I HC QUC GIA H NI
KHOA LUT
HONG VN TIN
CãN Cứ QUYếT địNH HìNH PHạT
THEO LUậT HìNH Sự VIệT NAM Và THựC TIễN áP DụNG
TRÊN địA BàN TỉNH Hà GIANG
LUN VN THC S LUT HC
H NI - 2016
I HC QUC GIA H NI
KHOA LUT
HONG VN TIN
CãN Cứ QUYếT địNH HìNH PHạT
THEO LUậT HìNH Sự VIệT NAM Và THựC TIễN áP DụNG
TRÊN địA BàN TỉNH Hà GIANG
Chuyờn ngnh: Lut hỡnh s v t tng hỡnh s
Mó s: 60 38 01 04
LUN VN THC S LUT HC
Ngi hng dn khoa hc: TS. TRNH TIN VIT
H NI - 2016
LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan Luận văn là công trình nghiên cứu của riêng tôi.
Các kết quả nêu trong Luận văn chƣa đƣợc công bố trong bất kỳ công
trình nào khác. Các ví dụ và trích dẫn trong Luận văn đảm bảo tính chính
xác, tin cậy và trung thực. Tôi đã hoàn thành tất cả các môn học và đã
thanh toán tất cả các nghĩa vụ tài chính theo quy định của Khoa Luật Đại
học Quốc gia Hà Nội.
Vậy tôi viết Lời cam đoan này đề nghị Khoa Luật xem xét để tôi
có thể bảo vệ Luận văn.
Tôi xin chân thành cảm ơn!
NGƢỜI CAM ĐOAN
Hoàng Văn Tiến
MỤC LỤC
Trang
- Trang phụ bìa
- Lời cam đoan
- Mục lục
- Danh mục các bảng
MỞ ĐẦU ....................................................................................................................1
Chương 1: NHỮNG VẤN ĐỀ CHUNG VỀ CÁC CĂN CỨ QUYẾT ĐỊNH
HÌNH PHẠT TRONG LUẬT HÌNH SỰ VIỆT NAM .............................9
1.1.
KHÁI NIỆM, Ý NGHĨA VÀ CÁC NGUYÊN TẮC QUYẾT ĐỊNH
1.1.1.
1.1.2.
1.1.3.
1.2.
HÌNH PHẠT TRONG LUẬT HÌNH SỰ VIỆT NAM ...................................9
Khái niệm quyết định hình phạt ....................................................................9
Ý nghĩa của quyết định hình phạt................................................................16
Các nguyên tắc quyết định hình phạt ..........................................................18
KHÁI NIỆM VÀ Ý NGHĨA CỦA CÁC CĂN CỨ QUYẾT ĐỊNH
HÌNH PHẠT TRONG LUẬT HÌNH SỰ VIỆT NAM ...............................24
1.2.1.
Khái niệm các căn cứ quyết định hình phạt ................................................24
1.2.2.
1.3.
Ý nghĩa của các căn cứ quyết định hình phạt ..............................................27
KHÁI QUÁT LỊCH SỬ HÌNH THÀNH VÀ PHÁT TRIỂN CỦA
QUY ĐỊNH VỀ CÁC CĂN CỨ QUYẾT ĐỊNH HÌNH PHẠT
1.3.1.
1.3.2.
TRONG LUẬT HÌNH SỰ VIỆT NAM TỪ SAU CÁCH MẠNG
THÁNG TÁM NĂM 1945 ĐẾN KHI BAN HÀNH BỘ LUẬT HÌNH
SỰ NĂM 1999 ............................................................................................29
Giai đoạn từ sau Cách mạng Tháng Tám năm 1945 đến pháp điển hóa
lần thứ nhất - Bộ luật hình sự Việt Nam năm 1985 ....................................29
Giai đoạn từ sau khi ban hành Bộ luật hình sự năm 1985 đến pháp
điển hóa lần thứ hai - Bộ luật hình sự Việt Nam năm 1999 ........................32
Chương 2: QUY ĐỊNH CỦA BỘ LUẬT HÌNH SỰ VIỆT NAM VÀ BỘ
LUẬT HÌNH SỰ MỘT SỐ NƯỚC TRÊN THẾ GIỚI VỀ CÁC
CĂN CỨ QUYẾT ĐỊNH HÌNH PHẠT ...................................................35
2.1.
QUY ĐỊNH CỦA BỘ LUẬT HÌNH SỰ VIỆT NAM VỀ CÁC CĂN
CỨ QUYẾT ĐỊNH HÌNH PHẠT ...............................................................35
2.1.1.
Các quy định của Bộ luật hình sự ...............................................................35
2.1.2.
Khi quyết định hình phạt, Tòa án phải căn cứ vào tính chất và mức độ
nguy hiểm cho xã hội của hành vi phạm tội................................................41
2.1.3.
Nhân thân ngƣời phạm tội ...........................................................................45
2.1.4.
2.1.5.
Khi quyết định hình phạt phải căn cứ vào các tình tiết giảm nhẹ trách
nhiệm hình sự ..............................................................................................48
Khi quyết định hình phạt tòa án căn cứ vào các tình tiết tăng nặng
2.2.
trách nhiệm hình sự .....................................................................................54
QUY ĐỊNH CỦA BỘ LUẬT HÌNH SỰ MỘT SỐ NƢỚC TRÊN
THẾ GIỚI VỀ CÁC CĂN CỨ QUYẾT ĐỊNH HÌNH PHẠT ....................59
2.2.1.
2.2.2.
Bộ luật hình sự Nhật Bản ............................................................................59
Bộ luật hình sự Cộng hòa Pháp ...................................................................61
2.2.3.
2.2.4.
2.2.5.
Bộ luật hình sự Liên bang Nga....................................................................62
Bộ luật hình sự Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa .........................................63
Bộ luật hình sự Cộng hòa Liên bang Đức ...................................................64
Chương 3: THỰC TIỄN ÁP DỤNG CÁC CĂN CỨ QUYẾT ĐỊNH HÌNH
PHẠT TRÊN ĐỊA BÀN TỈNH HÀ GIANG VÀ NHỮNG KIẾN NGHỊ.....65
3.1.
3.1.1.
3.1.2.
3.1.3.
3.2.
3.3.
3.3.1.
3.3.2.
THỰC TIỄN ÁP DỤNG CÁC CĂN CỨ QUYẾT ĐỊNH HÌNH
PHẠT TRÊN ĐỊA BÀN TỈNH HÀ GIANG ..............................................65
Khái quát đặc điểm kinh tế, xã hội của địa bàn tỉnh Hà Giang ...................65
Tình hình quyết định hình phạt và việc áp dụng các căn cứ quyết định
hình phạt trên địa bàn tỉnh Hà Giang ..........................................................66
Một số tồn tại, hạn chế của việc áp dụng các căn cứ quyết định hình
phạt trên địa bàn tỉnh Hà giang và những nguyên nhân cơ bản ..................71
TIẾP TỤC HOÀN THIỆN QUY ĐỊNH CỦA BỘ LUẬT HÌNH SỰ
VIỆT NAM VỀ QUYẾT ĐỊNH HÌNH PHẠT VÀ CÁC CĂN CỨ
QUYẾT ĐỊNH HÌNH PHẠT ......................................................................81
MỘT SỐ KIẾN NGHỊ KHÁC NÂNG CAO CHẤT LƢỢNG CỦA
VIỆC ÁP DỤNG CÁC CĂN CỨ QUYẾT ĐỊNH HÌNH PHẠT ...............89
Kiện toàn đội ngũ cán bộ xét xử .................................................................89
Các giải pháp phối hợp khác .......................................................................93
KẾT LUẬN ..............................................................................................................95
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO ..............................................................97
DANH MỤC CÁC BẢNG
Số hiệu bảng
Bảng 3.1:
Tên bảng
Trang
Tổng số ngƣời bị kết án tại TAND cấp tỉnh Hà Giang từ
2010 - 2014
68
Bảng 3.2: Tổng số ngƣời bị kết án tại Tòa án nhân dân cấp huyện ở
Hà Giang từ 2010 - 2014
68
Bảng 3.3: Tổng hợp các hình phạt đƣợc áp dụng trên địa bàn tỉnh Hà
Giang từ 2010 - 2014
69
Bảng 3.4: Bảng tổng hợp nhân thân ngƣời phạm tội qua việc xét xử
của TAND tỉnh Hà Giang từ 2010 - 2014
70
MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Tính nguy hiểm cho xã hội là lý do khiến cho tội phạm phải bị trừng phạt.
