quá trình Sinh -> trụ -> di -> diệt.
Theo luật vô thường, không phải khi sinh ra mới gọi là sinh, khi vạn
vật diệt mới gọi là diệt mà từng phút, từng dây, vạn vật sống để mà chết và chết
để mà sống. Sống, chết tiếp diễn liên tục với nhau bất tận như một vòng tròn.
Thuyết vô thường là một trong những thuyết cơ bản trong giáo lý Phật, là
2


cơ sở của lý luận cho phương thức sống, cho triết lý sống của những con người
tu dưỡng theo giáo lý phật.
Trong cuộc sống có những người không biết lý vô thường của Phật,
có những nhận thức sai lầm về sự vật là thường còn, là không thay đổi, không
chuyển biến. Nhận thức sai lầm như thế phật giáo gọi là ảo giác hay huyễn giác.
Vì nhận thức thân ta là thường còn nên nảy ra ảo giác muốn kéo dài sự sống để
hưởng thụ, để thoả mãn mọi dục vọng. Khi luật vô thường tác động đến bản thân
thì sinh ra phiền não đau khổ.
Ngược lại, nếu không hiểu rõ hoặc hiểu một cách nông cạn thuyết vô
thường thì cho rằng chết là hết, đời người ngắn ngủi, phải mau tận hưởng những
thú vui vật chất, phải sống gấp, sống vội. Cuộc sống như thế là sống phiền não
đau khổ trước sự chuyển biến của sự vật, trước sự sinh- trụ, dị diệt, trước sự

thành, trụ hoại không nó diễn ra hàng ngày.
2. Thuyết vô ngã.
Quan điểm của Phật giáo Vô ngã là không có cái ta. Cái ta mà Phật nói trong
thuyết vô ngã gồm có hai phần: (Cái ta sinh tức thân, và cái ta tâm lý tức tâm).
Theo kinh Trung Quốc Ahàm, cái ta sinh lý chỉ là kết hợp của bốn yếu tố
của bốn đại là: địa , thuỷ, hoả , phong.
∗ Địa đại là cái đặc cứng như tóc, răng, móng chân, móng tay, da , thịt,
các cơ, xương, tủy, tim gan, thận,...
∗ Thủy đại là những chất lỏng như mật ở trong gan, máu, mồ hôi, bạch
huyết, nước mắt,...
∗ Hoả đại là những rung động của cơ thể như hơi thở, chất hơi ở trong dạ
dầy, ở ruột.
Những thứ đó không phải là ta, ta không phải là nhưng thứ đó, những
thứ đó không thuộc về ta.
3


Cái mà ta gọi là cái ta sinh lý chỉ là một khoảng không gian giới hạn
bởi sự kết hợp của da thịt, cũng như cái mà ta gọi là túp lều chỉ khoảng không
gian giới hạn bởi gỗ, tranh, bùn để trát vách mà thôi.
Tứ đại ( địa, thuỷ, hoả, phong) nêu trên thoáng là của ngoại cảnh,
thoáng là của ta. Vậy thực sự nó là của ai ? Vả lại khi bốn yếu tố này rời nhau trở
về thể của nó thì không có gì ở lại để có thể gọi là cái ta được nữa. Cho nên cái
mà ra gọi là cái ta sinh lý chỉ là một giả tưởng, một nhất hợp sinh lý mà thôi.
Còn cái ta tâm lý gồm : thụ, tưởng, hành, thức. Bốn ấm này cùng với
sắc ấm che lấp trí tuệ làm cho ta không nhận thấy được cái ta chân thực cái ta
Phật tính, cái chân ngã của chúng ta. Cái chân lý gồm những nhận thức, cảm
giác, suy tưởng, là sự kết hợp của thất tỉnh: Hỷ, nộ, ai, lạc, ái , nỗ, dục.
Thuyết vô ngã làm cho người ta không còn ai tin là có một linh hồn
vĩnh cửu, tồn tại kiếp này sang kiếp khác, đời này qua đời khác. Sự tin có một

