Tải bản đầy đủ (.doc) (92 trang)

Một số biện pháp thúc đẩy chuyển dịch cơ cấu lao động theo đúng hướng, đảm bảo sự phát triển bền vững tại đồng bằng sông Hồng

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (698.34 KB, 92 trang )

LỜI MỞ ĐẦU

1. Lý do chọn đề tài:
Việt Nam đang trong những năm tăng tốc của quá trình Công nghiệp hóa Hiện
đại hóa để đạt mục tiêu đến năm 2020: về cơ bản nước ta trở thành một nước công
nghiệp. Trong khi đó, cơ cấu kinh tế của nước ta hiện vẫn là Nông nghiệp- Công
nghiệp – Dịch vụ. Để đạt được mục tiêu trở thành một nước công nghiệp phát triển
thì nhiệm vụ cấp bách nhất hiện nay là phải đẩy nhanh quá trình chuyển dịch cơ cấu
kinh tế theo hướng công nghiệp hóa- hiện đại hóa. Mà cơ cấu lao động và cơ cấu
kinh tế lại có mối liên hệ mật thiết với nhau. Để chuyển dịch cơ cấu kinh tế thành
công nhất thiết phải có sự chuyển dịch cơ cấu lao động phù hợp. Do đó vấn đề
chuyển dịch cơ cấu lao động để đẩy nhanh chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo đúng
hướng là một vấn đề quan trọng và cần được nghiên cứu trong giai đoạn hiện nay.
Đồng bằng sông Hồng là khu vực đông dân nhất hiện nay của cả nước. Khu
vực này có mật độ dân số cao với sức ép về việc làm gay gắt. Vùng Đồng bằng sông
Hồng có khu vực kinh tế trọng điểm Bắc Bộ, đặc biệt là thủ đô Hà Nội- trung tâm
kinh tế - văn hóa – chính trị - xã hội của cả nước. Do đó việc chuyển dịch cơ cấu lao
động của Đồng bằng sông Hồng là hết sức quan trọng, có vai trò như đầu tàu cho sự
chuyển dịch cơ cấu lao động của cả nước.Vì những lý do trên em đã chọn lựa đề tài:
“Một số biện pháp thúc đẩy chuyển dịch cơ cấu lao động theo đúng hướng, đảm bảo sự
phát triển bền vững tại đồng bằng sông Hồng”.
2. Mục tiêu đạt được của đề tài:
Thông qua đánh giá thực trạng chuyển dịch cơ cấu lao động vùng Đồng bằng
sông Hồng, phân tích quá trình chuyển dịch cơ cấu lao động trong thời gian qua để
đề ra được một số biện pháp thúc đẩy chuyển dịch cơ cấu lao động theo đúng
hướng, đảm bảo sự phát triển bền vững.


3. Phương pháp nghiên cứu:
Chuyên đề này có áp dụng phương pháp nghiên cứu duy vật biện chứng và
lịch sử để phân tích và nhìn nhận vấn đề.


Ngoài ra, phương pháp phân tích chuỗi số liệu theo thời gian cũng được sử
dụng để thấy được xu hướng và tốc độ của quá trình chuyển dịch cơ cấu lao động.
Trong chuyên đề này tập trung nghiên cứu vào sự chuyển dịch cơ cấu lao động
theo ngành trong khu vực Đồng bằng sông Hồng trong khoảng thời kỳ 2000 -2008.
Từ đó đưa ra một số định hướng cho việc chuyển dịch nhanh và hiệu quả cho thời
kỳ 2011-2015.
4. Chuyên đề gồm có 3 phần là
CHƯƠNG I : CƠ SỞ LÝ LUẬN CỦA CHUYỂN DỊCH CƠ CẤU LAO ĐỘNG.
CHƯƠNG II: THỰC TRẠNG CHUYỂN DỊCH CƠ CẤU LAO ĐỘNG
VÙNG ĐBSH THỜI GIAN QUA.
CHƯƠNG III: ĐỊNH HƯỚNG VÀ GIẢI PHÁP CHUYỂN DỊCH CƠ CẤU
LAO ĐỘNG VÙNG ĐBSH THỜI KỲ 2011 – 2015.
Do thời gian nghiên cứu còn ngắn và hiểu biết của bản thân còn thiếu sót nên
bài làm của em không tránh khỏi những sai sót nhất định. Em rất mong nhận được
sự ủng hộ của các thầy cô và bạn bè cho bài làm của mình.
Em xin chân thành cảm ơn thầy giáo PGS.TS Lê Huy Đức cũng như các anh
chị làm việc tại Vụ Lao động – Văn hóa – Xã hội (thuộc Bộ Kế hoạch và Đầu tư)đã
tận tình chỉ bảo và giúp đỡ em trong suốt quá trình nghiên cứu và hoàn thiện chuyên
đề này.


CHƯƠNG I: CƠ SỞ LÝ LUẬN CỦA CHUYỂN DỊCH CƠ
CẤU LAO ĐỘNG
1.1 Một số khái niệm chung.
1.1.1 Lao động
Lao động là hoạt động có mục đích của con người. Lao động là hành động
diễn ra giữa con người và giới tự nhiên. Trong quá trình lao động, con người vận
dụng sức tiềm tàng trong thân thể mình, sử dụng công cụ lao động để tác động vào
giới tự nhiên, chiếm lấy những vật chất trong tự nhiên, biến đổi những vật chất đó,
làm cho chúng trở nên có ích cho đời sống của mình.

Định nghĩa về lao động đã đề cập đến 2 khía cạnh chủ yếu: thứ nhất xem lao
động là hoạt động, là phương thức tồn tại của con người; thứ hai, xem lao động là
chính bản thân con người, là sự nỗ lực vật chất và tinh thần của con người dưới
dạng hoạt động tạo ra những sản phẩm vật chất và tinh thần để thỏa mãn những yêu
cầu của con người. Dựa vào quan niệm lao động là hoạt động xã hội, người ta phân
biệt 5 yếu tố cơ bản tạo nên cấu trúc của lao động: đối tượng lao động, mục đích lao
động, công cụ lao động, điều kiện lao động và chủ thể lao động. Trong đó chủ thể
lao động là con người với tất cả những đặc điểm tâm sinh lý xã hội được hình thành
và phát triển trong quá trình xã hội hóa cá nhân. Đối với mỗi dạng hoạt động lao
động đòi hỏi ở mỗi cá nhân một tri thức kỹ năng kỹ xảo nhất định.
Trên cơ sở đó, lao động được quan niệm như là chính bản thân con người với
tất cả sự nỗ lực vật chất tinh thần của nó, thông qua hoạt động lao động của mình,
sử dụng các công cụ lao động tác động đến đối tượng lao động để đạt được mục
đích nhất định.
1.1.2 Lực lượng lao động
Dân số của một quốc gia bao gồm dân số trong độ tuổi lao động và dân số
ngoài độ tuổi lao động. Theo Luật lao động Việt Nam thì tuổi lao động là độ tuổi từ


