ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KINH TẾ
--------------------
TRƯƠNG TRỌNG TÙNG
AN TOÀN NỢ CÔNG CỦA VIỆT NAM
Chuyên ngành : Tài chính – Ngân hàng
Mã số: 60 34 02 01
LUẬN VĂN THẠC SĨ TÀI CHÍNH NGÂN HÀNG
NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC:
PGS. TS. ĐÀO VĂN HÙNG
Học Viện Chính Sách Và Phát Triền
Hà Nội – Năm 2015
LỜI CẢM ƠN
Tôi xin gửi lời cảm ơn chân thành đến Chương trình giảng dạy sau đại học
Tài chính – Ngân hàng, các Quý Thầy Cô giáo trường Đại học Kinh tế - Đại học
Quốc Gia Hà Nội đã giúp tôi trang bị kiến thức, tạo môi trường điều kiện thuận
lợi nhất trong suốt quá trình học tập và thực hiện luận văn này.
Với lòng kính trọng và biết ơn, tôi xin bày tỏ lời cảm ơn tới PGS. TS. Đào
Văn Hùng đã khuyến khích, chỉ dẫn tận tình cho tôi trong suốt thời gian thực
hiện công trình nghiên cứu này.
Xin chân thành cảm ơn các tổ chức, cá nhân, doanh nghiệp đã hợp tác
chia sẻ thông tin, cung cấp cho tôi nhiều nguồn tài liệu, tư liệu, hữu ích phục vụ
cho đề tài nghiên cứu.
Tôi xin gửi lời tri ân sâu sắc đến gia đình và những người bạn đã động
viên, hỗ trợ tôi rất nhiều trong suốt quá trình học tập, làm việc và hoàn thành
luận văn.
Chân thành cảm ơn!
Học viên
Trương Trọng Tùng
LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan luận văn này là công trình nghiên cứu của riêng tôi.
Các đoạn trích dẫn, số liệu sử dụng, kết quả nêu trong luận văn là trung
thực, nguồn gốc trích dẫn rõ ràng, có độ chính xác cao nhất trong phạm vi hiểu
biết của tôi và chưa từng được ai công bố trong bất kỳ công trình nào khác.
Hà Nội, ngày … tháng … năm 2015
Học viên
Trương Trọng Tùng
Tóm tắt
Là một quốc gia đang phát triển đang chuyển mình sang nền kinh tế thị
trường, Việt Nam vẫn phải dựa nhiều vào đầu tư công để thực hiện các mục tiêu
phát triển. Theo đánh giá của IMF và WB, mức nợ công của Việt Nam mặc dù
đã vươt ngưỡng tâm lý 50% GDP, song vẫn nằm trong ngưỡng an toàn về trung
hạn. Bên cạnh đó, Quốc hội cũng đã quyết định nâng trần nợ công của Việt Nam
– không quá 65% GDP đến năm 2015. Trong bối cảnh đó, việc đánh giá toàn
diện an toàn nợ công và dự báo nợ công nhằm nhận diện các rủi ro và thách thức
trong việc quản lý nợ công trong tương lai và một việc làm hết sức cần thiết. Do
vậy, công trình nghiên cứu này nhằm đến các mục tiêu sau đây. Trước hết, tác
giả nêu ra cơ sở lý luận về nợ công và an toàn nợ công; tổng hợp xem xét nguyên
nhân, hậu quả và phản ứng chính sách của Chính phủ một số nước trên thế giới
trước các cuộc khủng hoảng nợ công điển hình từ đó rút ra bài học kinh nghiệm
cho Việt Nam. Tiếp theo, đề tài sẽ tập trung phân tích thực trạng an toàn nợ công
của Việt Nam, đánh giá mức độ an toàn của nợ công Việt Nam; nghiên cứu mối
tác động giữa nợ công và các biến số kinh tế vĩ mô quan trọng như: GDP, tỷ giá,
thâm hụt ngân sách… để từ đó nhận diện nguy cơ xảy ra khủng hoảng và tính
bền vững của nợ trong tương lai. Thứ ba, nghiên cứu thực hiện việc dự báo nợ
công Việt Nam trong những năm tiếp theo với những kịch bản kinh tế khác nhau.
Cuối cùng, nghiên cứu sẽ đưa ra một số gợi ý chính sách nhằm nâng cao tính
minh bạch, khả năng giám sát và quản lý nợ công theo hướng an toàn, bền vững
trong tương lai ở Việt Nam.
MỤC LỤC
DANH MỤC CÁC KÝ HIỆU VIẾT TẮT
STT
Ký hiệu viết tắt
Nguyên nghĩa
1
ABD
Ngân hàng phát triển Châu Á
2
BTC
Bộ Tài chính
3
BHXH
Bảo hiểm xã hội
4
BMS
Hệ thống quản lý nợ trong nước
5
CSTT
Chính sách tiền tệ
6
CSTK
Chính sách tài khóa
7
CCTT
Cán cân thanh toán
8
CCTM
Cán cân thương mại
9
CP
Chính phủ
10
CTXDTQ
Công trái xây dựng tổ quốc
11
DNNN
Doanh nghiệp nhà nước
12
DMS
Hệ thống quản lý nợ
13
DMFAS
Hệ thống quản lý nợ nước ngoài
14
DMO
Cơ quan quản lý nợ công
15
FDI
Đầu tư trực tiếp nước ngoài
16
GDP
Tổng sản phẩm quốc nội
17
IMF
Quỹ tiền tệ quốc tế
18
KBNN
Kho bạc Nhà nước
19
KHĐT
Kế hoạch và đầu tư
20
NSNN
Ngân sách Nhà nước
21
NSTW
Ngân sách Trung ương
6
22
NSĐP
Ngân sách địa phương
23
NHNN
Ngân hàng Nhà nước
24
NHTW
Ngân hành Trung ương
25
NHTM
Ngân hàng thương mại
26
NHCSXH
Ngân hàng chính sách xã hội
27
NHPTVN
Ngân hàng phát triển Việt Nam
28
NPV
29
ODA