linh hồn dẫn dắt đến sự cúng tế linh hồn là hành động của sự mê tín.
Quan niệm có một linh hồn bất tử, một cái ta vĩnh cửu là nguồn gốc
sinh ra những tình cảm, những tư tưởng ích kỷ, những tham dục vô bờ của
những kẻ dựa vào sức mạnh phi nghĩa để làm lợi cho mình, tức là cho cái ta mà
họ coi là thường còn, bất biến. Còn đối với những người bị hà hiếp, bị bóc lột thì
sự mê tín có cái ta vĩnh cửu dẫn đến tư tưởng tiêu cực, chán đời phó mặc cho số
mệnh, hy vọng làm lại cuộc đời ở kiếp sau.
Như vậy thuyết vô thường, vô ngã là hai thuyết cơ bản trong giáo lý Phật.
Chính hai thuyết này của đạo phật làm căn cứ để xây dựng cho đệ tử một phương
thức sống, một triết lý sống lấy vị tha làm lý tưởng cao cả cho cuộc sống của mình.
3. Thuyết Lý nhân duyên sinh.
Nội dung của lý nhân duyên sinh là Phật muốn nói tới một định lý vạn
vật phát triển trên thế gian đều do các nhân duyên hội họp mà thành, sự vật sẽ
kiến diệt khi nhân duyên tan rã.
4


Nhân là năng lực phát sinh, duyên là lực hỗ trợ cho nhân phát sinh.
VD như cây lúa thì hạt lúa là nhân, nước, ánh sáng mặt trời, công cày bừa
gieo trồng là duyên. Nhân duyên đó hội họp sinh ra cây lúa.
Tất cả mọi hiện tượng đều nương nhau mà hành động ( sự vật tác động, kết
hợp, chi phối, ảnh hưởng lẫn nhau mà thành) -đó là nhân duyên. Nói về thứ nhân
duyên trong kinh Phật có câu tất cả các pháp đều sinh, diệt và tồn tại trong sự
liên hệ mật thiết với nhau, không một pháp nào có thể tồn tại độc lập tuyệt đối.
Lý nhân duyên cho chúng ta thấy sự vật hình thành là do nhân duyên hoà
hợp, sự vật là hư giả, là giả hợp không có tính tồn tại. Như vậy con người làm
chủ đời mình, làm chủ vận mệnh của mình. Cuộc sống của con người có tươi đẹp
hạnh phúc hay phiền não đau khổ là đều do nhân duyên mà con người tạo ra. Với
nhận thức như vậy, con người tìm được một phương thức sống, một cách sống
cho ra sống, sống vì hạnh phúc của mọi người, sống an lạc, tự tại, giải thoát.

4. Thuyết nhân duyên quả báo hay thuyết nhân quả.
Thuyết nhân duyên quả báo gọi là thuyết nhân quả là một trong những
thuyết cơ bản của giáo lý Phật. Phật chủ trương không bao giờ tự nhiên mà có,
mà sinh ra và cũng cho rằng không một thần quyền nào hay một đấng thiêng
liêng nào tạo ra sự vật. Sự vật sinh ra là có nhân nguyên nhân. Cái nguyên nhân
một mình cũng không tạo ra được sự vật mà phải có đủ duyên thì mới tạo ra quả
được.
Nhưng Phật nhấn mạnh: Quả có thể khác nhân sinh ra nó. Quả có thể hơn
nhân nếu gặp đủ duyên tốt, trái lại có thể kém nhân nếu gặp duyên xấu. Nhân
gặp đủ duyên thì sẽ biến thành quả, quả sinh ra nếu hội đủ duyên lại có thể biến
thành nhân rồi để sinh ra quả khác.
Sự vật là một chuỗi nhân quả, liên tục nối tiếp nhau, ảnh hưởng lẫn nhau
không bao giờ đứt quãng, không bao giờ ngừng.
5