15 đến hết 60 (đối với nam) và 55 (đối với nữ).
Dân số trong độ tuổi lao động lại được chia làm hai bộ phận là dân số hoạt
động kinh tế và dân số không hoạt động kinh tế. Dân số hoạt động kinh tế là những
người trong độ tuổi lao động, đang có việc làm, hoặc có nhu cầu và nỗ lực tìm kiếm
việc làm. Dân số không hoạt động bao gồm những người còn lại trong độ tuổi lao
động mà không thuộc nhóm dân số hoạt động kinh tế. Nhóm dân số này bao gồm :
những người không có khả năng làm việc do ốm đau, tàn tật, mất sức kéo dài;
những người nội trợ cho gia đình và không được trả công; học sinh, sinh viên trong
độ tuổi lao động; và những người không hoạt động kinh tế vì những lí do khác.
Dân số hoạt động kinh tế của mỗi quốc gia, mỗi địa phương có thể bao gồm cả
những người ngoài độ tuổi lao động, song phần lớn vẫn là những người trong độ

tuổi lao động. Do đó, đối tượng nghiên cứu chính của những nhà kế hoạch nghiên
cứu về lao động việc làm vẫn là bộ phận dân số hoạt động kinh tế trong độ tuổi lao
động. Đó chính là lực lượng lao động.
Như vậy, LLLĐ (Lực lượng lao động) của một quốc gia hay một địa phương
là bộ phận dân số trong độ tuổi lao động, có khả năng tham gia lao động, có mong
muốn lao động, đang có việc làm hoặc đang tìm việc làm. LLLĐ bao gồm những
người có việc làm và những người chưa có việc làm nhưng đang tìm việc làm (gọi
là những người thất nghiệp).
1.1.3 Cơ cấu lực lượng lao động
Cơ cấu lao động có thể hiểu là một phạm trù kinh tế tổng hợp, thể hiện tỷ lệ
của từng bộ phận lao động nào đó chiếm trong tổng số, hoặc thể hiện sự so sánh của
bộ phận lao động này so với bộ phận lao động khác.
Cơ cấu lao động thường được dùng phổ biến là: Cơ cấu lao động phân theo
thành thị, nông thôn; Cơ cấu lao động chia theo giới tính, độ tuổi; Cơ cấu lao động
chia theo vùng kinh tế; Cơ cấu lao động chia theo ngành kinh tế; Cơ cấu lao động
chia theo trình độ văn hoá, chuyên môn kỹ thuật; Cơ cấu lao động chia theo trình độ
có việc làm, thất nghiệp ở thành thị; Cơ cấu lao động chia theo thành phần kinh tế.


Xét dưới góc độ phân công sản xuất ta có cơ cấu lao động theo ngành. Theo
đó, cơ cấu lực lượng lao động theo ngành kinh tế là mối quan hệ tỷ lệ giữa số lượng
lao động trong từng ngành kinh tế với tống số lao động của một địa phương, vùng
lãnh thổ hoặc quốc gia. Các quan hệ tỷ lệ được hình thành trong những điều kiện kinh
tế - xã hội nhất định, chúng luôn vận động và hướng vào những mục tiêu cụ thể.
Cơ cấu lực lượng lao động theo ngành bao gồm 3 ngành chính là Nông nghiệp
– Công nghiệp – Dịch vụ. Ngoài ra còn có thể phân chia thành 19 tiểu ngành theo
hệ thống tài khoản quốc gia.
1.1.4 Chuyển dịch cơ cấu lao động
Trước hết, hiểu theo nghĩa rộng chuyển dịch cơ cấu lao động là việc chuyển
cơ cấu lao động từ trạng thái này sang trạng thái khác, mà trạng thái ấy được quyết

định bởi các bộ phận hợp thành và quan hệ tỷ lệ giữa các bộ phận ấy.
Nội dung của chuyển dịch cơ cấu là cải tạo cơ cấu cũ lạc hậu hoặc chưa phù
hợp để xây dựng cơ cấu mới tiên tiến, hoàn thiện và bổ sung cơ cấu cũ nhằm biến
cơ cấu cũ thành cơ cấu mới hiện đại và phù hợp với mục tiêu kinh tế- xã hội đã xác
định cho từng thời kỳ phát triển. Cơ cấu mới hình thành đến một lúc nào đó cũng
trở nên lỗi thời lạc hậu và lại cần được thay thế bằng một cơ cấu mới. Quá trình
thay thế đó được lặp đi lặp lại không ngừng theo thời gian.
Thực chất của chuyển dịch cơ cấu lao động theo ngành chính là sự tăng giảm
của lao động trong từng ngành trong một không gian và thời gian nào đó. Lực lượng
lao động hàng năm tăng hay giảm là do sự cân bằng giữa sự bổ sung của lực lượng
lao động trẻ mới gia nhập và sự sụt giảm lao động do về hưu, chết hay nguyên nhân
khác. Sự tăng giảm này sẽ ảnh hưởng trực tiếp đến số lượng lao động của từng
ngành. Tuy nhiên, sự thay đổi cơ cấu lao động không đơn giản như vậy. Sự dịch
chuyển ở đây phải được hiểu là có một bộ phận lao động trong ngành này sẽ rời bỏ
ngành và gia nhập vào lực lượng lao động của ngành khác. Điều này sẽ trực tiếp
ảnh hưởng đến tỷ lệ tương quan giữa lao động các ngành với nhau.


Ngoài ra, quá trình chuyển dịch cơ cấu lao động không chỉ làm thay đổi số
lượng lao động mà còn làm thay đổi cả chất lượng lao động, vì sự chuyển dịch lao
động thường đi kèm với đào tạo mới và đào tạo lại lao động.
1.1.5 Cơ cấu kinh tế
Trước hết, cơ cấu ngành kinh tế hiểu theo một nghĩa chung nhất chính là một
tổng thể các ngành trong nền kinh tế quốc dân được hợp thành theo một quan hệ tỉ
lệ về lượng, thể hiện mối quan hệ giữa các ngành và trình độ phát triển của nền kinh tế.
Dưới các giác độ khác nhau, cơ cấu kinh tế được phân thành nhiều loại: cơ
cấu ngành, cơ cấu vùng, cơ cấu thành phần kinh tế, cơ cấu đối ngoại, cơ cấu tích
lũy. Dĩ nhiên, cơ cấu kinh tế theo ngành thì sẽ có mối quan hệ mật thiết với cơ cấu
lao động theo ngành.
1.1.6 Chuyển dịch cơ cấu kinh tế

Cũng giống như chuyển dịch cơ cấu lao động đã đề cập ở trên, ta có thể hiểu
chuyển dịch cơ cấu kinh tế là việc chuyển cơ cấu kinh tế từ trạng thái này sang
trạng thái khác, mà trạng thái ấy được quyết định bởi các bộ phận hợp thành và kiểu
kết cấu. Mỗi trạng thái được thể hiện trước hết qua tỷ trọng của mỗi bộ phận cấu
thành nên hệ thống, rồi thể hiện qua tính vững chắc của hệ thống và chất lượng phát
triển của hệ thống kinh tế.
Thực chất của chuyển dịch cơ cấu kinh tế là sự phát triển không đều giữa các
ngành. Ngành có tốc độ phát triển cao hơn tốc độ phát triển chung của nền kinh tế
thì sẽ tăng tỷ trọng và ngược lại, ngành có tốc độ thấp hơn sẽ giảm tỷ trọng. Nếu tất
cả các ngành có cùng một tốc độ tăng trưởng thì tỷ trọng các ngành sẽ không đổi,
nghĩa là không có chuyển dịch cơ cấu ngành.
1.1.7 Mối quan hệ giữa chuyển dịch cơ cấu lao động và chuyển dịch cơ cấu kinh tế.
Chuyển dịch cơ cấu lao động và chuyển dịch cơ cấu kinh tế là hai vấn đề có
mối quan hệ mật thiết, tác động qua lại lẫn nhau. Cái này vừa là tiền đề cho cái kia,
lại vừa là kết quả có được từ cái kia.