Tội phạm luôn có tính nguy hiểm cho xã hội, bởi vì “tội phạm luôn chứa đựng
trong nó đặc tính chống đối lại Nhà nước, chống đối lại xã hội, đi ngược lại lợi ích
chung của cộng đồng, trật tự xã hội, xâm phạm đến quyền, tự do và các lợi ích hợp
pháp của con người” [43, tr. 63]. Tuy vậy, mặc dù tất cả tội phạm đều có tính nguy
hiểm cho xã hội nhƣng mức độ nguy hiểm của các hành vi phạm tội là khác nhau,
do đó cần có biện pháp xử lý chính xác, phù hợp và công bằng. Trên cơ sở đó, với
tƣ cách là một trong những công cụ sắc bén, hữu hiệu để đấu tranh phòng và chống
tội phạm, Bộ luật hình sự Viê ̣t Nam đã quy định về tội phạm và hình phạt với mục
đích - “bảo vệ các quyền và tự do của con người với tư cách là những giá trị cao
quý nhất được thừa nhận chung của nền văn minh nhân loại tránh khỏi sự xâm hại
có tính chất tội phạm của công dân khác” [6, tr. 672].
Quyết định hình phạt là một trong những giai đoạn cơ bản, một trong những
nội dung của quá trình áp dụng pháp luật hình sự. Giai đoạn này chiếm vị trí đặc
biệt trong quá trình áp dụng pháp luật hình sự. Điều đó thể hiện trƣớc hết ở chỗ
Tòa án mới có quyền áp dụng và quyết định hình phạt. Hiến pháp nƣớc Cộng hòa
xã hội chủ nghĩa Việt Nam năm 2013 quy định:
1. Tòa án nhân dân là cơ quan xét xử của nƣớc Cộng hoà xã hội chủ nghĩa
Việt Nam, thực hiện quyền tƣ pháp.
2. Tòa án nhân dân gồm Tòa án nhân dân tối cao và các Tòa án khác do luật
định.
3. Tòa án nhân dân có nhiệm vụ bảo vệ công lý, bảo vệ quyền con ngƣời,
quyền công dân, bảo vệ chế độ xã hội chủ nghĩa, bảo vệ lợi ích của Nhà nƣớc,
quyền và lợi ích hợp pháp của tổ chức, cá nhân [29].
Tƣơng tự, Điều 2 Luật tổ chức Tòa án nhân dân năm 2014 quy định về chức
năng, nhiệm vụ, quyền hạn của Tòa án nhân dân:
1
1. Tòa án nhân dân là cơ quan xét xử của nƣớc Cộng hòa xã hội chủ nghĩa
Việt Nam, thực hiện quyền tƣ pháp.
Tòa án nhân dân có nhiệm vụ bảo vệ công lý, bảo vệ quyền con ngƣời,
quyền công dân, bảo vệ chế độ xã hội chủ nghĩa, bảo vệ lợi ích của Nhà nƣớc,
quyền và lợi ích hợp pháp của tổ chức, cá nhân.
Bằng hoạt động của mình, Tòa án góp phần giáo dục công dân trung thành
với Tổ quốc, nghiêm chỉnh chấp hành pháp luật, tôn trọng những quy tắc của cuộc
sống xã hội, ý thức đấu tranh phòng, chống tội phạm, các vi phạm pháp luật khác...
[31, Điều 2].
Bên cạnh đó, Điều 26 Bộ luật hình sự năm 1999 quy định: “Hình phạt là
biện pháp cưỡng chế nghiêm khắc nhất của Nhà nước nhằm tước bỏ hoặc hạn chế
quyền, lợi ích của người phạm tội. Hình phạt được quy định trong Bộ luật hình sự
và do Tòa án quyết định” [30, Điều 26]. Hình phạt là biện pháp cƣỡng chế nghiêm
khắc về hình sự đƣợc Nhà nƣớc giao cho Tòa án nhân dân nhân danh Nhà nƣớc
quyết định áp dụng với ngƣời phạm tội, không một cơ quan nhà nƣớc nào khác
ngoài Tòa án có quyền áp dụng hình phạt. Tòa án lựa chọn loại hình phạt phù hợp
với mức hình phạt cụ thể đƣợc quy định trong Bộ luật hình sự để áp dụng cho
ngƣời phạm tội. Do đó:
Tòa án “vốn là một cơ quan trong hoạt động của mình thể hiện những nguyên
tắc pháp luật sâu xa đƣợc quyền đánh giá các quyền chủ thể của con ngƣời, phán quyết
ở cấp cuối cùng và phán quyết theo cách là các quyết định của nó dù chỉ liên quan đến
một vụ việc cụ thể, nhƣng nó có sức mạnh bắt buộc nhƣ chính là sức mạnh của bản
thân pháp luật [48, tr. 145].
Hay nói cách khác, để nâng cao vai trò của pháp luật, "một nguyên tắc khác
của ý tƣởng chế độ pháp trị là phải bảo đảm sự bảo vệ của pháp luật, mọi công dân
phải đƣợc phép yêu cầu thực hiện các quyền của mình tại Tòa án” [19, tr. 50].
Quyết định hình phạt là một giai đoạn rất quan trọng trong hoạt động xét xử.
Quyết định hình phạt đúng pháp luật, công bằng là tiền đề cho việc đạt đƣợc các
mục đích của hình phạt: cải tạo và giáo dục ngƣời bị kết án trở thành ngƣời có ích
2
cho xã hội, phòng ngừa riêng và phòng ngừa chung (Điều 27 Bộ luật hình sự năm
1999). Ngƣợc lại, quyết định một hình phạt không đúng pháp luật, không công
bằng và không hợp lý thì không thể có khả năng đạt đƣợc các mục đích đó. Do đó,
việc áp dụng hình phạt đối với ngƣời phạm tội có đạt đƣợc mục đích hay không,
hiệu quả của hình phạt đạt đƣợc ở mức độ cao hay thấp phụ thuộc rất nhiều vào
việc quyết định hình phạt. Nếu Tòa án coi nhẹ mặt giáo dục, cải tạo, xem hình phạt
nhƣ là phƣơng tiện chủ yếu để trừng trị ngƣời phạm tội thì sẽ dẫn đến việc quyết
định hình phạt quá nặng. Trong trƣờng hợp này, ngƣời phạm tội luôn luôn mang tƣ
tƣởng phải chịu một hình phạt không phù hợp với hậu quả do hành vi phạm tội của
mình, gây ra oán hờn và không tin tƣởng đối với các cơ quan xét xử và thi hành.
Một hình phạt nhƣ vậy không thể tạo ra tiền đề và điều kiện thuận lợi cho ngƣời
phạm tội đƣợc cải tạo, giáo dục để hoàn lƣơng trở thành công dân có ích cho xã
hội. Còn một hình phạt quá nhẹ, không tƣơng xứng với tính chất, mức độ nguy
hiểm cho xã hội của tội phạm sẽ làm giảm ý nghĩa phòng ngừa riêng và phòng
ngừa chung, đồng thời nảy sinh ở chính ngƣời phạm tội và những ngƣời khác có
thái độ coi thƣờng pháp luật; không tạo ra sự tin tƣởng, đồng tình cần thiết để giáo
dục quần chúng nhân dân tham gia tích cực vào cuộc đấu tranh phòng ngừa và
chống tội phạm [13, tr. 83-84].