Trong nhân lại có mầm mống của quả sau này nhưng quả không nhất
định phải đúng như nhân vì duyên có thể mang lại sự biến đổi cho quả - Đó là
thuyết “Bất định pháp” trong luật nhân quả.
Sự vật là bất định, người tu hành căn cứ vào thuyết này mà tu dưỡng và tiến
tới trên con đường giải thoát về nhân. Suy rộng ra theo giáo lý Phật thì mỗi ý
nghĩ của tâm ta, mỗi hành động của thân ta, mỗi lời nói của chúng ta cũng là
những hạt nhân của chúng ta gieo hàng ngày. Những hạt nhân khi gặp đủ duyên
sẽ nảy nở thành quả.
Người nào gieo nhân, người ấy hái quả, không một hành động nào, thiện
hay ác, dù nhỏ đến đâu, dù ta khôn khéo bưng bít, giấu giếm đến mức nào cũng
không thể thoát khỏi cán cân nhân quả. Người học Phật, tu Phật chân chính thấm
nhuần thuyết nhân quả phải là người có đạo lý, không thể nào khác được.
Với những luận thuyết cơ bản như trên đã hình thành nên thề giới quan phật
giáo. Phật quan niệm các hiện tượng trong vũ trụ luôn luôn biến chuyển không

ngừng theo quy luật nhân duyên. Một hiện tượng phát sinh không phải là do một
nhân mà do nhiều nhân và duyên. Nhân không phải tự mà có mà do nhiều nhân
duyên đã có từ trước. Như vậy một hiện tượng có liên quan đến tất cả các hiện
tượng trong vũ trụ.
Tóm lại thế giới quan Phật giáo là thế giới quan nhân duyên. Tất cả sự vật
có danh có tướng, có thể nhận thức được, ý niệm được. Cảm giác được hay dùng
ngôn ngữ luận bàn, được đều được Phật gọi là pháp.
II. Nhận thức luận Phật giáo.
1. Bản chất, đối tượng của nhận thức luận.
Bản chất của nhận thức luận Phật giáo là quá trình khai sáng trí tuệ. Còn đối
tượng của nhận thức luận là vạn vật, là mọi hiện tượng, là cả vũ trụ.

6


Vạn vật là vô thuỷ vô chung, không có sự vật đầu tiên và không có sự vật
cuối cùng. Mọi vật đều liên quan mật thiết đến nhau. Toàn thể dù lớn đến đâu
nếu không có quan hệ với hạt bụi thì cũng không thành lập được.
Do đó đạo Phật không phân biệt vật chất và tinh thần vì đó chỉ là hai trạng
thái của tâm, của năng lượng khi ở thể tiềm tàng. Hiểu như vậy thì thấy rõ không
phải tâm sinh vật hay vật sinh tâm. Những hiện tượng sinh lý vật lý và những
hiện tượng tâm lý ấy chỉ tương sinh tương thành.

2. Quy trình, con đường và phương pháp nhận thức.
Sự nhận thức phát triển theo hai con đường tư trào: Hường nội và hướng
ngoại. Phật giáo thường quan tâm đến tư trào hướng nội tức là mỗi người tự
chiêm nghiệm suy nghĩ của bản thân. Có hai phương pháp để nhận thức là:
Tiệm ngộ : là sự giác ngộ, nhận thức một các dần dần, có tính chất là “ trí
hữu sư”.
Đốn ngộ: là sự giác ngộ bột phát, bùng nổ có tính chất là “trí vô sư”.

Theo phật giáo quan niệm sự nhận thức được trải qua hai giai đoạn:

Giai đoạn đầu là nhận thức bắt đầu từ cảm giác và phụ thuộc vào cảm
giác đưa lại. Kết quả là con người biết được cái tiếp xúc giữa thế giới khách
quan và giác quan của con người và từ sự tiếp xúc này tạo nên yếu tố” thọ “
trong ngũ uẩn. Theo nhà Phật nói chữ thọ ở đây là sự tiếp xúc của sáu căn
với sáu trần tạo nên yếu tố thọ. Căn cứ ở đây là những khả năng nhận thức
của các giác quan. Trần là loại kích thích từ thế giới bên ngoài. Nếu kích
thích tương ứng với các căn thì con người có cảm giác. Sáu căn là : nhăn,
nhỉ, tù, thiệt, thân, ý. Sáu trần là: sắc, thanh, hương, vị, xúc, pháp, “ Thọ”, cho
chúng ta nhận biết được những hiện tượng riêng lẻ, những cái bề ngoài, ngẫu
7


