Tải bản đầy đủ (.docx) (65 trang)

Vai trò của chính phủ trong việc ổn định nền kinh tế vĩ mô và liên hệ thực tiễn Việt Nam

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (549.08 KB, 65 trang )

TRƯỜNG ĐẠI HỌC NGOẠI THƯƠNG
CƠ SỞ II TẠI TP. HỒ CHÍ MINH
--------***--------

Bộ môn

KINH TẾ CÔNG CỘNG
Chuyên ngành: KINH TẾ ĐỐI NGOẠI

Đề tài
VAI TRÒ CỦA CHÍNH PHỦ
TRONG VIỆC ỔN ĐỊNH NỀN KINH TẾ VĨ MÔ
VÀ LIÊN HỆ VỚI THỰC TIỄN VIỆT NAM
Giảng viên: Trương Bích Phương
Nhóm sinh viên thực hiện: nhóm 25 – Mã lớp: 59

Thành phố Hồ Chí Minh, ngày 10 tháng 03 năm 2015



MỤC LỤC

Danh mục từ viết tắt
NHTW
HNKTQT
NSNN
XĐGN
DNNNN
TPKT

Ngân hàng Trung ương


Hội nhập kinh tế quốc tế
Ngân sách Nhà nước
Xóa đói giảm nghèo
Doanh nghiệp nhà nước
Thành phần kinh tế


LỜI NÓI ĐẦU
Với bất kỳ quốc gia nào, muốn phát triển thì trước hết phải đảm bảo nền
kinh tế vĩ mô được ổn định. Vì thế, việc ổn định kinh tế vĩ mô luôn được đặt
làm mối quan tâm hàng đầu.
Trong điều kiện toàn cầu hóa ngày càng sâu rộng như hiện nay, không
một quốc gia nào có thể đơn phương thực hiện các chính sách ổn định kinh tế
vĩ mô mà không phải cân nhắc đến tình hình và các thỏa thuận mang tính quốc
tế. Không những thế, rất nhiều vấn đề toàn cầu mới nổi mà nỗ lực đơn lẻ của
từng quốc gia không giải quyết được. Đứng trước bới cảnh mới, việc xem xét
các lý thuyết và công cụ điều chỉnh kinh tế vĩ mô trong bối cảnh toàn cầu hóa
là điều cần thiết
Trong những năm qua, nền kinh tế Việt Nam đã vượt qua nhiều khó
khăn, thách thức, kinh tế vĩ mô cơ bản ổn định, duy trì được tốc độ tăng trưởng
khá, tiềm lực và quy mô nền kinh tế tăng lên, Việt Nam đã ra khỏi tình trạng
kém phát triển. Tuy nhiên, nền kinh tế phát triển chưa bền vững; chất lượng,
hiệu quả, sức cạnh tranh thấp, chưa tương xứng với tiềm năng, cơ hội và yêu
cầu phát triển của đất nước. Thời gian tới, Việt Nam sẽ ngày càng hội nhập sâu
rộng hơn vào nền kinh tế thế giới. Đứng trước những vận hội và thách thức
mới, chúng ta cần nhìn lại quãng đường đã đi để làm tiền đề đưa ra các quyết
định sau này.
Vì vậy, nhóm em chọn đề tài “Vai trò của chính phủ trong việc ổn định
nền kinh tế vĩ mô và liên hệ thực tiễn Việt Nam” làm chủ đề tiểu luận.
Bài tiểu luận gồm 3 chương:

Chương 1: Chu kỳ kinh tế và tác động đến ổn định kinh tế vĩ mô.
Chương 2: Các chính sách kinh tế vĩ mô trong bối cảnh toàn cầu hóa và
hội nhập kinh tế quốc tế.
4


Chương 3: Chính phủ Việt Nam với vai trò ổn định kinh tế vĩ mô.

5


Chương 1
CHU KỲ KINH TẾ VÀ TÁC ĐỘNG ĐẾN ỔN ĐỊNH KINH TẾ VĨ MÔ
1.1.

Chu kỳ kinh tế và tác động đến ổn định kinh tế vĩ mô
1.1.1. Tính khách quan của chu kỳ kinh tế
1.1.1.1. Định nghĩa chu kỳ kinh tế
Theo định nghĩa của Paul A. Samuelson, chu kỳ kinh tế, còn gọi là chu

kỳ kinh doanh, là sự biến động của GDP thực tế theo trình tự ba pha lần lượt là
suy thoái, phục hồi và hưng thịnh (bùng nổ). Cũng có quan điểm coi pha phục
hồi là thứ yếu nên chu kỳ kinh doanh chỉ gồm hai pha chính là suy thoái và
hưng thịnh.
Theo kinh tế chính trị Marx-Lenin, chu kỳ kinh tế của nền kinh tế tư bản
chủ nghĩa gồm bốn pha là: khủng hoảng, tiêu điều, phục hồi và hưng thịnh.
Định nghĩa phổ quát hơn, chu kỳ kinh tế là sự dao động của tổng sản
lượng quốc dân, của thu nhập và việc làm trong nền kinh tế, thường kéo dài
trong một giai đoạn từ 2 đến 10 năm, được đánh dấu bằng một sự mở rộng hay
thu hẹp trên quy mô lớn ở hầu hết các khu vực của nền kinh tế.

1.1.1.2.