Do vậy, quyết định hình phạt là một trong những giai đoạn rất quan trọng,
một trong những nội dung của quá trình áp dụng pháp luật hình sự do Thẩm phán
và Hội thẩm tiến hành đối với ngƣời thực hiện tội phạm theo một trật tự pháp lý
nhất định. Nó còn là một dạng hoạt động pháp lý tố tụng hình sự, bởi vì để quyết
định hình phạt, Tòa án phải dựa vào kết quả của các giai đoạn tố tụng hình sự khác
nhau nhƣ kết quả hoạt động điều tra, truy tố… và kết quả hoạt động của mình ở
giai đoạn xét xử để xác định một loại và một mức hình phạt cụ thể tối ƣu nhất trong
việc cải tạo, giáo dục và phòng ngừa tội phạm. Loại và mức hình phạt đƣợc quyết
định áp dụng đối với bị cáo phải đƣợc thể hiện trong bản án buộc tội theo các quy
định của Bộ luật tố tụng hình sự và đƣợc công bố một cách công khai khi tuyên án.
Hình phạt do Tòa án quyết định tùy thuộc vào các tình tiết cụ thể của vụ án
3
có thể là nghiêm khắc, ít nghiêm khắc hoặc nhẹ nhƣng trong mọi trƣờng hợp bao
giờ cũng phải bảo đảm đúng pháp luật, công bằng và cá thể hóa. Điều đó có nghĩa,
để bảo đảm sự tƣơng xứng khi quyết định hình phạt phải cân nhắc tính chất và mức
độ nguy hiểm cho xã hội của tội phạm đã thực hiện, cân nhắc nhân thân ngƣời
phạm tội, cân nhắc các tình tiết tăng nặng và giảm nhẹ trách nhiệm hình sự. Ngoài
ra, hình phạt đƣợc quyết định đối với bị cáo phải bảo đảm tính xác định, tính lập
luận và bắt buộc có lý do. Các căn cứ quyết định hình phạt đóng vai trò rất quan
trọng trong việc bảo đảm tính pháp chế, công bằng và nhân đạo của pháp luật.
Tuy nhiên, bên cạnh đó, việc áp dụng chƣa đúng, chƣa chính xác các căn cứ quyết
định hình phạt vẫn còn xảy ra, dẫn đến việc áp dụng mức và loại hình phạt quá
nặng hoặc quá nhẹ, chƣa bảo đảm yêu cầu đấu tranh phòng, chống tội phạm, cũng
nhƣ hiệu quả của hình phạt. Bên cạnh đó, trên phƣơng diện lý luận, các căn cứ
quyết định hình phạt vẫn chƣa đƣợc đề cập sâu sắc và riêng rẽ. Vì vậy, việc nghiên
cứu sâu sắc hơn nữa để làm sáng tỏ về mặt khoa học những vấn đề lý luận cơ bản
nhƣ khái niệm, đặc điểm, ý nghĩa, nguyên tắc và nội dung các căn cứ quyết định
hình phạt và thực tiễn áp dụng áp dụng các quy định pháp luật về vấn đề này để đề
xuất giải pháp hoàn thiện pháp luật, nâng cao chất lƣợng quyết định hình phạt
không những có ý nghĩa lý luận - thực tiễn quan trọng, mà còn là vấn đề mang tính
cấp thiết phục vụ yêu cầu cải cách tƣ pháp theo tinh thần Nghị quyết số 08-NQ/TW
ngày 02/01/2002 “Về một số nhiệm vụ trọng tâm công tác tƣ pháp trong thời gian
tới”, Nghị quyết số 48-NQ/TW ngày 24/5/2005 “Về Chiến lược xây dựng và hoàn
thiện hệ thống pháp luật Việt Nam đến năm 2010, định hướng đến năm 2020” và
Nghị quyết số 49-NQ/TW ngày 02/6/2005 của Bộ Chính trị “Về Chiến lược cải
cách tư pháp đến năm 2020”. Đây chính là lý do luận chứng cho việc học viên
công tác tại Tòa án nhân dân tỉnh Hà Giang quyết định lựa chọn đề tài luận văn
thạc sĩ luật học của mình với tên gọi: “Căn cứ quyết định hình phạt theo luật
hình sự Việt Nam và thực tiễn áp dung trên địa bàn tỉnh Hà Giang)”.
2. Tình hình nghiên cứu
Nhƣ đã nêu trên, trong khoa học luật hình sự, quyết định hình phạt đã đƣợc đề
4
cập nhiều, nhƣng các căn cứ quyết định hình phạt còn ít đƣợc quan tâm nghiên cứu.
Vấn đề chủ yếu đƣợc đề cập đến bởi các nghiên cứu chung về quyết định hình phạt
mà thôi, trong đó phải kể đến các công trình ở những cấp độ khác nhau dƣới đây:
* Ở cấp độ sách tham khảo, chuyên khảo ở nƣớc ngoài: 1) C.L.Ten, Tội
phạm, lỗi và hình phạt, Oxford at the Clarendon Press, 1987; 2) P.J.Fizgerald, Luật
hình sự và hình phạt, Oxford at the Clarendon Press, 1992; 3) Doman J. Newman,
Giới thiệu về Luật hình sự, McGraw-Hill, INC, 1993; 4) Larry K. Gaines and
Roger LeRoy Miller, Luật hình sự: Những vấn đề cơ bản trọng tâm, Wadsworth
Publishing, USA, 2006; v.v...
* Ở cấp độ giáo trình, sách tham khảo, chuyên khảo, đề tài trong nƣớc: 1)
Đề tài nghiên cứu cấp Đại học Quốc gia Hà Nội: “Bảo vệ quyền con người bằng
các quy định của pháp luật hình sự và pháp luật tố tụng hình sự Việt Nam trong
giai đoạn xây dựng Nhà nước pháp quyền” do GS. TSKH. Lê Văn Cảm, PGS. TS.
Nguyễn Ngọc Chí, PGS. TS. Trịnh Quốc Toản (đồng chủ trì), Hà Nội, 2004; 2)
PGS. TS. Trịnh Quốc Toản, Chương XVI - Quyết định hình phạt, Trong sách: Giáo
trình Luật hình sự Việt Nam (Phần chung), Khoa Luật, Đại học Quốc gia Hà Nội,
2001, tái bản 2007, GS.TSKH. Lê Văn Cảm chủ biên; 3) PGS. TS. Lê Văn Đệ,
Định tội danh và quyết định hình phạt trong luật hình sự Việt Nam, Nxb. Công an
nhân dân, Hà Nội, 2005; 4) PGS.TS. Dƣơng Tuyết Miên, Định tội danh và quyết
định hình phạt, Nxb. Lao động Xã hội, Hà Nội, 2007; 5) ThS. Đinh Văn Quế, Tìm
hiểu hình phạt và quyết định hình phạt trong Bộ luật hình sự năm 1999, Nxb.
Chính trị Quốc gia Hà Nội, 2000; v.v…
* Ở cấp độ luận án, luận văn thạc sĩ luật học trong nƣớc: 1) Dƣơng Tuyết
Miên, Quyết định hình phạt trong luật hình sự Việt Nam, Luận án tiến sĩ luật học,
Trƣờng Đại học Luật Hà Nội, 2004; 2) Nguyễn Thị Bình, Quyết định hình phạt
trong đồng phạm, Luận văn thạc sĩ luật học, Khoa Luật, Đại học Quốc gia Hà Nội,
2009; 3) Đào Thị Nga, Quyết định hình phạt đối với người chưa thành niên phạm
tội, Luận văn thạc sĩ luật học, Trƣờng Đại học Luật Hà Nội, 1997; 4) Nguyễn Minh
Khuê, Quyết định hình phạt đối với người chưa thành niên phạm tội, Luận văn thạc
5
sĩ luật học, Khoa Luật, Đại học Quốc gia Hà Nội, 2006; 5) Trịnh Thị Yến, Quyết
định hình phạt đối với người chưa thành niên phạm nhiều tội, Luận văn thạc sĩ luật
học, Khoa Luật, Đại học Quốc gia Hà Nội, 2014; v.v...