Trước hết, cơ cấu lao động phải được chuyển dịch tuỳ theo sự chuyển dịch của
cơ cấu kinh tế, phục vụ và đáp ứng cho chuyển dịch của cơ cấu kinh tế. Chuyển
dịch cơ cấu kinh tế đóng vai trò như đầu tàu, dẫn dắt chuyển dịch cơ cấu lao động.
Các chủ trương, chính sách chuyển dịch cơ cấu kinh tế sẽ quyết định ngành nào
tăng về tỷ trọng đóng góp trong GDP và tỷ trọng ngành nào giảm. Như một kết quả
tất yếu, một ngành phát triển thì sẽ kéo theo nhu cầu về lao động của ngành đó sẽ
tăng lên. Do đó, chuyển dịch cơ cấu kinh tế là một định hướng cho chuyển dịch cơ
cấu lao động.
Mặt khác, khi cơ cấu lao động được chuyển dịch thuận lợi, lại tạo điều kiện
cho chuyển dịch cơ cấu kinh tế diễn ra nhanh chóng và đòi hỏi phải chuyển dịch
nhanh cơ cấu kinh tế. Lao động, hay cụ thể hơn là nguồn nhân lực, là yếu tố then
chốt, đóng vai trò quyết định tới sự phát triển của nền sản xuất hàng hóa. Do đó,
chuyển dịch cơ cấu lao động là điều kiện tiên quyết cho chuyển dịch cơ cấu kinh tế

thành công.
Bởi thế nên khi xem xét quá trình chuyển dịch cơ cấu lao động của một vùng,
một địa phương, nhất thiết phải đặt nó trong mối quan hệ với chuyển dịch cơ cấu
kinh tế, coi chuyển dịch cơ cấu kinh tế như một trong những tiêu chí để đánh giá
hiệu quả chuyển dịch cơ cấu lao động.
1.2 Các nhân tố ảnh hưởng đến chuyển dịch cơ cấu lao động
1.2.1 Các nhân tố khách quan
1.2.1.1 Sự phát triển của khoa học và công nghệ
Trong thời đại ngày nay, khoa học và công nghệ đã được coi là một nhân tố
tham gia tích cực vào quá trình sản xuất. Đối với chuyển dịch cơ cấu lao động, khoa
học công nghệ cũng có những tác động theo hướng sau:
Trước hết, sự phát triển của khoa học công nghệ sẽ dẫn đến sự ra đời của các
ngành mới. Theo đó cầu về lao động trong những ngành này cũng xuất hiện và gia
tăng nhanh chóng.


Mặt khác, sự phát triển khoa học công nghệ cũng tất yếu dẫn đến tăng nhu cầu
về lao động có trình độ và đào thải một số lượng người lao động không có trình độ
cao. Với sự trợ giúp của máy móc hiện đại, các dây chuyền sản xuất hàng loạt,
người ta có xu hướng tuyển các lao động có tay nghề kỹ thuật cao. Đó là một yếu tố
thúc đẩy chuyển dịch cơ cấu lao động theo hướng gia tăng lao động kỹ thuật.
1.2.1.2 Sự đòi hỏi của nền kinh tế thị trường
Kể từ đại hội Đảng toàn quốc lần thứ VI, Đảng và Nhà nước ta đã xác định
con đường mà chúng ta hướng tới là một nền kinh tế thị trường định hướng xã hội
chủ nghĩa có sự điều tiết của nhà nước. Phát triển nền kinh tế thị trường định hướng
xã hội chủ nghĩa đòi hỏi những quan hệ kinh tế được điều tiết bởi quan hệ cung –
cầu, và lao động cũng không phải là trường hợp ngoại lệ. Thị trường lao động là nơi
diễn ra các hoạt động mua bán sức lao động, là nơi giá hàng hóa sức lao động được
hình thành.
Ngoài ra, nền kinh tế thị trường phát triển sẽ dẫn đến những ngành còn phù

hợp , được thị trường chấp nhận sẽ tồn tại đồng thời các ngành nghề đã lỗi thời, lạc
hậu sẽ bị đào thải. Theo đó, lao động trong các ngành này cũng sẽ dịch chuyển sang
các ngành nghề khác.
1.2.1.3 Xu thế toàn cầu hóa kinh tế thế giới
Mở cửa và hội nhập kinh tế là xu thế tất yếu hiện nay, cơ cấu kinh tế thay đổi
tích cực theo hướng mở cửa và hội nhập kinh tế quốc tế. Tỷ lệ giá trị kim ngạch
xuất khẩu so với GDP ngày càng tăng. Điều đó có nghĩa hệ số mở cửa ngày càng lớn.
Mở cửa và hội nhập kinh tế quốc tế tạo điều kiện thúc đẩy thương mại phát
triển. Nhiều sản phẩm hàng hóa có điều kiện thâm nhập thị trường và xác định được
vị thế trên thị trường thế giới, biến lợi thế so sánh thành lợi thế cạnh tranh. Chính
việc tiêu thụ được sản phẩm trên thị trường thế giới, phát huy được lợi thế so sánh
và nâng cao được khả năng cạnh tranh của sản phẩm đã tạo thu nhập cho người lao
động, đồng thời có điều kiện đầu tư trở lại để hạ giá thành, duy trì và phát huy khả
năng cạnh tranh của sản phẩm và nền kinh tế. Việc phát triển các ngành, các sản


phẩm có lợi thế cạnh tranh thu hút và giải quyết việc làm cho người lao động cả
tham gia trực tiếp và gián tiếp vào các khâu, các công đoạn trong chuỗi giá trị sản
phẩm toàn cầu, qua đó làm thay đổi cơ cấu lao động .
1.2.2 Các nhân tố chủ quan
1.2.2.1 Các chính sách của Nhà nước.
Chính sách của Nhà nước có ảnh hưởng to lớn đối với sự phát triển của tổng
thể nền kinh tế nói chung và đối với sự chuyển dịch cơ cấu lao động nói riêng. Có
rất nhiều chính sách của Nhà nước có liên quan và có ảnh hưởng đến việc chuyển
dịch cơ cấu lao động như: chính sách đầu tư phát triển cơ sở hạ tầng, chính sách đầu tư
trực tiếp cho các ngành, chính sách đào tạo nguồn nhân lực và chính sách di dân…
Ngoài ra, các chính sách, chủ trương của Nhà nước về chuyển dịch cơ cấu
kinh tế cũng sẽ ảnh hưởng đến sự thay đổi trong chuyển dịch cơ cấu lao động.
1.2.2.2 Quy mô và số lượng cơ sở đào tạo nghề.
Nhân tố này tác động trực tiếp đến sự tăng trưởng của đội ngũ lao động thuộc

mọi ngành nghề. Các cơ sở đào tạo và dạy nghề là đầu mối quan trọng cung cấp
nguồn cung lao động cho mọi ngành nghề. Đây cũng là nơi mà cung và cầu lao
động có sự gặp gỡ ban đầu. Một mặt, với sự yêu cầu, đòi hỏi của thị trường tất sẽ
dẫn đến lượng cầu đào tạo một ngành nghề nào đó tăng lên. Mặt khác, lượng lao
động đã qua đào tạo quay trở lại là một nguồn cung mới cho thị trường lao động.
Do đó, quy mô và số lượng cơ sở đào tạo nghề đóng vai trò quan trọng trong sự
tăng trưởng của lực lượng lao động thuộc mọi ngành nghề.
1.2.2.3 Định hướng nghề nghiệp của người lao động.
Nhân tố này tác động đến lựa chọn nghề nghiệp của người lao động. Nó chịu
sự chi phối của hai nhân tố trên. Xã hội với nòng cốt là gia đình đóng vai trò quan
trọng trong việc định hướng nghề nghiệp cho giới trẻ. Ngay từ khi còn ngồi trên ghế
nhà trường, các em học sinh đã phần nào được định hướng nghề nghiệp tương lai,
thông qua sở thích, sự hướng dẫn, khuyên bảo của thầy cô và gia đình. Đến khi


bước vào các trường đào tạo và dạy nghề, các em mới được cung cấp các kiến thức
và kỹ năng cần thiết, để có thể trở thành những người lao động chính phục vụ cho
gia đình và đất nước.
Bên cạnh đó, các chính sách của Nhà nước về tiền lương, chế độ bảo hiểm thất
nghiệp… cũng tác động không nhỏ tới mong muốn và nhu cầu làm việc của người
lao động.
1.3 Các chỉ tiêu đánh giá chuyển dịch cơ cấu lao động
1.3.1 Về tốc độ chuyển dịch
Quy mô và tốc độ gia tăng lao động trong các ngành: chỉ tiêu về quy mô lao
động cho biết số lượng lao động trong các ngành của một địa phương, vùng hay cả
nước tại từng thời điểm cụ thể. Thông qua đây có thể xác định được tốc độ gia tăng
qua từng năm. Từ hai chỉ tiêu này có thể thấy được sự biến đổi số lượng và tỷ trọng
lao động của các ngành thay đổi như thế nào qua từng thời kỳ.
Ngoài ra, cũng có thể áp dụng phương pháp vector để đánh giá trình độ
chuyển dịch cơ cấu lao động. Để lượng hóa mức độ chuyển dịch cơ cấu kinh tế giữa

hai thời điểm



ta sử dụng công thức công thức sau:

Cos φ=

Trong đó:

là tỷ trọng ngành i tại thời điểm t.
Φ được coi là góc hợp bởi hai vector cơ cấu S( ) và S( ). Khi đó,

Cos φ càng lớn thì các cơ cấu càng gần nhau, cho thấy một sự chuyển dịch chưa
nhanh và hiệu quả. Ngược lại, nếu Cos φ càng nhỏ thì các cơ cấu càng xa nhau, cho


thấy sự chuyển dịch đã nhanh và hiệu quả. Để đánh giá một cách trực giác sự

chuyển dịch có thể sử dụng tỷ số

để phản ánh tỷ lệ chuyển dịch cơ cấu.

