Tải bản đầy đủ (.doc) (18 trang)

địa vị pháp lý của người bào chữa trong tố tụng hình sự

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (136.06 KB, 18 trang )

LỜI MỞ ĐẦU
Kể từ khi giành độc lập và khai sinh ra nước Việt Nam dân chủ cộng
hòa đến nay, Đảng và Nhà nước ta luôn coi trọng và đặt lên hàng đầu việc
bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của công dân khi tham gia tố tụng hình sự,
nhân trong xã hội, đặc biệt là đối với những đối tượng chịu ảnh hưởng trực
tiếp của pháp luật tố tụng hình sự là bị can, bị cáo, các hoạt động tố tụng
hình sự như bắt, tạm giữ, tạm giam, truy tố, xét xử…của các cơ quan tiến
hành tố tụng, ảnh hưởng trực tiếp đến quyền cơ bản của công dân. Để góp
phần bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của người bị tạm giữ, bị can, bị cáo,
pháp luật quy định cho họ có quyền tự bảo chữa hoặc nhờ người bào chữa.
Những quy định về quyền bào chữa đã hình thành một chế định pháp lý về
người bào chữa và địa vị pháp lý người bào chữa. Trong tố tụng hình sự, địa
vị pháp lý của người bào chữa rất quan trọng, nó sẽ ảnh hưởng trực tiếp đến
việc thực hiện quyền bào chữa của bị can, bị cáo, đến hiệu quả của công việc
bào chữa. Việc người bào chữa tham gia vào các giai đoạn của tố tụng hình
sự đã ít nhiều làm cho các cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng
tìm ra sự thật khách quan của vụ án, góp phần khắc phục tình trạng oan, sai
đem lại một nền tư pháp công bằng, dân chủ, văn minh, ở đó quyền và lợi
ích hợp pháp của công dân ngày càng được bảo vệ tốt hơn. Để các bạn hiểu
rõ hơn về quyền và nghĩa vụ của người bào chữa, em đã nghiên cứu vấn đề
“ địa vị pháp lý của người bào chữa trong tố tụng hình sự”. bài viết chắc sẽ
không tránh khỏi những sai lầm, mong được thầy cô và các bạn góp ý để bài
viết này được hoàn thiện hơn. Em xin chân thành cảm ơn!

1


I/ Khái Quát Chung.
1.1) Khái Niệm.
Người bào chữa là người được các cơ quan tiến hành tố tụng chứng
nhận, tham gia tố tụng để đưa ra những tình tiết xác định người bị tạm giữ,


bị can, bị cáo vô tội, những tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự của người
bị tạm giữ, bị can, bị cáo và giúp đỡ người bị tạm giữ, bị can, bị cáo về mặt
pháp lý nhằm bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của họ.
1.2) Phân loại.
Theo quy định tại khoản 1 điều 56 bộ luật tố tụng hình sự năm 2003,
người bào chữa có thể là luật sư, người đại diện hợp pháp của người bị tạm
giữ, bị can, bị cáo; bào chữa viên nhân dân.
- Luật sư là người có đủ điều kiện hành nghề theo quy định của pháp
luật và tham gia tố tụng theo yêu cầu của cá nhân, tổ chức nhằm bảo vệ
quyền, lợi ích hợp pháp của cá nhân, tổ chức đó theo quy định của pháp luật.
Hoạt động bào chữa của luật sư có tính chất chuyên nghiệp
- Người đại diện hợp pháp cho người bị tạm giữ, bị can, bị cáo : là cha
cha mẹ hoặc người giám hộ của người bị tạm giữ, bị can, bị cáo chưa thành
niên hoặc người có nhược điểm về thể chất hoặc tâm thần
- Bào chữa viên nhân dân : có thể là người được Ủy ban Mặt trận Tổ
quốc việt Nam, tổ chức thành viên của mặt trận cử để bào chữa cho người bị
tạm giữ, bị can, bị cáo là thành viên của tổ chức mình. Khi tham gia tố tụng
với tư các là người bào chữa, luật sư, đại diện hợp pháp của bị can, bị cáo,
bào chữa viên nhân dân đều có các quyền và nghĩa vụ mà pháp luật quy định
chung cho người bào chữa.