* Còn về các công trình dƣới dạng bài viết đăng trên các tạp chí khoa học
pháp lý có thể kể đến các công trình sau: 1) GS.TSKH. Lê Cảm, Về bản chất pháp
lý của quy phạm nguyên tắc quyết định hình phạt quy định tại Điều 37 Bộ luật
hình sự Việt Nam, Tạp chí Tòa án nhân dân, số 1/1989; 2) TS. Trần Văn Dũng,
Quyết định hình phạt trong trường hợp người chưa thành niên phạm tội, Tạp chí
Luật học, số 5/2000; 3) PGS. TS. Dƣơng Tuyết Miên, Quyết định hình phạt đối với
người chưa thành niên phạm tội, Tạp chí Luật học, số 4/2002; 4) ThS. Đinh Văn
Quế, Quyết định hình phạt đối với người chưa thành niên phạm tội, Tạp chí Tòa án
nhân dân, số 6/2007; v.v...
Nhƣ vậy, nhìn chung, các công trình nghiên cứu nói trên mới chỉ đề cập đến
quyết định hình phạt trong trƣờng hợp phạm tội cụ thể hoặc những vấn đề chung,
mà chƣa có công trình nghiên cứu chuyên sâu và có hệ thống nào về vấn đề lý luận
cơ bản đồng thời đánh giá toàn diện quy định Bộ luật hình sự Việt Nam hiện hành
về các căn cứ quyết định hình phạt và thực tiễn áp dụng quy định đó trên một địa
bàn cụ thể là tỉnh Hà Giang để làm cơ sở cho việc đề xuất giải pháp hoàn thiện pháp
luật và nâng cao chất lƣợng, hiệu quả quyết định hình phạt. Nói một cách khác, các
vấn đề lý luận và thực tiễn xung quanh việc áp dụng căn cứ quyết định hình phạt đòi
hỏi phải đƣợc tiếp tục nghiên cứu một cách toàn diện và chuyên sâu hơn.
3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
3.1. Đối tượng nghiên cứu
Luận văn có đối tƣợng nghiên cứu là: Căn cứ quyết định hình phạt theo luật
hình sự Việt Nam và thực tiễn áp dụng trên địa bàn tỉnh Hà Giang.
3.2. Phạm vi nghiên cứu
Trên cơ sở đối tƣợng nghiên cứu trên, luận văn có phạm vi nghiên cứu nhƣ sau:
- Phân tích khái niệm, nội dung, các nguyên tắc quyết định hình phạt, từ đó,
chỉ ra xây dựng khái niệm (các) căn cứ quyết định hình phạt (lƣu ý, căn cứ quyết
6
định hình phạt đƣợc học viên sử dụng ở đây là theo nghĩa rộng và đúng theo tên
gọi trong Bộ luật hình sự và nội dung bao gồm cả bốn căn cứ quyết định hình phạt);
- Hệ thống hóa quy định về các căn cứ quyết định hình phạt trong lịch sử từ
Cách mạng tháng Tám năm 1945 đến nay, trong đó phân tích quy định của Bộ luật
hình sự Việt Nam hiện hành về vấn đề này để rút ra nhận xét;
- Nghiên cứu, so sánh quy định của Bộ luật hình sự một số nƣớc trên thế giới
về các căn cứ quyết định hình phạt để rút ra đánh giá;
- Đánh giá thực tiễn áp dụng các căn cứ quyết định hình phạt trên địa bàn
tỉnh Hà Giang, từ đó chỉ ra một số tồn tại, hạn chế và các nguyên nhân cơ bản;
- Luận chứng và đƣa ra những kiến nghị tiếp tục hoàn thiện quy định của Bộ
luật hình sự Việt Nam về quyết định hình phạt và các căn cứ quyết định hình phạt
và đề xuất giải pháp nâng cao hiệu quả và chất lƣợng của việc quyết định hình phạt.
4. Cơ sở lý luận và các phương pháp nghiên cứu của luận văn
Luận văn đƣợc thực hiện trên cơ sở phƣơng pháp luận chủ nghĩa duy vật
lịch sử và chủ nghĩa duy vật biện chứng Mác-xít, tƣ tƣởng Hồ Chí Minh về Nhà
nƣớc và pháp luật, quan điểm của Đảng và Nhà nƣớc ta về xây dựng Nhà nƣớc
pháp quyền, về chính sách hình sự, về vấn đề cải cách tƣ pháp đƣợc thể hiện trong
các Nghị quyết Đại hội Đảng XI, XII và các Nghị quyết số 08-NQ/TW ngày
02/01/2002 về “Một số nhiệm vụ trọng tâm công tác tư pháp trong thời gian tới”,
Nghị quyết số 49-NQ/TW ngày 26/5/2005 về “Chiến lược cải cách tư pháp đến
năm 2020” của Bộ Chính trị.
Trong quá trình nghiên cứu đề tài, tác giả luận văn đã sử dụng các phƣơng
pháp đặc thù của khoa học luật hình sự nhƣ: phƣơng pháp phân tích, tổng hợp, so
sánh, thống kê, điều tra xã hội học để tổng hợp các tri thức khoa học và luận chứng
các vấn đề tƣơng ứng đƣợc nghiên cứu trong luận văn.
5. Ý nghĩa lý luận, thực tiễn và điểm mới về khoa học của luận văn
Ý nghĩa lý luận và thực tiễn quan trọng của luận văn là ở chỗ tác giả đã làm
rõ khái niệm, đặc điểm, ý nghĩa và các căn cứ, những nguyên tắc của quyết định
hình phạt; phân tích, đánh giá nội dung quy định của Bộ luật hình sự Việt Nam hiện
7
hành về các căn cứ quyết định hình phạt, đồng thời đƣa ra những kiến nghị hoàn
thiện các quy định này ở khía cạnh lập pháp hình sự và một số giải pháp nâng cao
hiệu quả áp dụng từ khía cạnh thực tiễn.
Bên cạnh đó, về điểm mới về khoa học của luận văn ở một chừng mực nhất
định có thể khẳng định rằng, đây là nghiên cứu chuyên khảo đồng bộ đầu tiên ở cấp
độ một luận văn thạc sĩ đề cập riêng đến các căn cứ quyết định hình phạt trong luật
hình sự Việt Nam. Điều đó càng trở nên quan trọng hơn vì đây là một trƣờng hợp
phức tạp của các căn cứu quyết định hình phạt đòi hỏi phải có nhận thức thống nhất
phục vụ cho thực tiễn xét xử, tránh vi phạm trong việc áp dụng. Đặc biệt, nó còn có
ý nghĩa làm tài liệu tham khảo cần thiết cho các cán bộ nghiên cứu khoa học, cán bộ
giảng dạy, nghiên cứu sinh, học viên cao học và sinh viên thuộc chuyên ngành Tƣ
pháp hình sự.
6. Kết cấu của luận văn
Ngoài phần Đặt vấn đề, Kết luận và Danh mục tài liệu tham khảo, kết cấu
của luận văn gồm 3 chƣơng nhƣ sau:
Chương 1: Những vấn đề chung về các căn cứ quyết định hình phạt theo
Luật hình sự Việt Nam.
Chương 2: Quy định của Bộ luật hình sự Việt Nam và Bộ luật hình sự một số
nƣớc trên thế giới về các căn cứ quyết định hình phạt.
Chương 3: Thực tiễn áp dụng các căn cứ quyết định hình phạt trên địa bàn
tỉnh Hà Giang và những kiến nghị.
8
Chương 1
NHỮNG VẤN ĐỀ CHUNG VỀ CÁC CĂN CỨ QUYẾT ĐỊNH HÌNH
PHẠT TRONG LUẬT HÌNH SỰ VIỆT NAM
1.1. KHÁI NIỆM, Ý NGHĨA VÀ CÁC NGUYÊN TẮC QUYẾT ĐỊNH HÌNH
PHẠT TRONG LUẬT HÌNH SỰ VIỆT NAM
1.1.1. Khái niệm quyết định hình phạt
Pháp luật là đại lƣợng công bằng áp dụng cho những trƣờng hợp khác nhau.