Viện trợ phát triển chính thức
30
QLN và TCĐN
Quản lý nợ và tài chính đối ngoại
31
TPCP
Trái phiếu Chính phủ
32
TPKB
Tín phiếu Kho bạc
33
TTCK
Thị trường chứng khoán
34
GDCK
Giao dịch chứng khoán
35
UBCKNN
Ủy ban chứng khoán Nhà nước
36
WB
Ngân hàng thế giới
37
WTO
Tổ chức thương mại thế giới
Net Present Value
(Giá trị hiện tại thuần)
7
DANH MỤC BẢNG
Tên bảng
Tran
STT
Bảng
1
Bảng 1.1
Tiêu chí đánh giá mức độ an toàn về nợ của IMF
18
2
Bảng 1.2
Tiêu chí đánh giá mức độ an toàn nợ của WB
19
3
Bảng 1.3
4
Bảng 3.1
5
Bảng 3.2
Tổng trả nợ trong kỳ giai đoạn 2010 - 2013
48
6
Bảng 3.3
Tổng trả nợ trong kỳ giai đoạn 2010 - 2013
50
7
Bảng 3.4
Đánh giá theo các tiêu chí của WB
52
8
Bảng 3.5
9
Bảng 4.1
Nợ công của một số nước khu vực Châu Âu
68
10
Bảng 4.2
Nợ công của một số nước khu vực Châu Á
68
11
Bảng 4.3
Dự báo các chỉ tiêu nợ công giai đoạn 2015 - 2020
70
Mục tiêu quản lý nợ công theo Quyết định
số 958/QĐ-TTg
Cơ cấu nợ trong nước và nước ngoài giai đoạn
2010 – 2013
Chỉ tiêu an toàn nợ của Việt Nam giai đoạn 2010 –
2013 theo Quyết định số 958/QĐ-TTg
8
g
23
46
59
DANH MỤC BIỂU ĐỒ, SƠ ĐỒ
ST
T
Biểu đồ
1
Biểu đồ 3.1
2
Biểu đồ 3.2
3
Biểu đồ 3.3
4
Biểu đồ 3.4
5
Biểu đồ 3.5
6
Biểu đồ 3.6
7
Biểu đồ 3.7
8
Biểu đồ 3.8
9
Biểu đồ 3.9
10
Biểu đồ 3.10
11
Sơ đồ 3.1
12
Sơ đồ 3.2
Tên
Nợ công của Việt Nam giai đoạn 2007 2015
Nợ công của Việt Nam theo The Economist
giai đoạn 2007 - 2015
Cơ cấu nợ/tổng dư nợ công giai đoạn 2010
- 2014
Cơ cấu nợ/GDP giai đoạn 2010 - 2014
Tốc độ gia tăng các khoản nợ công giai
đoạn 2010 – 2014
Cơ cấu nợ trong nước và nợ nước ngoài
giai đoạn 2010 - 2013
Cơ cấu trả nợ gốc, trả lãi và phí trong kỳ
giai đoạn 2010 - 2013
Cơ cấu tổng trả lãi và phí trong kỳ giai
đoạn 2010 – 2013
Tốc độ tăng vay và trả nợ được CP bảo
lãnh giai đoạn 2010 - 2013
Cơ cấu trả nợ gốc, trả lãi và phí trong kỳ
Trang
41
42
43
44
45
47
48
49
51
51
giai đoạn 2010 - 2013
Cơ cấu tổ chức Quản lý nợ công tại Việt
Nam
Mô hình cơ quan Quản lý nợ tại Việt Nam
9
39
40
Phần mở đầu
1.
TÍNH CẤP THIẾT CỦA ĐỀ TÀI NGHIÊN CỨU
Với việc trở thành thành viên WTO, nền kinh tế nước ta đã đổi mới căn
bản cả về thế và lực, đang đứng trước những cơ hội to lớn và triển vọng sáng sủa
hơn bao giờ hết. Đó là sự thay đổi quan trọng của quá trình phát triển, đưa nền
kinh tế nước ta sang một giai đoạn mới, giai đoạn đổi mới và phát triển trong
điều kiện hội nhập kinh tế quốc tế toàn diện và sâu sắc hơn. Hội nhập quốc tế,
chúng ta sẽ có nhiều cơ hội hơn. Nhưng mặt khác, thách thức cũng lớn hơn và
khó khăn tăng lên. Nền kinh tế Việt Nam nói chung và các Doanh nghiệp Việt
Nam nói riêng sẽ phải cạnh tranh với các đối thủ mạnh hơn, trong một môi
trường quốc tế có nhiều biến động, khó dự đoán và có độ rủi ro cao. Trong điều
kiện đó, nếu không có một cơ cấu kinh tế tổng thể và vững chắc, một hệ thống
thể chế vận hành đồng bộ, nền kinh tế sẽ không thể hội nhập thành công, càng
không thể cạnh tranh thắng lợi và phát triển bền vững. Mặt khác, với các mục
tiêu, nhiệm vụ của Nghị Quyết đại hội Đảng lần thứ XI về kế hoạch 5 năm 2011
– 2015 được đề ra trên cơ sở tăng trưởng khá cao: Thực hiện thành công mục
tiêu nâng thu nhập bình quân đầu người giai đoạn 2011 – 2015 vào khoảng 3000
USD, duy trì tốc độ tăng trưởng hàng năm từ 7% - 8%/ năm, khống chế tỷ lệ lạm
phát dưới 2 con số… “Đưa nước ta căn bản trở thành một nước công nghiệp theo
hướng hiện đại vào năm 2020”.
Đối với bất kỳ nền kinh tế nào, muốn tăng trưởng và phát triển được thì
không thể bỏ qua vấn đề vay nợ khu vực công để để phát triển kinh tế - xã hội.
Việc sử dụng các nguồn vốn vay sẽ đem lại những hiệu quả hết sức to lớn, tạo
được những lợi thế của những nền kinh tế đi sau, là sự lựa chọn thông minh để
rút ngắn thời gian tích lũy vốn, nhanh chóng phát triển kinh tế đất nước. Ngược
lại, nếu vay vốn thiếu thận trọng, không có chiến lược chính sách cụ thể, cơ chế
quản lý vốn vay lỏng lẻo, các chỉ tiêu an toàn nợ công không hợp lý. Do đó dẫn
đến tác động là tăng trưởng kinh tế trong nước không bù đắp được đối với các
10
khoản vay nợ, đất nước ngày càng chìm đắm trong cảnh nợ nần, dấn đến khủng
hoảng nợ công.
