Tải bản đầy đủ (.pdf) (53 trang)

Tiểu thuyết việt nam thập niên đầu thế kỷ XXI từ góc nhìn phân tâm học (TT)

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (986.29 KB, 53 trang )

ĐẠI HỌC HUẾ
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC

VĂN THỊ PHƯƠNG TRANG

TIỂU THUYẾT VIỆT NAM THẬP NIÊN ĐẦU THẾ KỶ XXI
TỪ GÓC NHÌN PHÂN TÂM HỌC

TÓM TẮT LUẬN ÁN TIẾN SĨ
VĂN HỌC VIỆT NAM
MÃ SỐ:

62 22 01 21

HUẾ, 8/ 2016


Công trình được hoàn thành tại ……………………………
Người hướng dẫn khoa học: PGS.TS Hồ Thế Hà

Phản biện 1:............................................................................
Phản biện 2:............................................................................
Phản biện 3:............................................................................
Luận án sẽ được bảo vệ trước Hội đồng chấm luận án tại hội đồng
chấm luận án Đại học Huế họp tại
……………………………………………………………………...

Vào hồi…… giờ…………ngày………tháng……năm 201……….
Có thể tìm hiểu luận án tại thư viện…………………......................



MỞ ĐẦU (4 trang)
1. Lý do chọn đề tài
Phân tâm học là ngành khoa học nghiên cứu tâm lý người, gắn
với các phạm trù vô thức, dục tính và những xung đột tinh thần. Phân
tâm học có liên hệ gần gũi với văn học khi cùng hướng vào đối tượng
con người trong mối quan hệ đời sống, dẫn đến quá trình tâm lý phức
tạp và bí ẩn.
Từ phân tâm học, vấn đề văn học được phản ánh ở góc nhìn rất
con người, với ẩn ức trong vô thức. Người đọc tìm trong văn học một
cảm giác đồng điệu khi trái tim người nghệ sĩ thực sự chạm vào sâu
thẳm tâm hồn. Giữa cõi mờ xa xăm, phân tâm học dẫn con người về
với bản ngã trong khoảnh khắc vô thức và tưởng tượng.
Tiếp cận mảng tiểu thuyết Việt Nam 10 năm đầu thế kỷ XXI,
người đọc ngỡ ngàng trước sự nở rộ của nhiều nhà văn tìm tòi và trải
nghiệm. Với hàng loạt vấn đề mới mẻ được đặt ra, việc chọn phân tâm
học soi chiếu vào tác phẩm là phương pháp nghiên cứu cần thiết và
thú vị, mở ra một đối thoại mới ở những miền nội tâm uẩn khúc - đặc
biệt khi gắn liền với xung động sáng tạo tinh thần, góp một cái nhìn
riêng vào việc tiếp cận quá trình vận động và phát triển của văn xuôi
đương đại nước ta mà chủ yếu là tiểu thuyết trong xu thế đổi mới và
hội nhập với nền văn học nhân loại.
2. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu của luận án: từ học thuyết phân tâm học,
nghiên cứu tiểu thuyết Việt Nam đầu thế kỷ XXI qua những hiện tượng
văn học nổi bật như: các tiểu thuyết của Tạ Duy Anh, Hồ Anh Thái,
Thuận, Nguyễn Đình Tú, Nguyễn Bình Phương...
Phạm vi nghiên cứu của luận án giới hạn ở biểu hiện của phân
tâm học qua hai bình diện nội dung tư tưởng và phương thức nghệ
thuật của tiểu thuyết Việt Nam đầu thế kỷ XXI.
3. Cơ sở lý thuyết

Học thuyết phân tâm học gồm nhiều vấn đề. Trong luận án này,
chúng tôi chủ yếu sử dụng học thuyết của Freud (lý thuyết về tâm thần
bộ, thuyết tính dục và mặc cảm), lý thuyết cổ mẫu của Jung, G.
Bachelard làm cơ sở lý thuyết để triển khai những nội dung có liên
quan với luận án.

1


4. Phương pháp nghiên cứu
Để đáp ứng mục tiêu, nội dung luận án, chúng tôi sử dụng những
phương pháp nghiên cứu sau:
- Phương pháp phân loại
- Phương pháp cấu trúc – hệ thống
- Phương pháp so sánh
- Phương pháp tiếp cận vấn đề từ lí thuyết phân tâm học
5. Đóng góp khoa học của đề tài
Chúng tôi sẽ trình bày một cách hệ thống, ngắn gọn về lý thuyết
phân tâm học ở những vấn đề cơ bản như thuyết tâm thần bộ, thuyết
tính dục, phức cảm cũng như vấn đề cổ mẫu làm cơ sở để soi chiếu
vào tiểu thuyết đương đại.
Từ góc nhìn phân tâm học, luận án khảo sát, nghiên cứu về giá trị
tiểu thuyết Việt Nam thập niên đầu thế kỷ XXI trên hai phương diện
nội dung và hình thức nghệ thuật. Về nội dung, luận án đi sâu làm nổi
bật về vấn đề các kiểu nhân vật qua lăng kính của phân tâm học. Về
phương thức biểu hiện, luận án tìm hiểu các vấn đề về biểu tượng, thời
gian - không gian nghệ thuật cũng như ngôn ngữ nhằm nổi bật giá trị
nghệ thuật của tác phẩm. Từ đó, luận án sẽ mang đến một cái nhìn mới
về diện mạo tiểu thuyết Việt Nam thập niên đầu thế kỷ XXI.
6. Cấu trúc luận án

Ngoài phần Mở đầu, Kết Luận, Tài liệu tham khảo, Nội dung của
luận án gồm có 4 chương:
Chương 1. Tổng quan tình hình nghiên cứu
Chương 2. Phân tâm học và sự ảnh hưởng của phân tâm học trong
tiểu thuyết Việt Nam thập niên đầu thế kỷ XXI
Chương 3. Thế giới nhân vật trong tiểu thuyết Việt Nam thập niên
đầu thế kỷ XXI từ góc nhìn phân tâm học
Chương 4. Phương thức biểu hiện của tiểu thuyết Việt Nam thập
niên đầu thế kỷ XXI từ góc nhìn phân tâm học

2


NỘI DUNG
CHƯƠNG 1: TỔNG QUAN TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU
(20 trang)
1.1. Các khuynh hướng phê bình văn học trên thế giới từ góc nhìn
phân tâm học
1.1.1. Phê bình phân tâm học tiểu sử
Freud là người đặt nền móng cho phân tâm học tiểu sử. Theo ông,
có thể khám phá các yếu tố tâm lý của người nghệ sỹ như vô thức, dục
năng và phức cảm Oedipe… để nghiên cứu tác phẩm văn học. Từ
Freud, khuynh hướng phê bình phân tâm học tiểu sử với những tên
tuổi như Charles Mauron, Jean Delay, René Laforgue... hướng người
đọc tìm hiểu tâm lý, đời sống tinh thần, dữ liệu đời tư của nhà văn để
hiểu quá trình sáng tạo nghệ thuật của nghệ sỹ.
1.1.2. Phê bình phân tâm học văn bản
Phê bình phân tâm học văn bản đề cao yếu tố nằm trong văn bản,
chủ trương phân tích các biểu tượng, tìm sự trùng hợp lặp đi lặp lại để
lý giải bằng lý thuyết phân tâm học. Những người có ảnh hưởng lớn