1.3.2 Về tính phù hợp
- Cơ cấu lao động theo ngành: chỉ tiêu này cho biết số lượng lao động của
từng ngành chiếm bao nhiêu phần trăm trong tổng số lao động toàn địa phương,
vùng hay cả nước tại một thời điểm cụ thể.
- Cơ cấu kinh tế theo ngành(theo GDP): chỉ tiêu này cho biết tỷ trọng đóng
góp của từng ngành trong GDP của địa phương, vùng hay cả nước trong một
khoảng thời gian cụ thể.

Qua hai chỉ tiêu trên có thể đánh giá được sự phù hợp của chuyển dịch cơ cấu
lao động so với cơ cấu kinh tế.
1.3.3 Về tính hiệu quả
Các chỉ tiêu để đánh giá hiệu quả của quá trình chuyển dịch cơ cấu lao động là
các chỉ tiêu về năng suất, tăng thu nhập và cải thiện mức sống của dân cư, tình hình
giải quyết vấn đề về môi trường…như là:
- Năng suất lao động theo ngành: chỉ tiêu này cho biết giá trị sản xuất do mỗi
người lao động tạo ra trong một ngành nhất định. Nó cho ta biết hiệu quả hoạt động
của ngành đó. Nếu cơ cấu lao động được chuyển dịch theo đúng hướng thì năng
suất lao động sẽ tăng.
- GDP/lao động: cho thấy sự đóng góp của một lao động vào trong GDP. Một
sự chuyển dịch cơ cấu lao động hợp lý tất yếu sẽ dẫn đến sự cải thiện đời sống của
người lao động, thể hiện gián tiếp qua sự gia tăng của GDP/lao động.


-GDP/người: một lao động ngoài việc nuôi sống bản thân còn phải nuôi sống
cả gia đình mình ( cha mẹ, con cái, vợ chồng…). Do đó, hiệu quả của chuyển dịch
cơ cấu lao động không thể chỉ xét đến thu nhập của lao động đó mà còn phải quan
tâm đến thu nhập đầu người có được cải thiện hay không.

1.4 Sự cần thiết phải chuyển dịch cơ cấu lao động
Trước hết, chuyển dịch cơ cấu lao động góp phần thúc đẩy chuyển dịch cơ cấu
kinh tế theo hướng công nghiệp hóa- hiện đại hóa. Như đã trình bày ở trên, cơ cấu
lao động và cơ cấu kinh tế có mối quan hệ mật thiết với nhau. Chuyển dịch cơ cấu
lao động theo hướng gia tăng lao động có tay nghề kỹ thuật cao sẽ góp phần chuyển
dịch cơ cấu kinh tế theo hướng công nghiệp hóa – hiện đại hóa.
Ngoài ra, chuyển dịch cơ cấu lao động để giảm sức ép về việc làm, giảm sức
ép về dòng di cư từ nông thôn ra thành thị. Dân số gia tăng nhanh sẽ gây sức ép lớn
về nhiều mặt, trong đó quan trọng nhất là việc làm. Tình trạng bán thất nghiệp diễn
ra phổ biến ở nông thôn đã tạo ra những dòng di cư từ nông thôn ra thành thị. Muốn

giải quyết vấn đề này thì chuyển dịch cơ cấu lao động, đặc biệt là chuyển dịch cơ
cấu lao động nông thôn theo hướng công nghiệp hóa – hiện đại hóa phải là điều
kiện tiên quyết.
Bên cạnh đó, chuyển dịch cơ cấu lao động còn để nâng cao năng suất lao
động, góp phần thúc đẩy kinh tế phát triển. Lao động dư thừa trong khu vực nông
nghiệp gây nên tình trạng năng suất lao động trong nông nghiệp giảm xuống. Mặt
khác, các ngành nghề công nghiệp và dịch vụ, đòi hỏi nhiều nhân lực có trình độ thì
lại thiếu trầm trọng, nên năng suất lao động trong các ngành này cũng bị thấp. Do
đó, việc chuyển dịch cơ cấu lao động từ khu vực nông nghiệp sang khu vực phi
nông nghiệp sẽ làm tăng năng suất lao động trong các ngành nói riêng và của toàn
nền kinh tế nói chung.


Cuối cùng, chuyển dịch cơ cấu lao động để tạo ra nguồn nhân lực có chất
lượng cao, từ đó nâng cao khả năng cạnh tranh của nền kinh tế. Kết quả của quá
trình chuyển dịch cơ cấu lao động theo hướng công nghiệp hóa – hiện đại hóa là tạo
ra một nguồn nhân lực có trình độ kỹ thuật cao, đáp ứng tốt quá trình công nghiệp
hóa – hiện đại hóa của đất nước. Qua đó một bước nâng cao khả năng cạnh tranh
của lao động trong nước với lao động nước ngoài.

1.5 Một số mô hình chuyển dịch cơ cấu lao động.
Bước vào những thập niên đầu của thế kỷ XX, vấn đề tăng trưởng và chuyển
dịch cơ cấu kinh tế gắn với chuyển dịch cơ cấu lao động từ khu vực nông nghiệp
sang khu vực phi nông nghiệp ngày càng thu hút sự quan tâm của nhiều nhà kinh tế
học. Các nhà kinh tế học đã nghiên cứu và đưa ra một vài mô hình tăng trưởng gắn
với chuyển dịch cơ cấu lao động từ khu vực nông nghiệp sang khu vực phi nông
nghiệp, trong đó phải kể đến mô hình của Fisher, Lewis, Keynes, và Harry
T.Oshima.
1.5.1 Mô hình của Fisher
Trong tác phẩm “Các quan hệ kinh tế của tiến bộ kỹ thuật”, nhà kinh tế học

A.Fisher đã phân nền kinh tế thành 3 khu vực, gồm: nông nghiệp, công nghiệp và
dịch vụ. Ông cho rằng với tác động của KH&CN tất yếu sẽ kéo theo quá trình
chuyển lao động từ khu vực nông nghiệp sang khu vực công nghiệp và dịch vụ. Quá
trình này sẽ thúc đẩy tăng trưởng và chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng tăng tỷ
trọng khối ngành công nghiệp và dịch vụ, đồng thời tỷ lệ lao động nông nghiệp sẽ
giảm dần. Như vậy, theo Fisher, chuyển dịch lao động từ khu vực nông nghiệp sang
khu vực công nghiệp và dịch vụ gắn liền với chuyển dịch cơ cấu kinh tế. Khi đánh
giá kết quả và tính bền vững của chuyển dịch lao động cần phải đánh giá tác động
của nó đến tăng trưởng và chuyển dịch cơ cấu kinh tế.
1.5.2 Mô hình của Lewis