Do đó, pháp luật hình sự quy định những phạm vi chung đối với những ngƣời
không giống nhau trong thực tế. Ttrong phạm vi đó, làm thế nào để đƣa ra một
quyết định công bằng, hợp lý là nhiệm vụ rất quan trọng và đầy trách nhiệm của
những cơ quan và ngƣời áp dụng pháp luật hình sự. Ở đây, việc áp dụng đúng các
quy định của pháp luật hình sự đã đƣợc ban hành liên quan chặt chẽ với việc áp
dụng có căn cứ và đúng đắn các đòi hỏi của các quy phạm pháp luật hình sự với
việc tuân thủ chính xác và nhất quán các quy định của pháp luật với việc xác định
chân lý khách quan của vụ án hình sự.
Lần đầu tiên, khái niệm hình phạt đƣợc quy định trong Điều 26 Bộ luật hình
sự năm 1999, đây là một điểm mới so với Bộ luật hình sự năm 1985. Việc quy định
này không những bảo đảm nhận thức thống nhất về hình phạt trong khoa học, mà còn
có nhiều mục đích khác nhƣ: giáo dục, cải tạo ngƣời phạm tội, bảo đảm tính răn đe và
nghiêm minh của pháp luật hình sự, cũng nhƣ yêu cầu đấu tranh phòng ngừa và chống
tội phạm. Bởi lẽ, đề cập tội phạm chúng ta không thể không nhắc đến hình phạt. Tội
phạm và hình phạt là hai nội dung cơ bản trong luật hình sự của mọi quốc gia. Tội
phạm và hình phạt luôn luôn đi liền với nhau, có nghĩa là giữa tội phạm và hình phạt
luôn luôn có mối quan hệ chặt chẽ với nhau và không tách rời nhau... [18, tr. 93]. Về
nguyên tắc, khi đã thực hiện tội phạm thì phải chịu trách nhiệm hình sự và thông
thƣờng phải chịu hình phạt và ngƣợc lại hình phạt không thể đƣợc áp dụng khi không
có tội phạm xảy ra và cũng không áp dụng đối với ai khác ngoài ngƣời đã phạm tội.
Do đó, đúng nhƣ PGS.TS. Trịnh Quốc Toản đã nhận định:
9
Chừng nào, Nhà nƣớc còn cần đến luật hình sự và hình phạt, thì hình phạt
chỉ đƣợc áp dụng và chỉ cho phép đƣợc áp dụng với tính chất là sự phản ứng Nhà
nƣớc và xã hội đối với tội phạm; nó là sự phủ định công khai, quyết liệt của Nhà
nƣớc, là sự thể hiện không thể dung thứ của Nhà nƣớc và xã hội đối với các hành vi
phạm tội... [35, tr. 37].
Hình phạt là biện pháp cƣỡng chế nhà nƣớc nghiêm khắc nhất đƣợc áp dụng
theo trình tự riêng biệt cho ngƣời phạm tội, bảo đảm cho luật hình sự thực hiện
đƣợc mục đích của mình. Hình phạt với tƣ cách là sự hạn chế, tƣớc bỏ những
quyền, lợi ích quan trọng nhất của ngƣời phạm tội có những tác động nhất định đến
bản thân ngƣời phạm tội cũng nhƣ tác động đến xã hội theo những hƣớng khác nhau
tuỳ thuộc vào việc hình phạt đó đƣợc quyết định thế nào. Luật hình sự đòi hỏi
những tác động đó của hình phạt phải đạt đƣợc những kết quả trực tiếp hay nói cách
khác là đạt đƣợc mục đích của hình phạt.
Về mặt lập pháp, Bộ luật hình sự hiện hành không quy định cụ thể quyết
định hình phạt là gì ? Dƣới góc độ lý luận, quyết định hình phạt là một khái niệm
hiện nay có nhiều quan điểm không giống nhau.
ThS. Đinh Văn Quế đƣa ra định nghĩa mang tính khái quát về quyết định
hình phạt nhƣ sau "Quyết định hình phạt là việc Tòa án lựa chọn hình phạt buộc
người bị kết án phải chấp hành. Tòa án lựa chọn loại hình phạt nào, mức hình phạt
bao nhiêu, phải tuân theo những quy định của Bộ luật hình sự" [27, tr. 3]. Định
nghĩa này đã chỉ ra nội dung quan trọng của quyết định hình phạt là một hoạt động
của Toà án đồng thời đó là việc toà án lựa chọn hình phạt đồng thời chỉ ra căn cứ
pháp lý của quyết định hình phạt đó chính là các quy định của Bộ luật hình sự. Tuy
nhiên, định nghĩa này cho thấy chƣa bao quát đƣợc hết hoạt động quyết định hình
phạt. Bởi lẽ, quyết định hình phạt là một hoạt động khá phức tạp bao gồm nhiều
thao tác ngoài việc lựa chọn loại hình phạt còn xác định mức hình phạt.Bên cạnh
đó, tác giả cho rằng hình phạt áp dụng với “người bị kết án” là chƣa chính xác. Bởi
ngƣời bị kết là ngƣời đã có bản án kết tội của Tòa án.
Trong khi đó, PGS.TS. Lê Văn Đệ thì cho rằng: "Quyết định hình phạt là sự
10
lựa chọn loại hình phạt và xác định mức hình phạt cụ thể trong phạm vi luật định
để áp dụng đối với người phạm tội cụ thể" [9, tr. 161]. Định nghĩa này đã chỉ ra cụ
thể hai thao tác quan trọng khi quyết định hình phạt là xác định loại hình phạt và
xác định mức hình phạt đồng thời chỉ ra tính chất pháp lý của của hoạt động quyết
định hình phạt, đối tƣợng bị áp dụng hình phạt là ngƣời phạm tội cụ thể. Tuy nhiên,
ở đây chƣa cho thấy chủ thể thực hiện hoạt động áp dụng hình phạt là toà án
Cũng có quan điểm tiếp cận khái niệm quyết định hình phạt còn đƣợc tiếp
cận dƣới góc độ của luật tố tụng hình sự. Theo đó:
Quyết định hình phạt là một giai đoạn rất quan trọng trong hoạt động xét xử
của Bộ luật hình sự, là việc Tòa án lựa chọn loại hình phạt và mức hình phạt cụ thể
đƣợc quy định trong luật hình sự tƣơng ứng với cấu thành tội phạm cụ thể để áp
dụng với ngƣời phạm tội, thể hiện trong bản án buộc tội [40, tr. 73].
Trong định nghĩa này coi quyết định hình phạt là một giai đoạn trong hoạt
động xét xử là chƣa chính xác. Bởi lẽ nói đến giai đoạn trong tố tụng cũng nhƣ
trong quá trình xét xử của toà án là nói đến một bƣớc (một khoảng thời gian) độc
lập để chủ thể thực hiện hoạt động tố tụng. Tuy nhiên, trƣớc khi lựa chọn loại hình
phạt và xác định mức hình phạt cụ thể toà án còn phải dựa vào các căn cứ nhƣ tính
chất mức độ nguy hiểm cho xã hội của hành vi, nhân thân bị cáo… Những hoạt
động này đƣợc thực hiện xuyên suốt quá trình xét xử chứ không phải là một giai
đoạn độc lập. Định nghĩa này chỉ ra hình thức của việc quyết định hình phạt đó
chính là bản án của Tòa án. Tuy nhiên, trong tố tụng hình sự thì chỉ có bản án kết
tội chứ không có bản án buộc tội nếu hiểu theo đúng nghĩa của hoạt động buộc tội
trong mối quan hệ với hoạt động gỡ tội, xét xử thì nó thuộc về bên buộc tội thể hiện
bằng cáo trạng của Viện kiểm sát.
Ngoài ra, trong Giáo trình Luật hình sự Việt Nam của Khoa Luật thuộc Đại
học Quốc gia Hà Nội thì "quyết định hình phạt là việc Tòa án lựa chọn loại hình
phạt cụ thể (bao gồm hình phạt chính và có thể cả hình phạt bổ sung) với mức độ cụ
thể trong phạm vi luật định để áp dụng đối với người phạm tội" [20, tr. 317].