nhiên. Trong một số trường hợp khác gọi đó là kinh nghiệm. Từ những tri thức
cảm tính kinh nghiệm nêu trên, con người sẽ đi sâu để nhập vào bản thể của sự
vật để biết được cái bên trong, bản chất đó là tri thức định lý.
Giai đoạn sau là sự nhận thức đi từ cái tâm tại đến cái tâm siêu thể. Từ kết
quả của giai đoạn trước, con người bắt được cái tâm tính của những sự vật hữu
hình tái thế và đặc biệt là cái tâm ở trong mỗi con người và nâng lên để nắm
được cái tâm siêu thoát, cái tâm trung
Đạo phật cho rằng có hai phương pháp chủ yếu để nhận thức là: Tam học và
Tam huệ.
- Tam học là giới, định, tuệ.
Giới: Gồm có nhứng phương tiện để thay đổi lối suy nghĩ, lối sinh hoạt
hàng ngày của con người sống theo đạo, thích hợp với đạo là luôn hướng về
thiện.
Định: là đình chỉ mọi tư tưởng xấu, ý nghĩ xấu và còn là tập trung tư tưởng
suy nghĩ để làm mọi việc yên lành.
Tuệ: là trí tụê sáng suốt, đã thấu được lý vô thường, vô ngã, do đó chỉ nghĩ

đến làm việc thiện, mưu lợi cho chúng sinh.
Tam huệ: là văn, tu, tư.
Văn: là nghe pháp phật, hiểu rõ ý nghĩa, quan niệm được bản tính thanh
tịnh, sáng suốt của mình, do đó mà có một lòng tin vững chắc nơi Phật pháp.
Tư: là suy nghĩ về các pháp Phật đã nghe được, học được đi đến giác ngộ
bản lai tư tính của mình.
Tu: là nương theo trí tuệ, bắt đầu trực nhận được bản tính chân như, mà tụ tập gột
rửa những thói quen mà lầm từ nhiều kiếp để lại đi đến nhập với một pháp giới tính.
Nhận thức như thế, người tu hành sẽ được sống trong sự giải thoát, sinh tử luân
hồi sẽ không còn nữa.
III. Nhân sinh quan Phật giáo.
8


Trong Phật Giáo quan niệm về nhân sinh quan được thể hiện rõ qua thuyết
Tứ diệu đế .
1.

Tứ diệu đế:

Tứ diệu đế hay còn gọi là tứ chân đế hay tứ thánh đế, là bài thuyết pháp đầu tiên
của Phật sau khi thành đạo tại vườn Lộc giã cho năm từ khưu trước kia đi theo Phật.
Tứ đế là đạo lý căn bản của Thanh Văn Thừa, đồng thời cũng là cơ sở của
các thuyết khác trong giáo lý Phật.
Tứ đế gồm có: Khổ đế, Tập đế, Diệt đế, Đạo đế.
1.1 Khổ đế:
Trong tứ đế, Phật đưa ra đầu tiên vấn đề khổ, rồi giảng cho ta thấy vì sao
mà khổ, phương pháp diệt khổ và con đường đi đến diệt khổ.
Trong Phật giáo chia cái khổ ra làm 8 loại:
+ Sinh khổ: Đã có sinh là có khổ vì đã sinh nhất định có diệt, bị luật vô

thường chi phối nên khổ.
+ Lão khổ: người ta mong muốn trẻ mãi nhưng cái già theo thời gian vẫn cứ
đến. Cái già vào mắt thì mắt bị mờ đi, cái già vào lỗ tai thì tai bị điếc, vào da,
xương tủy thì da nhăn nheo, xương tủy mệt mỏi. Cái già tiến đến đâu thì suy yếu
đến ấy làm cho người ta phiền não.
+ Bệnh Khổ: Trong cuộc sống, thân thể thường ốm đau, nhất là khi già yếu,
thân thể suy nhược, bệnh tật dễ hoành hành làm cho người ta đau khổ.
+ Tử khổ : Là cái khổ khi người ta chết. Chứng sinh do nghiệp báo chịu cái
thân nào thì gắn bó với cái thân ấy coi như cái thân duy nhất của mình thì khi
chết thì phiền não vô cùng.
+ Cầu bất đắc khổ: Người ta thường chạy theo những điều mình ưa thích,
mong cầu hết cái này đến cái khác. Khi chưa cầu được thì phiền não, khi cầu
được rồi thì phải lo giữ nó, nếu nó mất đi thì lại luyến tiếc.
+ Ái biệt ly khổ: nỗi khổ khi phải chia ly.
9