Nhà kinh tế học W.Arthur Lewis trong tác phẩm “Lý thuyết về phát triển kinh
tế” đưa ra “Mô hình hai khu vực” lập luận về mối quan hệ giữa khu vực nông
nghiệp và khu vực công nghiệp trong quá trình tăng trưởng của nền kinh tế, đồng
thời đưa ra lý thuyết về chuyển dịch lao động giữa hai khu vực trên cơ sở lý luận về
tiền công lao động ở góc độ thu nhập. Quá trình chuyển lao động từ khu vực nông
nghiệp sang khu vực công nghiệp là do thu nhập ở khu vực công nghiệp cao hơn.
Mô hình Lewis giải thích tăng trưởng diễn ra do sự thay đổi cơ cấu kinh tế.
Một nền kinh tế ban đầu chỉ bao gồm 1 khu vực nông nghiệp được chuyển thành
nền kinh tế bao gồm 2 khu vực nông nghiệp và công nghiệp, trong đó khu vực công
nghiệp đóng vai trò thúc đẩy tăng trưởng kinh tế.
Mô hình Lewis cho thấy, tiền công lao động hay thu nhập là yếu tố rất quan
trọng thúc đẩy chuyển dịch lao động từ khu vực nông nghiệp sang khu vực phi nông
nghiệp. Khi đánh giá mức độ bền vững của quá trình chuyển dịch lao động, cần
phải xem xét kết quả về thu nhập mà nó đem lại cho người lao động. Nếu chuyển
dịch lao động không đi kèm với mức thu nhập đảm bảo đời sống cho người lao
động thì hiệu quả xã hội của nó còn thấp và thiếu tính bền vững.
Bên cạnh đó, mô hình Lewis còn có những hạn chế khi cho rằng, tăng trưởng
của khu vực công nghiệp dựa chủ yếu vào thu hút lao động từ nông thôn ra thành

thị với mức tiền công giá rẻ, chỉ cần cao hơn so với thu nhập ở khu vực nông
nghiệp. Điều này làm mô hình Lewis không giải thích được tại sao công nhân vẫn
đình công ở các nhà máy trong khi tiền lương cao hơn so với khu vực nông nghiệp
hay dòng dịch chuyển lao động từ khu vực nông thôn ra khu vực đô thị vẫn không
ngừng tiếp diễn trong khi vẫn tồn tại thất nghiệp ở khu vực đô thị.
1.5.3 Mô hình của Keynes
John Maynard Keynes trong công trình: “Lý thuyết tổng quát về thu nhập và
việc làm” đưa ra mô hình việc làm trong nền kinh tế tăng cùng với GDP. Thất
nghiệp phát sinh do tổng cầu của người tiêu dùng, doanh nghiệp và chính phủ đối
với hàng hóa và dịch vụ tăng không đủ để GDP đạt mức tạo đủ việc làm. Có thể


xem lập luận của Keynes là cần tăng tổng cầu hay GDP của khu vực phi nông
nghiệp để tạo việc làm, thu hút lao động từ khu vực nông nghiệp. Nói cách khác,
khi lựa chọn mô hình chuyển dịch lao động cần xem xét quan hệ giữa tăng trưởng
GDP và gia tăng quy mô lao động trong nền kinh tế.
Mô hình của Keynes có hạn chế là chưa đề cập cụ thể đến cơ cấu kinh tế, năng
suất lao động là những yếu tố quyết định sức cạnh tranh của sản xuất cần được xem
xét đi kèm với tăng trưởng và tạo việc làm. Thực tế ở nhiều nước cho thấy, tăng
trưởng GDP không đi kèm với tăng lao động mà ngược lại.
1.5.4 Mô hình của Harry T.Oshima
Năm 1989, nhà kinh tế học người Nhật Bản – Harry T.Oshima – trong tác
phẩm “Tăng trươgnr kinh tế ở các nước châu Á gió mùa” đưa ra lý thuyết về tăng
trưởng và tạo việc làm ở các nước châu Á với mô hình phát triển 2 khu vực nông
nghiệp và phi nông nghiệp theo 3 giai đoạn.
- Giai đoạn đầu: tăng cường đầu tư mở rộng quy mô sản xuất nông nghiệp để
tạo việc làm cho lao động thiếu việc làm ở khu vực nông nghiệp, cải thiện đời sống
nông dân đồng thời để đáp ứng nhu cầu lương thực, thực phẩm cho dân số tăng lên
và xuất khẩu nông sản để có ngoại tệ nhập khẩu máy móc cho phát triển công
nghiệp. Giai đoạn này kết thúc khi sản xuất nông nghiệp hàng hóa phát triển trên

quy mô lớn, đặt ra yêu cầu phát triển mạnh công nghiệp và dịch vụ, trước hết là các
ngành công nghiệp, dịch vụ phục vụ sản xuất nông nghiệp và đời sống ở nông thôn
như công nghiệp phân bón, công nghiệp chế biến, các dịch vụ ở nông thôn. Xét theo
quá trình CNH – HĐH phát triển một nền kinh tế, giai đoạn này có thể coi là giai
đoạn nền kinh tế phát triển chủ yếu dựa vào nông nghiệp hay nền kinh tế nông
nghiệp với tỷ trọng lao động nông nghiệp trong cơ cấu lao động còn khá cao.
- Giai đoạn hai: đẩy mạnh phát triển đồng thời cả 2 khu vực gồm phi nông
nghiệp và nông nghiệp để tạo việc làm đầy đủ cho lao động ở cả hai khu vực. Theo
Harry T.Oshima, để tạo việc làm đầy đủ cho lao động ở khu vực nông nghiệp và lao
động ở khu vực phi nông nghiệp, nói cách khác để chuyển dịch nhanh cơ cấu lao


động trong giai đoạn này, cần phát triển các ngành công nghiệp, dịch vụ theo chiều
rộng, sử dụng nhiều lao động để tạo đủ việc làm cho xã hội, giảm tỷ lệ thất nghiệp.
Giai đoạn này kết thúc khi tốc độ gia tăng việc làm lớn hơn tốc độ tăng lao động,
nền kinh tế bắt đầu có dấu hiệu thiếu lao động, tiền lương thực tế tăng nhanh. Đây
có thể coi là giai đoạn “cất cánh” của nền kinh tế từ nông nghiệp sang công nghiệp.
- Giai đoạn ba: phát triển cả hai khu vực nông nghiệp và phi nông nghiệp theo
chiều sâu, mở rộng áp dụng KH&CN vào sản xuất nhằm nâng cao năng suất lao
động, qua đó giảm cầu lao động và tăng sức cạnh tranh của các ngành kinh tế. Khu
vực công nghiệp tiếp tục phát triển theo hướng thay thế sản phẩm nhập khẩu và
hướng vào xuất khẩu đi kèm với chuyển dịch cơ cấu các ngành công nghiệp theo
hướng nâng cao hàm lượng công nghệ của sản phẩm. Khu vực dịch vụ phát triển
mạnh cả về quy mô và chất lượng với hàm lượng GTGT của sản phẩm không
ngừng được nâng lên. Giai đoạn này có thể coi là giai đoạn nền kinh tế phát triển cơ
bản dựa vào công nghiệp và dịchvụ, giai đoạn nền kinh tế công nghiệp và tiếp tục
phát triển trở thành nền kinh tế tri thức.
Mô hình của Oshima phản ánh khá rõ các giai đoạn phát triển của một nền
kinh tế gắn với tạo việc làm và chuyển dịch cơ cấu lao động đồng thời có tính bền
vững khi xác định tăng trưởng kinh tế và chuyển dịch cơ cấu lao động cần phải dựa

trên tích lũy và đầu tư của cả hai khu vực nông nghiệp và phi nông nghiệp, kết hợp
hài hòa phát triển khu vực nông nghiệp và phi nông nghiệp trong mối quan hệ chặt
chẽ với nhau, trong đó có ưu tiên phát triển từng khu vực trong mỗi giai đoạn gắn
với tạo việc làm và chuyển dịch cơ cấu lao động. Như vậy, tăng trưởng kinh tế
nhanh và chuyển dịch lao động không dẫn đến phân hóa lớn trong xã hội và bất
bình đẳng trong thu nhập.
Thực tế phát triển ở một số nước châu Á cho thấy mô hình của Harry
T.Oshima khá phù hợp, điển hình trong khu vực có Thái Lan, Malaysia. Đối với
Việt Nam, mô hình này là một mô hình hữu ích để nghiên cứu vận dụng để chuyển
dịch cơ cấu kinh tế theo hướng phát triển bền vững.