2


II/ Địa vị pháp lý của người bào chữa trong tố tụng hình sự
Cùng với quá trình phát triển của đất nước, đảng ta đã xác định mở
rộng dân chủ và đổi mới trên mọi lĩnh vực của đời sống là cần thiết.
BLTTHS năm 1988 trong quá trình thi hành gần 15 năm qua, đã được sửa
đổi bổ sung ba lần ( 6/1990, 12/1992 và 6/2000). Hiện nay, thực hiên chủ
trương cải cách tư pháp trong đó những vấn đề liên quan đến người bào chữa

và địa vị pháp lý của người bào chữa đã được các nghị quyết của Đảng, đặc
biệt là nghị quyết số 08-NQ/TW, ngày 2/1/2002 của bộ chính trị về một số
nhiệm vụ trọng tâm công tác tư pháp trong thời gian tới. Đảng ta đã xác định
: Phải cụ thể hóa các quy định của hiến pháp năm 1992 về người bào chữa
và thể chế hóa các chủ trương đó thành những luật định cụ thể, sửa đổi một
cách cơ bản, toàn diện Bộ Luật Tố Tụng Hình Sự hiện hành nhằm nâng cao
chất lượng hoạt động của các cơ quan tư pháp. Bộ Luật TTHS năm 2003 đã
được quốc hội nước CHXHCN Việt Nam khóa XI kỳ họp thứ 4 thông qua
ngày 26/11/2003 có hiệu lực từ ngày 1/7/2004 thay thế BLTTHS năm 1988.
Bộ Luật TTHS 2003 quy định rõ ràng, đầy đủ hơn quyền và nghĩa vụ của
người bào chữa, nâng cao trách nhiệm của cơ quan, người tiến hành tố tụng
trong hoạt động điều tra, truy tố và xét xử. Dưới đây là phần trình bày về địa
vị pháp lý của người bào chữa trong tố tụng hình sự và trong đó sẽ có những
so sánh, những điểm mới hơn so với BLTTHS năm 1988 để người đọc hiểu
rõ hơn.
2.1) Quyền của người bào chữa
So với BLTTHS năm 1988 thì BLTTHS năm 2003 có nhiều sửa đổi,
bổ sung về quyền của người bào chữa thể hiện trước hết ở quy định về thời
điểm tham gia tố tụng của người bào chữa: Trong trường hợp khẩn cấp; bắt
người phạm tội quả tang hoặc đang bị truy nã thì người bào chữa tham gia
tố tụng từ khi có quyết định tạm giữ. Việc này giúp cho người bào chữa được
3


tiếp xúc với vụ án ngay từ đầu, sẽ thuận lợi cho người bào chữa trong việc
thu thập chứng cứ gỡ tội và những tình tiết giảm nhẹ cho bị can, để có thể
bào chữa cho bị can ở gian đoạn sau của quá trình TTHS
Tại khoản 2, điểm a, điều 58 ( BLTTHS năm 2003 ) : người bào chữa
được quyền có mặt khi lấy lời khai của người bị tạm giữ, khi hỏi cung bị can
và nếu điều tra viên đồng ý thì được hỏi người bị tạm giữ, bị can và có mặt

trong những hoạt động điều tra khác; xem các biên bản về hoạt động tố
tụng có sự tham gia của mình và các quyết định tố tụng liên quan đến người
mà mình bào chữa; Việc quy định như vậy sẽ giúp người bào chữa có cái
nhìn tổng quát về vụ án, kiểm tra giúp thân chủ của mình xem trong văn bản
lời khai có chỗ nào sơ hở, thiếu chặt chẽ hoặc bất lợi cho bị can mà sau này
cơ quan điều tra có thể sử dụng để buộc tội… để yêu cầu thân chủ khai lại
giải thích lại hoặc đính chính lại những đoạn trong biên bản đó tránh tình
trạng sau này khi đã có chữ ký xác nhận rồi thì đó đã được coi là chứng cứ.
Quy định như vậy, là mở rộng sự tham gia của người bào chữa vào trong các
hoạt động điều tra , điều này không những thể hiện tính dân chủ công khai
trong hoạt động điều tra mà còn giúp cho cơ quan điều tra và cụ thể là điều
tra viên nâng cao trình độ của mình. Vì thế khi điều tra viên hỏi cung hoặc
lấy lời khai của bị can, bị cáo mà có luật sư bào chữa ( người am hiểu pháp
luật ) ngồi bên cạnh thì những câu hỏi, cách hỏi và cách viết biên bản cũng
phải cẩn thận cho đúng pháp luật hơn.
Tại khoản 2, điểm b, điều 58 ( BLTTHS năm 2003 ) có quy định:
người bào chữa có quyền đề nghị cơ quan điều tra báo trước về thời gian
địa điểm hỏi cung bị can để có mặt khi hỏi cung bị can. Quy định quyền này
tạo điều kiện để người bào chữa có thể chủ động sắp xếp thời gian để thực
hiện quyền có mặt trong các hoạt động điều tra mà mình khi thấy cần thiết.