Các pha (giai đoạn) của chu kỳ kinh tế

Chu kỳ kinh tế được chia thành hai giai đoạn chính, đó là suy thoái và
mở rộng (phục hồi và hưng thịnh)

6


Suy thoái là pha trong đó GDP thực tế giảm đi. Ở Mỹ và Nhật Bản,
người ta quy định rằng, khi tốc độ tăng trưởng GDP thực tế mang giá trị âm
suốt hai quý liên tiếp thì mới gọi là suy thoái.
Phục hồi là pha trong đó GDP thực tế tăng trở lại bằng mức ngay trước
suy thoái. Điểm ngoặt giữa hai pha này là đáy của chu kỳ kinh tế.
Khi GDP thực tế tiếp tục tăng và bắt đầu lớn hơn mức ngay trước lúc
suy thoái, nền kinh tế đang ở pha hưng thịnh (hay còn gọi là pha bùng nổ). Kết
thúc pha hưng thịnh lại bắt đầu pha suy thoái mới. Điểm ngoặt từ pha hưng
thịnh sang pha suy thoái mới gọi là đỉnh của chu kỳ kinh tế.
1.1.2. Nguyên nhân của chu kỳ kinh tế
Chu kỳ kinh tế là một hiện tượng gắn liền với nền kinh tế thị trường. Đi
tìm lời giải cho nguyên nhân gây ra chu kỳ kinh tế có nhiều lý thuyết khác
7


nhau, trong đó có thể chia ra làm hai nhóm lý thuyết chính: lý thuyết ngoại sinh
và lý thuyết nội sinh.

8



1.1.2.1.

Lý thuyêt ngoại sinh

Các lý thuyết ngoại sinh chú trọng vào các nhân tố bên ngoài hệ thống kinh
tế như chiến tranh, các cuộc bầu cử, giá xăng dầu, di cư, phát hiện ra các nguồn tài
nguyên mới, những phát minh mới về khoa học, công nghệ,… để giải thích cho sự
biến động trong chu kỳ kinh tế.
Một số lý thuyết ngoại sinh tiêu biểu có thể kể đến là Lý thuyết gia tốc số
nhân của P. Samuelson và Lý thuyết chính trị với đại diện là William Nordhaus,
Michał Kalecki,...


Lý thuyết gia tốc số nhân: mô hình này cho rằng các biến động ngoại sinh
được lan truyền theo cơ chế số nhân kết hợp với sự gia tốc trong đầu tư tạo ra



những dao động có tính chu kỳ của GDP.
Lý thuyết chính trị: Lý thuyết này quy cho các chính trị gia là nguyên nhân
gây ra chu kỳ kinh tế vì họ chi phối các chính sách tài khóa và tiền tệ để có
thể tái đắc cử.
1.1.2.2. Lý thuyết nội sinh
Lý thuyết nội sinh đi tìm nghuyên nhân gây ra chu kỳ kinh doanh từ các yếu

tố nội thân của nền kinh tế. Theo quan điểm này, mọi sự mở rộng đều chứa đựng
nguy cơ gây ra suy thoái, và ngược lại, mọi sự suy thoái đều chứa đựng các yếu tố
tạo ra sự phục hồi.
Một số lý thuyết ngoại sinh tiêu biểu có thể kể đến là Lý thuyết tiền tệ của

M.Friedman, Lý thuyết chu kỳ kinh tế cân bằng với những đại diện Robert Lucas,
Jr., Robert Barro, Thomas Sargent,…, Lý thuyết chu kỳ kinh doanh thực tế với
những người ủng hộ lý thuyết này là nhà kinh tế học đoạt giải Nobel năm 2004
Edward Prescott, Charles Prosser,...


Lý thuyết tiền tệ: cho rằng chu kỳ kinh tế là do sự mở rộng hay thắt chặt của
chính sách tiền tệ và tín dụng.Lý thuyết này tỏ ra phù hợp với cuộc suy thoái
của kinh tế Hoa Kỳ 1981-1982 khi Cục Dự trữ Liên bang tăng lãi suất danh
nghĩa tới 18% để chống lạm phát.

9




Lý thuyết chu kỳ kinh doanh cân bằng phát biểu rằng những nhận thức sai
lầm về sự vận động của giá cả, tiền lương đã khiến cho cung về lao động quá
nhiều hoặc quá ít dẫn đến các chu kỳ của sản lượng và việc làm. Một trong
những phiên bản của lý thuyết này là tỷ lệ thất nghiệp cao trong suy thoái là
do mức lương thực tế của công nhân cao hơn mức cân bằng của thị trường



lao động.
Lý thuyết chu kỳ kinh doanh thực tế: lập luận rằng những biến động tích cực
hay tiêu cực về năng suất lao động trong một khu vực có thể lan tỏa trong
nền kinh tế và gây ra những dao động có tính chu kỳ.
Tuy vậy, cho dù mỗi lý thuyết trên đây đều có tính hiện thực, không có lý


thuyết nào tỏ ra đúng đắn ở mọi lúc, mọi nơi.
Ngày nay, quan sát các chu kỳ kinh tế ở các nền kinh tế công nghiệp phát
triển, người ta phát hiện ra hiện tượng pha suy thoái càng ngày càng ngắn về thời
gian và nhẹ về mức độ thu hẹp của GDP thực tế. Một trong những nguyên nhân
quan trọng là chính phủ các nước này đã hiểu biết và vận dụng tốt hơn những hiểu
biết về kinh tế vĩ mô. Bằng cách kết hợp giữa chính sách tài khóa và chính sách tiền
tệ, nhà nước có thể ngăn chặn một cuộc suy thoái biến thành khủng hoảng. Chu kỳ
kinh doanh khốc liệt tàn phá chủ nghĩa tư bản trong những thời kỳ đầu của chủ
nghĩa tư bản đã được chế ngự
1.1.3. Ảnh hưởng của chu kỳ kinh tế đến nền kinh tế
Sự phát triển mang tính chu kỳ của nền kinh tế thị trường đã gây ra những
tác động tiêu cực cho nền kinh tế, cả trong giai đoạn suy thoái hay mở rộng.