1.6 Kinh nghiệm chuyển dịch cơ cấu lao động của một số nước.
1.6.1 Thái Lan
Thái Lan là nước đi lên từ nông nghiệp, điều kiện phát triển tương đối tương
đồng với Việt Nam. Trong vòng 20 năm trở lại đây, Thái Lan phát triển theo mô
hình có tính bền vững, quan tâm phát triển cả hai khu vực nông nghiệp và phi nông
nghiệp, không thúc đẩy quá nhanh quá trình chuyển dịch lao động từ nông thôn ra
thành thị, từ khu vực nông nghiệp sang khu vực phi nông nghiệp để phát triển đô
thị hiện đại và các ngành công nghiệp sử dụng lao động có trình độ CMKT. Tốc độ
tăng trưởng kinh tế bình quân đạt 5,5 – 6,5%, tỷ trọng khu vực nông nghiệp trong
cơ cấu GDP luôn chiếm ở mức 9 – 10%, cơ cấu lao động chuyển dịch từ chỗ tỷ lệ
lao động nông nghiệp chiếm 62,1% (1990) giảm xuống còn 39,4% (2007).
Những năm gần đây, Thái Lan rất chú trọng phát triển các ngành nghề phi
nông nghiệp ở nông thôn để tạo việc làm tại chỗ, thu hút lao động từ khu vực nông
nghiệp sang khu vực phi nông nghiệp qua đó hạn chế lao động di trú tự do từ nông
thôn ra thành thị, giảm sức ép dân số vào các khu vực đô thị lớn như thủ đô Bankok
hiện quy mô dân số đã lên tới gần 15 triệu dân.
Để phát triển ngành nghề phi nông nghiệp ở nông thôn, Thái Lan có các biện
pháp chính sách như hỗ trợ đào tạo, cho vay ưu đãi để nông dân mở mang các

ngành nghề mới. Khuyến khích phát triển doanh nghiệp vừa và nhỏ ở nông thôn để
tạo việc làm tại chỗ cho lao động ở khu vực nông nghiệp, nông thôn. Thực hiện
chương trình đào tạo, dạy nghề cho thanh niên nông thôn để tự mình khởi nghiệp và
có điều kiện tìm kiếm việc làm phù hợp.
Tổ chức đưa công nghiệp về nông thôn để giải quyết việc làm cho lao động
dôi dư ở khu vực nông nghiệp thông qua chính sách ưu đãi, hỗ trợ đầu tư hạ tầng,
giảm thuế cho các dự án đầu tư. Bố trí phát triển các KCN và nhiều nhà máy thuộc
các ngành công nghiệp sử dụng nhiều lao động, công nghiệp chế biến nông, thủy
sản và công nghiệp cơ khí tại các vùng nông thôn, nhất là các vùng xa vùng miền
núi để cân đối phát triển giữa các vùng.


1.6.2 Malaysia
Những thập kỷ gần đây, sau khi trở thành một trong những nước phát công
nghiệp mới (NICs) ở khu vực Đông Nam Á, Malaysia phát triển theo mô hình
dựa chủ yếu vào khu vực công nghiệp, thu hút mạnh lao động từ khu vực nông
nghiệp, nông thôn ra khu vực đô thị, làm việc trong các ngành dịch vụ và các
KCN. Đến năm 2007, tỷ trọng khu vực nông nghiệp trong GDP của Malaysia chỉ
còn chiếm 8,4%, tỷ lệ lao động nông nghiệp còn khoảng 14,5%, tỷ lệ dân số đô
thị chiếm 62,35.
Để tạo việc làm phi nông nghiệp tại chỗ cho lao động ở khu vực nông nghiệp,
nông thôn, chính phủ tổ chức các dịch vụ đào tạo, dạy nghề cho người đến tuổi lao
động ở nông thôn kể cả đối với nông dân thiếu việc làm để họ có thể làm việc trong
các doanh nghiệp, nhà máy ở nông thôn. Có chính sách hỗ trợ tạo việc làm như hỗ
trợ lãi suất cho vay để nông dân có thể phát triển kinh tế hộ gia đình như chế biến
nông sản, làm dịch vụ hàng hóa.
Đẩy mạnh phát triển các doanh nghiệp vừa và nhỏ ở nông thôn thông qua
chính sách hỗ trợ hoạt động thương mại, đào tạo các kiến thức về quản lý và chuyên
môn cho các doanh nghiệp. Khuyến khích đầu tư công nghiệp ở nông thôn như
cung cấp tín dụng ưu đãi để phát triển các nhà máy sử dụng lao động nông thôn,

cho phép tư nhân tham gia xuất khẩu trực tiếp. Khuyến khích các dự án đầu tư nước
ngoài ở các vùng nông thôn như giảm thuế xuất khẩu, hỗ trợ đầu tư hạ tầng phục vụ
nhà máy sản xuất.
Bên cạnh đó Maylaysia rất quan tầm đến phát triển kết cấu hạ tầng nông thôn
để tạo điều kiện đưa công nghiệp và dịch vụ về nông thôn.
1.6.3 Trung Quốc
Trung Quốc bắt đầu tiến hành công cuộc cải cách, mở cửa nền kinh tế bắt đầu
từ năm 1978 với chiến lược công nghiệp hóa toàn diện. Trong những thập kỷ 1980,
1900 (thế kỷ XX), Trung Quốc lựa chọn mô hình phát triển phi cân đối, đặt trọng
tâm phát triển là khu vực công nghiệp, đặc biệt là các ngành công nghiệp sản xuất


hàng tiêu dùng nhằm đáp ứng nhu cầu trong nước với quy mô dân số lớn nhất thế
giới, phục vụ xuất khẩu và giải quyết việc làm cho lực lượng lao động trong độ tuổi
hàng năm tăng thêm hàng chục triệu người. Tập trung phát triển công nghiệp và đô
thị ở các vùng ven biển phía Đông để thu hút lao động từ khu vực nông nghiệp,
nông thôn ở các vùng trong nội địa.
Nhờ thực hiện mô hình này, Trung Quốc đã đạt được tốc độ tăng trưởng rất
cao 9 – 10% trong nhiều năm, tỷ lệ dân số đô thị tăng lên nhanh từ 18% (1978) tăng
lên hơn 44% (2007), tỷ lệ lao động nông nghiệp từ chỗ chiếm hơn 65% (1980) giảm
xuống còn khoảng 47% (2007), tỷ trọng khu vực nông nghiệp trong cơ cấu
GDP hiện nay chỉ còn khoảng 10%. Tuy nhiên, do phát triển tập trung vào khu vực
công nghiệp và đô thị, nên Trung Quốc phải đối mặt với tình trạng khoảng cách
chênh lệch về mức sống giữa khu vực nông thôn và đô thị, giữa các vùng phía Tây
và phía Đông trong nước tăng lên nhanh chóng. Các vùng phía Tây phần lớn chậm
phát triển, tỷ lệ nghèo cao trong khi một số vùng ven biển phía Đông phát triển quá
nóng, ô nhiễm môi trường kể cả ô nhiễm môi trường đô thị do sản xuất công nghiệp
tập trung ngày càng gia tăng làm quá trình phát triển và chuyển dịch cơ cấu lao
động thiếu tính bền vững.
Những năm gần đây, để giảm bớt mức độ chênh lệch về phát triển giữa các