đối với khuynh hướng phê bình này là Carl Gustav Jung với phê bình
siêu mẫu, Bachelard với phân tâm học vật chất và J. Lacan với phân
tâm học ngôn ngữ. Đây là phương pháp phê bình tạo điều kiện mở
rộng sự liên tưởng, giúp nhà phê bình có thêm khả năng diễn giải văn
bản.
1.1.3. Phê bình phân tâm học người đọc
Lý luận văn học hiện đại đã có những khám phá mới hơn về đặc
trưng bản thể của văn bản văn học trong mối quan hệ với người đọc,
đề cập đến vấn đề vô thức của người đọc trong quá trình tiếp nhận văn
học. Norman Holland là đại diện tiêu biểu của khuynh hướng này. Ông
quan tâm đến liên chủ thể của sự hiểu văn bản, khi những người đọc
khác nhau khám phá những nghĩa mới, và hướng tiếp cận mới.
1.2. Tình hình nghiên cứu tiểu thuyết Việt Nam từ góc nhìn phân
tâm học
Phân tâm học dù đi vào Việt Nam từ rất sớm nhưng cả một thời
gian dài không thể tìm được sự hoà nhập. Quá trình tiếp nhận lý thuyết
phân tâm học vào nghiên cứu văn học Việt Nam quả là chặng đường
3


gian nan với những thăng trầm đứt nối. Giai đoạn văn học trước 1986,
việc vận dụng lý thuyết phân tâm học chưa thực sự là một trào lưu phổ
biến trong sáng tác và phê bình văn học. Bạn đọc cũng như giới phê
bình cũng chưa có cái nhìn toàn diện và khách quan về phân tâm học,
chủ yếu chỉ nhận thức phân tâm học như một học thuyết về tính dục.
Sau năm 1986, với khuynh hướng đổi mới toàn diện và hội nhập, phân
tâm học đã được vận dụng khá nhiều vào nghiên cứu văn học, chủ yếu
là tham chiếu vào các tác phẩm đương đại từ vấn đề ẩn ức tính dục,
phức cảm, cũng như lý thuyết cổ mẫu của Jung. Nhìn chung, từ sau
năm 1986, vấn đề phân tâm học được vận dụng và soi chiếu tác phẩm

văn học, đặc biệt là thể loại tiểu thuyết ngày càng phong phú và đa góc
nhìn.
1.2.1. Tình hình nghiên cứu tiểu thuyết Việt Nam giai đoạn 1986 2000 từ góc nhìn phân tâm học
Từ sau năm 1975, về phương diện sáng tác, văn học đã có sự
chuyển mình. Các cây bút tiểu thuyết đã mạnh dạn xé toang lớp màn
quan niệm, nền nếp một thời để tìm về những điều rất thực, với một
tinh thần dân chủ, và ít nhiều mang màu sắc phân tâm học. Các nhà
phê bình cũng đã tìm thấy nét mới trong những sáng tác tiểu thuyết
giai đoạn này.
Hầu hết các nhà phê bình đều tập trung vào vấn đề hiện thực phản
ánh của tiểu thuyết sau 1975. Đó là hiện thực đa chiều, đáng ngờ, vừa
hữu lý, vừa phi lý, thuộc về cõi huyền ảo mơ hồ, chủ yếu là hiện thực
bên trong con người. Vấn đề con người trong tiểu thuyết đương đại
được xem như một sự khám phá, sự đổi mới về quan niệm nghệ thuật
khi phản ánh ở nhiều tầng bậc, với các vấn đề về vô thức, tâm linh và
cả đời sống bản năng. Hầu hết các bài viết đều nhận thấy nét mới trong
các sáng tác thời kỳ này là sự nới rộng biên lề hiện thực, cách nhìn đa
diện về con người. Đó là điểm chung trong cách nhìn nhận của các tác
giả như Nguyễn Thị Bình, Nguyễn Văn Long, Nguyễn Bích Thu …
Vấn đề tính dục bắt đầu được đề cập trong tiểu thuyết thời kỳ
này. Các nhà văn đã mạnh dạn hơn khi phơi bày những góc khuất bản
năng lên trang viết với tất cả sự trăn trở, giàu ý nghĩa nhân sinh. Nói
như tác giả Nguyễn Bích Thu, miêu tả những con người tự nhiên, khai
thác yếu tố tích cực của con người tự nhiên cũng là một khía cạnh nhân
bản của văn học. Tính dục trở thành một phương tiện nghệ thuật của
các nhà tiểu thuyết đương đại. Nhiều nhà nghiên cứu đã chạm đến
4


vùng sáng tác này như Võ Thị Hoa, Lê Thị Hường, Phạm Xuân

Thạch….
Điểm qua tình hình nghiên cứu tiểu thuyết Việt Nam giai đoạn
1986 đến 2000 từ góc nhìn phân tâm học, có thể nhận thấy một điều,
tuy chưa có một công trình nghiên cứu nào mang tính quy mô, nhưng
hầu như những bài viết cũng đã đề cập được vấn đề trọng tâm của tiểu
thuyết giai đoạn này. Giới phê bình đã bắt đầu quan tâm đến sự ảnh
hưởng của phân tâm học trong tiểu thuyết Việt Nam 1986 - 2000.
1.2.2. Tình hình nghiên cứu tiểu thuyết Việt Nam thập niên đầu thế
kỷ XXI từ góc nhìn phân tâm học
Sang đầu thế kỷ XXI, vấn đề về vô thức, tính dục... nếu chỉ mới
manh nha ở giai đoạn trước thì sang thập niên đầu thế kỷ, đã được các
nhà tiểu thuyết phát huy như một thế mạnh của mình. Giới phê bình
lại một lần nữa có dịp nghiên cứu tìm kiếm nét mới, sự không trùng
lặp của tác phẩm tiểu thuyết Việt Nam thập niên đầu thế kỷ XXI.
Vấn đề vô thức, tâm linh, tính dục trở thành yếu tố không thể
không nói đến khi nhắc đến tiểu thuyết giai đoạn này. Các tác giả như
Trần Thanh Hà, Hoàng Thị Huế, Nguyễn Thành, Đào Tuấn Ảnh,
Hoàng Cẩm Giang, Đỗ Ngọc Thạch, Bùi Việt Thắng... đã nhận thấy
sức hấp dẫn của tác phẩm chính là sự ảnh hưởng thuyết phân tâm học
của Freud, sức ảm ảnh về con người bản năng. Nhà văn đã mạnh dạn
coi tính dục như ngả rẽ dẫn vào tâm linh, thể hiện khát khao giải phóng
bản thể.
Bên cạnh đó, cũng có vài bài viết quan tâm đến phương thức biểu
hiện trong tác phẩm như ngôn ngữ, biểu tượng... nhằm hướng đến một
cách cảm nhận riêng, đa chiều hơn. Vận dụng lý thuyết về mẫu gốc
của Jung, nhiều nhà phê bình đã soi chiếu vào tiểu thuyết giai đoạn
này để khám phá thế giới nghệ thuật của tác phẩm như Đào Vũ Như
An, Trần Thị An, Bùi Thanh Truyền…
Nhìn chung, nhiều công trình đã vận dụng học thuyết phân tâm
học để lý giải các hiện tượng văn học một cách có hiệu quả. Tuy nhiên,

vấn đề còn rải rác và riêng lẻ trên từng tác giả, tác phẩm hoặc chỉ là
những đánh giá mang tính khái quát nhất, chưa có một công trình
nghiên cứu một cách hệ thống.