Nợ công đối với nhiều nước trên thế giới không còn là một vấn đề mới mẻ
nhưng vẫn là một vấn đề hết sức quan trọng. Đặc biệt trong thập niên 90 này, có
thể kể đến các cuộc khủng hoảng nợ công như: Cuộc khủng hoảng nợ của
Mexico vào năm 1994, cuộc khủng hoảng tài chính tiền tệ Châu Á năm 1997,
cuộc khủng hoảng ở Argentina vào năm 2001 – 2002 và gần đây nhất là cuộc
khủng hoảng nợ công bắt đầu từ Hy Lạp sau đó đã lan rộng sang một số quốc gia
thuộc đồng tiền chung Châu Âu. Ở Việt Nam, nợ công hiện nay vẫn đang nằm
trong phạm vi giới hạn được đánh giá là an toàn. Tuy nhiên, những vấn đề đáng
lo ngại về nợ công đang tăng lên do quy mô nợ, lãi suất, nghĩa vụ trả nợ… đang
tăng nhanh. Nếu năm 2006 nợ công so với GDP của Việt Nam là 39.1% GDP thì
đến cuối năm 2013 đã tăng lên 56.2%GDP. Nếu xu hướng này vẫn tiếp tục và
không có các biện pháp quản lý, kiểm soát chặt chẽ, hiệu quả, thì có thể nợ công
trong thời gian tới sẽ trở nên không an toàn.
Với những hậu quả nặng nề về kinh tế xã hội thì vấn đề an toàn nợ công
ngày càng trở lên cấp thiết đối với các nhà hoạch định chính sách của các quốc
gia. Xuất phát từ yêu cầu thực tế và ý nghĩa quan trọng nói trên, để góp phần giải
quyết những mặt hạn chế còn tồn tại, hoàn thiện và nâng cao hiệu quả của công
tác quản lý tài chính nói chung và an toàn nợ công nói riêng em đã chọn đề tài: “
An toàn nợ công của Việt Nam” cho luận văn tốt nghiệp của mình.
2.
TỔNG QUAN TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU
Mặc dù an toàn nợ công ngày càng trở lên cấp thiết đối với các nhà hoạch
định chính sách của các quốc gia nhưng vấn đề này mới chỉ được thảo luận và
nghiên cứu ở nước ta trong vài năm gần đây khi mà thông tin về nợ công được
công bố. Đặc biệt Luật Quản lý nợ công năm 2009 ra đời có ý nghĩa rõ ràng như
một bản “tuyên ngôn” của Việt Nam về sự cấp thiết trong xây dựng và thực hiện
pháp luật về quản lý nợ công. Từ đó cho đến nay, giới học giả mới bắt đầu có cơ
11
hội tiếp cận với các thông tin và số liệu về nợ công ở mức tổng thể. Tuy nhiên ở
Việt Nam chưa có một công trình khoa học nào nghiên cứu một cách hệ thống và
toàn diện về thực trạng an toàn nợ công, dự báo mức nợ công trong thời gian tới
và đề xuất các biện pháp khắc phục khi khủng hoảng nợ công xảy ra. Một số
công trình nghiên cứu khoa học và một số tài liệu tham khảo chuyền tải được
những vấn đề về học thuật và thực tiễn liên quan đến nợ công, mức an toàn nợ
công nhưng còn rời rạc chưa nhất quán. Các nghiên cứu về nội dung này có thể
kể đến:
Báo cáo thường niên kinh tế Việt Nam năm 2011 của Trung tâm Nghiên
cứu và Chính sách (VEPR) – Trường Đại học Kinh tế, Đại học Quốc gia Hà Nội
chương 6: “Nợ công của Việt Nam – rủi ro và thách thức”, tác giả Phạm Thế
Anh đưa ra những thống kê về thu và chi ngân sách để từ đó đánh giá thực trạng
nợ công, đặc biệt là nợ nước ngoài của Việt Nam trong những năm gần đây. Với
việc áp dụng mô hình toán kinh tế và kinh tế lượng tác giả phân tích và đưa ra
một vài dự báo đối với Việt Nam giai đoạn 2017 – 2020.
Bài nghiên cứu số 28 của VEPR: “Khủng hoảng nợ công tại một số nền
kinh tế trên thế giới – nguyên nhân, diễn biến, hậu quả, biện pháp khác phục và
những hàm ý chính sách cho Việt Nam”, tác giả Vũ Minh Long đã tổng hợp lý
thuyết cũng những diễn biến và phản ứng chính sách thực tế từ các cuộc khủng
hoảng nợ lớn nhất trong lịch sử cũng như cuộc khủng hoảng nợ công Châu Âu
gần đây nhằm đưa ra một cái nhìn toàn cảnh về khủng hoảng nợ công. Bên cạnh
việc phân tích thực trạng, đánh giá về tình hình cũng như rủi ro nợ công của Việt
Nam bài nghiên cứu đưa ra một số gợi ý chính sách giúp cải thiện tình hình nợ
công nhằm trách khủng hoảng nợ công mà Việt Nam có thể gặp phải trong thời
gian sắp tới.
Báo cáo nghiên cứu RS – 05 của Ủy ban Kinh tế của Quốc hội và UNDP
tại Việt Nam: “Nợ công và tính bền vững ở Việt Nam: Quá khứ, hiện tại và
tương lai”, nhóm tác giả Phạm Thế Anh đã tổng hợp xem xét nguyên nhân, hậu
12
quả và phản ứng chính sách của Chính phủ các nước trên thế giới trước các
khủng hoảng nợ công, tập trung phân tích những tác động tiêu cực làm nợ công
tăng nhanh của các biến số vĩ mô quan trọng như thâm hụt tài khóa, tăng trưởng
kinh tế, lạm phát, lãi suất, tỉ giá, thâm hụt thương mại…Từ đó đánh giá rủi ro và
tính bền vững để nhận diện nguy cơ xảy ra khủng hoảng của nợ công Việt Nam
hiện nay. Bài nghiên cứu cũng đưa ra một số gợi ý chính sách nhằm nâng cao
tính minh bạch, khả năng giám sát và quản lý nợ công theo hướng bền vững
trong tương lai ở Việt Nam.
Nghiên cứu khoa học của Đỗ Đình Thu (2007) với đề tài: “Giải pháp tăng
cường quản lý vay và trả nợ Chính phủ Việt Nam trong điều kiện hiện nay” đã
làm rõ nội dung cơ chế quản lý, thực trạng vay và trả nợ của Chính phủ. Tuy
nhiên, đề tài chưa đề cập đến nợ công bao gồm nợ trong nước và nợ nước ngoài
cũng như chưa đề cập đến an toàn nợ công của Việt Nam.