4


Tại khoản 2, điểm c, điều 58 ( BLTTHS năm 2003 ) quy định : người
bào chữa có quyền đề nghị thay đổi người tiến hành tố tụng, người giám
định, người phiên dịch theo quy định của bộ luật này. Người bào chữa nếu
có căn cứ chứng minh việc những người này tiến hành hoặc tham gia tố tụng
có thể làm ảnh hưởng không tốt đến quyền và lợi ích hợp pháp của người mà
mình bào chữa.

Tiếp đó là những quy định về quyền thu nhập tài liệu, đồ vật, tình tiết
liên quan đến việc bào chữa từ người bị tạm giữ, bị can, bị cáo, người thân
thích của những người này hoặc từ cơ quan, tổ chức, cá nhân theo yêu cầu
của người bị tạm giữ, bị can, bị cáo nếu không thuộc bí mật nhà nước, bí
mật công tác. Muốn bào chữa tốt được cho thân chủ của mình người bào
chữa không thể chỉ dựa vào chứng cứ, tài liệu do cơ quan điều tra thu thập
được; Vì vậy, người bào chữa phải có quyền tự mình đi thu nhập tài liệu, đồ
vật, đây cũng có thể coi là quyền để phục vụ cho các quyền khác của người
bào chữa như quyền gặp bị can, bị cáo, quyền có mặt khi hỏi cung bị can , bị
cáo. Sau khi gặp và có mặt trong khi hỏi cung, người bào chữa có thể biết
thêm những tình tiết mới hoặc bị can , bị cáo yêu cầu người bào chữa tìm
giúp những nhân chứng, vật chứng ( tài liệu, đồ vật ) mà có thể cung cấp
những tình tiết có lợi cho bị can, bị cáo.
Trong quá trình tham gia bào chữa cho người bị tạm giữ, bị can, bị
cáo, khi thấy cần thiết người bào chữa có quyền đưa ra tài liệu, đồ vật, yêu
cầu ( khoản 2, điểm đ, điều 58 ) theo hướng có lợi cho người bị tạm giữ, bị
can, bị cáo. Người bào chữa cũng có quyền đưa ra yêu cầu như triệu tập
thêm người làm chứng, trưng cầu giám định nếu xét thấy điều đó là cần thiết
và có lợi cho người được bào chữa. cơ quan tiến hành tố tụng phải tôn trọng
quyền đưa ra tài liệu, đồ vật, yêu cầu của người bào chữa

5


Người bào chữa có quyền gặp người bị tạm giữ; gặp bị can, bị cáo
đang bị tạm giam ( khoản 2, điểm e, điều 58, BLTTHS năm 2003 ). Người
bào chữa phải thường xuyên gặp gỡ, trao đổi, tiếp xúc với người bị tạm giữ,
bị can, bị cáo để có thể nắm được đầy đủ các tình tiết vụ án, các đặc điểm
nhân thân và diễn biến tâm lý, tâm tư, nguyện vọng của người được bào
chữa. Trên cơ sở đó, người bào chữa mới thu nhập được những tình tiết gỡ

tội, giảm nhẹ tội để bào chữa cho những người này. Qua gặp gỡ, trao đổi,
người bào chữa giải thích những vấn đề về pháp luật và cũng có thể tác động
đến người bị tạm giữ, bị can, bị cáo làm cho họ có thái độ khai báo tốt hơn
để có thể được giảm nhẹ trách nhiệm hình sự.
Sau khi kết thúc điều tra, người bào chữa có quyền đọc, ghi chép và
sao chụp những tài liệu trong hồ sơ vụ án liên quan đến việc bào chữa.
( khoản 2, điểm g, điều 58 ) Quy định này đã loại bỏ được quy định chỉ
mang tính hình thức, có thể hiểu theo hai nghĩa trước đây của BLTTHS năm
1988 “ có quyền đọc hồ sơ và ghi chép những điều cần thiết sau khi kết thúc
điều tra” ( điều 26 BLTTHS năm 1988 ). Theo cách quy đinh của BLTTHS
năm 1988, thì mỗi cơ quan tiến hành tố tụng lại có thể hiểu khác nhau: ở giai
đoạn xét xử, một số toàn án không cho người bào chữa photocopy tài liệu có
trong hồ sơ vì lấy lý do BLTTHS năm 1988 chỉ cho phép đọc và ghi chép hồ
sơ chứ không cho sao chụp tài liệu, nhưng cũng có một số tòa án khác cho
phép sao chụp ( chủ yếu là do người bào chữa phải có quan hệ tốt với tòa án
nên mới được linh động như vậy). Những tồn tại này, đã được BLTTHS
năm 2003 sửa đổi, bổ sung hợp lý hơn rất nhiều và làm cho việc nghiên cứu
hồ sơ của người bào chữa được thực tế hơn; phù hợp với thông lệ của pháp
luật TTHS trên thế giới; bảo đảm tối đa quyền nghiên cứu tiếp cận hồ sơ của
người bào chữa đó là quyền được sao chụp những tài liệu hồ sơ liên quan
đến việc bào chữa; qua đó giúp người bào chữa được thuận lợi hơn trong
6