vùng trong nước, giữa khu vực nông thôn và đô thị, Trung Quốc đẩy mạnh phát
triển khu vực nông nghiệp, nông thôn đồng thời đưa ra khẩu hiệu tiến về phía Tây,
phát triển các vùng sâu trong nội địa để phân bố lại lực lượng sản xuất, kết hợp hài
hòa phát triển giữa các vùng.
Để tạo việc làm tại chỗ cho lao động ở nông thôn, đáng chú ý, từ đầu những
năm 1980, Trung Quốc phát triển mô hình xí nghiệp hương trấn, mở ra con đường
phát triển công nghiệp nông thôn mang màu sắc Trung Quốc. Xí nghiệp hương trấn
là tên gọi chung các xí nghiệp công thương nghiệp và xây dựng, hoạt động ở khu
vực làng xã, thị trấn ở nông thôn, về cơ bản xí nghiệp hương trấn là các doanh
nghiệp ngoài quốc doanh. Mô hình xí nghiệp hương trấn đã giải quyết việc làm cho


một bộ phận không nhỏ lao động ở khu vực nông nghiệp, nông thôn của Trung
Quốc trong những thập kỷ 1980, 1990.
Tuy nhiên, sau một thời gian phát triển ồ ạt, thiếu quản lý chặt chẽ của nhà
nước, đến những năm cuối của thập kỷ 1990, mô hình phát triển xí nghiệp hương
trấn ở Trung Quốc dần bộc lộ một số hạn chế như sản phẩm làm ra có giá thành
cao, chất lượng thấp, thiếu sức cạnh tranh nên khó tiêu thụ trên thị trường.

1.6.4 Nhật Bản
Nhật Bản là nước đầu tiên thực hiện công nghiệp hóa ở châu Á, bắt đầu từ
cuối thế kỷ XIX và được đẩy mạnh trong nửa đầu của thế kỷ XX. Nhật Bản tiến
hành CNH – HĐH từ một nền nông nghiệp cổ truyền, tự túc, tự cấp, sản xuất manh
mún với những hộ nông dân sản xuất quy mô nhỏ (bình quân 0,5ha) và nhanh
chóng trở thành cường quốc kinh tế lớn thứ 2 trên thế giới với một nền nông nghiệp
và công nghiệp tiên tiến, kinh tế thành thị và nông thôn phát triển. Đến nay, tỷ trọng
khu vực nông nghiệp trong cơ cấu GDP của Nhật Bản chiếm chưa đến 1,5%, tỷ lệ
lao động nông nghiệp còn khoảng 3%.
Để tạo việc làm, thu hút lao động từ khu vực nông nghiệp sang khu vực phi
nông nghiệp, Nhật Bản đẩy mạnh phát triển khu vực công nghiệp, bắt đầu từ phát

triển công nghiệp cơ khí để phục vụ sản xuất nông nghiệp. Từ ngành cơ khí chế tạo
các loại máy nông nghiệp có công suất 4 – 10 sức ngựa, Nhật Bản mở rộng ra phát
triển các ngành công nghiệp cơ khí khác, nổi bật là các ngành công nghiệp phục vụ
sản xuất ô tô, máy kéo thu hút nhiều lao động từ khu vực nông nghiệp, nông thôn.
Mô hình tổ chức phát triển các cơ sở công nghiệp để tạo việc làm cho lao động
ở khu vực nông thôn của Nhật Bản rất đáng chú ý. Mô hình được tổ chức theo 3
cấp, có mối quan hệ chặt chẽ với nhau, bao gồm các nhà máy lớn nằm ở các đô thị
và khu công nghiệp, các xí nghiệp vừa và nhỏ được xây dựng phân tán ở các thị trấn


thuộc các vùng nông thôn, các cơ sở công nghiệp quy mô hộ gia đình, tổ sản xuất ở
nông thôn ký hợp đồng với các xí nghiệp cấp 1 và 2 đẻ gia công một số chi tiết máy
đơn giản, yêu cầu về kỹ thuật không cao. Thông qua mô hình này, Nhật Bản đã giải
quyết việc làm cho rất nhiều lao động ở khu vực nông nghiệp, nông thôn trong
những thập kỷ 1950, 1960.

CHƯƠNG II: THỰC TRẠNG CHUYỂN DỊCH CƠ CẤU LAO
ĐỘNG Ở KHU VỰC ĐBSH THỜI GIAN QUA.
2.1 Khái quát vùng ĐBSH
2.1.1 Điều kiện tự nhiên
2.1.1.1 Điều kiện địa lý, hành chính
Vùng ĐBSH bao gồm 11 tỉnh và thành phố: Hà Nội, Hải Phòng, Hải Dương,
Bắc Ninh, Vĩnh Phúc, Hưng Yên, Thái Bình, Nam Định, Hà Nam, Ninh Bình và
Quảng Ninh. Vùng có diện tích tự nhiên là 21.049
triệu người. Mật độ dân số trên 1

, số dân năm 2008 là 19,9

là 934 người, cao nhất so với các vùng khác


trong cả nước.
Đồng bằng sông Hồng có phía bắc giáp vùng Đông Bắc, phía Nam giáp Bắc
Trung Bộ, phía Tây giáp Tây Bắc, phía Đông giáp vịnh Bắc Bộ và có khu nhân là
vùng kinh tế trọng điểm Bắc Bộ có lịch sử phát triển lâu đời. Với vị trí như vậy,
đồng bằng sông Hồng là trung tâm kinh tế - xã hội của khu vực phía Bắc Việt Nam.
2.1.1.2. Điều kiện đất đai


Đất ở vùng ĐBSH có 10 nhóm, trong đó có 7 nhóm được dùng cho nông
nghiệp, bao gồm: đất cát biển, đất mặn, đất chua, đất phù sa, đất ngập nước, đất bạc
màu và đất đỏ vàng. Khoảng 70% đất nông nghiệp là đất phù sa lâu đời hoặc mới
bồi với độ màu mỡ tốt hoặc vừa phải thích hợp cho trồng lúa, màu và cây ăn quả.
Diện tích đất nông nghiệp của ĐBSH năm 2006 là 760,3 nghìn ha, chiếm
8,1% diện tích đất cả nước và bằng 29,5% diện tích đất nông nghiệp của Đồng bằng
sông Cửu Long. Đất canh tác tuy không nhiều nhưng độ màu mỡ cao, được phù sa
sông Hồng bồi tụ hàng năm, địa hình bằng phẳng rất thích hợp với phát triển nông
nghiệp. Lợi thế này đã và đang tạo cho vùng phát triển nông sản hàng hóa phục vụ
nhu cầu cung cấp nguyên liệu quanh năm cho ngành công nghiệp chế biến và xuất
khẩu hàng nông sản.
Diện tích đất đang sử dụng của vùng ĐBSH năm 2008 khoảng 1.655 nghìn ha,
chiếm gần 79% diện tích đất tự nhiên của vùng. Vùng còn có tiềm năng đất đai dải
ven biển cho phát triển nuôi trồng thủy sản với khoảng 96.652 ha đất bãi triều ngập
nước, trong đó có khoảng 40 – 50 ngàn ha rất phù hợp cho nuôi trồng thủy sản.
2.1.1.3 Điều kiện thời tiết, khí hậu
Vùng đồng bằng sông Hồng có chế độ khí hậu nhiệt đới ẩm, mùa đông lạnh và
hơi khô. Chế độ khí hậu phân hóa thành hai mùa rõ rệt: mùa nắng trùng với mùa
mưa, mùa lạnh khô hanh vào đầu mùa, ẩm ướt vào cuối mùa. Nhiệt độ thay đổi lớn,
nắng, mưa nhiều, độ ẩm cao là điều kiện lý tưởng để đa dạng hóa cơ cấu cây trồng
và vật nuôi.
Ngoài ra, vùng cũng chịu ảnh hưởng của bão, lũ gây thiệt hại không nhỏ đến

năng suất và hiệu quả sản xuất nông nghiệp. Có thể nói ĐBSH là một trong những
vùng của Việt Nam gặp nhiều loại thiên tai nhất. Về mùa đông, mùa màng bị ảnh
hưởng bởi sương giá, mùa hè bị ảnh hưởng bởi lũ, lụt, bão và nắng nóng kéo dài.
Mỗi năm thường có từ 5 – 6 cơn bão đổ bộ vào Bắc Bộ, năm đặc biệt có từ 9 – 10 cơn.
Đặc biệt, biến đổi khí hậu đang có những biểu hiện rõ nét trong vùng, như: có
nắng nóng nhiều hơn, mùa đông thì rét đậm hơn, mùa hè cũng đến sớm hơn, các