5


1.3. Nhận xét tổng quan tình hình nghiên cứu và hướng triển khai
của luận án
1.3.1. Nhận xét tình hình nghiên cứu
Điểm qua lịch sử tình hình nghiên cứu của đề tài, chúng tôi rút ra
một số nhận xét sau:
Thứ nhất, việc tiếp nhận lý thuyết phân tâm học có nhiều thăng
trầm.
Thứ hai, vấn đề được đề cập một cách lẻ tẻ, xuất hiện rải rác ở
một số bài viết, chưa có công trình chuyên biệt tập trung nghiên cứu
một cách toàn diện.
Thứ ba, các bài nghiên cứu chủ yếu dừng lại khai khác vấn đề ở
phạm vi nội dung tư tưởng, ít chạm đến những phương diện nghệ thuật.
1.3.2. Hướng triển khai của luận án
Khai thác tiểu thuyết đầu thế kỷ XXI dưới góc nhìn phân tâm học,
luận án sẽ tập trung vào giải quyết những vấn đề sau:
Thứ nhất: Trong ba khuynh hướng phê bình văn học từ góc nhìn
phân tâm học, luận án chủ yếu sử dụng phương pháp phê bình phân
tâm học văn bản… để khám phá, diễn giải, phân tích tác phẩm.
Thứ hai: luận án sẽ hệ thống hóa lại một số học thuyết phân tâm
học có liên quan, khái quát về diện mạo của tiểu thuyết Việt Nam thập
niên đầu thế kỷ XXI.
Thứ ba: luận án sẽ làm nổi bật thành tựu tiểu thuyết thập niên đầu
thế kỷ XXI từ góc nhìn phân tâm học, trên bình diện nội dung tư tưởng,

và phương thức nghệ thuật.

6


CHƯƠNG 2: PHÂN TÂM HỌC VÀ SỰ ẢNH HƯỞNG PHÂN
TÂM HỌC TRONG TIỂU THUYẾT VIỆT NAM THẬP NIÊN
ĐẦU THẾ KỶ XXI (25 trang)
2.1. Một số lý thuyết căn nền của phân tâm học
2.1.1. Lý thuyết về tâm thần bộ
Phân tâm học nghiên cứu về những vấn đề bên trong con người.
Vô thức - Tiềm thức - Ý thức là những phạm trù cơ bản xây dựng nên
học thuyết phân tâm học, là đối tượng nghiên cứu của phân tâm học.
Một trong những vấn đề trọng tâm khi nói đến phân tâm học chính
là khái niệm vô thức. Vô thức là khái niệm dùng để chỉ tập hợp các
cấu tạo, quá trình và cơ chế tâm lý mà sự vận hành và ảnh hưởng của
chúng chủ thể không ý thức được. Người đầu tiên khai phá ra mảnh
đất vô thức chính là S. Freud. Trước ông cũng đã có nhiều người
nghiên cứu về vô thức như Descartes, nhà tư tưởng Đức thế kỷ XVIII
Leibniz, Hegel, Schopenhauer hay Nietzsche... nhưng chỉ đến Freud
vấn đề về vô thức được đề cập một cách có hệ thống như một khoa
học về vô thức. Sau Freud, một người học trò - một người bạn của
Freud - C.G. Jung cũng nhận thấy một thế giới tách rời, biệt lập với ý
thức. Xuất phát từ việc nghiên cứu đời sống tâm hồn con người thông
qua các vấn đề về huyền thoại, tôn giáo..., Jung đã khám phá ra nhiều
điều thú vị về vô thức. Jung đã phân chia vô thức thành hai nhóm: vô
thức cá nhân và vô thức tập thể (phi cá nhân). Bàn về vô thức, không
thể không nhắc đến phạm trù giấc mơ, khi vô thức được xem như trạng
thái tâm lý gắn liền với hoạt động của giấc mơ. Giấc mơ là nơi những
ẩn ức, dồn nén được bộc lộ. Giấc mơ bộc lộ một cách không rõ ràng

qua các biểu tượng của người nằm mơ.
Ý thức cũng là vấn đề quan tâm của phân tâm học. Ý thức vốn là
đối tượng nghiên cứu của triết học. Mỗi nhà triết học lại có cách hiểu
riêng về ý thức như “dòng chảy ý thức” của William James và H.
Bergson, hay “sự phản ảnh tiêu cực của hoạt động tâm lý” theo cách
hiểu của Nietzsche... Những quan niệm riêng đều có điểm chung là
nhìn nhận ý thức là thế giới tinh thần của con người, có tác dụng chi
phối hoạt động của con người, là bộ phận chia tách và động tác bên
ngoài của toàn bộ tâm linh hoặc vô thức, là quan hệ với thế giới bằng
tri thức về các quy luật khách quan của nó.
Freud còn quan tâm đến một trạng thái tinh thần có mối quan hệ
với ý thức và vô thức, đó là tiền ý thức, hay còn gọi là tiềm thức. Tiềm
7


thức được xem là lĩnh vực quá độ giữa vô thức và ý thức, là những
tâm lý hiện thời ý thức chưa đến nhưng có thể nhớ lại, nó có tính chất
động thái, là hiện tượng tâm lý tiếp cận với ý thức, nó có thể nhanh
chóng tiến vào lĩnh vực ý thức, lại có thể nhanh chóng trở về vị trí bản
thân mình, cho nên không mang thuộc tính về chất, chỉ mang thuộc
tính về lượng. Tiềm thức là quá trình chuyển từ ý thức sang vô thức.
Ở đó, có những vấn đề con người đã ý thức nhưng về sau lại dần dần
chuyển sang vô thức.
2.1.2. Lý thuyết về tính dục và phức cảm
Freud cũng đã gây chấn động không nhỏ trong giới nghiên cứu
khi quy toàn bộ hành động, tâm lý người vào vấn đề tính dục. Ông đã
từng viết cuốn Ba tiểu luận về lý thuyết tính dục nổi tiếng, lần lượt bàn
về những lệch lạc tính dục, tính dục trẻ con, về những biến đổi tuổi
dậy thì. Từ khám phá về vô thức, về giấc mơ, Freud cho rằng trong
giấc mơ có sự ẩn ức về tính dục. Tính dục chính là nguyên nhân gây

nên những hành vi, những xung đột trong tâm lý người.
Con người luôn có ham muốn và đồng thời có phức cảm. Không
phải ngẫu nhiên mà Freud quy mọi hoạt động của con người từ bản
năng tính dục. Bản năng tính dục với những ham muốn cần thỏa mãn
mà bị kiềm nén dẫn đến dồn nén những phức cảm. Phức cảm là trạng
thái tâm lý phức tạp của con người, và là đối tượng nghiên cứu của
phân tâm học. Khi tự ý thức về chính mình, đặc biệt là những khuyết
điểm của mình, con người ta thường hay rơi vào trạng thái phức cảm,
đố kỵ, tự ti, ham muốn. Freud cũng từng nghiên cứu về phạm trù lo âu
của con người. Cảm giác này có thể do hiện thực, do đạo đức, hay do
ám ảnh về thần kinh, có thể gây ra những phức cảm.
2.1.3. Lý thuyết về cổ mẫu và phân tâm học về lửa
Cổ mẫu, một thuật ngữ do nhà tâm lý học phân tích người Thuỵ
Sĩ - Carl Jung (1875 – 1961) đề ra đầu thế kỷ XX. Trong quá trình tìm
hiểu về vô thức tập thể, từ việc nghiên cứu các huyền thoại, cổ tích,
nghiên cứu giấc mơ, tôn giáo, điều trị y học…và ông đã phát hiện ra
cổ mẫu. Với Jung, cổ mẫu là đúng và hữu ích bởi vì nó cho ta biết rằng
những nội dung vô thức tập thể có liên quan khi chúng ta xem xét
những hình thức cổ xưa, hoặc đúng hơn, những hình thức nguyên thuỷ,
tức là những hình ảnh chung tồn tại từ những thời đại xa xưa nhất. Cổ
mẫu vốn có khuynh hướng bản năng, được tạo nên từ sự kết hợp giữa
bản năng và lý trí - nơi kinh nghiệm cộng đồng được tích luỹ, truyền
8


từ thế hệ này đến thế hệ khác. Ở đó, còn mang dấu ấn của yếu tố văn
hoá - lịch sử, dấu ấn của tâm thức cộng đồng. Theo Jung, ứng với mỗi
trạng thái người sẽ có một cổ mẫu. Số lượng cổ mẫu là rất nhiều. Mỗi
cổ mẫu thường có cấu trúc và ý nghĩa riêng nhưng chúng thường có
mối liên hệ, tương quan với nhau. Trong quá trình tìm kiếm cổ mẫu,