Công trình nghiên cứu của Nguyễn Thị Thanh Hương (2008) luận án tiến
sĩ với đề tài: “Tăng cường quản lý vay nợ nước ngoài ở Việt Nam”, đưa ra nội
dung về quản lý vay nợ nước ngoài, sử dụng mô hình Jaim De Pinies để đánh giá
độ bền vững nợ nước ngoài cũng như đưa ra các giải pháp tăng cường quản lý
vay nợ nước ngoài ở Việt Nam. Tuy nhiên, đề tài này chỉ dừng lại về đánh giá
mức độ bền vững đối với khoản nợ nước ngoài chứ chưa đề cập đến khoản nợ
trong nước và độ bền vững của nợ công nói chung.
Với đề tài: “Vấn đề nợ công tại các nước phát triển và tác động đến nền
kinh tế Việt Nam” trong công trình nghiên cứu khoa học cấp Bộ, chủ biên là TS.
Nguyễn Đức Độ, TS. Nguyễn Minh Tâm và nhóm tác giả (2010) đã làm rõ nội
dung về nợ công cũng như chỉ rõ tác động của nợ công đến các biến số kinh tế vĩ
mô và ảnh hưởng khủng hoảng nợ công của các nước phát triển đến nền kinh tế
Việt Nam. Mặc dù vậy, đề tài chưa đi sâu nghiên cứu mức an toàn của nợ công
cũng như dự báo về khủng hoảng nợ công trong điều kiện nền kinh tế có nhiều
biến động như hiện nay của Việt Nam.
13
Cho đến hiện nay chưa có một công trình khoa học nào nghiên cứu một
cách toàn diện về nợ công, an toàn nợ công của Việt Nam. Các đề tài trước chỉ
dừng lại nghiên cứu từng khía cạnh, biến số kinh tế vĩ mô tác động đến nợ
công… Nhưng với tình hình nợ công đang gia tăng nhanh như hiện nay đòi hỏi
phải có cách đánh giá hợp lý, cơ chế quản lý phù hợp, dự báo và giải pháp đúng
đắn để nợ công của Việt Nam không nằm ngoài kiểm soát và xảy ra khủng
hoảng. Chính vì vậy, đề tài: “An toàn nợ công của Việt Nam” được phát triển
nhằm bổ sung cho các phần nghiên cứu trước cũng như cung cấp cho mọi người
một cách nhìn nhận khác về toàn cảnh an toàn nợ công của Việt Nam.
3.
CÂU HỎI NGHIÊN CỨU
Đề tài này nhằm trả lời 4 câu hỏi chính như sau :
Cơ sở lý luận của vấn đề nợ công và an toàn nợ công là gì?
Thực trạng vấn đề an toàn nợ công ở Việt Nam trong giai đoạn 2011 đến 2014
như thế nào?
Xu hướng nợ công của Việt Nam trong thời gian tới sẽ ra sao ?
Cần có giải pháp gì để đảm bảo an toàn nợ công ở Việt Nam trong giai đoạn sắp
tới?
4. MỤC ĐÍCH VÀ NHIỆM VỤ NGHIÊN CỨU
Luận văn tập trung nghiên cứu cơ sở lý luận về nợ công, đặc biệt tập trung
nghiên cứu nội dung cơ bản của an toàn nợ công.
Phân tích, đánh giá tình hình nợ công của Việt Nam, qua đó nhằm mục
tiêu đánh giá thực trạng về an toàn nợ công của Việt Nam.
Dự báo xu hướng an toàn nợ công của Việt Nam trong những năm tới.
Đề xuất các giải pháp mang tính chiến lược và giải pháp cụ thể, đồng thời
nêu kiến nghị nhằm thực hiện mục tiêu an toàn nợ công của Việt Nam.
5.
ĐỐI TƯỢNG VÀ PHẠM VI NGHIÊN CỨU
Đối tượng nghiên cứu: Luận văn tập trung nghiên cứu cơ sở lý luận về nợ
công và an toàn nợ công.
Phạm vi nghiên cứu: Đề tài tập trung nghiên cứu về nợ công và thực trạng
an toàn nợ công của Việt Nam trong giai đoạn từ 2011 – 2014.
14
6.
PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
Để thực hiện mục đích nghiên cứu của đề tài, em vận dụng các phương
pháp phổ biến trong nghiên cứu kinh tế như: duy vật biện chứng, phương pháp
chuyên gia, so sánh, các phương pháp định tính nhằm luận giải những vấn đề
nghiên cứu. Đặc biệt luận văn kết hợp các phương pháp mô hình toán, chú trọng
đến phương pháp phân tích định lượng thông qua việc sử dụng hàm hồi quy, các
công cụ đồ thị, biểu đồ để chứng minh luận cứ của luận văn.
Dữ liệu phục vụ cho việc phân tích, đánh giá bao gồm các văn bản chế độ
ngành tài chính, tài liệu hội thảo. Nguồn số liệu được sử dụng đảm bảo độ tin
cậy và phù hợp với phương pháp mà luận văn sử dụng.
7.
KẾT CẤU CỦA LUẬN VĂN
Ngoài phần mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo, luận văn
được kết cấu thành 4 chương:
Chương 1. Cơ sở lý luận về nợ công và an toàn nợ công
Chương 2. Phương pháp nghiên cứu
Chương 3. Phân tích an toàn nợ công của Việt Nam trong giai đoạn hiện
nay.
Chương 4. Kết luận, dự báo xu hướng và khuyến nghị.
Chương 1
CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ NỢ CÔNG VÀ AN TOÀN NỢ CÔNG
1.1.
Cơ sở lý luận về nợ công
15
1.1.1.
Khái niệm nợ công
Khái niệm nợ công cũng như những đánh giá về nợ công không chỉ là mối
quan tâm ở Việt Nam hiện nay mà còn là chủ đề “nóng” của nhiều Chính phủ và
các cơ quan quản lý nhà nước trên thế giới. Việc thống nhất đưa ra một khái niệm
chuẩn về Nợ công còn tùy thuộc vào mục đích nghiên cứu của từng tổ chức cũng
như thực tiễn hoạt động quản lý nợ công của mỗi quốc gia. Ở Việt Nam khái niệm
nợ công mới được sử dụng từ năm 2009 sau khi có Luật Quản lý Nợ công. Tuy
nhiên, cách tiếp cận khái niệm nợ công còn nhiều sự khác nhau giữa Việt Nam và
một số tổ chức quốc tế khác.