+ Oán tăng hội khổ: những điều mình chán ghét thì nó cứ tiến đến bên
mình.
+ Ngũ ấm xí thịnh khổ: ngũ ấm ấy là sắc ấm, thụ ấm, tưởng ấm, hành ấm,
thức ấm. Ngũ ấm ấy che lấp trí tuệ, phải chịu cái khổ luân hồi trong vô lượng
kiếp.
Đạo Phật nhìn cuộc đời một cách khách quan, không ru người ta vào một
giấc mơ Niết Bàn hay cực lạc và cũng chẳng làm cho người ta sợ hãi, chán nản
bởi những đau khổ mà con người trong cuộc sống phải chịu đựng. Phật chỉ cho
chúng ta nhận thức sự vật, cuộc đời theo chân tướng của nó và chỉ dẫn cho chúng
ta đi đến giải thoát.
1.2 Tập đế:
Tập đế hay còn gọi là nhân đế, là những nguyên nhân tạo thành sự khổ.
Những nguyên nhân đó không phải tìm đâu xa mà ở ngay trong mỗi chúng ta.

Nguyên nhân thì có nhiều nhưng chủ yếu là do các nguyên nhân sau:
+ Tham lam - hướng ra ngoài cầu cho được cái mình muốn như danh, lợi,
tình ái.
+ Giận dữ - là tâm trạng đau khổ, bất an, ghét bỏ những cái trái ý, không
ưu, không thíchthể hiện trong cuộc sống chúng ta có nhiều mối quan hệ
+ Si mê – là trạng thái không sáng suốt, thiếu “ giác ngộ chân lý”.
+ Kiêu mạn – kiêu ngạo, tự đề cao vai trò của mình
+ Nghi ngờ - là thái độ hoài nghi tất cả, thiếu tự tin, do dự.
+ Thân kiến - là coi chỉ có ý kiến của ta là đúng.
+ Biện kiến là sự cố chấp những ý kiến xung quang, sự hiểu biết một mặt
như chấp đoạn, chấp thưởng.
+ Tà kiến là tin và làm những điều trái quy luật, trái đạo pháp do sự hiểu
biết không đúng.
+ Kiến thủ - là thành kiến, định kiến.
10


+ Giới cấm tu ( tu hành không chính đạo ).
Ba nguyên nhân chính ( tham, sân, si) Phật còn gọi là tam độc, là nguồn
gốc của mọi sự khổ. Nguyên nhân của tam độc là do ái dục và vô minh được thể
hiện trong công thức sau:
Nghiệp
Ái dục + Vô minh ––––> Sự khổ.
Ái dục: là tham ái, yêu thích do cảm thụ đi đến suy đắm trước những cảnh
yêu thích, vừa lòng, chán ghét cảnh trái ý. Vì say đắm với những cảnh nên rong
ruổi theo cảnh, bám lấy cảnh hình thành nên tham vọng và ước muốn.
Vô minh: là mê lầm, không sáng suốt. Đối với những hiện tượng trụ không
nhận rõ chân tướng, thực tướng của nó là sự chuyển
biến không ngừng, là vô thường mà lại lầm tưởng các hiện tượng đó là thực
có, là thường còn. Vô minh che lấp ta không nhận thấy được chân tâm mà luôn