Jung đã phát hiện ra nhiều cổ mẫu quan trọng thể hiện trạng thái tâm
lý người và quy về 5 loại chính như Persona, Shadow, Anima, Animus,
Self…
Là người tiên phong cho khuynh hướng Phê bình mới ở Pháp,
Gaston Bachelard đã xem hai yếu tố vật chất và tưởng tượng như đối
tượng để khảo sát. Ông cho rằng óc tưởng tượng con người chủ yếu
dựa vào các yếu tố vật chất như Lửa, Trời, Đất, Nước cũng như mối
tương quan giữa chúng. Xuất phát từ phức cảm Prométhée, Bachelard
cho rằng, lửa là một hiện tượng mang tính xã hội, hay chính xác hơn,
ở lửa, có sự giao thoa giữa cái tự nhiên và cái xã hội, trong đó cái xã
hội bao giờ cũng chiếm phần hơn. Mặc khác, từ truyền thuyết, nhà triết
học Hy Lạp Empédocle leo lên miệng núi lửa để gieo mình, Bachelard
bàn về sự mộng mơ của lửa. Khác với cách giải thích thông thường về
nguồn gốc của lửa, Bachelard đã lý giải lửa dưới góc nhìn phân tâm
học. Đó là sự cọ xát, bốc lửa dục tình của thân thể. Từ những đặc điểm
của lửa, Bachelard đã tìm thấy sự gần gũi, tương đồng gợi đến vấn đề
dục tính, lòng ham muốn, sự say mê, tình yêu của con người. Lửa được
đưa vào văn bản văn học như một biểu tượng đa nghĩa khơi gợi sự tìm
tòi, giải mã của người đọc.
2.2. Quan niệm của phân tâm học về sáng tạo văn học
2.2.1. Sáng tạo văn học từ vai trò của vô thức
Khi đề cập vấn đề vô thức, các nhà phân tâm học cũng quan tâm
đến vô thức sáng tạo của người nghệ sỹ. Freud xem sáng tạo văn học
như một giấc mơ - một giấc mơ ban ngày khi người nghệ sỹ chìm vào
thế giới tưởng tượng của mình, giải tỏa ẩn ức.
2.2.2. Sáng tạo văn học từ vai trò của ẩn ức
Đối tượng nghiên cứu của phân tâm học chính là con người trong
mối quan hệ với chính mình cũng như trong mối quan hệ với hoàn
cảnh. Phân tâm học luôn quan tâm những vấn đề thuộc về con người
như vô thức, giấc mơ, ẩn ức, cũng như các vấn đề về sự dồn nén và


9


con đường dẫn đến vô thức sáng tạo của người nghệ sỹ - chủ thể quá
trình sáng tạo.
2.3. Sự ảnh hưởng phân tâm học trong tiểu thuyết Việt Nam thập
niên đầu thế kỷ XXI
2.3.1. Những tiền đề cơ bản của việc vận dụng phân tâm học trong
tiểu thuyết Việt Nam thập niên đầu thế kỷ XXI
Việc đổi mới cái nhìn, đổi mới trong cách khám phá cuộc sống
và con người của tiểu thuyết Việt Nam thập niên đầu thế kỷ XXI là
một thành tựu đáng kể. Bao gồm các cơ sở như: cơ sở thực tế trong
hành trình đổi mới về quan niệm và sáng tác văn học của nước ta, cơ
sở lý luận cũng như thực tiễn tiếp nhận lý thuyết phân tâm học ở Việt
Nam, và ý thức cách tân văn học của các nhà văn giai đoạn này.
2.3.2. Khái quát về sự ảnh hưởng phân tâm học trong tiểu thuyết
Việt Nam thập niên đầu thế kỷ XXI
Tiểu thuyết Việt Nam thập niên đầu thế kỷ XXI đã có sự cách tân
đáng kể về quan niệm nghệ thuật cũng như phương thức thể hiện. Từ
thời kỳ đổi mới, tiểu thuyết Việt Nam thực sự có sự chuyển mình
không thể phủ nhận. Các tác phẩm đã mang đến cho văn học một luồng
gió mới, bàng bạc màu sắc phân tâm. Đọc các tác phẩm tiểu thuyết của
Nguyễn Đình Tú, Tạ Duy Anh, Nguyễn Bình Phương, Y Ban..., người
đọc có thể nhận thấy một cách nhìn toàn diện hơn, đa chiều về cuộc
sống, con người, cách thể hiện cũng phong phú, đặc sắc hơn. Từ học
thuyết phân tâm học, quét một cái nhìn khắp dòng chảy tiểu thuyết
thập niên đầu thế kỷ XXI, người đọc có thể nhận ra sự ảnh hưởng học
thuyết từ đề tài, cốt truyện, nhân vật đến các yếu tố như không gian,
thời gian nghệ thuật, ngôn ngữ... Sự ảnh hưởng các học thuyết phương

Tây vào trong sáng tác của mình cũng là một trong những thành tựu
lớn của văn học Việt Nam từ sau thời kỳ đổi mới.
*
*
*
Việc tiếp thu và vận dụng thuyết phân tâm học vào văn học Việt
Nam là một quá trình. Học thuyết phân tâm học thực sự rất gần với
con người khi nó đề cập đến những vấn đề liên quan đến tâm lý người.
Tiếu thuyết Việt Nam thập niên đầu thế kỷ XXI đã vận dụng tinh thần
của phân tâm học để soi chiếu vào thế giới tâm hồn nhân vật. Đó là
thành công, là bước tiến mới của các nhà tiểu thuyết hiện đại khi đưa
văn học gần hơn với nhân học giữa cõi đời đầy biến động này.
10


CHƯƠNG 3: THẾ GIỚI NHÂN VẬT TRONG TIỂU THUYẾT
VIỆT NAM THẬP NIÊN ĐẦU THẾ KỶ XXI TỪ GÓC NHÌN
PHÂN TÂM HỌC (37 trang)
Từ góc nhìn của phân tâm học, người đọc có thể nhận ra trong
tiểu thuyết Việt Nam đương đại, một thế giới nhân vật bị chi phối phần
lớn bởi bản năng và vô thức. Tìm hiểu Thế giới nhân vật trong tiểu
thuyết Việt Nam thập niên đầu thế kỷ XXI từ góc nhìn phân tâm học,
người viết muốn đi sâu vào thế giới nhân vật, những ngóc ngách, tâm
tư của con người. Từ đó hiểu hơn quan niệm nghệ thuật về con người
của các nhà tiểu thuyết Việt Nam thập niên đầu thế kỷ XXI. Từ góc
nhìn phân tâm học, soi chiếu vào thế giới nhân vật của tiểu thuyết với
những vấn đề thuộc về bản năng người như tính dục, vô thức, tâm
linh..., chúng tôi phân loại thành ba kiểu nhân vật như sau:
- Kiểu nhân vật với đời sống vô thức, tâm linh
- Kiểu nhân vật với các phức cảm