Theo từ điển Bách khoa toàn thư mở Wikipedia, ‘‘Nợ công hay nợ Chính
phủ là số tiền nợ của Chính phủ trung ương, Chính phủ liên bang và chính quyền
địa phương ’’. Theo cách hiểu này, nợ công được coi là nợ của Chính phủ nhưng
chưa phản ánh đầy đủ trách nhiệm chi trả khoản nợ công. Một số ý kiến khác
cho rằng, nợ công ngoài các khoản nợ của Chính phủ cần đưa thêm các khoản nợ
của một số chủ thể khác thuộc đơn vị công.
Theo sổ tay hệ thống báo cáo nợ của Ngân hàng thế giới : ‘‘Nợ công là
toàn bộ những khoản nợ của Chính phủ và những khoản nợ được Chính phủ bảo
lãnh’’. Trong đó:
Nợ của Chính phủ là toàn bộ các khoản nợ trong nước và nước ngoài của Chính
phủ và các đại lý của Chính phủ ; các tỉnh, thành phố hoặc các tổ chức chính trị
trực thuộc Chính phủ và các đại lý của các tổ chức này ; các DNNN.
Nợ của Chính phủ bảo lãnh là toàn bộ nghĩa vụ trả nợ đối với những khoản nợ
trong nước và nước ngoài của khu vực tư nhân do Chính phủ bảo lãnh.
Theo quan điểm của Quỹ tiền tệ quốc tế : ‘‘Nợ công được bao gồm nợ của
khu vực tài chính công và nợ khu vực phi tài chính công’’. Trong đó :
Nợ của khu vực tài chính công gồm : Nợ của các tổ chức tiền tệ (NHTW, các tổ
chức tín dụng Nhà nước) và nợ của các tổ chức phi tiền tệ (các tổ chức tín dụng
không cho vay mà chỉ có chức năng hỗ trợ phát triển).
16
Nợ của các tổ chức phi tài chính công như : Nợ của Chính phủ, tỉnh, thành phố,
tổ chức chính quyền địa phương, các doanh nghiệp phi tài chính Nhà nước.
Theo quan điểm của hai tổ chức trên coi nợ công không chỉ bao gồm nợ
của Chính phủ mà còn bao gồm các khoản nợ được CP kiểm soát hay các khoản
nợ CP liên đới chịu trách nhiệm. Quan điểm của hai tổ chức này có sự tương
đồng quan điểm về nợ công và xác định phạm vi nợ công là tương đối rộng bao
gồm cả nợ của DNNN và nợ của NHTW…
Đối với Việt Nam, trước khi có Luật quản lý nợ công, chưa thống nhất sử
dụng thuật ngữ nợ công mà tập trung vào quản lý các khoản nợ của CP. Khi luật
quản lý nợ côngcó hiệu lực thi hành, nợ công được phân định rõ ràng, bao gồm
các khoản nợ sau :
Nợ Chính phủ:Là khoản nợ phát sinh từ các khoản vay trong nước, nước ngoài,
được ký kết, phát hành nhân danh Nhà nước, nhân danh Chính phủ hoặc các
khoản vay khác do Bộ Tài chính ký kết, phát hành, uỷ quyền phát hành theo quy
định của pháp luật. Nợ chính phủ không bao gồm khoản nợ do Ngân hàng Nhà
nước Việt Nam phát hành nhằm thực hiện chính sách tiền tệ trong từng thời kỳ.
Nợ được Chính phủ bảo lãnh:Là khoản nợ của doanh nghiệp, tổ chức tài chính,
tín dụng vay trong nước, nước ngoài được Chính phủ bảo lãnh.
Nợ chính quyền địa phương: Là khoản nợ do Ủy ban nhân dân tỉnh, thành phố
trực thuộc trung ương (sau đây gọi chung là Ủy ban nhân dân cấp tỉnh) ký kết,
phát hành hoặc uỷ quyền phát hành.
Theo Luật quản lý nợ công của Việt Nam phạm vi nợ công của nước ta
hiện nay hẹp hơn so với các tổ chức quốc tế. Nợ công không bao gồm nợ của
DNNN, nợ của các đơn vị sự nghiệp, nợ của NHTW. Chính vì vậy các số liệu
thống kê về nợ công do CP Việt Nam công bố thường có sự khác biệt so với số
liệu thống kê của các tổ chức quốc tế. Theo quan niệm về nợ công của Việt Nam
trước mắt phù hợp với hoàn cảnh lịch sử của đất nước nhưng khi Việt Nam tham
gia vào các hoạt động kinh tế trong thế giới hội nhập, khái niệm nợ công của
Việt Nam hiện nay rất khó để đưa ra so sánh và đánh giá với quốc tế.
17
1.1.2.
Phân loại nợ công
Xuất phát từ những tiêu thức khác nhau, nợ công được chia thành nhiều
loại khác nhau nhằm thuận tiện cho việc nghiên cứu, đánh giá cũng như quản lý
nợ công. Phân loại nợ công có thể xuất phát từ một số tiêu thức sau :
1.1.2.1.
1.1.2.2.
Phân loại nợ nước ngoài theo người đi vay
Nợ Chính phủ
Nợ được Chính phủ bảo lãnh
Nợ chính quyền địa phương
Căn cứ vào kỳ hạn nợ bao gồm
Nợ ngắn hạn : Là những khoản nợ có thời hạn 1 năm hoặc ngắn hơn. Thời hạn
nợ được xác định trên cơ sở thời hạn nợ ban đầu hoặc trên thời hạn nợ còn lại.
Khoản nợ này chủ yếu để đáp ứng nhu cầu bù đắp thiếu hụt Ngân sách tạm thời.
Nợ trung và dài hạn : Là những khoản nợ thời hạn thanh toán từ 1 năm trở lên.
Khoản nợ này nhằm phục vụ nhu cầu đầu tư phát triển kinh tế.
Ý nghĩa của cách phân loại này sẽ tạo điều kiện thuận lợi cho việc quản lý
khả năng thanh toán các khoản vay nhằm xác định thời điểm phải thanh toán gốc
và lãi trong tương lai để đưa ra các giải pháp bố trí trả nợ phù hợp.
1.1.2.3.
Căn cứ vào vị trí địa lý
Nợ trong nước : Bao gồm các khoản vay từ các chủ thể trong nước, chủ yếu CP
phát hành các công cụ nợ để vay từ các chủ thể trong nước.
Nợ nước ngoài : Bao gồm các khoản vay từ các chủ thể ngoài nước như : Kí kết
hiệp định vay nợ với CP hay các tổ chức tài chính, tiền tệ nước ngoài ; khoản
vay thương mại từ chủ thể nước ngoài.