10


Khi nền kinh tế bước vào giai đoạn suy thoái, sản lượng giảm xuống do các
tác động làm giảm tổng cầu hoặc các cú sốc cung gây ra. Tổng cầu có thể giảm di
nhiều nguyên nhân, chẳng hạn như sự giảm sút trong tiêu dùng tư nhân, đầu tư của
doanh nghiệp, chi tiêu của chính phủ hoặc do nhập siêu tăng. Điều này sẽ làm mức
giá và sản lượng thực tế giảm, sản xuất đình trệ dẫn đến số người thât nghiệp (và tỉ
lệ thất nghiệp) tăng lên. Nền kinh tế cân bằng ở mức thấp hơn mứ sản lượng toàn
dụng lao động hay còn gọi là sản lượng tiềm năng (tối ưu xã hội), do đó gây ra sự
hao phí trong nguồn lực.
Như vậy, khi nền kinh tế suy thoái, thường xuất hiện một số biểu hiện phổ
biến như sau: Thứ nhất, tiêu dùng cá nhân giảm mạnh, trong khi dự trữ tồn kho của
các doanh nghiệp tăng lên ngoài dự kiến. Khi các doanh nghiệp đối phó bằng cách
cắt giảm sản xuất thì GDP thực tế giảm. Tiếp theo đó, đầu tư của các doanh nghiệp
cũng sẽ giảm theo. Thứ hai, cầu về lao động giảm, tình trạng sa thải công nhân phổ
biến khiến tỉ lê thất nghiệp tăng. Thứ ba, khi sản lượng giảm thì lạm phát chậm lại.

Cầu về các yếu tố nguyên liệu sản xuất giảm khiến giá của chúng sụt giảm theo.
Tiền lương và giá dịch vụ ít có xu hướng giảm nhưng nếu có tăng thì tăng rất chậm.
Cuối cùng, lợi nhuận của doanh nghiệp giảm, cầu về tín dụng giảm khiến lãi suất
cũng giảm theo.
11


Trái lại, khi nền kinh tế ở giai đoạn mở rộng, sản lượng thực tế tăng lên do
tổng cầu tăng, thậm chí vượt qua cả mức sản lượng tiềm năng. Số người có việc làm
tăng lên và tỉ lệ thất nghiệp giảm xuống, trong khi mức giá tăng làm cho tỉ lệ lạm
phát tăng. Khi đó, giá cả đã phát ra tín hiệu bị bóp méo khiến sự phân bổ nguồn lực
của thị trường không còn hiệu quả nữa.
Như vậy, thất nghiệp và lạm phát là hai căn bệnh đồng hành của chu kỳ kinh
tế nhưng chúng biến thiên ngược chiều nhau. Khi nền kinh tế ở giai đoạn suy thoái
thì tỉ lệ thất nghiệp tăng còn tỉ lệ lạm phát giảm. Riêng trong trường hợp suy thoái
do cú sốc cung thì tỉ lệ lạm phát tăng đi kèm với tỉ lệ thất nghiệp. Trường hợp này
được gọi là đình lạm – vừa đình trệ vừa lạm phát, song không phổ biến. Bước sang
giai đoạn mở rộng, tỉ lệ thất nghiệp giảm xuống nhưng tỉ lệ lạm phát lại tăng lên.
1.1.4. Tổn thất phúc lợi xã hội do bất ổn kinh tế gây ra
Chu kỳ kinh tế gây ra tác động tiêu cực cho nền kinh tế về tính hiệu quả
trong việc sử dụng nguồn lực. Các tác động trực tiếp và cũng là biểu hiện đặc trưng
gắn với nó là thất nghiệp và lạm phát.
1.1.4.1.

Tổn thất do thất nghiệp gây ra

Tác động kinh tế: Theo Định luật Okun, khi tỉ lệ thất nghiệp chu kỳ tăng 1%
thì mức sản lượng thực tế sẽ giảm đi 2% so với mức sản lượng tiền năng. Có thể
thấy, mức giảm sản lượng này là một tổn thất nghiêm trọng đặc biệt khi chúng ta
biết rằng nhóm chủ yếu gánh chịu thất nghiệp là những người nghèo và nhũng

nhóm yếu thế trong xã hội.
Tác động xã hội: Thất nghiệp không tự nguyện còn gây ra những vấn đề tâm
lý, sức khỏe và các vấn đề xã hội khác nảy sinh xung quanh những người thất
nghiệp. Những tổn thất sẽ càng trầm trọng nếu thất nghiệp diễn ra dai dẳng. Ngoài
ra, thất nghiệp còn dẫn đến các tác động xã hội tiêu cực như xung đột, bất ổn, mất
an ninh trật tự xã hội,… Tuy nhiên, thất nghiệpvẫn có một số lợi ích nhất định như
cơ hội tìm việc làm tốt hơn ở tương lai, phục hồi lại sức lao động. Nhưng những lợi
ích này sẽ giảm dần theo thời gian nếu thời gian thất nghiệp quá dài. Ngoài ra, tình
trạng thất nghiệp còn tạo áp lực lớn lên những người có việc làm, thúc đẩy họ làm
12


việc nỗ lực và có hiệu quả hơn, nhờ đó nâng cao năng suất lao động trong nền kinh
tế.
1.1.4.2.

Lạm phát

Do lạm phát làm tăng giá cả hàng hóa và dịch vụ theo các tỉ lệ khác nhau,
lạm phát sẽ gây ra hai ảnh hưởng chính là: phân phối lại thu nhập và của cải giữa
các nhóm người; và bóp méo các quyết định phân bổ nguồn lực, gây sự phi hiệu quả
kinh tế.
Tác động phân phối lại thu nhập và của cải: Tác động chính về mặt phân
phối của lạm phát xuất phát từ sự khác nhau giữa tài sản có và tài sản nợ mà các cá
nhân nắm giữ. Lạm phát sẽ là cơ may cho những ai đang là con nợ và là một gánh
nặng với các chủ nợ. Tuy nhiên, nếu lạm phát kéo dài, thị trường sẽ thích nghi bằng
cách cộng thêm một mức lạm phát dự kiến vào mọi giao dịch khiến giá thực tế
không đổi, và sự phân phối lại thu nhập và của cải yếu đi.
Tác động đến hiệu quả kinh tế: Lạm phát gây ra tính phi hiệu quả kinh tế do
nó bóp méo các tính hiệu giá cả thị trường.Khi mức lạm phát tăng cao, giá cả thay