- Kiểu nhân vật với đời sống tính dục
3.1. Kiểu nhân vật với đời sống vô thức, tâm linh
3.1.1. Nhân vật với sự quẫy đạp của vô thức
Freud đã làm nhân loại choáng váng khi đề cao vị trí của vô thức
trong hoạt động của con người. Theo Freud, hành vi của con người do
vô thức mà thành. Sự phủ nhận vai trò của ý thức trong hoạt động
người là một tuyên bố tưởng chừng vô lý, trái ngược với quan niệm
thường thấy. Vô thức là nơi ẩn chứa ham muốn bị kìm nén, nơi tồn tại
xung năng libido, nơi hữu thức bị dồn nén trở thành vô thức. Đó là cõi
mênh mông vô định trong sâu thẳm tâm lý người, ẩn chứa bản năng
dục vọng của con người. Các nhà phân tâm học xem vô thức như một
hầm trú ẩn cá nhân chứa đầy những ước muốn chính đáng hoặc không
chính đáng, không được thoả mãn. Vô thức càng bị dồn nén thì càng
có khuynh hướng tìm cách thoát ra để được giải toả, bộc lộ mình giữa
trời đất, cỏ cây. Nhân vật trong tiểu thuyết Việt Nam thập niên đầu thế
kỷ XXI thường bị ảm ảnh bởi vô thức. Nỗi ám ánh vô thức và sự sợ
hãi chập chờn đã khiến con người nhiều lúc như chạy vụt ra khỏi thực
tại, quấn chặt mình giữa hư vô.
Giấc mơ cũng là dạng biểu hiện khác của vô thức, là địa hạt của
thế giới kỳ ảo, nơi mọi khát khao như vỡ ra. Nói như Freud, đó là lúc
bản chất dã thú vô pháp lộ ra trong giấc ngủ, là sự diễn đạt trá hình và
bị bóp méo về một mong muốn bị dồn nén, bị cấm đoán. Tìm về huyền
11


thoại, tái hiện giấc mơ, các nhà văn đương đại đã tìm một ngả rẽ đi sâu
vào đời sống gần như bản năng của con người. Mỗi nhà văn có một
cách thể hiện giấc mơ với dụng ý nghệ thuật riêng... nhưng điều gặp
gỡ vẫn là sự giải thoát ẩn ức, là ám ảnh, là điềm báo. Với Freud, lý giải
giấc mơ chính là ngã rẽ đi vào cõi vô thức mông lung của con người.

Với ông, đó thực sự là một khoa học - khoa học về các giấc mơ.
3.1.2. Nhân vật với sự ám ảnh tâm linh
Nếu vô thức là thế giới bí ẩn, cõi sâu vượt ra ngoài ý niệm của
con người về thế giới thì cõi tâm linh cũng là một phần không thể thiếu
trong đời sống. Văn học càng phải đi sâu vào tâm linh để khám phá
bến bờ thăm thẳm ấy. Đời sống tâm linh tồn tại từ khi con người bắt
đầu cảm giác sợ hãi chính mình, ám ảnh về mọi thứ xung quanh mình,
con người bắt đầu tìm cho mình một điểm tựa vô hình với tất cả đức tin
thiêng liêng. Nguyễn Đăng Duy cho rằng, con người sở dĩ trở thành con
người một phần căn bản là do nó có đời sống tâm linh. Cuộc sống bao
giờ cũng bao hàm cả phần lý giải và không lý giải... và bản thân sự
không lý giải ấy đã tạo nên tồn tại muôn đời của thế giới tâm linh. Giữa
đời sống hiện đại, các ngòi bút đương thời thường hướng đến những
khoảng sâu thẳm tâm linh của con người như một quan niệm, một đức
tin, như một hiện thực nhuốm màu huyền ảo.
Trước hết, yếu tố tâm linh được hiểu như một thế giới tinh thần
gắn liền với vô thức. Bên cạnh nhân vật ảo như ma quỷ, thần thánh
thường thấy, con người thực cũng được khắc họa với tư cách con
người siêu cá nhân với những khả năng thần kỳ, khó lý giải như kiểu
nhân vật nhà ngoại cảm, nhân vật ảo, sự linh cảm kỳ diệu của con
người.
Mặt khác, yếu tố tâm linh còn được đưa vào tác phẩm dưới hình
thức của cái huyền ảo. Đó là sự kết hợp giữa yếu tố thực và kỳ ảo, sự
đan xen của cái hoang đường, phi lý. Ở đó, không gian trở nên huyền
ảo, mơ hồ và con người cũng tồn tại như một bí ẩn, thế giới lung linh
như một huyền thoại.
Hơn nữa, nói đến đời sống tâm linh, không thể không nhắc đến
phương diện Tôn giáo - đức tin của con người giữa đời sống ngổn
ngang, đầy tính giải thiêng. Văn học thập niên đầu thế kỷ XXI cũng
đã đề cập nhiều đến khía cạnh tâm linh này.


12


3.2. Kiểu nhân vật với các phức cảm
Trong quá trình nghiên cứu về vô thức, Freud cũng đã khám phá
ra trong cõi sâu thẳm con người luôn tồn tại những phức cảm. Freud
đã gọi tên những mặc cảm ấy là mặc cảm thân phận, mặc cảm tàn phế,
mặc cảm Oedipe.
3.2.1. Nhân vật với phức cảm hoạn - phức cảm thân phận
Học trò của Freud - Alfried Adler cũng đã tìm hiểu về phức cảm
hoạn - phức cảm liên quan đến bộ phân sinh dục nam. Từ đó, người
vận dụng có thể mở rộng ra những trạng thái tâm lý, cảm xúc của con
người khi nhu cầu bản năng của con người bị kiềm nén, là mâu thuẫn
mặc cảm về thân phận, về những sự tồn tại của mình trong cuộc đời
khi sự tồn tại ấy không thể mang lại cho con người sự thỏa mãn trong
ý thức. Rất nhiều nhân vật trong tiểu thuyết thập niên đầu thế kỷ XXI
luôn mang trong mình cảm giác về sự bất hạnh, sự thiệt thòi khi chính
họ cũng đã chịu nhiều mất mát từ hoàn cảnh.
3.2.2. Nhân vật với phức cảm Oedipe
Xuất phát từ thần thoại Hy Lạp, câu chuyện vua Oedipe bị buộc
vào lời nguyền số phận, nên đã giết cha và lấy mẹ, Freud đã nghiên
cứu về mặc cảm tính dục ấu thơ của con người và cho rằng, mỗi người
đều có những ham muốn Oedipe dù từ ý thức, họ sợ hãi trước điều đó.
Phức cảm Oedipe là sự lặp lại những mặc cảm thuở ấu thơ trước cha
hoặc mẹ, luôn tồn tại trong mỗi con người ở dạng vô thức. Nhân vật
trong tiểu thuyết giai đoạn này thường tự giam hãm mình trong những
ám ảnh như thế.
3.3. Kiểu nhân vật với đời sống tính dục thường ngày
Học thuyết Freud ra đời nhằm hướng đến cuộc giải phóng cái tôi

cá nhân, trong đó đặt ra vấn đề tính dục. Những khám phá của học
thuyết Freud đã ngang nhiên công khai sự đòi hỏi bản năng tính dục
như một nhu cầu cần có của con người. Theo Freud, tính dục là cái lõi
đầy bản năng của vô thức. Mọi tọa độ trong hoạt động vô thức đều
xoay quanh, và chịu sự chi phối của hệ quy chiếu tính dục. Thuyết tính
dục không phải hoàn toàn không có ý nghĩa nhân văn khi Freud cũng
đã lưu ý đến vấn đề năng lượng libido gắn liền với bản năng sống
(Eros) và bản năng chết (Thanatos) của con người trong sự cân bằng
mong manh giữa khát vọng thỏa mãn và ràng buộc đầy tính chế tài của