Ý nghĩa của các phân loại này giúp đánh giá chính xác hơn tác động của
việc thay đổi yếu tố kinh tế trong nước và nước ngoài đến quy mô, khả năng
thanh toán khoản nợ đến hạn.
1.1.2.4.
Căn cứ vào lãi suất vay
Nợ có lãi suất cố định : Là những khoản nợ mà chi phí về tiền lãi không liên kết
với các chỉ số tham chiếu, không bị phụ thuộc vào sự biến động của thị trường.
Nợ có lãi suất thả nổi : Là những khoản vay mà chi phí về tiền lãi của nó kết nối
với một chỉ số tham chiếu ví dụ như LIBOR (lãi suất liên ngân hàng của thị
18
trường Luân Đôn), thường thay đổi theo thời gian do sự thay đổi của các điều
kiện thị trường.
Ý nghĩa của cách phân loại này sẽ giúp cho các nhà quản lý nợ điều hành
danh mục nợ dựa trên các dự báo về biến động lãi suất. Qua đó quản lý rủi ro lãi
suất đối với các khoản nợ có lãi suất thả nổi và các khoản nợ có lãi suất cố định
khi có sự biến động lãi suất và khi phát hành khoản nợ mới.
1.1.2.5.
Căn cứ vào loại tiền vay
Nợ bằng đồng nội tệ : Là những khoản nợ được vay bằng chính đồng nội tệ của
quốc gia đó.
Nợ bằng ngoại tệ : Là những khoản nợ được vay bằng các đồng ngoại tệ, có thể
vay từ các chủ thể trong nước hoặc nước ngoài.
Việc phân loại này giúp cho các nhà quản lý nợ cân đối và bố trí nguồn vốn
thanh toán trả nợ phù hợp xác định và phòng ngừa rủi ro khi có biến động tỷ giá hối
đoái.
1.1.3.
1.1.3.1.
Tác động của nợ công đến kinh tế - xã hội
Tác động tích cực
Nợ công đáp ứng nhu cầu vốn đầu tư đảm bảo an sinh xã hội : Trước yêu
cầu đẩy nhanh tốc độ tăng trưởng kinh tế - xã hội, nhu cầu đầu tư vốn là rất cần
thiết, đặc biệt với các nước đang phát triển, trong khi nguồn vốn của khu vực tư
nhân và dân cư thường phân tán và phụ thuộc vào thu nhập cũng như chi tiêu của
các hộ gia đình. Hơn nữa, đầu tư vào các dự án kết cấu hạ tầng kinh tế, an ninh
quốc phòng, an sinh xã hội… đòi hỏi lượng vốn lớn và cần có sự tham gia của
khu vực công. Chính vì vậy, CP các nước cần huy động nguồn lực lớn để đầu tư
phát triển kinh tế, những khoản vay của CP đã tạo thêm nguồn lực cần thiết để
thúc đẩy sản xuất trong nước và tạo điều kiện thúc đẩy sự phát triển của các
thành phần kinh tế ; đồng thời, thực hiện các chương trình phúc lợi lớn của Nhà
nước. Đặc biệt, đối với những khoản vay nước ngoài là nguồn tài trợ bổ sung
19
chủ yếu cho đầu tư phát triển kinh tế - xã hội của các nước trong giai đoạn đầu tư
của quá trình phát triển mà không làm thoái lui đầu tư tư nhân khi CP đầu tư lớn.
Nợ công góp phần huy động vốn cho bù đắp bội chi Ngân sách Nhà
nước : Bội chi NSNN ngày càng có xu hướng gia tăng trong quá trình phát triển
kinh tế, để bù đắp bội chi NSNN là một vấn đề lớn và cực kỳ khó khăn vì phải
giải quyết một mối quan hệ giữa duy trì phát triển bền vững với nguồn lực có
hạn. Để giải quyết mối quan hệ này, đòi hỏi phải đưa ra mức bội chi hợp lý và
cách bù đắp thích hợp. Có nhiều cách để bù đặp bội chi NSNN như tăng thuế,
giảm chi tiêu, in tiền, vay nợ… Trong đó, vay nợ là cách được các quốc gia đang
lựa chọn vì đáp ứng kịp thời thiếu hụt NSNN, trong khi việc tăng thu, giảm chi
đòi hỏi khoảng thời gian dài, cũng như phải thực hiện đồng bộ nhiều chính sách,
in tiền sẽ gây ra ảnh hưởng lớn đối với nền kinh tế. Chính vì vậy, thông qua vay
nợ sẽ góp phần bù đắp kịp thời bội chi NSNN trong khi các nguồn khác chưa kịp
đáp ứng.
Thông qua vay nợ tạo ra công cụ để điều hòa CSTT và điều tiết thị trường
tài chính : CP các nước sử dụng nhiều hình thức vay mượn khác nhau, trong đó
việc phát hành TPCP đã góp phần quan trọng tạo thêm công cụ để ổn định và
điều hòa lưu thông tiền tệ. Cụ thể, đối với NHTW là người tổ chức và điều hành
CSTT sẽ sử dụng việc mua bán TPCP trên thị trường để điều tiết lượng tiền cung
ứng thông qua nghiệp vụ thị trường mở. Qua đó, tạo tính thanh khoản cho TPCP
cũng như hỗ trợ thanh khoản cho các NHTM ; đồng thời, các NHTM sử dụng
việc mua bán TPCP để giải quyết tình trạng thừa hoặc thiếu vốn trong thanh toán
cũng tạo thêm tính thanh khoản cho TPCP. Bên cạnh đó, thị trường trái phiếu
cũng làm nơi tạo ra mức lãi suất dài hạn chuẩn cho thị trường tài chính góp phần
giúp Nhà nước điều tiết tốt hơn đối với thị trường này, trong đó giúp cho các chủ
thể có mức lãi suất tham chiếu chuẩn khi thực hiện đầu tư trên thị trường.
Góp phần tích cực thúc đấy quá trình hội nhập kinh tế quốc tế : Đối với
những khoản nợ nước ngoài sẽ tạo điều kiện cho các quốc gia vay nợ tiếp cận
20
được nguồn vốn bên ngoài mà không làm giảm đầu tư hay tiêu dùng trong nước.