việc nghiên cứu và tìm hiểu hồ sơ vụ án để chuẩn bị bào chữa nhất là trong
các vụ án lớn có số tài liệu và bút lục nhiều.
Trong giai đoạn xét xử, người bào chữa có quyền tham gia hỏi và
tranh luận tại phiên tòa ( khoản 2, điểm h, điều 58 BLTTHS năm 2003 ).
Tại phiên tòa xét xử vai trò của người bào chữa được thể hiện rõ nét nhất.
Người bào chữa có quyền hỏi bị cáo và những người khác về những vấn đề

của vụ án để có được những câu trả lời theo hướng có lợi cho bị cáo. Khi
tranh luận , người bào chữa phải phân tích, lập luận, đưa ra những lý lẽ để
bảo vệ bị cáo và bác bỏ những lời buộc tội bị cáo. Trong hoạt động tố tụng ,
luôn có sự tranh luận, phản bác giữa các bên đối kháng khác nhau; hạn chế
đến mức thấp nhất các biểu hiện tiêu cực ( như sự tùy tiện và lạm dụng
quyền của CQTHTT, tính võ đoán của các phán quyết …). Quy định tranh
luận dân chủ được thể hiện rất rõ : Kiểm sát viên giữ quyền công tố tại phiên
tòa phải có ý kiến, luận cứ từng điểm một bằng những chứng cứ pháp luật về
những điều mà luật sư, bị cáo đưa ra. Những quy định như vậy đảm báo cho
quyền tranh luận của người bào chữa được thực quyền hơn, và kiểm sát viên
khi đuối lý không thể chỉ trả lời một câu chung chung đối lập với những lập
luận của người bào chữa như trước đây “ Tôi giữ nguyên quan điểm đã phát
biểu trước tòa ”
Ngoài ra, khi tham gia phiên tòa, người bào chữa còn có quyền xem
vật chứng, tài liệu liên quan đến vụ án ( khoản 4 điều 209BLTTHS năm
2003 ); hỏi bị cáo về những tình tiết liên quan đến việc bào chữa; hỏi thêm
về những điểm mà người bi hại, nguyên đơn dân sự, bị đơn dân sự, người có
quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến vụ án hoặc người đại diện hợp pháp của
họ về những điểm mà họ trình bày chưa đầy đủ hoặc có mâu thuẫn ( điều
210 BLTTHS năm 2003 ).

7


Để đảm bảo cho các hoạt động tố tụng được khách quan và toàn diện,
không thể thiếu được sự giám sát, kiểm tra đối với các quyết định cũng như
hành vị tố tụng của các CQTHTT. Vì vậy BLTTHS năm 2003 đã quy định
người bào chữa có quyền khiếu nại quyết định, hành vị tố tụng của cơ quan,
người có thẩm quyền tiến hành tố tụng; và đồng thơi cũng có quyền kháng
cáo bản án, quyết định của tòa án nếu bị cáo là người chưa thành niên hoặc

người có nhược điểm về tâm thần hoặc thể chất quy định tại điểm b khoản 2
điều 57 của BLTTHS năm 2003. Đây là quyền độc lập của người bào chữa,
người bào chữa kháng cao không phụ thuộc ý chí của bị cáo cũng như đại
diện hợp pháp của bị cáo. Kháng cáo của người bào chữa phải theo hướng
có lợi cho bị cáo. Trong BLTTHS năm 2003, đối tượng mà người bào chữa
được quyền khiếu nại không chỉ là “ quyết định tố tụng ” mà còn là “ hành vị
tố tụng ” của cơ quan, người có thẩm quyền tiến hành tố tụng. Đây cũng là
điểm tiến bộ so với những quy định của BLTTHS năm 1988.
2.2)