13


đời sống. Đa phần các tiểu thuyết Việt Nam thập niên đầu thế kỷ đều
đề cập đến vấn đề nhân bản này.
3.3.1. Nhân vật với nỗi khát khao tính dục
Khát khao tính dục là biểu hiện bình thường của con người. Điều
này đã được các nhà tiểu thuyết thể hiện như một sự thăng hoa của
cảm xúc. Các ngòi bút tiểu thuyết Việt Nam thập niên đầu thế kỷ XXI
đều hướng về vấn đề tính dục với cái nhìn nhân bản.
Bàn về vấn đề tính dục, không thể không đề cập những hành vi
sai lệch. Tính dục không chỉ là khát khao chính đáng mà còn tồn tại ở
đó những biểu hiện bệnh hoạn. Các ngòi bút văn học giai đoạn trước
đều né tránh vấn đề nhạy cảm này, nhưng từ sau đổi mới văn học năm
1986, đặc biệt khoảng thập niên đầu thế kỷ XXI, nhiều tiểu thuyết đã
khai phá mảnh đất hình như còn bỏ ngỏ này một cách có ý thức và đầy
nhân bản.
3.3.2. Nhân vật với sự nổi loạn của cô đơn và ẩn ức.
Tính dục nhiều khi gắn liền với những tình cảm thiêng liêng, gợi
những cảm giác rất Người trong sự dâng hiến, hòa quyện, thăng hoa

trong cảm xúc và rung động, nhưng có khi chỉ là lối thoát của cô đơn
và bế tắc. Buông xuôi mình trước cám dỗ của tính dục cũng là một
biểu hiện thường thấy của con người. Sự vỗ về cảm giác thường có
khả năng xoa dịu những vết thương tâm hồn đang đẩy con người vào
quằn quại. Chính vì thế, các tiểu thuyết Việt Nam thập niên đầu thế kỷ
XXI thường khắc họa con người cô đơn tuột dài trong tính dục.
*
*
*
Vận dụng yếu tố phân tâm học để khai thác hiện thực đời sống và
hiện thực tâm hồn nhân vật, các nhà tiểu thuyết đương đại đã phơi bày
cả những mặt trái xã hội và nỗi đau trong mỗi nhân vật. Những vấn đề
về vô thức, tâm linh, vấn đề mặc cảm hay cả những vấn đề về tính dục
đã thể hiện một cách chân thực, sinh động. Đó là bức tranh toàn cảnh
về hiện thực tâm hồn, đằng sau một hiện thực ngổn ngang về đời sống.
Từ góc nhìn phân tâm học, bao nhiêu trăn trở, tâm tư của con người
như được phơi bày, bộc bạch cùng những buồn vui, ẩn ức...

14


CHƯƠNG 4: PHƯƠNG THỨC BIỂU HIỆN CỦA TIỂU
THUYẾT VIỆT NAM THẬP NIÊN ĐẦU THẾ KỶ XXI TỪ GÓC
NHÌN PHÂN TÂM HỌC (40 trang)
4.1. Biểu tượng
Tìm hiểu biểu tượng là con đường đi vào một trong những ngả rẽ
của nền văn hóa. Tìm hiểu về biểu tượng có vai trò quan trọng trong
việc nghiên cứu đời sống con người. Biểu tượng có liên quan tổng hợp
đến các yếu tố về tâm lý, xã hội, thần thoại, tôn giáo... và là đối tượng
nghiên cứu của phân tâm học. Tiếp nhận học thuyết phân tâm học, các

nhà tiểu thuyết thập niên đầu thế kỷ XXI cũng đã sử dụng một hệ thống
phong phú những biểu tượng nhằm góp phần nổi bật khắc sâu những
xung đột, ẩn ức, ph cảm trong đời sống tinh thần của con người.
4.1.1. Biểu tượng Lửa
Lửa là một hình ảnh tượng trưng cho sự sống của loài người, gợi
nên sức mạnh và sự sinh sôi nảy nở. Từ tâm thức của con người, lửa
cũng được xem như một trong những sự tìm kiếm vĩ đại của loài người
trong hành trình thoát ra khỏi thời kỳ mông muội. Tự điển biểu tượng
văn hóa thế giới đã phân tích ý nghĩa của biểu tượng lửa theo từng
quan niệm khác nhau. Với người Ấn Độ, thần lửa Agni có thể thanh
lọc mọi phần xấu xa, bẩn thỉu. Biểu tượng về ngọn lửa thiêu hủy và tái
sinh vốn đi từ phương Tây đến Nhật Bản. Theo một số truyền thuyết,
Chúa Kitô đã tái sinh cơ thể bằng cách đi qua lò lửa xưởng rèn, lửa có
ý nghĩa như sự thanh tẩy nên có nhiều nghi thức tẩy uế bằng lửa. Phần
lớn các mặt ý nghĩa của biểu tượng lửa đều được gọi tên trong giáo
thuyết đạo Hinđu. Học thuyết này đã mang đến cho lửa ý nghĩa hết
sức quan trọng. Với bản tính soi sáng cả nhân loại và thế giới, lửa
mang ý nghĩa bao trùm cả vũ trụ. Lửa trở thành hình ảnh không thể
thiếu trong các lĩnh vực đời sống như khoa học, tôn giáo... thậm chí
tính dục. Lửa có các dạng như: lửa thông thường, sét, mặt trời. Mặt
khác, lửa còn được ứng với phương Nam, màu đỏ của lửa còn được
xem như tượng trưng cho mùa hè, cho nhiệt huyết, cho trái tim. Đó là
hình ảnh của ngọn lửa tinh thần, cung bậc cảm xúc trong tâm lý người.
Trong tiểu thuyết Việt Nam thập niên đầu thế kỷ XXI, lửa trở
thành một biểu tượng, với hai ý nghĩa chính: biểu tượng gốc và biểu
tượng phái sinh.
15


- Lửa xuất hiện trong các tác phẩm là ngọn lửa thực, có sức

nóng, có khả năng thiêu hủy, tái sinh. Trong tiểu thuyết đương đại, lửa
xuất hiện khá nhiều, được biến thể qua nhiều hình ảnh khác nhau như
bếp lửa, đèn dầu, khói, mặt trời..
- Lửa còn là hình ảnh của đam mê, nhiệt huyết và cảm xúc,
khao khát tính dục. Đó là ngọn lửa vô hình với sức thiêu hủy không
kém, nó có thể thiêu đốt và làm bừng sáng cõi tăm tối nhất của tâm
hồn. Lửa đóng vai trò quan trọng trong đời sống thì lửa tâm hồn càng
có ý nghĩa đối với con người.
4.1.2. Biểu tượng Nước
Lửa thường gắn với bản nguyên đối lập là nước. Nước thuộc cái
lạnh, thuộc về ngày Đông chí... nhưng vẫn có sự liên hệ với lửa. Nước
cũng là một biểu tượng có những điểm tương đồng với lửa. Theo Tự
điển biểu tượng văn hóa thế giới, sự tẩy uế bằng lửa bổ sung cho sự
tẩy uế bằng nước. Biểu tượng nước có ba ý nghĩa cơ bản, nước vừa là
nguồn sống, vừa là phương tiện thanh tẩy, là trung tâm tái sinh.
- Nước bao giờ cũng gợi lên sự tinh khiết, mát lành như sức
mạnh huyền diệu, trong lành của thể xác và tâm hồn, tưới mát lên vạn
vật khiến vạn vật trở nên sinh sôi nảy nở, mang lại nguồn sống nơi
nơi. Nước có ý nghĩa như một sự tái sinh, được xem như biểu tượng
của sự “phì nhiêu và khả năng sinh sản dồi dào”.
- Nước cũng là “công cụ thanh tẩy”. Nước không chỉ có tính
chất thanh khiết, mà còn có khả năng làm mọi vật trở nên thanh khiết.
- Nước còn được xem như tượng trưng cho “sự khởi đầu thế
giới” và đồng thời tượng trưng cho nước cảm tính: đây là mẹ và tử
cung. Là nguồn gốc của muôn vật, nước biểu hiện cái siêu tại và do đó
phải được coi là một dạng thần hiện. Với những ý nghĩa như vậy, nước
còn được xem là nơi của “niềm hoan lạc, kỳ thú”, nơi gặp gỡ, hò hẹn,
nơi tình yêu ươm mầm.
- Nước là nơi “tái sinh, cứu sinh” nhưng chính nước cũng giống
như lửa, có khả năng hủy diệt và nhấn chìm vạn vật.