Bên cạnh đó, Giáo trình Luật hình sự Việt Nam của Trƣờng Đại học Luật Hà
11
Nội thì định nghĩa: "Quyết định hình phạt là sự lựa chọn loại hình phạt và xác định
mức hình phạt cụ thể trong phạm vi luật định để áp dụng đối với người phạm tội cụ
thể" [36, tr. 211]; v.v...
Do đó, để làm sáng tỏ một cách đầy đủ nội dung của khái niệm quyết định
hình phạt, cần xác định vị trí của quyết định hình phạt trong quá trình áp dụng các
quy phạm pháp luật hình sự.
Trong lý luận luật hình sự, việc áp dụng pháp luật hình sự là một quá trình
phức tạp gồm nhiều mặt đƣợc tiến hành thông qua các giai đoạn nhất định nhƣ: giải
thích quy phạm pháp luật hình sự, xác định hiệu lực của đạo luật hình sự về không
gian và thời gian, định tội danh và quyết định hình phạt, miễn trách nhiệm hình sự
và xoá án tích.
Các quy phạm pháp luật hình sự cấm việc thực hiện các hành vi nguy hiểm
cho xã hội trƣớc hết bằng sự tuân thủ các quy phạm đó. Bằng cách đó, mục đích của
luật hình sự đã đƣợc và nhƣ vậy, quy phạm pháp luật hình sự đƣợc thực hiện đƣợc
chức năng chính, cơ bản của mình
Tuy nhiên, bản chất của các quy phạm pháp luật hình sự không bị hạn chế
bởi việc công bố các điều cấm nhất định. Mọi quy phạm pháp luật đều có tính chất
bắt buộc và cho phép. Quy phạm pháp luật hình sự ngoài việc đƣa ra điều cấm đối
với mọi ngƣời còn xác định cả quyền, nghĩa vụ của toà án trong việc áp dụng quy
phạm pháp luật hình sự, tức là áp dụng hình phạt trong trƣờng hợp một ngƣời thực
hiện hành vi tội phạm. Chức năng thứ hai của quy phạm pháp luật hình sự - quy
định về hình phạt chỉ đƣợc áp dụng trong trƣờng hợp Toà án áp dụng quy phạm
pháp luật hình sự.
Liên quan đến khái niệm quyết định hình phạt trong khoa học pháp lý hiện
nay đang có nhiều quan điểm khác nhau về nội dung của quyết định hình phạt:
Đó là quyết định hình phạt đƣợc hiêu theo nghĩa nghĩa hẹp của khái niệm
quyết định hình phạt, nghĩa rộng của khái niệm quyết định hình phạt. Theo đó,
quyết định hình phạt còn bao gồm cả các hoạt động: xác định ngƣời phạm tội có
đƣợc miễn trách nhiệm hình sự hay miễn hình phạt hay không, xác định khung hình
12
phạt, xác định loại và mức hình phạt cụ thể trong phạm vi khung hình phạt hoặc
dƣới khung đó [14, tr.65 - 66].
Theo PGS.TS. Dƣơng Tuyết Miên trong sách "Định tội danh và quyết định
hình phạt" thì nên coi miễn hình phạt thuộc về giai đoạn quyết định hình phạt:
"Người phạm tội có thể được miễn hình phạt trong trường hợp phạm tội có nhiều
tình tiết giảm nhẹ quy định tại khoản 1 Điều 46 Bộ luật này, đáng được khoan hồng
đặc biệt, nhưng chưa đến mức được miễn trách nhiệm hình sự" [21, tr 62]. Nhƣ vậy, về
nội dung pháp lý thì miễn hình phạt là không buộc ngƣời phạm tội phải chịu hình phạt
tức biện pháp cƣỡng chế nghiêm khắc nhất về tội mà họ đã phạm. Miễn hình phạt phải
thuộc về giai đoạn quyết định hình phạt vì miễn hình phạt đƣợc thực hiện sau khi Tòa
án đã xác định xong tội danh và là bƣớc đầu của quá trình xác định hình phạt.
Tác giả Dƣơng Tuyết Miên cho rằng, đối với trƣờng hợp miễn trách nhiệm
hình sự cũng nên coi thuộc về giai đoạn quyết định hình phạt, bởi những lý do sau:
Miễn trách nhiệm hình sự là không buộc ngƣời phạm tội phải chịu trách
nhiệm hình sự về tội họ đã thực hiện. Miễn trách nhiệm hình sự đƣợc thực hiện sau
khi Tòa án đã xác định xong tội danh cho bị cáo nên không thể thuộc giai đoạn định
tội danh. Trên cơ sở định tội danh bị cáo đã phạm, Tòa án sẽ xem xét, nếu thấy
không cần thiết phải truy cứu trách nhiệm hình sự đối với bị cáo mà vẫn đảm bảo
đƣợc các yêu cầu của cuộc đấu tranh phòng, chống tội phạm thì Tòa án sẽ tuyên bố
miễn trách nhiệm hình sự cho bị cáo [21, tr. 62].
Tác giả chia sẽ với quan điểm coi miễn hình phạt là biện pháp xử lý trách
nhiệm hình sự chỉ do Tòa án tiến hành trên cơ sở những căn cứ, quy định của Bộ
luật hình sự. Miễn hình phạt cũng chỉ đƣợc tiến hành sau khi Tòa án đã định tội
danh xong đối với bị cáo. Vì vậy, cần xác định miễn hình phạt phải thuộc về giai
đoạn quyết định hình phạt.
Còn đối với quan điểm cho rằng miễn trách nhiệm hình sự thuộc về giai đoạn
quyết định hình phạt thì tác giả không đồng ý, bởi lẽ, miễn trách nhiệm hình sự là
một biện pháp xử lý hình sự do nhiều chủ thể có thẩm quyền khác nhau tiến hành,
tùy từng giai đoạn tố tụng khác nhau, nhƣ: Cơ quan điều tra ở giai đoạn điều tra,
13
Viện kiểm sát ở giai đoạn truy tố, hay Tòa án ở giai đoạn xét xử. Nhƣ vậy, ngƣời đã
thực hiện hành vi nguy hiểm cho xã hội có đủ các điều kiện đƣợc miễn trách nhiệm
hình sự thì vẫn đƣợc các cơ quan có thẩm quyền áp dụng các quy định của Bộ luật
hình sự để miễn trách nhiệm hình sự cho ngƣời đó. Hơn nữa, quyết định hình phạt
là hoạt động của Tòa án trong việc áp dụng pháp luật hình sự, do đó nếu cho rằng
miễn trách nhiệm hình sự thuộc về giai đoạn quyết định hình phạt là chƣa chính xác
ở cả khía cạnh nội dung lẫn khía cạnh chủ thể có thẩm quyền quyết định hình phạt.
Một vấn đề nữa mà chúng ta cần làm rõ để hiểu chính xác nội hàm khái
niệm quyết định hình phạt là việc xác định giai đoạn định khung hình phạt có
thuộc về hoạt động quyết định hình phạt hay không? Tác giả cho rằng, cần coi giai
đoạn định khung hình phạt là một trình tự của hoạt động quyết định hình phạt,
thuộc về hoạt động quyết định hình phạt. Bởi vì, định khung hình phạt là việc làm
đƣợc thực hiện sau khi định tội danh xong và là hoạt động đầu tiên xác định giới
hạn tối thiểu và tối đa của hình phạt theo khung hình phạt đƣợc phép áp dụng, trên
cơ sở giới hạn luật định, hình phạt cụ thể sẽ đƣợc quyết định. Mặt khác, việc định
tội danh phải đƣợc thực hiện trên cơ sở cấu thành tội phạm cơ bản chứ không phải
là các cấu thành tội phạm tăng nặng hoặc giảm nhẹ. Chỉ trên cơ sở định tội danh
xong các cơ quan tố tụng mới xác định khung hình phạt, trong trƣờng hợp điều
luật chỉ có một khung hình phạt thì Tòa án đƣơng nhiên không phải xác định
khung hình phạt. Khi định khung hình phạt, Tòa án dựa vào các tình tiết giảm nhẹ
và tăng nặng định khung. Vì vậy, theo tác giả nên coi định khung hình phạt thuộc
về hoạt động quyết định hình phạt.