Nghĩa vụ của người bào chữa

Sử dụng mọi biện pháp do pháp luật quy định để làm sang tỏ những
tình tiết xác định người bị tạm giữ, bị can, bị cáo vô tội, những tình tiết
giảm nhẹ trách nhiệm hình sự của bị can, bị cáo.
Tùy theo mỗi giai đoạn tố tụng, khi thu nhập được tài liệu, đồ vật liên
quan đến vụ án, người bào chữa có trách nhiệm giao cho CQĐT, Viện kiểm
sát, Tòa án. Việc giao nhận các tài liệu, đồ vật đó giữa người bào chữa và
CQTHTT phải được lập biên bản theo quy định của BLTTHS( khoản 3, điểm
a, điều 58 BTTHS năm 2003). Người bào chữa có nghĩa vụ tôn trọng sự thật
và pháp luật; không được mua chuộc, cưỡng ép hoặc xúi giục người khác
khai báo gian dối, cung cấp tài liệu sai sự thật.(khoản 3, điểm d, điều 58
BLTTHS năm 2003) Đây là quy định đã giải tỏa được một số quan điểm
hiện nay vẫn còn đang thắc mắc là : Mục đích của người bào chữa là bảo vệ
8


thân chủ của mình có mâu thuẫn với việc tuân thủ pháp luật bảo vệ pháp chế
hay không? Điều luật quy định như vậy đã giải quyết được vấn đề trên, tức
là người bào chữa tham gia bào chữa cho thân chủ của mình nhưng phải có

nghĩa vụ tôn trọng pháp luật, tôn trọng sự thật. tránh trường hợp bào chữa
chỉ có mục đích duy nhất là bảo vệ cho thân chủ của họ, để làm nhẹ tội cho
thân chủ nên tìm mọi cách, biện pháp kể cả hợp pháp hay không hợp pháp.
Ngoài ra theo khoản 3, điểm b, c , điều 58, BLTTHS năm 2003 thì
người bào chữa còn có nghĩa vụ giúp người bị tạm giữ, bị can, bị cáo về mặt
pháp lý nhằm bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của họ; không được từ chối
bào chữa cho người bị tạm giữ, bị can, bị cáo mà mình đã đảm nhận bào
chữa, nếu không có lý do chính đáng. Tiếp đó, để đảm bảo việc có mặt của
người bào chữa tại phiên tòa, thì Luật đã quy định người bào chữa có nghĩa
vụ có mặt theo giấy triệu tập của tòa án (khoản 3, điểm đ, điều 58 ). Một khi
đã nhận tham gia TTHS để bào chữa cho thân chủ, người bào chữa phải thấy
được tham dự phiên tòa vừa là trách nhiệm, vừa là quyền lợi để qua đó mình
thể hiện khả năng kiến thức chuyên môn của mình, đồng thời chứng tỏ vai
trò của người bào chữa trong việc bảo vệ quyền lợi của bị can, bị cáo. Tránh
tình trạng trong một số trường hợp tòa án cứ phải hoãn phiên tòa do vắng
mặt người bào chữa như quy định tại đoạn 2, điều 190 BLTTHS năm 2003.
Hơn nữa, quy định về nghĩa vụ này của người bào chữa cũng giúp đảm bảo
hơn nữa quyền của bị can, bị cáo, bởi vì hiện nay theo tinh thần cải cách tư
pháp, và theo những quy định mới của BLTTHS năm 2003 tại điều 184 “
bản án chỉ được căn cứ vào những chứng cứ đã được xem xét tại phiên tòa
” thì việc người bào chữa có mặt tại phiên tòa là rất cần thiết; bởi vì tại
phiên tòa, quá trình xét hỏi và tranh luận rất có thể sẽ có thêm những tình
tiết mới có lợi cho bị cáo. Nếu người bào chữa không đến dự phiên tòa mà

9


chỉ gửi bản bào chữa dựa trên những chứng cứ của hồ sơ vụ án thì hiệu quả
công việc bào chữa sẽ không cao.
Theo BLTTHS năm 2003 quy định tại khoản 4 và điểm e, khoản 3 ,