đổi quá thường xuyên đến mức không thể phân biệt được đâu là thay đổi trong giá
tương đối và đau là thay đổi trong mức giá chung. Các nhà kinh tế thường hay đề
cập đến các chi phí như Chi phí mòn giày, Chi phí thực đơn và Tác động “leo khung
thuế” để nói đến tác động của lạm phát đến nền kinh tế.
Chi phí mòn giày: Khi có lạm phát, mọi người cố gắn giảm lượng tiền mặt
nắm giữ và thay vào đó nắm giữ trái phiếu, tiền gửi ngân hàng hoặc các tài sản có
khả năng bảo tồn giá trị. Khi đó, họ phải mất thời gian, công sức cùng phí để thực
hiện các giao dịch chuyển đổi các tài sản trên thành tiền và ngược lại.
Chi phí thực đơn: Chi phí mà doanh nghiệp phải bỏ ra để in lại thực đơn và
báo giá. Nhưng đôi khi giá in lại quá cao khiên các doanh nghiệp cọn cách giữ lại
mức giá cũ. Đồng thời doanh nghiệp cũng tốn thêm chi phí liên quan đến việc điều
chỉnh giá như tìm kiếm thông tin thị trường,chi phí đàm phán lại, phí in ấn,…

13


Tác động “leo khung thuế”: Khi lương của các cá nhân được điều chỉnh theo
lạm phát thì thực chất lạm phát đã làm tăng mức thuế suất trung bình của người
đóng thuế (do mức thuế thường cố định và rất chậm thay đổi), do đó họ phải đóng
thuế nhiều hơn.
1.1.5. Ví dụ về chu kì kinh tế và những bất ổn do chu kì kinh tế gây ra đối
với nền kinh tế Việt Nam.

Nhìn vào số liệu thống kê về tăng trưởng và thất nghiệp ở Việt Nam từ năm
1986 đến 2009 có thể thấy sau hơn 20 năm đổi mới Việt Nam đã trải qua ba giai
đoạn suy thoái chu kỳ với tần suất từ 9-10 năm. Lần đầu tiên là năm 1989-1990 khi
tăng trưởng GDP trung bình chỉ đạt 4,9% trong khi tỷ lệ thất nghiệp lên đến 13%
năm 1989 và 9% năm 1990.
Từ năm 1990, sau khi tư duy cải cách thực sự được chuyển hóa thành các
chính sách kinh tế và đi vào cuộc sống, nền kinh tế đã nhanh chóng vượt qua giai

đoạn khó khăn và bước vào thời kỳ phát triển mạnh với tốc độ tăng GDP bình quân
14


8,2%/năm trong giai đoạn 1991-1995, đạt mức cao nhất trong chu kỳ là 9,5% năm
1994, thất nghiệp chỉ còn 5,8%.
Tuy nhiên, do cú sốc của cuộc khủng hoảng tài chính châu Á nên Việt Nam
lại nhanh chóng đi vào thời kỳ suy thoái 1998-1999. Tốc độ tăng trưởng chỉ còn
5,8% năm 1998 và xuống đáy 4,8% năm 1999. Cũng trong năm 1999, thất nghiệp
tăng lên 6,7% và tỷ lệ thiếu việc làm ở nông thôn ở mức rất cao 28,9%.
Từ năm 2000-2008, việc tiếp tục duy trì đường lối đổi mới với nhiều cải
cách, đặc biệt là sự ra đời Luật Doanh nghiệp đã giải phóng nguồn lực dồi dào trong
khu vực tư nhân. GDP liên tục tăng qua các năm và đạt 8,5% năm 2007, thất nghiệp
giảm xuống chỉ còn 4,2%. Tuy nhiên, để đạt được kết quả đó, trong giai đoạn 20032007 cung tiền cũng tăng cao trung bình 25%/năm, tín dụng nội địa tăng trên
35%/năm và đạt mức cao nhất thế giới là 53% trong năm 2007. Hệ quả năm 2008
lạm phát vươn cao kỉ lục 23,1%.
Bên cạnh đó, khủng hoảng kinh tế - tài chính thế giới cũng là một cú sốc
mạnh từ bên ngoài đã cộng hưởng và nhanh chóng đưa Việt Nam vào pha suy thoái
của chu kỳ. Tăng trưởng GDP giảm xuống chỉ còn 6,2% năm 2008, thất nghiệp tăng
lên 4,6%.
Một điểm cần lưu ý là các trường phái kinh tế đều không thể thống nhất về
tần suất của các chu kỳ kinh tế. Việt Nam đã ở đáy của chu kỳ trong giai đoạn 19891990, 1998-1999 vàcó lẽ là đến 2018-2019 chúng ta mới rơi vào thời kỳ suy thoái
tiếp theo.
1.2.

Chính phủ với vai trò ổn định kinh tế vĩ mô
1.2.1. Chính sách tài khóa
1.2.1.1. Khái niệm và công cụ của chính sách tài khóa
Chính sách tài khóa là hệ thống các chính sách của chính phủ về tài chính,


thường được hoạch định và thực hiện trọn vẹn trong một niên khóa tài chính, nhằm
tác động đến các định hướng phải triển của nền kinh tế, thông qua những thay đổi
trong kế hoạch chi tiêu chính phủ và chính sách thu ngân sách (chủ yếu là các
khoản thu về thuế).
15