luôn chạy theo vọng tâm, làm ta thấy có thân, có cảnh, có ta, có người của ta và
thấy quý thân ta, không quan tâm đến người sống quanh ta.
Nghiệp: là những hoạt động về thân thể, về lời nói ý nên Phật gọi là thân
nghiệp, khẩu nghiệp và ý nghiệp.
Nghiệp có hai loại: Nghiệp thiện và nghiệp ác.
Nghiệp thiện: là những việc có lợi cho người và đem lại quả báo tốt cho mình.
Nghiệp ác: là những việc làm hại cho ngươi và đem lại quả báo xấu cho mình.
Qua các quan điểm trên, cho ta nhận thức rằng Phật đặt số mệnh của con
người trong chính tay họ. Tự con người đã gây nên nỗi khổ cho mình. Do đó,
Phật đưa ra lý thuyết thập nhị nhân duyên để thấy được nguồn gốc của sự vật
trong thế gian. 12 nhân duyên là sợi dây liên tục nối tiếp con người trong vòng
sinh tử luân hồi đó là:
+ Vô minh - là không nhận thức được sự vật, hiện tượng chỉ là giả, là ảo.
+ Hành – là trạng thái tâm dao động.
11


+ Thức – là trạng thái tâm mất thăng bằng
+ Danh sắc- là sự hội tụ của yếu tố vật chất và yếu tố tinh thần
+ Lục nhập (lục căn tiếp xúc với thế giới xung quang, thấy lục trần: Sắc,
thanh, hương vị, xúc, pháp).
+ Xúc – là tiếp xúc, phối hợp với Lục trần và Thức
+ Thụ - là cảm giác do tiếp xúc mà sinh ra yêu ghét, vui buồn
+ Ái – ham muốn tình ái, say đắm
+ Thủ ( muốn chiếm giữ).
+ Hữu – là muốn có được, muốn tồn tại lâu dài, mãi mãi.
+ Sinh có rồi phải sinh để gây nghiệp
+ Lão tử - có sinh ắt phải có già, chết đi
Tập đế là một chân lý thể hiện tính biểu chứng sâu sắc trong mối quan hệ
nhân quả và đã tìm tới các nguyên nhân rất đa dạng, phong phú. Các nguyên

nhân ấy quan hệ với nhau, cái nào cũng có thể làm nhân làm duyên cho cái khác,
như làn sóng trên mặt biển, lớp trước là lớp nhân là duyên cho lớp sau và cứ thế
tiếp diễn. Nhưng cái hạn chế của tập đế là chưa đề cập đến nguyên nhân từ xã
hội. Đặc biệt là chưa nhắc tới quan hệ giai cấp, bóc lột trong xã hội.
1.3 Diệt đế:
Diệt đế là tích quả Niết bàn do thực hành tịnh nghiệp mà đạo đế mang lại.
Diệt đế là trừ diệt sự khổ để đi đến chỗ an lạc là chỗ kết nghiệp đã hết không còn
luân hồi sinh tử nữa.
Có tịnh nghiệp tất sinh tịnh quả. Ấy là khi diệt đế vọng niệm không còn
khởi lên, tâm hồn luôn an trụ trong cảnh vắng lặng là do cảnh giới Niết Bàn.
Niết Bàn có bốn đặc điểm: Thường - Lạc - Ngã - Tịnh.
+ Thường là thường còn, không biến đổi.
+ Lạc là an lạc, giải thoát hết phiền não, thâm tâm tự tại.
+ Ngã là chân ngã, chân thực, thường còn.
12


+Tịnh là thanh tịnh, trong sạch không còn ô nhiễm.
Niết Bàn là sự chấm dứt mọi phiền não được thực hiện không phải ở một
nơi nào khác, một cõi nào khác mà thực hiện ngay trong cõi thế gian này, nhờ sự
tu hành nghiêm túc mang lại cho ta mọi trạng thái tinh thần đặc biệt: Trạng thái
an lạc, siêu thoát, tịnh diệt. Tuy nhiên để đạt tới trạng thái niết bàn đó con người
phải dày công tu dưỡng, xoá bỏ được lửa dục, lửa sân, lửa si mê để chứng được
cảnh giới Như vậy trong quan niệm Đạo phật Niết Bàn ngay trong cõi đời hiện
tại.
1.4 Đạo đế:
Đạo đế là cách thức, con đường hướng dẫn cho chúng sinh đạt được đến
quả giải thoát, ra khỏi luân hồi sinh tử. Trong đạo Phật Pháp môn tu dưỡng ra
khỏi luân hồi sinh tử được đề cao là phương pháp 37 đạo phẩm.
Trong Pháp 37 đạo phẩm thì bát chính đạo được đánh giá là quan trọng