điều 58 về nghĩa vụ của người bào chữa : không được tiết lộ bí mật điều tra
mà mình biết được khi thực hiện việc bào chữa; không được sử dụng tài liệu
đã ghi chép, sao chụp trong hồ sơ vụ án vào mục đích xâm phạm lợi ích của
Nhà nước, quyền, lợi ích chung hợp pháp của cơ quan, tổ chức và cá nhân;
người bào chữa làm trái pháp luật thì tùy theo tính chất, mức độ vi phạm mà
bị thu hồi giấy chứng nhận người bào chữa, xử lý kỷ luật, xử phạt hành
chính hoặc bị truy cứu trách nhiệm hình sự; nếu gây thiệt hại thì phải bồi
thường theo quy định của pháp luật.
III/ Thực trạng những quy định về người bào chữa ở nước ta hiện
nay.
BLTTHS năm 2003 với những quy định mới đã thể hiện được
tính khách quan minh bạch của hoạt động tố tụng hình sự, phù hợp với công
cuộng xây dựng nhà nước pháp quyền Việt Nam xã hội chủ nghĩa ở nước ta
hiện nay. BLTTHS năm 2003 đã cơ bản thể hiện được tư tưởng chỉ đạo của
Đảng ta về cải cách tư pháp trong những quy định về người bào chữa. Tuy
nhiên, trong BLTTHS năm 2003 vẫn còn một số quy định chưa khắc phục
được hoàn toàn những hạn chế của BLTTHS năm 1988, một số quy định
mới mặc dù rất tiến bộ nhưng chưa quy định rõ trách nhiệm thực hiện những
quy định đó như thế nào giữa các CQTHTT và Người THTT, có nhiều cách
hiểu khác nhau về cùng một quy định, nên các quyền và nghĩa vụ của người
bào chữa khó có thể đảm bảo được thực hiện đúng như quy định của điều
luật. Các CQTHTT thường giải thích và hiểu theo cách có lợi cho họ và gây
khó khăn cho công việc của người bào chữa. Hơn thế nữa, hoạt động bào
10


chữa, cũng như những quy định của pháp luật về người bào chữa hiện nay,
mặc dù được ban hành sau, nhưng phần nào vẫn chưa thể hiện được đầy đủ
tình thần cải cách tư pháp trong nghị quyết số 08-NQ/TW đã đề ra. Việc
đánh giá các quy định hiện hành và hoạt động của người bào chữa hiện nay

là vô cùng cần thiết, tiến tới hoàn thiện những quy định hiện thời của
BLTTHS năm 2003 nhằm thể hiện được hết tầm nhìn chiến lược của Đảng
ta về công cuộc cải cách tư pháp nói chung và những quy định về người bào
chữa nói riêng, giúp cho việc giải thích hướng dẫn thi hành BLTTHS năm
2003 sau này được thống nhất, phát huy được những tư tưởng tiến bộ trong
những quy định của điều luật, nêu ra những hạn chế và phương hướng giải
quyết.
IV/ Phương hướng phát triển và hoàn thiện những quy định về
người bào chữa.
Vấn đề đảm bảo sao cho người bào chữa thực hiện được những quyền
mà pháp luật TTHS quy định là hết sức cần thiết cho việc đảm bảo dân chủ
trong hoạt động TTHS trong giai đoạn hiện nay. Để làm được điều này, cần
phải tiến hành nhiều biện pháp đồng bộ nhằm làm cho những quy định của
pháp luật về quyền và nghĩa vụ của người bào chữa được thực hiện trong
thực tế một cách hợp lý, tránh hình thức. Cần giải thích và hướng dẫn thống
nhất các quy định hiện hành của BLTTHS năm 2003 để hoàn thiện các quy
định về địa vị pháp lý của người bào chữa cũng như thay đổi cách nhìn nhận
của người dân về hoạt động bào chữa và sự tham gia của người bào chữa
vào TTHS. Hiện nay mặc dù pháp luật TTHS nước ta đã có những quy định
hết sức tiến bộ, đề cao vị trí và vai trò và địa vị pháp lý của người bào chữa
nhưng việc áp dụng và triển khai thực hiện trong thực tế vẫn còn nhiều bất
cập hạn chế cần phải khắc phục để người bào chữa thực sự phát huy hiệu
11


quả của mình trong hoạt động bào chữa. Cần có những quy định cụ thể về cơ
chế trách nhiệm của CQTHTT bảo đảm cho người bào chữa thực hiện quyền
và trách nhiệm của họ. Để làm được các vấn đề trên, cần tập trung vào giải
quyết một số công việc sau :
- Về pháp luật : Trước hết, cần nghiên cứu và bổ sung những quy định