Hơn nữa, khi tiếp cận với nguồn vốn bên ngoài đòi hỏi sự nỗ lực mạnh mẽ việc
cải cách trong tương lai về thể chế, môi trường kinh doanh, cơ sở hạ tầng… của
các nước vay nợ. Ngoài ra, các nước vay nợ có thể tiệm cận đối với máy móc,
thiết bị, chuyển giao công nghệ và các kỹ năng quản lý mới. Điều này tạo điều
kiện thuận lợi và cơ hội nhiều hơn để hội nhập sâu rộng vào nền kinh tế thế giới.
1.1.3.2.
Tác động tiêu cực
Nợ công có thể tác động đến sự tăng trưởng kinh tế và ổn định môi trường
kinh tế vĩ mô : Trong trường hợp thâm hụt NSNN được tài trợ bằng nguồn vốn
vay trong nước sẽ đẩy mặt bằng lãi suất lên cao, kết quả làm tăng chi phí đầu tư,
giảm nhu cầu đầu tư của nền kinh tế và có thể dẫn đến : ‘‘hiệu ứng thoái lui đâu
từ ’’. Qua đó khiến cho tiết kiệm tụt giảm kéo theo tăng trưởng kinh tế sụt giảm.
Trong trường hợp thâm hụt NSNN được tài trợ bằng nguồn vay nước ngoài, tác
động thoái lui đầu tư có thể được hạn chế do giảm căng thẳng về lãi suất. Tuy
nhiên, vay nước ngoài lại có thể gây ra sự bất ổn tỷ giá, từ đó, khiến cho hoạt
động đầu tư bị sụt giảm, điều này tác động làm suy giảm kinh tế cùng vơi sự gia
tăng lãi suất trong nước. Bên cạnh đó, những hậu quả về kinh tế cùng với việc lệ
thuộc quá nhiều vào các khoản nợ nước ngoài cũng sẽ làm giảm vị thế chính trị
quốc gia. Qua đó, phải chịu áp lực to lớn từ phía các chủ nợ và các tổ chức tài
chính quốc tế cũng như sức ép về thắt chặt chi tiêu, tăng thuế khóa, giảm trợ cấp
xã hội và đi xa hơn nữa là những yêu cầu về cải cách thể chế, thay đổi bộ máy
quản lý, thay đổi các định hướng kinh tế… từ đó ảnh hưởng đến ổn định môi
trường kinh tế vĩ mô.
Nợ công tác động làm tăng lãi suất làm tạo áp lực gây ra lạm phát : Khi
CP vay từ công chúng thông qua phát hành công cụ nợ sẽ có xu hướng đẩy mặt
bằng lãi suất tăng lên do cầu về vốn của CP trên thị trường tăng lên với cung về
vốn không thay đổi. Gia tăng lãi suất sẽ gây áp lực cho CSTT mở rộng và trong
ngắn hạn, lãi suất danh nghĩa không tăng mạnh, thậm trí có thể giảm, nhưng
21
trong dài hạn cả lạm phát và lãi suất danh nghĩa cũng tăng theo cùng với sự gia
tăng cung tiền. Hơn nữa, nếu CSTT được mở rộng để tài trợ cho các khoản chi
tiêu tất yếu là lạm phát xảy ra.
Nợ công tác động đến tỷ giả và thâm hụt thương mại : Trong ngắn hạn,
khi vay nợ nước ngoài khiến dòng ngoại tệ chảy vào trong nước sẽ gây sức ép
lên cân đối ngoại tệ đó là có thể gây tăng giá đồng nội tệ. Khi nội tệ tăng giá so
với đồng ngoại tệ sẽ khuyến khích nhập khẩu và có nguy cơ làm giảm xuất khẩu
ròng. Điều này khiến cho tình trạng nhập siêu ngày càng gia tăng và đây là một
trong những nguyên nhân dẫn tới thâm hụt thương mại tăng mạnh. Trong trung
và dài hạn, việc CP phải cân đối nguồn ngoại tệ trả nợ gốc và lãi sẽ đẩy nhu cầu
ngoại tệ tăng cao. Do đó, tỷ giá có tăng cao sẽ làm chi phí thanh toán nợ trở nên
đắt đỏ hơn, càng làm tăng nguy cơ vỡ nợ nếu như quy mô nợ vượt quá sức chịu
đựng của NSNN. Việc tăng chi tiêu CP dẫn tới thâm hụt NSNN, nợ công tăng và
nhập siêu cùng một lúc được coi là tình trạng ‘‘thâm hụt kép’’. Hiện tượng này
cũng xảy ra ở một số nước Châu Á những năm 1990 khi NSNN rơi vào tình
trạng thâm hụt và nợ công cao, đồng thời chịu thâm hụt thương mại.
Nợ công quá lớn tiềm ẩn gây ra cuộc khủng hoảng nợ : Khi nợ công quá
cao tức là CP đi vay nhiều hơn khiến mặt bằng lãi suất có xu hướng tăng lên
cùng với lạm phát cao, điều này khiến cho đồng nội tệ tăng giá. Vì thế, nhập siêu
tăng do nhu cầu nhập khẩu tăng do khi nội tệ tăng giá sẽ khuyến khích nhập
khẩu và cản trở xuất khẩu. Tuy nhiên, lạm phát cao lại khiến cho đồng nội tệ mất
giá, trong chế độ tỷ giá hối đoán cố định, nguy cơ bị mất giá của đồng nội tệ dẫn
tới dự trữ ngoại tệ trong nước giảm mạnh. Với tình trạng này cứ tiếp diễn lâu
dài, khi nguồn dự trữ ngoại tệ cạn kiệt, buộc CP phải phá giá tiền tệ hay nói cách
khác đây chính là nguyên nhân gây ra cuộc khủng hoảng tiền tệ. Hơn nữa khi các
khoản nợ tính bằng ngoại tệ hoặc các khoản nợ do người nước ngoài nắm giữ
cùng với lòng tin của các chủ nợ đối với khả năng trả nợ của CP giảm sút. Khi
có nhu cầu về ngoại tệ lớn, các nhà đầu tư rút vốn ngay, khi đó nhiều khoản vay
22
nước ngoài rơi vào tình trạng mất khả năng thanh toán. Nguy cơ lúc này không
chỉ dừng lại ở cuộc khủng hoảng tiền tệ hay khủng hoảng tài chính nữa mà có
khả năng đẩy toàn bộ nền kinh tế rơi vào khủng hoảng nợ công và những hệ lụy
khó lường. Hiện tượng này xảy ra với các nước liên minh Châu Âu trong những
năm 2010.