Trong tiểu thuyết Việt Nam thập niên đầu thế kỷ XXI, biểu tượng
lửa được sử dụng qua các hình ảnh: không gian sông nước, nước mắt,
mưa…

16


4.2. Không gian và thời gian nghệ thuật
Không gian và thời gian là hai phạm trù quan trọng trong phương
tiện biểu hiện của tác phẩm nghệ thuật, đồng thể hiện quan niệm của
nhà văn về hiện thực và con người. Trong tiểu thuyết Việt Nam thập
niên đầu thế kỷ XXI, hầu hết thời gian, không gian nghệ thuật đều
mang dấu ấn phân tâm, đều được soi từ cõi tâm linh, vô thức. Các kiểu
thời gian, không gian thực thường dồn nén, ám ảnh nhân vật vào
những phức cảm. Chính vì thế, ở phần này, người viết khảo sát hai
kiểu không gian và thời gian:
Không gian và thời gian hư ảo.
Không gian và thời gian hiện thực.
4.2.1. Không gian và thời gian hư ảo
Không gian được xây dựng trong tiểu thuyết Việt Nam thập niên
đầu thế kỷ XXI chủ yếu:
- Không gian ảo - không gian từ trong giấc mơ.
- Không gian kỳ ảo.
- Không gian cõi tâm linh.
Thời gian trong tác phẩm cũng đa phần được soi từ giấc mơ, vô
thức và tâm linh. Đó là kiểu thời gian tâm lý. Thời gian nghệ thuật
trong tiểu thuyết chủ yếu là thứ thời gian cảm giác, thời gian được tâm
trạng hóa, thời gian thể hiện chính những ẩn ức, dồn nén, trong chính
tâm hồn con người.
4.2.2. Không gian và thời gian hiện thực

Bên cạnh kiểu không gian, thời gian phi thực, các nhà tiểu thuyết
thập niên đầu thế kỷ XXI cũng sử dụng kiểu không gian, thời gian hiện
thực. Đó là không gian thực và thời gian vật lý, có tác động đến tâm
trạng nhân vật.
Không gian nghệ thuật thường được sử dụng trong tiểu thuyết
giai đoạn này là:
- Không gian bóng đêm.
- Không gian trăng.
- Không gian mưa.
- Không gian buồng, phòng...
Thời gian nghệ thuật có thể kể đến là thời gian đêm, thời gian
giấc mơ...

17


4.3. Ngôn ngữ
Văn học là nghệ thuật của ngôn từ khi người nghệ sĩ với sự tài
hoa của mình đã biến hóa ngổn ngang từ ngữ thành tinh hoa chắt lọc.
Tiếp xúc với tác phẩm nghệ thuật, yếu tố đầu tiên tác động đến người
đọc, đó chính là ngôn ngữ. Ngôn ngữ trong tác phẩm vượt lên trên lớp
từ ngữ thông thường để mang trong mình những dấu ấn thời đại cùng
phong cách cá nhân. Vận dụng phân tâm học để thể hiện hiện thực
phức tạp trong tâm lý người cũng như những ngột ngạt, dồn nén trong
xã hội, các nhà tiểu thuyết đương đại đều có ý thức sử dụng hệ thống
ngôn ngữ đặc sắc, mang màu sắc phân tâm. Ngôn ngữ trong hầu hết
các tiểu thuyết đương đại đều gợi ám ảnh về dục tính, giàu sắc thái
biểu cảm, gợi nhiều liên tưởng, đồng thời ngôn ngữ ám gợi như một
dòng chảy từ trong vô thức.
4.3.1. Ngôn ngữ nhuốm màu sắc dục tính

Ở góc nhìn phân tâm học, các nhà tiểu thuyết đương đại sử dụng
một hệ thống ngôn từ có khả năng ám gợi. Đọc tác phẩm, người đọc
nhận ra một bộ phận ngôn ngữ khá lớn khơi gợi dục cảm. Theo phân
tâm học, bản năng tính dục có khả năng điều khiển mọi hoạt động, chi
phối nhân cách con người. Ngôn ngữ trong tiểu thuyết Việt Nam thập
niên đầu thế kỷ XXI đầy tinh thần phân tâm học khi các nhà văn tập
trung khai thác nét nghĩa mang đậm màu sắc dục tính, gợi cảm giác ái
ân, nhằm thể hiện được con người bản năng, thể hiện được những góc
khuất tâm hồn của con người. Dù ngôn ngữ được trau chuốt tinh tế hay
sử dụng một cách trần trụi thì đều có điểm chung là khơi gợi những
cảm giác ái ân, dục tính.
- Ngôn ngữ gợi cảm xúc ái ân.
- Ngôn ngữ táo bạo, trần trụi, chạm thẳng vào vấn đề nhạy cảm
4.3.2. Ngôn ngữ giàu sắc thái biểu cảm
Nếu như Freud tập trung nghiên cứu tâm lý người chủ yếu xoáy
sâu vào các vấn đề vô thức và dường như bất kỳ ở đâu, trong một con
người hay trong một tác phẩm nghệ thuật, một sự biểu hiện của tinh
thần xuất hiện, ông nghi ngờ chúng và ám chỉ rằng đó là bản năng tình
dục bị dồn nén thì Jung lại chọn cho mình một lối đi riêng, nghiên cứu
về những biểu tượng của sự biến hóa, chủ trương mở rộng hơn trong
việc sử dụng thuật ngữ biểu tượng cùng với khám phá con đường vào
văn hóa, tâm linh thông qua cổ mẫu và vô thức tập thể. Hầu hết những
18


sáng tạo văn chương thập niên đầu thế kỷ XXI đều sử dụng lớp ngôn
ngữ ẩn chứa nhiều ký hiệu có ý nghĩa như biểu tượng, buộc người đọc
phải giải mã để tìm kiếm. Trong hệ thống ngôn từ của tiểu thuyết giai
đoạn này, sự đa nghĩa, biến hóa nhiều tầng hơn cũng nhờ vào những
chất liệu ngôn từ như là sự hóa thân của huyền thoại, của chiều sâu,