Chính sách tài khoá có thể chia thành chính sách tài khoá cân bằng, chính
sách tài khoá mở rộng và chính sách tài khoá thắt chặt.
Chính sách tài khoá cân bằng là chính sách tài khoá mà theo đó, tổng chi
tiêu của Chính phủ cân bằng với các nguồn thu từ thuế, phí, lệ phí và các nguồn thu
khác mà không phải vay nợ.
Chính sách tài khoá mở rộng (hay còn gọi là chính sách tài khóa thâm hụt) là
chính sách nhằm tăng cường chi tiêu của chính phủ so với nguồn thu bằng cách:
(i) gia tăng mức độ chi tiêu chính phủ mà không tăng nguồn thu; hoặc
(ii) giảm nguồn thu từ thuế mà không giảm chi tiêu; hoặc
(iii) vừa gia tăng mức độ chi tiêu của chính phủ đồng thời giảm nguồn
thu từ thuế.
Chính sách tài khoá mở rộng có tác dụng kích thích tăng trưởng kinh tế, tạo
thêm nhiều việc làm. Tuy nhiên, chính sách tài khoá mở rộng thường dẫn đến việc
Chính phủ phải vay nợ để bù đắp thâm hụt ngân sách.
Chính sách tài khoá thắt chặt (hay còn gọi là chính sách tài khóa thặng dư)
là chính sách hạn chế chi tiêu của chính phủ so với nguồn thu bằng cách:
(i) chi tiêu của chính phủ ít đi nhưng không tăng thu;
(ii) không giảm chi tiêu nhưng tăng thu từ thuế;
(iii) vừa giảm chi tiêu vừa tăng thu từ thuế.
Chính sách tài khoá thắt chặt được áp dụng khi nền kinh tế có dấu hiệu tăng
trưởng nhanh và thiếu bền vững hoặc khi nền kinh tế gặp tình trạng lạm phát cao.
Việc này có thể làm thâm hụt ngân sách ít đi hoặc thặng dư ngân sách lớn lên so với
trước đó.

Các trường phái kinh tế học Keynes cho rằng chính sách tài khóa có hiệu quả
to lớn trong chống chu kỳ kinh tế. Họ sử dụng phân tích IS-LM để cho thấy chính
sách tài khóa phát huy tác dụng thông qua sự dịch chuyển của đường IS thế nào.
16


Bản thân John Maynard Keynes đề cao chính sách tài khóa thông qua công cụ chi
tiêu chính phủ.
1.2.1.2.

Cơ cấu hoạt động

Giả sử nền kinh tế đang lầm vào tình trạng suy thoái. Các hãng tư nhân
không muốn đầu tư thêm, còn người tiêu dùng không muốn chi tiêu thêm. Lúc này,
để mở rộng tổng cầu chính phủ áp dụng chính sách tài khóa mở rộng bằng cách tăng
chi tiêu hoặc giảm thuế, qua đó nâng cao mức chi tiêu chung của nền kinh tế.
Trong trường hợp nền kinh tế đang ở trạng thái phát đạt quá mức (phát triển
quá nóng), thì chính phủ có thể phải áp dụng chính sách tài khóa thắt chặt để kiềm
chế bớt, bằng cách giảm chi tiêu hoặc tăng thuế.
1.2.2. Chính sách tiền tệ
1.2.2.1. Khái niệm và công cụ của chính sách tiền tệ
Chính sách tiền tệ là quá trình quản lý cung tiền của cơ quan quản lý tiền tệ
(có thể là ngân hàng trung ương), thường là hướng tới một lãi suất mong muốn để
đạt được những mục đích ổn định và tăng trưởng kinh tế - như kiềm chế lạm phát,
duy trì ổn định tỷ giá hối đoái, đạt được toàn dụng lao động hay tăng trưởng kinh tế.
Chính sách lưu thông tiền tệ bao gồm việc thay đổi các loại lãi suất nhất định, có thể
trực tiếp hay gián tiếp thông qua các nghiệp vụ thị trường mở; qui định mức dự trữ
bắt buộc; hoặc trao đổi trên thị trường ngoại hối.
Chính sách tiền tệ gồm có 6 công cụ sau:



Công cụ tái cấp vốn: là hình thức cấp tín dụng của Ngân hàng Trung ương
đối với các Ngân hàng thương mại. Khi cấp 1 khoản tín dụng cho Ngân hàng
thương mại, Ngân hàng Trung ương đã tăng lượng tiền cung ứng đồng thời
tạo cơ sở cho Ngân hàng thương mại tạo bút tệ và khai thông khả năng thanh



toán của họ.
Công cụ tỷ lệ dự trữ bắt buộc: là tỷ lệ giữa số lượng phương tiện cần vô hiệu
hóa trên tổng số tiền gửi huy động, nhằm điều chỉnh khả năng thanh toán
(cho vay) của các Ngân hàng thương mại.
17




Công cụ nghiệp vụ thị trường mở: là hoạt động Ngân hàng Trung ương mua
bán giấy tờ có giá ngắn hạn trên thị trường tiền tệ, điều hòa cung cầu về giấy
tờ có giá, gây ảnh hưởng đến khối lượng dự trữ của các Ngân hàng thương
mại, từ đó tác động đến khả năng cung ứng tín dụng của các Ngân hàng



thương mại dẫn đến làm tăng hay giảm khối lượng tiền tệ.
Công cụ lãi suất tín dụng: đây được xem là công cụ gián tiếp trong thực hiện
chính sách tiền tệ bởi vì sự thay đổi lãi suất không trực tiếp làm tăng thêm
hay giảm bớt lượng tiền trong lưu thông, mà có thể làm kích thích hay kìm
hãm sản xuất. Cơ chế điều hành lãi suất được hiểu là tổng thể những chủ
trương chính sách và giải pháp cụ thể của Ngân hàng Trung ương nhằm điều




tiết lãi suất trên thị trường tiền tệ, tín dụng trong từng thời kỳ nhất định.
Công cụ hạn mức tín dụng: là 1 công cụ can thiệp trực tiếp mang tính hành
chính của Ngân hàng Trung ương để khống chế mức tăng khối lượng tín
dụng của các tổ chức tín dụng. Hạn mức tín dụng là mức dư nợ tối đa mà
Ngân hàng Trung ương buộc các Ngân hàng thương mại phải chấp hành khi



cấp tín dụng cho nền kinh tế.
Tỷ giá hối đoái: Tỷ giá hối đoái là tương quan sức mua giữa đồng nội tệ và
đồng ngoại tệ. Nó vừa phản ánh sức mua của đồng nội tệ, vừa là biểu hiên
quan hệ cung cầu ngoại hối. Tỷ giá hối đoái là công cụ, là đòn bẩy điều tiết
cung cầu ngoại tệ, tác động mạnh đến xuất nhập khẩu và hoạt động sản xuất
kinh doanh trong nước. Chính sách tỷ giá tác động một cách nhạy bén đến
tình hình sản xuất, xuất nhập khẩu hàng hóa, tình trạng tài chính, tiện tệ, cán
cân thanh toán quốc tế, thu hút vốn đầu tư, dự trữ của đất nước. Về thực chất
tỷ giá không phải là công cụ của chính sách tiền tệ vì tỷ giá không làm thay
đổi lượng tiền tệ trong lưu thông. Tuy nhiên ở nhiều nước, đặc biệt là các
nước có nền kinh tế đang chuyển đổi coi tỷ giá là công cụ hỗ trợ quan trọng
cho chính sách tiền tệ.