Từ những sự phân tích trên, kế thừa các quan điểm khoa học, học viên cho
rằng nên định nghĩa khái niệm này nhƣ sau: Quyết định hình phạt là hoạt động thực
tiễn áp dụng pháp luật của Tòa án do Hội đồng xét xử thực hiện, căn cứ vào các
quy định của pháp luật hình sự và dựa trên những nguyên tắc nhất định, được thực
hiện tùy thuộc vào từng trường hợp để xác định loại và mức hình phạt cụ thể áp
dụng cho người phạm tội cụ thể hoặc miễn hình phạt cho người phạm tội theo quy
định của Bộ luật hình sự phù hợp với tính chất, mức độ nguy hiểm cho xã hội của
14
hành vi phạm tội.
Trên cơ sở định nghĩa về quyết định hình phạt, có thể rút ra một số đặc điểm
của cơ bản của hoạt động quyết định hình phạt nhƣ sau:
Một là, quyết định hình phạt là một hoạt động (thực tiễn) áp dụng pháp luật
hình sự của Tòa án sau khi Tòa án đã định tội danh.
Ở đây, quyết định hình phạt tuân thủ theo các nguyên tắc, các yêu cầu cũng
nhƣ các giai đoạn của áp dụng pháp luật nói chung. Tính đặc thù thể hiện ở chủ thể áp
dụng là Toà án. Định tội danh đúng, chuẩn xác không những góp phần quyết định
hình phạt công minh và đúng pháp luật, mà còn phân hóa trách nhiệm hình sự và cá
thể hóa hình phạt chính xác, qua đó bảo vệ các quyền và lợi ích hợp pháp của công
dân trong tƣ pháp hình sự. Ngƣợc lại, nếu định tội danh sai đƣơng nhiên sẽ dẫn đến
một loạt hậu quả tiêu cực nhƣ: không bảo đảm đƣợc tính công minh và đúng pháp
luật của hình phạt do Tòa án quyết định, dẫn đến truy cứu trách nhiệm hình sự ngƣời
không có tội, bỏ lọt ngƣời phạm tội, thậm chí xâm phạm thô bạo đến danh dự, nhân
phẩm, các quyền và tự do của công dân…, làm giảm uy tín và hiệu lực của các cơ
quan bảo vệ pháp luật và Tòa án, giảm hiệu quả của cuộc đấu tranh phòng và chống
tội phạm” [7, tr.17-18]. Do đó, Điều 102 Hiến pháp năm 2013 quy định:
Tòa án là cơ quan xét xử duy nhất ở nƣớc Cộng hòa xã hội chủ nghĩa việt
Nam, tức là chỉ Tòa án mới có quyền tuyên một ngƣời có tội và áp dụng hình phạt
với ngƣời đó. Quyết định hình phạt là hoạt động tƣ duy của các thành viên Hội
đồng xét xử cân nhắc đánh giá tính chất, mức độ nguy hiểm của hành vi phạm tội
cũng nhƣ các yếu tố khác để đƣa ra một quyết định hình phạt phù hợp, áp dụng hình
phạt; nếu áp dụng hình phạt thì phải lựa chọn một hình phạt nào đó thể hiện sự lên
án của nhà nƣớc đối với ngƣời phạm tội [29, Điều 102].
Ngoài ra, để nhận thức và áp dụng một cách thống nhất, chính xác, có hiệu
quả, căn cứ quyết định hình phạt bắt buộc phải đƣợc quy định trong Bộ luật hình sự
và trở thành chuẩn mực chung cho việc quyết định hình phạt đối với mọi trƣờng
hợp phạm tội. Đây là một yêu cầu quan trọng nhằm tránh tình trạng áp dụng một
cách tuỳ tiện và nhằm đảm bảo giải quyết đúng đắn vấn đề trách nhiệm hình sự của
15
ngƣời phạm tội.
Hai là, các căn cứ quyết định hình phạt có tính bắt buộc Hội đồng xét xử
phải tuân thủ để hình phạt được quyết định một cách đúng đắn.
Trong mối quan hệ với quyết định hình phạt, căn cứ quyết định hình phạt
chính là điều kiện tồn tại, là cơ sở pháp lý bảo đảm tính có căn cứ và đúng pháp luật
của hoạt động quyết định hình phạt. Vì vậy, khi quyết định hình phạt, bắt buộc Hội
đồng xét xử phải tuân thủ triệt để các căn cứ đã đƣợc Bộ luật hình sự quy định
nhằm bảo đảm cho hình phạt đƣợc quyết định một cách công bằng, đúng pháp luật,
đáp ứng và phù hợp với đòi hỏi của lợi ích chung.
Thứ ba, yêu cầu tuân thủ đúng căn cứ quyết định hình phạt là điều kiện quan
trọng để hình phạt được tuyên có khả năng đạt được các mục đích của hình phạt ở
mức cao nhất.
Quyết định hình phạt đúng là cơ sở để đạt đƣợc các mục đích của hình phạt.
Điều đó cho thấy việc quyết định hình phạt không phải đƣợc thực hiện một cách
ngẫu nhiên cũng có thể đạt đƣợc các mục đích của hình phạt mà nó phải đƣợc dựa
trên các căn cứ quyết định hình phạt đã đƣợc Bộ luật hình sự quy định. Đến lƣợt
mình, với vị trí là cơ sở pháp lý của hoạt động quyết định hình phạt, chính sự tuân
thủ căn cứ quyết định hình phạt mới đảm bảo cho hình phạt đƣợc quyết định đúng
và quan trọng hơn còn là điều kiện quyết định để hình phạt đó có khả năng đạt đƣợc
các mục đích của hình phạt ở mức cao nhất.
1.1.2. Ý nghĩa của quyết định hình phạt
Quyết định hình phạt đƣợc hiểu là việc Tòa án lựa chọn một loại và mức
hình phạt cụ thể trong phạm vi luật định để áp dụng đối với ngƣời phạm tội.
Quyết định hình phạt là một trong những giai đoạn, một nội dung quan trọng
của quá trình áp dụng luật hình sự. Hiến pháp năm 2013 và Bộ luật hình sự năm
1999 (sau là Bộ luật hình sự năm 2015) đều quy định chỉ có Tòa án mới có quyền
quyết định hình phạt. Theo đó, Tòa án nhân danh Nhà nƣớc, căn cứ vào quy định
của Bộ luật hình sự tuyên bố áp dụng hình phạt đối với ngƣời phạm tội. Điều này
thể hiện sự lên án của Nhà nƣớc đối với ngƣời phạm tội về việc thực hiện tội phạm.
16
Quyết định hình phạt có vai trò vô cùng to lớn, bởi suy cho cùng, các hoạt
động tố tụng hình sự trƣớc đó (từ khởi tố, điều tra, truy tố, kể cả việc tranh tụng
tại phiên tòa) sẽ không có nhiều ý nghĩa nếu Tòa án không làm tốt việc quyết
định hình phạt. Quyết định hình phạt đúng pháp luật, công bằng và hợp lý là tiền
đề, điều kiện để đạt mục đích hình phạt (cải tạo, giáo dục, phòng ngừa chung và
phòng ngừa riêng).
- Quyết định hình phạt đúng là cơ sở pháp lý để đạt đƣợc mục đích của hình
phạt. Nói một cách khác, việc quy định các mục đích của hình phạt phải bảo đảm
để: “thứ nhất, mục đích phản ánh một cách tƣơng xứng các lợi ích của nhân dân,
thứ hai, mục đích đƣợc quy định trong quy phạm pháp luật cần phải phản ánh tính
hiện thực; thứ ba, mục đích cần phải dựa trên những biện pháp mà việc áp dụng nó
đƣợc lập luận về mặt đạo đức...” [44, tr. 221]. Ngoài ra, mục đích của hình phạt là
kết quả mà Nhà nƣớc đặt ra và mong muốn đạt đƣợc khi áp dụng hình phạt đối với
ngƣời phạm tội. Tuy nhiên, mục đích của hình phạt có đạt đƣợc hay không lại phụ
thuộc vào việc quyết định hình phạt của Hội đồng xét xử. Quyết định hình phạt bảo
đảm tính công minh, đúng pháp luật, tƣơng xứng với tính chất, mức độ nguy hiểm
cho xã hội của hành vi phạm tội, nhân thân ngƣời phạm tội là điều kiện bắt buộc để
hình phạt đƣợc tuyên đạt đƣợc mục đích trừng trị và giáo dục, cải tạo ngƣời phạm
tội. Qua đó, hình phạt cũng phát huy tác dụng giáo dục, phòng ngừa chung đối với
các thành viên khác trong xã hội.