nhất. Vì bát chính đạo giúp con người thoát khỏi phiền não, đau khổ đi tới cảnh
giới Niết Bàn tự tại, an lạc. Bát chính đạo gồm có:
- Chính ngữ: là tu nghiệp thanh tịnh, không phát ra lời nói sai trái.
- Chính nghiệp: hành động chân chính, mang lại lợi ích cho mọi người.
- Chính mệnh: sống bằng nghề nghiệp chân chính.
- Chính tịnh tiến : tiến tới trên con đường đạo, không đi vào các đường tà.
- Chính niệm: tâm trí luôn luôn nghĩ đến đạo lý vô ngã, diệt trừ những kiến
chấp mê lầm, đoạt trừ những tư tưởng, hành động bất chính.
- Chính định : Giữ tâm vắng lặng không một vọng niệm khởi lên để trí tuệ
xuất hiện, chứng quả tu đà hoàn.
- Chính kiến : kết quả của việc sống, tư duy con người phải có ý biến lấy
tiêu biểu là các vị Phật.
13


Chính tư duy: Sau khi có niệm khởi, con người sẽ tư duy, suy nghĩ một
cách chân chính, làm chủ được dòng tư duy.
Con người muốn đi qua tám con đường trên thì phải trải qua ba nguyên tắc:
giới, định (tam học). Các nguyên tắc này có sự liên hệ khăng khít, bổ sung cho nhau.
+ Giới học: là cả một thiên luân lý thực hành của Đạo Phật, mục đích của giới
học là để kiềm chế rồi đi đến diệt lục. Giới gồm những phương tiện để thay đổi
lối suy nghĩ, lối sinh hoạt hàng ngày của con người, hướng con người sống
hướng thiện, sống theo đạo.
+ Định học là đình chỉ mọi tư tưởng xấu, ý nghĩa xấu nguyên nhân phát
sinh những hành động xấu đi đến gây nghiệp báo xấu.
+ Tuệ học : là trí tuệ sáng suốt của người tu hành đã diệt được dục vọng, đã
diệt được tam độc là tham, sân, si, đã hiểu được lý vô thường, vô ngã do đó chỉ
nghĩ đến làm điều thiện, cầu lợi cho chúng sinh.
2. Những quan điểm về nhân sinh quan Phật giáo.
2.1 Con người:

Con người là sự kết hợp của ngũ uẩn( sắc, thụ, tưởng, hành, thức) gồm hai
yếu tố chính: yếu tố sinh lý (sắc) và yếu tố tinh thần (thụ, tưởng, hành, thức).
Yếu tố tinh thần chỉ phát huy tác dụng khi nó được gắn với một thân thể.
Sắc thân chỉ tồn tại trong một thời gian rồi bị huỷ diệt.
Như vậy, con người chỉ là một giả hợp sinh lý tuân theo quy luật: sinh, tục,
dị, diệt.Con người là do nhân duyên hoà hợp, không có một đấng tối thượng siêu
nhiên tạo ra con người cũng như con người không phải tự nhiên mà sinh ra. Khi
nhân duyên hoà hợp thì con người sinh, khi nhân duyên tan rã thì con người chết.
Song chết chưa phải là hết, linh hồn cũng không bất tử chuyển từ kiếp này sang
kiếp khác. Con người ở kiếp này sinh ra thì con người ở kiếp trước diệt, nhưng
con người ở kiếp sau không phải là con người ở kiếp trước nhưng cũng không
khác với con người ở kiếp trước. Con người không phải là một thực thể trường
14