18


1.2.2.2.

Khủng hoảng tài chính - kinh tế toàn cầu năm 2008 và hai


chính sách tài khóa & tiền tệ
1.2.2.3.

Cuộc khủng hoảng tài chính 2008 đã tác động lan toả khắp các

châu lục và thấm sâu vào hầu hết các quốc gia trên thế giới. Khủng hoảng tài chính
đang chuyển dần sang khủng hoảng kinh tế. Cả thế giới đang nỗ lực ứng phó với
cuộc khủng hoảng này, nhưng những dự báo gần đây nhất do Quỹ Tiền tệ Quốc tế
(IMF) và Ngân hàng thế giới (WB) đưa ra cho thấy, kinh tế toàn cầu vẫn chưa có
dấu hiệu phục hồi. IMF nhận định kinh tế toàn cầu có thể sụt giảm 1,3% trong năm
2009, hầu hết các nền kinh tế lớn đều có mức tăng trưởng âm, như Anh: -4,1%,
Đức: -5,6%, Nhật Bản: -6,2 và I-ta-li-a: -4,4%.
1.2.2.4.

Trong giai đoạn khủng hoảng tài chính - kinh tế, hầu hết các

nước đều thực hiện đồng bộ 2 công cụ chính sách tài khoá và tiền tệ. Một mặt, kích
thích tiêu dùng chính phủ và kích thích tiêu dùng trong dân cư; mặt khác, giảm bớt
khó khăn, giảm chi phí và giá thành cho các doanh nghiệp để có sản phẩm cạnh
tranh hơn, giá rẻ hơn theo hướng tăng tổng cầu có khả năng thanh toán trên đơn vị
hàng hoá. Đồng thời, trên thị trường tài chính, tập trung vào hỗ trợ và củng cố lại
các định chế tài chính đã bị tổn thất do khủng hoảng tài chính gây ra như phối hợp
giảm lãi suất, bơm mạnh cung tiền, cứu trợ trực tiếp các ngân hàng và tổ chức tài
chính….
1.2.2.5.

Cho đến nay, hàng loạt gói kích cầu khẩn cấp có giá trị lớn

được chính phủ các nước thông qua nhằm đối phó với khủng hoảng kinh tế. Ngày

17-2-2009, Tổng thống Mỹ đã ký Luật tái đầu tư và phục hồi Mỹ (ARRA) với tổng
trị giá 787 tỷ USD, bằng 6% GDP của nước Mỹ. Mục tiêu của gói kích thích kinh tế
thứ 2 này là nhằm tạo 3,5 triệu việc làm, giảm nhẹ tác động bất lợi của cuộc khủng
hoảng đối với người thu nhập thấp; kích thích đầu tư và tiêu dùng để phục hồi tăng
trưởng kinh tế trong 2 năm tới. 65% giá trị của gói kích thích này là đầu tư phát
triển cơ sở hạ tầng và 35% là giảm thuế. Như vậy, cho đến nay, tổng trị giá gói kích
thích kinh tế của Mỹ qua các đợt đã lên đến 2.250 tỷ USD.

19


1.2.2.6.

Các nước EU cũng triển khai các gói kích thích kinh tế lớn để

đối phó với khủng hoảng. EU khuyến nghị các nước thành viên cam kết không giảm
ngân sách, thực hiện sớm kích cầu thông qua giảm thuế, tăng cho vay ngắn hạn, cải
thiện môi trường đầu tư, giảm chi phí hành chính và tăng cường đổi mới công nghệ.
Là một trong những nền kinh tế đầu tàu của EU, tháng 12-2008, Đức chi các gói
cứu trợ kinh tế đầu tiên với 31 tỷ USD, gói thứ hai 50 tỷ USD được Hạ viện thông
qua ngày 13-2-2009, tập trung vào xây dựng trường học, đầu tư đường bộ, đường
sắt, internet băng thông rộng, xây dựng, khai thác các nguồn năng lượng sạch.
1.2.2.7.

Ngay từ đầu khủng hoảng, Chính phủ Pháp liên tiếp đã đưa ra

những biện pháp đối nội và đối ngoại để để đối phó với khủng hoảng. Dành 26 tỷ ơrô để đầu tư vào 1.000 dự án ưu tiên trong các lĩnh vực: kết cấu hạ tầng đường bộ
và đường sắt; xây dựng nhà ở xã hội; quốc phòng và an sinh; giáo dục bậc cao và
nghiên cứu; bảo tồn bảo tàng. Ngoài biện pháp hỗ trợ bán ô tô thông qua việc
thưởng 1.000 euro cho những người mua ô tô sạch, chính phủ dành 7,8 tỷ ơ-rô để

hỗ trợ hai doanh nghiệp sản xuất ô tô PSA (Peugeot) và Renault. Tây Ban Nha cũng
nhanh chóng thành lập Quỹ đặc biệt kích thích kinh tế và tạo công ăn việc làm của
nhà nước với nguồn vốn 11 tỷ ơ-rô nhằm mục tiêu tạo ra 300.000 việc làm mới
trong năm 2009.
1.2.2.8.

Trong các nền kinh tế châu Âu, Anh là nền kinh tế không sử

dụng đồng ơ-rô (eurozone), và có cấu trúc, cách thức phát triển tương đối giống
Mỹ, nên chịu tác động của khủng hoảng mạnh nhất trong nhóm các nước G20.
Ngay từ tháng 9-2008, nước này đã đưa ra kế hoạch giải cứu tổng thể đầu tiên với
400 tỷ bảng nhằm cung cấp tín dụng, tiếp quản một số ngân hàng lớn có nguy cơ đổ
vỡ… Tiếp đến, tháng 11-2008, đưa ra gói giải pháp kích cầu trị giá 20 tỷ bảng nhằm
giảm thuế VAT; tăng chi của chính phủ, điều chỉnh một số chính sách thuế với
doanh nghiệp; an sinh xã hội.
1.2.2.9.