cần thiết để khắc phục những bất hợp lý trong những quy định của pháp luật
( như những phân tích về các quy định của pháp luật về người bào chữa ),
đảm bảo cho những quy định được hợp lý và phù hợp với thực tiễn. Rà soát
lại hệ thống văn bản pháp luật về người bào chữa. Quy định cụ thể hơn nữa
về quyền và nghĩa vụ khi tham gia TTHS của người bào chữa. Yêu cầu các
cơ quan tiến hành tố tụng, những người tiến hành tố tụng và tham gia tố tụng
thực hiện đầy đủ và đúng các quy định của BLTTHS năm 2003. Ban hành
hoặc hưỡng dẫn thực hiện những quy định về trách nhiệm cũng như chế tài
để xử lý những người tiến hành tố tụng có hành vị xâm hại đến quyền bào
chữa của người bị tạm giữ, bị can, bị cáo hoặc ko đảm bảo cho người bào
chữa thực hiện quyền khi tham gia bảo vệ cho thân chủ của họ dẫn đến oan
sai cho người bị tạm giữ, bị can, bị cáo. Cần phải xây dựng các biện pháp
bảo đảm thực hiện quyền của người bào chữa một cách nghiêm túc hạn chế
sự lần lướt của cơ quan tiến hành tố tụng đến quyền của người bào chữa .
Nên quy định thêm các tội xâm hại hoặc cản trở việc thực hiện quyền bào
chữa của bị can, bị cáo. Thay đổi các quy định về chứng cứ để đảm bảo cho
các bên buộc tội và gỡ tội đều có quyền ngang nhau trong việc đưa ra chứng
cứ. Ngoài ra, cần quy định hoặc giải thích rõ để có cách hiểu thống nhất về
tiêu chuẩn của những người bào chữa là BCVND, người đại diện hợp pháp
của người bị tạm giữ, bị can, bị cáo, đồng thời quy định về cơ chế, thủ tục cử
hoặc nhờ những người bào chữa này tham gia vào TTHS sao cho phù hợp và

12


thể hiện đầy đủ được tinh thần của cả BLTTHS năm 2003 và những tư
tưởng chỉ đạo của Đảng về caie cách tư pháp.
- Về đào tạo, bồi dưỡng người bào chữa: Cần phải chính quy hóa,
chuyên nghiệp hóa đội ngũ người bào chữa để xây dựng nên một đội ngũ
những người bào chữa có trình độ pháp lý cao hơn hoặc ít ra cũng phải

tương đương với người tiến hành tố tụng để hoạt động tranh tụng giữa người
bào chữa với phía buộc tội được tương xứng với nhau về trình độ hiểu biết
pháp luật, đảm bảo tính “ đối trọng ”, “ chế ước ” của phía gỡ tội đối với
phía buộc tội trong TTHS. Trước mắt, cần có biện pháp phát triển đội ngũ
người bào chữa là luật sư làm nòng cốt cho đội ngũ người bào chữa. Xây
dưng chương trình học tập kinh nghiệm, bồi dưỡng kỹ năng tranh luận tại
phiên tòa và đạo đức nghề nghiệp cho người bào chữa. Người bào chữa cần
phải rèn luyện tư cách đạo đức nghề nghiệp, phải thấy được việc thực hiện
công việc bào chữa của mình là hết sức quan trọng, ảnh hưởng lớn đến
quyền cá nhân của công dân. Đặc biệt là đối với trường hợp người bào chữa
do cơ quan THTT mời tham dự vào những vụ án buộc phải có người bào
chữa. Trong những trường hợp này, thường thì người bào chữa không tận
tâm với công việc bào chữa mà chỉ có mặt cho đầy đủ thủ tục phiên tòa mà
thôi. Do đó, ngay bản thân người bào chữa cần phải thay đổi, hạn chế những
suy nghĩ tiêu cực tránh việc tham gia vào TTHS một cách hình thức như
vậy.
- Phối hợp với các cơ quan khác: Điều này chỉ có thể thực hiện bằng
những quy định thật rõ ràng của pháp luật, xác định rõ quyền và nghĩa vụ
của các bên, sao cho người bào chữa có đủ điều kiện, phương tiện để thực
hiện quyền của mình đã được pháp luật TTHS ghi nhận. Phối hợp giữa các
cơ quan: Bộ công an, Viện kiểm sát, tòa án nhân dân, Bộ tư pháp ban hành
thong tư liên tịch quy định trình tự, thủ tục cụ thể, chi tiết nghĩa vụ của các
13


CQTHTT phải đào tạo điều kiện cho luật sư tham gia TTHS để bảo vệ cho
thân chủ của họ, quy định rõ trách nhiệm giải quyết khiếu nại trong trường
hợp này và nghĩa vụ nếu vi phạm. Cần phối hợp với các phương tiện thông
tin đại chúng đẩy mạnh công tác tuyên truyền, phổ biến rộng rãi vai trò, vị
trí và chức năng của người bào chữa để công chúng hiểu thêm về người bào

chữa qua việc đưa các thông tin về hình ảnh, hoạt động bào chữa của người
bào chữa trong các vụ án hình sự, giúp đỡ thân chủ của mình như thế nào,
hiệu quả ra sao, để người dân đều có thể biết đến vai trò của người bào chữa
trong TTHS. Cần phải tăng cường công tác tuyên truyền để người dân thấy
được quyền và vai trò pháp lý của người bào chữa trong việc bảo vệ quyền
lợi cho bị can, bị cáo, từ đó vai trò của người bào chữa sẽ được biết đến
nhiều hơn, hoạt động bào chữa sẽ phát triển và hiệu quả sẽ ngày càng cao.