tồn mà chỉ là một giả hợp của ngũ uẩn. Trong thời gian ngũ uẩn kết hợp, các việc
thiện, ác được thực hiện. Con người gây nghiệp và tạo ra một động lực làm xuất
hiện nghiệp báo ở kiếp sau.
Từ nhận thức trên, con người tu Phật lúc nào cũng phải cẩn thận trong một
ý nghĩ, lời nói việc làm.
2.2 Nhân vị trong đạo Phật.
Mục đích của Đạo Phật là đạo chủ trương tự do, bình đẳng, từ bi, bác ái và
mog muốn không chỉ có sự bình đẳng giữa con người với con người mà còn có
sự bình đẳng giữa các chúng sinh đều có Phật tính như nhau và đang cùng nhau:
người trước, vật sau, tiến bước trên con đường giải thoát.
Trong quan niệm của Phật con người sống tự do là con người sống trong an
lạc, giải thoát, không có áp bức, nô lệ, cũng không bị chi phối bởi ngũ dục. Con
người bị ràng buộc bởi ngoại cảnh và một phần bởi nội tâm. Những sự áp bức,
những day dứt gây ra bởi dục vọng còn khắc nghiệt bằng vạn ngoại cảnh. Nhà
lao, cường quyền, tham nhũng, tàn ác còn chưa khắc nghiệt bằng cái ta ích kỷ.

Do đó, để có cuộc sống tự do con người phải đấu tranh với chính mình để diệt
trừ dục vọng và đấu tranh để chống mọi sự áp bức bất công trong xã hội.
Mục đích cuối cùng của đạo Phật là giải thoát con người khỏi cuộc sống
đau khổ trong vô minh. Sự giải thoát không chỉ nhằm đấu tranh chống những áp
bức về xã hội trong lĩnh vực kinh tế mà sự giải thoát nhằm tiêu diệt tận gốc
nguyên nhân sâu xa dẫn tới mọi nỗi đau khổ của con người là tham lam và dục
vọng. Việc giải phóng này là con người phải tự lực đảm nhiệm, không ai có thể
làm thay được và mỗi người phải coi sự giải thoát là cứu cánh cuối cùng của
cuộc đời.
Như vậy, trong quan niệm của Đạo Phật đã đặt con người lên một vị trí rất
quan trọng và cao quý. Hạnh phúc hay đau khổ của mỗi con người là do chính
mỗi con người tạo nên. Nếu như Con người sống vị tha, từ bi, hỉ, xả với nhau sẽ
15


xây dựng một xã hội hoà bình, an lạc, công bằng, mọi người sống vì lợi ích của
nhau, của tập thể. Ngược lại, con người ích kỷ chỉ biết mình, hại người, con
người sống tàn bạo, độc ác thì xã hội của những con người ấy là xã hội của địa
ngục, xã hội của áp bức bóc lột.

16


C KẾT LUẬN:
Qua những vấn đề cơ bản trong Phật học, ta thấy Đạo Phật là một
hệ thống tư tưởng thống nhất quy tụ về Nhất Thừa Phật pháp. Tất cả
giáo lý Phật là nền tảng cho việc xây dựng con người vị tha và coi cuộc
sống vị tha là lý tưởng cao quý nhất của đời mình, tiến tới con người từ,
bi, hỷ, xả, con người Phật. Vì thế vấn đề nhân vị trong đạo Phật là một
vấn đề quan trọng vì đạo Phật cho rằng con người là tất cả, con người

quyết định số phận của mình, quyết định hình thái xã hội. Con người ác
chỉ biết lợi mình hại người tạo ra một xã hội với áp bức bất công. Con
người thiện, sống vị tha xây dựng một xã hội tiến bộ, lành mạnh. Đây là
bài học lớn cần được chúng ta ghi nhớ, áp dụng vì mục tiêu của Đảng và
Nhà nước ta trong suốt chiều dài lịch sự cho đến tận bây giờ là làm sao
xây dựng thành công một xã hội hoà bình, an lạc, công bằng, mọi người
sống vì lợi ích của nhau, của tập thể…

17


I. Tài liệu tham khảo
1.

Giáo trình triết học Mác – Lê nin – Bộ giáo dục và đào tạo

2.

Lịch sử triết học – PGS, TS Nguyễn Hùng Hậu

3.

TS. Bùi Thị Thanh Hương - Nguyễn Văn Đại - Lịch sử triết học
đại cương - Nhà Xuất Bản Chính Trị Hành Chính

4.

Một số tài liệu trên mạng khác .

18



MỤC LỤC
I. Tài liệu tham khảo...........................................................................................18

19



×