Mặc dù hệ thống ngân hàng của Nhật Bản hiện nay không bị

nguy cơ đổ vỡ như của Mỹ và EU, nhưng các ngành kinh tế chủ lực của nền kinh tế
bị đình trệ do xuất khẩu sụt giảm mạnh. Đến nay, Nhật Bản đã công bố gói kích
thích kinh tế 117 tỷ USD trong quý 4/2008 với mục tiêu tạo 1,5 triệu việc làm trong
20


3 năm, hỗ trợ tiêu dùng các doanh nghiệp vừa và nhỏ; giảm thuế, đầu tư phát triển
giao thông, trợ giá nhiên liệu, lương thực….
1.2.2.10.

Để đối phó với khủng hoảng, chính phủ Hàn Quốc đã nhanh


chóng thực hiện “chính sách kinh tế - xã hội mới” với chi phí 38 tỷ USD, nhằm phát
triển cơ sở hạ tầng để tăng việc làm, tạo điều kiện cho ngành xây dựng cũng như
kinh tế địa phương phát triển. Ngoài ra chính phủ nước này đã tuyên bố kế hoạch
phát triển kinh tế xã hội xanh để tạo 96 ngàn việc làm cho đến năm 2012. Hàn Quốc
muốn thông qua những kế hoạch này trước mắt là tạo việc làm, song về lâu dài để
nhằm củng cổ các nền tảng cho sự phát triển sau khủng hoảng.
1.2.2.11.

Trung Quốc gây ngạc nhiên cho toàn thế giới khi công bố gói

kích thích tài chính trị giá 4000 tỷ NDT (tương đương 586 tỷ USD) đến năm 2010
với 10 giải pháp và các hạng mục đầu tư khá rạch ròi, bao gồm: xây dựng các công
trình đảm bảo đảm đời sống, xây dựng kết cấu hạ tầng nông thôn, đường sắt, đường
bộ, sân bay; tăng chi cho phát triển y tế, giáo dục, môi trường sinh thái; phục hồi
khu vực động đất; điều chỉnh cơ cấu; cải cách chính sách thuế giá trị gia tăng; cải
tạo kỹ thuật, giảm thuế cho các doanh nghiệp, tăng mức hỗ trợ tài chính - tiền tệ.
Chính sách kích cầu của Trung Quốc nhìn chung khá linh hoạt và tỏ ra có hiệu quả
bước đầu. Có sự phân biệt đối tượng hưởng thụ chính sách, không tràn lan, hướng
nhiều đến cải cách hành chính, điều chỉnh cơ cấu nền kinh tế, khu vực nông thôn,
lao động, việc làm và y tế, giáo dục.
1.2.2.12.

Các nước ASEAN chưa chịu tác động trực tiếp, nhưng khủng

hoảng tài chính đã làm bộc lộ điểm yếu của các nước này là lệ thuộc nhiều vào thị
trường xuất khẩu (Mỹ, châu Âu) và chưa thực sự chú trọng thị trường trong nước.
Vì vậy, các biện pháp kích thích của các nước đều hướng vào kích thích nhu cầu
trong nước; giải quyết việc làm, tăng cường đổi mới và nâng cao năng lực cạnh
tranh.Cụ thể là: Xin-ga-po đã đưa kế hoạch phục hồi kinh tế trị giá 13,7 tỷ USD chủ

yếu hỗ trợ các doanh nghiệp và nâng cao năng lực cạnh tranh; Thái Lan thực hiện
gói kích thích kinh tế 8,7 tỷ USD với trọng tâm nhằm tăng sức tiêu thụ trong nước,
hỗ trợ nông dân, xuất khẩu, du lịch, giảm chi phí dịch vụ công, tạo công ăn việc
làm; In-đô-nê-xi-a đang triển khai chương trình kích thích kinh tế 6,3 tỷ USD nhằm
21


miễn thuế VAT cho 17 lĩnh vực ưu tiên, tạo việc làm và hỗ trợ doanh nghiệp tư
nhân. Phi-li-pin kích thích kinh tế với 6,3 tỷ USD, tập trung đầu tư công cho phát
triển hạ tầng và nông nghiệp, tăng cường an sinh xã hội, y tế, giáo dục…
1.2.3. Chính sách thu nhập
1.2.3.1. Khái niệm
1.2.3.2.

Chính sách thu nhập là chính sách của chính phủ tác động trực

tiếp đến tiền công, giá cả với mục đích chính là để kiềm chế lạm phát. Chính sách
này sử dụng nhiều loại công cụ, từ các công cụ có tính chất cứng rắn như giá,
lương, những chỉ dẫn chung để ấn định tiền công và giá cả, những quy tắc pháp lý
ràng buộc sự thay đổi giá cả và tiên lương,... đến những công cụ mềm dẻo hơn như
việc hướng dẫn khuyến khích bằng thuế thu nhập...
1.2.3.3.

Chính sách này sử dụng nhiều công cụ như giá (P), lương (W),

những chỉ dẫn chung để ấn định tiền công và giá cả, những quy tắc pháp lý ràng
buộc sự thay đổi giá cả và tiền lương...
1.2.3.4.

Chính sách thu nhập có rất nhiều mức độ, từ việc hướng dẫn


lương và giá cả theo chính sách đến việc kiểm soát bắt buộc lương và giá theo mức
cố định.
1.2.3.5.