Tạo gánh nặng nợ công lên thế hệ tương lai : Có thể nhận thấy rằng, các
khoản nợ công, đặc biệt là nợ nước ngoài được sử dụng để tài trợ cho chi tiêu
hiện tại nhưng chắc chắn thế hệ tương lai sẽ phải chi trả vì mức độ tiêu dùng của
họ bị giảm bằng khoản tiền vay cộng với lãi tích lũy. Sự sụt giảm thu nhập
nguyên nhân là do thế hệ tương lai buộc phải đóng thuế cao hơn để trả lãi cho
các khoản nợ và giảm trợ cấp của CP. Thế hệ tương lai cũng phải chịu đựng sự
sụt giảm về chất lượng cuộc sống do những hệ quả của nợ công gây ra như lãi
suất tăng, đầu tư tư nhân giảm, tốc độ tăng trưởng kinh tế chậm, cơ hội việc làm
cũng như thu nhập của dân cư giảm.
1.2.
An toàn nợ công
1.2.1. Quan niệm chung về an toàn nợ công của một quốc gia
An toàn của việc vay nợ công (tính bền vững của nợ) là khái niệm được
các tổ chức quốc tế như IMF, WB hay UNCTAD, các cơ quan quản lý nợ của
các nước cho vay và đi vay, và các chuyên gia nói đến nhiều trong thời gian gần
đây. Một định nghĩa về tính bền vững của nợ được Cơ quan Phát triển Quốc tế
(IDA) (thuộc Ngân hàng Thế giới) và Quỹ tiền tệ Quốc tế sử dụng là :
‘‘Tính bền vững nợ là khái niệm dùng để chỉ trạng thái nợ của một quốc
gia tại đó nước vay nợ có khả năng đáp ứng các nghĩa vụ trả nợ - cả vốn gốc lẫn
lãi – một cách đầy đủ, không phải nhờ đến biện pháp miễn giảm hoặc cơ cấu lại
nợ nào, cũng như không bị tình trạng tích tụ các khoản nợ chậm trả, đồng thời
vẫn cho phép nền kinh tế đạt một tỷ lệ tăng trưởng chấp nhận được’’.
Mở rộng ra, khái niệm an toàn nợ công : ‘‘ An toàn nợ công được hiểu là
việc vay nợ công vẫn được quốc gia đảm bảo trả nợ gốc và lãi theo định kỳ như
23
trong cam kết hợp đồng vay trả và việc trả nợ nằm trong tầm kiểm soát chi trả
của một quốc gia’’.
Để việc vay nợ công không dẫn đến những xáo trộn kinh tế vĩ mô, có thể
đảm bảo trả nợ, nói cách khác là để đảm an toàn nợ công trong dài hạn, có ba
lĩnh vực chính cần phải xem xét :
-
Năng lực trả nợ hiện có của nền kinh tế : Mức thu nhập chung của nền kinh tế,
-
thu nhập bằng ngoại tệ và thu ngân sách.
Mức nợ (gánh nặng nợ) của một quốc gia tại thời điểm xem xét và kỳ hạn phải
-
trả.
Tốc độ tăng của nợ công trong những năm sắp tới, bao gồm cả cơ cấu và kỳ hạn
nợ.
1.2.2.
1.2.2.1.
Đánh giá an toàn nợ công
Đánh giá an toàn nợ công qua các ngưỡng chuẩn của IMF
Theo quan điểm của IMF thì tiêu chí đánh giá an toàn nợ công đối với các
quốc gia có thu nhập thấp dựa vào hiện giá thuần của nợ và dịch vụ nợ (nghĩa vụ
trả nợ), một chính sách nợ yếu đồng nghĩa an toàn về nợ và một chính sách nợ
mạnh đồng nghĩa kém an toàn về nợ.
Bảng 1.1. Tiêu chí đánh giá mức độ an toàn về nợ của IMF
Gánh nặng nợ theo tiêu chí DSF
NPV của nợ (%)
Dịch vụ nợ (%)
Thu ngân
Xuất khẩu
GDP
Thu ngân
Xuất khẩu
sách
sách
An toàn
100
30
200
15
20
Trung bình
150
40
250
20
25
Mạnh
200
50
300
25
30
24
(Nguồn : IMF)
Giá trị hiện tại ròng (NPV) của tổng nợ là giá trị tính bằng đồng tiền hiện
tại của dòng tiền trả nợ (bao gồm vốn gốc và nợ lãi) phải trả trong tương lai.
Tỷ lệ NPV của nợ/xuất khẩu : đo lường hiện giá thuần của nợ liên quan
đến khả năng trả nợ của quốc gia từ nguồn thu xuất khẩu.
Tỷ lệ NPV của nợ/thu NSNN : đo lường hiện giá thuần của nợ liên quan
đến khả năng trả nợ của quốc gia lấy từ nguồn thu NSNN. Tuy nhiên chỉ tiêu thứ
hai chỉ được sử dụng nếu như đáp ứng đáp ứng hai điều kiện :
i.
ii.
Tỷ lệ xuất khẩu/GDP ≥ 30%
Tỷ lệ thu NSNN/GDP ≥ 15%
Một quốc gia được xem là an toàn nếu như NPV/xuất khẩu ˂ 150% ; NPV
nợ/thu NSNN ˂250%.
Tỷ lệ GDP của nợ/GDP : đo lường hiện giá thuần của nợ trên tổng thu
nhập quốc nội.
Dịch vụ nợ/xuất khẩu và dịch vụ nợ/thu NSNN : là những chỉ tiêu đo
lường tính lỏng được WB và IMF đưa vào để đánh giá mức độ bền vững của nợ
công. Dịch vụ nợ/xuất khẩu đo lường khả năng thanh toán dịch vụ nợ từ nguồn
thu xuất khẩu còn dịch vụ nợ/thu NSNN đo lường khả năng thanh toán dịch vụ
nợ từ nguồn thu NSNN. Một quốc gia đảm bảo tính lỏng thì dịch vụ nợ/xuất
khẩu ˂ 15% và dịch vụ nợ/thu NSNN ˂ 10%.
1.2.2.2.
Đánh giá an toàn nợ công qua các ngưỡng chuẩn của WB
Bảng 1.2. Tiêu chí đánh giá mức độ nợ của WB
Chỉ số
1
Tổng số nợ/GDP
Mức nợ trầm
trọng
≥ 50%
25
Khó khăn
Bình thường
30 – 50%
≤ 30%