- Quyết định hình phạt đúng là cơ sở pháp lý đảm bảo và nâng cao hiệu quả
của hình phạt [21, tr.64]. Hiệu quả của hình phạt phụ thuộc vào nhiều yếu tố nhƣ:
xây dựng pháp luật hình sự; quyết định hình phạt; tổ chức thi hành án và tái hoà
nhập cộng đồng; công tác tuyên truyền, giáo dục pháp luật cho công dân. Trong tất
cả các yếu tố này thì quyết định hình phạt là yếu tố mang tính quyết định, quan
trọng nhất vì suy cho cùng, quyết định hình phạt đúng là cơ sở để đảm bảo cho các
yếu tố còn lại thực sự có ý nghĩa và phát huy đƣợc tác dụng trong thực tiễn.
- Quyết định hình phạt đúng là điều kiện bảo đảm tính khả thi của hệ thống
hình phạt. Trong quyết định hình phạt, việc Hội đồng xét xử lựa chọn đúng loại và
mức hình phạt đối với ngƣời phạm tội, kết hợp đƣợc giữa trừng trị với giáo dục
17
ngƣời phạm tội, phù hợp với hoàn cảnh của ngƣời phạm tội chính là điều kiện bảo
đảm tính khả thi của hệ thống hình phạt trong thực tiễn. Quyết định hình phạt đúng
sẽ làm cho mỗi hình phạt nói riêng và hệ thống hình phạt nói chung thực sự là công
cụ hữu hiệu trong công tác đấu tranh phòng ngừa và chống tội phạm.
- Quyết định hình phạt đúng góp phần bảo đảm pháp chế xã hội chủ nghĩa
trong Nhà nƣớc Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam. Quyết định hình phạt đúng sẽ
tác động đến ý thức của mỗi cá nhân để họ thấy sợ hình phạt mà không dám phạm
tội và quan trọng hơn là nhận thức đƣợc tính nghiêm minh của pháp luật để tự giác
chấp hành pháp luật. Từ đó xác định ý thức và trách nhiệm tham gia tích cực vào
công tác đấu tranh phòng, chống tội phạm, góp phần bảo đảm pháp chế trong Nhà
nƣớc Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam.
1.1.3. Các nguyên tắc quyết định hình phạt
Các nguyên tắc quyết định hình phạt là một trong những vấn đề quan trọng
của của chế định quyết định hình phạt, bởi vì, việc quyết định hình phạt đúng pháp
luật, công bằng và hợp lý tuỳ thuộc vào nhận thức và áp dụng các nguyên tắc đó
trong thực tiễn xét xử. Nghiên cứu các nguyên tắc quyết định hình phạt có ý nghĩa lý
luận và thực tiễn rất lớn. Về mặt lý luận, việc làm sáng tỏ các nguyên tắc quyết định
hình phạt góp phần vào việc nhận thức đƣợc bản chất, nội dung, nguồn gốc, ý nghĩa
của chế định quyết định hình phạt, phân biệt chúng với các căn cứ quyết định hình
phạt, đƣa ra phƣơng án tối ƣu của việc thể hiện chúng trong các quy phạm pháp luật
hình sự. Về mặt thực tiễn, các nguyên tắc đó là quan điểm chỉ đạo, là kim chỉ nam
cho hoạt động của Tòa án khi lựa chọn và quyết định loại, mức hình phạt đối với từng
bị cáo trong từng vụ án cụ thể, là điều kiện cho việc cải tạo và giáo dục ngƣời bị kết
án đƣợc tốt, góp phần vào việc phòng ngừa riêng và phòng ngừa chung.
Các nguyên tắc quyết định hình phạt là những tƣ tƣởng đƣợc thể hiện trong
luật hoặc đƣợc làm sáng tỏ bắt nguồn từ việc giải thích luật. F.Anghen viết: Nguyên
tắc, không phải là đƣợc áp dụng vào thế giới tự nhiên và lịch sử loài ngƣời, mà là
đƣợc rút ra trong giới tự nhiên và lịch sử loài ngƣời; không phải giới tự nhiên và
lịch sử loài ngƣời thích ứng với các nguyên tắc mà trái ngƣợc, nguyên tắc chỉ đúng
18
nếu nó phù hợp với giới tự nhiên và lịch sử [3, tr. 56]. Nhƣ vậy, các nguyên tắc có
tính khách quan, không thể đƣợc đặt ra bởi ý chí chủ quan của ngƣời.
Quyết định hình phạt phải tuân thủ các nguyên tắc sau đây: (i) Nguyên tắc pháp
chế xã hội chủ nghĩa; (ii) Nguyên tắc nhân đạo; (iii) Nguyên tắc cá thể hoá trách nhiệm
hình sự; (iv) Nguyên tắc công bằng [47, tr. 409], [22, tr. 70], [10, tr. 163].
- Nguyên tắc pháp chế
Tƣ tƣởng của nguyên tắc pháp chế thể hiện ở chỗ, khi quyết định hình phạt
đối với ngƣời phạm tội, Tòa án phải tuân thủ nghiêm chỉnh các quy định của luật
hình sự. Đây là nguyên tắc rất quan trọng của quyết định hình phạt bởi lẽ chỉ khi
tuân thủ nguyên tắc này thì mới đảm bảo đƣợc các nguyên tắc khác. Vi phạm
nguyên tắc pháp chế sẽ vi phạm các nguyê tắc khác và dẫn đến quyết định hình phạt
không đúng và sẽ làm mất đi ý nghĩa của quyết định hình phạt. Nội dung của
nguyên tắc này thể hiện ở chỗ, chỉ áp dụng hình phạt đối với hành vi phạm tội đã
đƣợc quy định cụ thể trong luật hình sự. Điều 2 Bộ luật hình sự đã quy định: Chỉ
ngƣời nào phạm một tội đã đƣợc luật này quy định mới phải chịu trách nhiệm hình
sự. Điều này khẳng định cơ sở của trách nhiệm hình sự và áp dụng hình phạt là
hành vi nguy hiểm cho xã hội. Nội dung của nguyên tắc pháp chế còn thể hiện ở
việc quyết định hình phạt là thẩm quyền của Toà án. Tại phiên toà sau khi xét hỏi,
tranh luận Toà án sẽ đánh giá chứng cứ và đi đến kết luận hành vi của bị cáo có cấu
thành tội phạm cụ thể hay không và quyết định một loại và mức hình phạt cụ thể.
Nguyên tắc pháp chế cũng đòi hỏi khi quyết định hình phạt, Tòa án phải tuân thủ
các điều kiện áp dụng các loại hình phạt cụ thể chỉ tuyên những hình phạt đƣợc Bộ
luật hình sự quy định.
Nguyên tắc pháp chế cũng đòi hỏi khi tuyên một hình phạt phải có tính xác
định, có căn cứ và lập luận. Tính xác định của hình phạt trong bản án buộc tội thể hiện
ở chỗ, hình phạt quyết định đối với bị cáo phải cụ thể về loại hình phạt và thời hạn. Về
vấn đề này C. Mác viết: “Nếu như khái niệm phạm tội giả định phải có sự trừng phạt
thì tội phạm thực tế lại giải định phải có mức độ trừng phạt nhất định” [3, tr.169].
Tính có lập luận và căn cứ của bản án đòi hỏi Tòa án phải nghiên cứu kỹ và
19