Một dạng của chính sách thu nhập là "tax-based incomes

policies" (TIPs - chính sách thuế thu nhập). Khi áp dụng chính sách này, một phần
hỗ trợ của chính phủ sẽ được áp dụng cho những doanh nghiệp tăng giá của sản
phẩm hoặc tăng lương cao hơn so với mức được phép. Chính sách này khắc phục
được thất bại thị trường và hạn chế lạm phát do tình trạng này gây ra (Thất bại thị
trường xảy ra khi sự phân phối hàng hóa và dịch vụ trên thị trường tự do không hiệu
quả...)
1.2.3.6.

Một vài nhà kinh tế học cho rằng chính sách thu nhập đáng tin

cậy có thể kìm hãm được lạm phát, tuy nhiên chính sách này còn các những tác
động khác. Do có những điều khoản tác động đến giá cả của sản phẩm, những nhà
sản xuất sẽ cố gắng giảm thiểu chi phí sản xuất nhằm bảo toàn lợi nhuận, thậm chí
cắt giảm sản xuất (trong thời điểm lạm phát) do đó sẽ có khả năng dẫn đến cắt giảm
22


nguồn cung. Ngoài ra chính phủ còn phải tăng chi tiêu cho đội ngũ quản lý nhằm
đảm bảo chính sách được thực thi dẫn đến tác dụng ngược. Tình trạng này đã xảy ra
tại Mỹ vào đầu những năm 1970 khi giá bán được chính phủ quy định thấp hơn giá
sản xuất, điều này đã dẫn đến việc giảm lượng cung trong khi nhu cầu lại tăng, từ
đó đã dẫn đến việc khan hiếm sản phẩm.
1.2.3.7.


Chính sách thu nhập có thể được sử dụng hiệu quả ở một số

nền kinh tế độc quyền toàn phần, nền kinh tế độc quyền một phần và đặc biệt là nền
kinh tế chi phối toàn bộ do nhà nước trong đó đa phần công nhân tham gia các công
đoàn. Với trạng thái kinh tế như vậy cho phép việc đàm phán và giám sát lương và
giá cả điễn ra một cách hiêu quả.
1.2.3.8.

Những nhà kinh tế học khác nghĩ theo hướng ngược lại, họ cho

rằng lạm phát chỉ được kiểm soát thông qua việc quản lý nguồn cung tiền một cách
trực tiếp hoặc gián tiếp thông qua công cụ lãi suất. Các nhà kinh tế học cho rằng
việc giá cả tăng là do lượng cung tiền ngân hàng trung ương tăng. Chính các nhìn
nhận vấn đề như vậy, họ cho rằng nếu không có một kế hoạch kinh tế toàn phần thì
chính sách thu nhập không thể hoạt động bởi vì lượng tiền dư lưu thông trong thị
trường sẽ làm ảnh hưởng lớn đến các lĩnh vực mà chính sách thu nhập không kiểm
soát được.
1.2.3.9.
1.2.3.10.

Thực tiễn của chính sách thu nhập
Trong thời gian cuộc cách mạng Pháp xảy ra (1790s) chính

sách này được sử dụng dưới tên là "The Law of the Maximum" nhằm giảm lạm phát
thông qua việc giới hạn lương và giá cả lương thực nhưng không hiệu quả. Chính
sách này tồn tại được 14 tháng và sau đó được bãi bỏ.
1.2.3.11.

Trong thời kì hòa bình, chính sách thu nhập được sử dụng ở


Mỹ và tháng 1 năm 1971 nhằm kiềm chế lạm phát, chính sách tỏ ra hiệu quả vào lúc
đầu nhưng sau đó bị bãi bỏ vào tháng 1 năm 1973 do kém tác dụng về sau.
1.2.3.12.

Tại nước Anh, chính sách này rất hiệu quả trong suốt thời gian

chiến tranh thế giới lần thứ 2 nhưng tỏ ra kém hiệu quả trong thời kì hậu chiến.
23


1.2.3.13.

Mặc dù kết quả có cả thành công lẫn thất bại, chính sách này

vẫn được sử dụng tại nhiều đất nước điển hình là Australia và Netherlands.

24


1.2.4. Chính sách ngoại thương
1.2.4.1. Định nghĩa
1.2.5. Chính sách ngoại thương là một hệ thống các nguyên tắc, biện pháp
kinh tế, hành chính và pháp luật dùng để thực hiện các mục tiêu đã xác định trong
lĩnh vực ngoại thương của một nước trong thời kỳ nhất định.
1.2.6. Chính sách ngoại thương là một bộ phận quan trọng của chính sách
kinh tế của một nước, nó góp phần thúc đẩy thực hiện các mục tiêu kinh tế của đất
nước trong từng thời kỳ.
1.2.7. Mục tiêu phát triển kinh tế của một đất nước trong từng thời kỳ có
khác nhau, cho nên đường lối chính sách ngoại thương phải thay đổi để đạt được

những mục tiêu cụ thể của chính sách kinh tế. Không có chính sách ngoại thương áp
dụng cho mọi thời kỳ phát triển kinh tế. Tuy nhiên, các chính sách ngoại thương đều
có tác dụng bảo vệ sản xuất trong nước, chống lại sự cạnh tranh từ bên ngoài, tạo
điều kiện thúc đẩy sản xuất trong nước phát triển và bành trướng ra bên ngoài.
1.2.8. Mỗi nước đều có những đặc thù chính trị, kinh tế - xã hội và điều kiện
tự nhiên để phát triển kinh tế, vì vậy mỗi nước đều có chính sách phát triển ngoại
thương riêng với các biện pháp cụ thể
1.2.9. Đối với các nhà quản lý và doanh nghiệp của sản xuất và thương mại,
việc nghiên cứu chính sách ngoại thương của các nước có ý nghĩa quan trọng.


Giúp rút ra những kinh nghiệm về xây dựng và tổ chức thực hiện chính sách



ngoại thương của đất nước một cách có khoa học và hiệu quả nhất.
Nắm rõ chính sách ngoại thương của các nước mới tìm cách xâm nhập và
phát triển thị trường, chọn thị trường thích hợp, nâng cao hiệu quả hoạt động



ngoại thương.
Giúp các nhà lãnh đạo ở tầm vĩ mô xây dựng chính sách đối ngoại song
phương và đa phương phù hợp.

25


×