14


KẾT LUẬN
Trong tố tụng hình sự, địa vị pháp lý của người bào chữa có ý
nghĩa tương đối quan trọng, góp phần bảo vệ các quyền và lợi ích hợp pháp
của công dân nói riêng, góp phần xây dựng nhà nước pháp quyền xã hội chủ
nghĩa nói chung. Trong thời gian qua, địa vị pháp lý của người bào chữa
càng được nâng cao. Những quy định về quyền và nghĩa vụ của người bào
chữa trong tố tụng hình sự hiện nay được quy định trong BLTTHS năm
2003 là rất tiến bộ. Tuy nhiên, một số các quy định về người bào chữa trong
BLTTHS năm 2003 còn cần phải có văn bản hướng dẫn thi hành mới thực
hiện được thống nhất trên thực tiễn. Do đó, để thực hiện được chế định này
trên thực tế, chính phủ, tòa án nhan dân tối cao, viện kiểm sát nhân dân tối
cao, bộ tư pháp và các cơ quan hữu quan khác cần sớm ban hành các văn
bản giải thích, hướng dẫn thi hành sao cho thống nhất và đồng bộ. Trên thực
tế, địa vị pháp lý của người bào chữa có được đảm bảo và thực hiện còn phụ
thuộc rất nhiều vào bản thân người bào chữa. Do đó, cần đẩy mạnh các biện
pháp để sớm chỉnh quy hóa, nâng cao trình độ nghiệp vụ của đội ngũ những
người bào chữa nói chung và những người bảo chữa chuyên nghiệp là luật
sư nói riêng. Tiến tới xây dựng một đội ngũ người bào chữa chuyên nghiệp,
thông thạo chuyên môn, am hiểu pháp luật, mẫu mực về đạo đức, có trình độ

pháp lý cao hoặc ít ra cũng tương đương với Người tiến hành tố tụng để hoạt
động trang tụng giữa người bào chữa với phía buộc tội được tương xừng với
nhau về trình độ hiểu biết pháp luật.

15


TÀI LIỆU THAM KHẢO
1.

Giáo trình Luật tố tụng hình sự Việt Nam- Trường ĐH Luật
HN- Nxb Tư pháp 2006.

2.

Bộ Luật Tố tụng hình sự 2003.

16


MỤC LỤC

17


LỜI MỞ ĐẦU
Kể từ khi giành độc lập và khai sinh ra nước Việt Nam dân chủ cộng
hòa đến nay, Đảng và Nhà nước ta luôn coi trọng và đặt lên hàng đầu việc
bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của công dân khi tham gia tố tụng hình sự,
nhân trong xã hội, đặc biệt là đối với những đối tượng chịu ảnh hưởng trực

tiếp của pháp luật tố tụng hình sự là bị can, bị cáo, các hoạt động tố tụng
hình sự như bắt, tạm giữ, tạm giam, truy tố, xét xử…của các cơ quan tiến
hành tố tụng, ảnh hưởng trực tiếp đến quyền cơ bản của công dân. Để góp
phần bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của người bị tạm giữ, bị can, bị cáo,
pháp luật quy định cho họ có quyền tự bảo chữa hoặc nhờ người bào chữa.
Những quy định về quyền bào chữa đã hình thành một chế định pháp lý về
người bào chữa và địa vị pháp lý người bào chữa. Trong tố tụng hình sự, địa
vị pháp lý của người bào chữa rất quan trọng, nó sẽ ảnh hưởng trực tiếp đến
việc thực hiện quyền bào chữa của bị can, bị cáo, đến hiệu quả của công việc
bào chữa. Việc người bào chữa tham gia vào các giai đoạn của tố tụng hình
sự đã ít nhiều làm cho các cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng
tìm ra sự thật khách quan của vụ án, góp phần khắc phục tình trạng oan, sai
đem lại một nền tư pháp công bằng, dân chủ, văn minh, ở đó quyền và lợi
ích hợp pháp của công dân ngày càng được bảo vệ tốt hơn. Để các bạn hiểu
rõ hơn về quyền và nghĩa vụ của người bào chữa, em đã nghiên cứu vấn đề
“ địa vị pháp lý của người bào chữa trong tố tụng hình sự”. bài viết chắc sẽ
không tránh khỏi những sai lầm, mong được thầy cô và các bạn góp ý để bài
viết này được hoàn thiện hơn. Em xin chân thành cảm ơn!

18



×