cơn bão vừa nhiều vừa diễn biến khó lường hơn trước. Đầu năm 2008, trận rét lịch
sử kéo dài 40 ngày đã làm chết 150.000 ha lúa và gần 10.000 ha mạ ở miền Bắc.
2.1.2 Điều kiện kinh tế xã hội.
2.1.2.1 Đặc điểm phát triển kinh tế.
Vùng ĐBSH có quy mô GDP khoảng 20,2 tỷ USD (năm 2008), chiếm 22,6%
và đứng thứ 2 trong cả nước. GDP/người của vùng đứng thứ 2 sau vùng Đông Nam
Bộ, đạt khoảng 1.025 USD; đặc biệt vùng Kinh tế trọng điểm phía Bắc (gồm 7 tỉnh)
có mức GDP/người đã ở mức cao hơn cả nước, khoảng trên 1.200 USD.
Kim ngạch xuất nhập khẩu của vùng ĐBSH năm 2008 ước đạt khoảng 63,6 tỷ
USD, trong đó xuất khẩu là khoảng 18,9 tỷ USD, chiếm 30% so cả nước( đứng thứ
2 cả nước).
Tốc độ tăng trưởng thời kỳ 2001-2008 của vùng ĐBSH tuy chưa cao (7,3%)
nhưng đã đóng góp 23,7% cho tăng trưởng của cả nước và tốc độ tăng trưởng công
nghiệp và dịch vụ đạt tốc độ khá đã tạo ra một cơ cấu GDP khá hiện đại trong vùng
ĐBSH( tỷ trọng các ngành phi nông nghiệp chiếm trên 80%), trong đó ngành dịch
vụ chiếm tỷ trọng lớn nhất, hơn 41%. Hiện nay thu ngân sách của vùng chiếm tới
30,9% tổng thu ngân sách trên địa bàn của cả nước, và là vùng có 4 trong số 11 tỉnh,
thành phố của cả nước có dư ngân sách nộp lại cho Nhà nước ( Hà Nội, Hải Phòng,
Quảng Ninh và Vĩnh Phúc).
2.1.2.1 Dân số và lao động.
Vùng có dân số đông, tính đến thời điểm 31/12/2008 , vùng ĐBSH có dân số
xấp xỉ 19,7 triệu người, đứng thứ 2 trong cả nước ( sau vùng BTB&DHTB), chiếm

22,8% dân số trong cả nước. Bên cạnh đó, vùng ĐBSH có khoảng 10,73 triệu lao
động đang làm việc trong vùng và 85% số này ở trong độ tuổi 15-44.
Bảng 1: Phân bố phần trăm diện tích đất đai và dân số theo vùng.
Đơn vị: %
Diện tích

Dân số


Toàn quốc
100
100
Trung du và miền núi phía Bắc
28,8
13
Đồng bằng sông Hồng
6,3
22,8
Bắc Trung Bộ và duyên hải miền Trung
29
23,1
Tây Nguyên
16,5
5,8
Đông Nam Bộ
7,1
14,7
Đồng bằng sông Cửu Long
12,3
20,6

Nguồn: Điều tra biến động dân số, nguồn lao động và kế hoạch hóa gia đình
1/4/2008: những kết quả chủ yếu.
Với quy mô dân số đông như vậy, số người trong độ tuổi lao động của vùng
cũng tương đối cao. Lực lượng lao động trẻ (dưới 35 tuổi) chiếm hơn 40% cho thấy
tiềm năng lao động khá dồi dào. Tuy nhiên, so với mặt bẳng chung của cả nước, tỷ
trọng nhóm tuỏi này của ĐBSH vẫn là thấp.
Bảng 2: Cơ cấu lao động theo nhóm tuổi vùng ĐBSH năm 2008
Đơn vị: %
ĐBSH Cả nước
Tổng số

100,00

100,00

Nhóm tuổi 15 – 34

40,06

43,69

Nhóm tuổi 35 – 54

37,96

37,56

Nhóm tuổi từ 55 trở

21,98

18,75
lên
Nguồn: Báo cáo Điều tra lao động việc làm 2008 – Tổng cục thống kê
Về phân bố lực lượng lao động, mặc dù vùng có tốc độ đô thị hóa cao nhất
trong cả nước, song là hệ quả của sự phân bố dân cư, lực lượng lao động vùng
ĐBSH tập trung chủ yếu ở nông thôn với tỷ lệ cao hơn mức bình quân cả nước. Tỷ
lệ lao động khu vực nông thôn là 74,3%, tỷ lệ lao động khu vực thành thị là 25,7%.
Trong khi đó, tỷ lệ lao động khu vực thành thị cả nước là 28,38%.
Trình độ học vấn của các nhóm cư dân, trình độ văn hóa chung của vùng
ĐBSH có mức độ cao hơn so với các vùng khác trong cả nước. Trong 7 vùng lãnh


thổ, ĐBSH là vùng có tỉ lệ lực lượng lao động có trình độ chuyên môn kỹ thuật cao
nhất, chiếm 20,66%.
Một trong những nguyên nhân lý giải về trình độ học vấn của lao động vùng
ĐBSH là hiện tại, 64% các trường đại học và cao đẳng của cả nước, hầu hết các
viện nghiên cứu, các trung tâm khoa học đầu ngành của đất nước đều tập trung ở
vùng ĐBSH. Năm 2008, vùng ĐBSH tập trung tới 26 – 27% cán bộ có trình độ cao
đẳng và đại học, 72% cán bộ có trình độ trên đại học của cả nước. Tổng số lao động
kỹ thuật của vùng là khoảng 2 triệu người, chiếm 22,8% lao động của cả nước. Đặc
biệt, Hà Nội là nơi tập trung nguồn nhân lực khoa học công nghệ được đào tạo có
bằng cấp cao. Tại đây, có mạng lưới gần 600 cơ quan khoa học và công nghệ kể cả
của Trung ương và tỉnh/thành phố trong tổng số cả nước có trên 1.200 cơ quan khoa
học và công nghệ (Viện, Trung tâm, Liên hiệp khoa học sản xuất…). Ngoài ra, thủ
đô Hà Nội còn có bao gồm 63 trường đại học trong tổng số 230 trường đại học của
cả nước (chiếm 30%).
Trong bối cảnh mở cửa, hội nhập, xây dựng nền kinh tế tri thức và nâng cao
năng lực cạnh tranh, lợi thế to lớn trên về nguồn nhân lực so với các vùng khác đã
tạo ra một sức cạnh tranh và hấp dẫn cho vùng ĐBSH.
2.1.2.3 Đặc điểm kết cấu hạ tầng kinh tế xã hội.

Có một sự phát triển lâu đời, vùng ĐBSH từ lâu đã hình thành hệ thống điểm
trung tâm (đô thị) và kèm theo đó là nhiều cơ sở kinh tế, các doanh nghiệp có tiềm
lực khá, tạo điều kiện thuận lợi cho xã hội có bước phát triển tốt. Với tam giác phát
triển Hà Nội – Hải Phòng – Quảng Ninh, trong đó Hà Nội và Hải Phòng là 2 thành
phố lớn của cả nước, vùng ĐBSH đã thu hút được nhiều tập đoàn lớn trong nước và
quốc tế đầu tư vốn, công nghệ như Canon, LG, Intel, … Nhờ đó mà vùng đã thu hút
được lực lượng lao động đông đảo trên toàn quốc.
Mạng lưới liên kết vùng nông thôn ĐBSH được phát triển mạnh dọc theo các
con sông và hệ thống đường quốc lộ và liên tỉnh. Tỷ lệ phần trăm đường được rải
nhựa trong vùng ĐBSH đạt 83,5%, cao nhất và gần gấp đôi tỷ lệ này của cả nước.


×