văn hóa. Bên cạnh những biểu tượng lớn có ý nghĩa như cổ mẫu, ngôn
ngữ tiểu thuyết còn trở nên huyền ảo, hư vô hơn bởi những hệ thống
ngôn từ có ý nghĩa như biểu tượng, có tính chất như những ký hiệu lặp
đi lặp lại nhiều lần trong tác phẩm. Có thể kể đến những từ như: hang
đá, hồn ma, máu, sống, chết….
Người đọc đứng trước thế giới mênh mông của ngôn từ không
tránh khỏi ám ảnh bởi ẩn số mà tự mình phải tự đi tìm. Nó giống như
một trò chơi ngôn ngữ, mà người đọc vừa chủ động vừa lúng túng giữa
mê cung từ ngữ ấy. Điều này đã tạo nên sự lạ hóa trong ngôn ngữ văn
chương, cũng như sự bí ẩn trong từng câu chữ... để rồi mỗi trang văn
gợi trong người đọc nhiều suy tư, ngẫm nghĩ đa diện, đa chiều!
*
* *
Thành tựu nghệ thuật về ngôn ngữ, không gian - thời gian hay
biểu tượng đã mang đến cho tiểu thuyết Việt Nam thập niên đầu thế
kỷ XXI những sáng tạo mới. Để khắc họa ẩn ức sâu kín trong vô thức
nhân vật, các nhà tiểu thuyết đã sử dụng các biểu tượng, hệ thống ngôn
ngữ đậm sắc màu tính dục cũng như mang tính ký hiệu. Ngôn ngữ là
chất liệu góp phần dệt nên tác phẩm nghệ thuật. Bản thân ngôn ngữ
mang hơi hướng phân tâm học cũng đã thể hiện được thế giới nghệ
thuật độc đáo, mới lạ, phù hợp với dụng ý của nhà văn. Đọc tiểu thuyết
Việt Nam đương đại, người đọc như bị cuốn hút bởi ngôn từ nghệ thuật
cũng như cách xây dựng các kiểu không gian, thời gian. Con người
bao giờ cũng bị chi phối bởi hoàn cảnh. Từ góc nhìn phân tâm học,
con người trong tác phẩm hiện lên đầy ám ảnh bởi vô thức, bản năng.
Chính việc sử dụng những phương thức nghệ thuật đặc sắc, các nhà
tiểu thuyết đương đại đã thể hiện nổi bật cõi sâu tâm trạng, góp phần
làm nên thành tựu đáng kể của tiểu thuyết Việt Nam đầu thế kỷ XXI.

19



KẾT LUẬN (4 trang)
Phân tâm học là ngành khoa học nghiên cứu chiều sâu tâm lý
người, gắn với cõi vô thức và dục tính để khám phá thế giới bí ẩn bên
trong con người giữa hành vi, phức cảm và những cơ chế tâm lý tự vệ
đặc biệt. Từ một phương pháp trị liệu đặc thù giải bệnh cho người tâm
thần, bằng những test liên tưởng tự do, huyền tưởng, giấc mơ, phân
tâm học được bổ sung, phát triển thành một hệ thống lý thuyết về tâm
lý người. Một trong những khám phá có ý nghĩa nhất của S. Freud là
phạm trù vô thức. So sánh tâm linh con người như tảng băng chìm nổi
giữa biển, ông đã nhận thấy phần lớn tâm lý người ẩn sâu trong vô
thức. Vô thức được xem như trung tâm đầu não điều khiển mọi hành
vi, gây ra xung đột bản năng, sự dồn nén của ham muốn, cũng như
những phức cảm. Chính dồn nén ham muốn đã trá hình bằng hình thức
giấc mộng. Freud là người tiên phong lý giải thế giới mộng mị với
những ý nghĩa nhất định. Không phải ngẫu nhiên, khi nhắc đến phân
tâm học, người ta hay quy về các vấn đề dục tính. Chính ông tổ ngành
phân tâm học đã gây ra từ trường tranh cãi cũng như sự bất đồng ngay
trong học trò mình như Alfried Adler, C. Jung…khi có những kết luận
về libido. Freud cho rằng tất cả xúc cảm cả Id đều là hình thức thể hiện
năng lực tính dục (sexual), thậm chí ông nâng bản năng tính dục thành
yếu tố đầu tiên mạnh mẽ trong việc hình thành nhân cách và là nguồn
gốc của mọi công trình sáng tạo vĩ đại nhất. Từ những bất đồng quan
điểm, C. Jung - học trò của Freud, đã rẽ sang nghiên cứu về vô thức
tập thể, và có những phát hiện khác lý thú về cổ mẫu. Trên tinh thần
của Jung, G. Bachelard đã phát triển hơn trên tinh thần phân tâm học
vật chất. Nhìn chung, học thuyết phân tâm học có ý nghĩa đặc biệt với
tư duy hiện đại, và ảnh hưởng đến nhiều lĩnh vực khác nhau, trong đó
có nghiên cứu phê bình văn học.

Chính Freud cũng đã tìm thấy mối liên hệ giữa phân tâm học và
văn học, khi từ văn học, ông xác định hệ thống lý thuyết của mình. Từ
phân tâm học, với các trường phái phê bình khác nhau, người đọc có
thể hiểu hơn về văn bản văn học, dựa vào các phạm trù về vô thức,
tính dục, huyền thoại cá nhân, biểu tượng…. Mối quan hệ giữa lý
thuyết phân tâm học và nghiên cứu văn học đã mở ra phương pháp
20


nghiên cứu tập trung vào mối quan hệ giữa tác giả - văn bản - người
đọc. Chính vì vậy, phương pháp phê bình phân tâm học được giới phê
bình rất quan tâm. Ở nước ta, học thuyết phân tâm học đã được tiếp
nhận từ những năm ba mươi của thế kỷ XX, nhưng do rào cản quan
niệm chi phối, mãi đến sau đổi mới (1986), quá trình tiếp biến và vận
dụng các lý thuyết văn học hiện đại phương Tây, trong đó có phân tâm
học, mới thực sự tạo nên một diện mạo mới trong văn học, đặc biệt là
thể loại tiểu thuyết. Xét riêng mảng tiểu thuyết Việt Nam thập niên
đầu thế kỷ XXI, người đọc có thể nhận thấy, tác phẩm không chỉ đi
vào diện rộng về đề tài, không chỉ sao chép tất cả ngồn ngộn bể dâu
của cuộc đời, mà đã nhìn những mấp mô hiện thực ấy bằng một cái
nhìn riêng. Qua nhiều trang viết tưởng như tưng tửng, chơi chơi, phảng
phất mùi tính dục, người đọc vẫn nhận ra bao khát vọng dồn nén đầy
nhân văn như muốn mở toang cửa ngõ, vốn đã ngàn năm phong kín
trong tâm thức. Với muôn mặt đời thường hiện lên từ góc nhìn thế sự,
tình yêu, tâm linh, người viết đã làm nên những mẩu kí hoạ về bức
tranh cuộc đời đa chiều, đa sắc, đan xen những nội tâm đầy náo nức,
xung năng giữa cõi tạm.
Nghiên cứu tiểu thuyết Việt Nam thập niên đầu thế kỷ XXI từ
phạm trù vô thức, tình dục của S. Freud, người đọc có cảm nhận chung
về một thế giới nhân vật dồn nén giữa những khát khao, ham muốn và

mặc cảm. Đi sâu vào đời sống tâm lý nhân vật, hầu hết các nhà văn đã
chú ý khai thác sự giằng xé giữa phần ý thức và vô thức. Freud đã có
đóng góp đáng kể khi khám phá ra vô thức - nơi cốt lõi, tối thượng ẩn
chứa bản chất đời sống nội tâm con người. Người ta cứ thích phô
trương vẻ ngoài đạo mạo, cứ thích che đậy điều không thể nói, nhưng
trong khoảnh khắc sống thật với mình, khi phần vô thức lên tiếng, ước
muốn bị chế ngự sẽ được bộc bạch. Những ẩn ức, mặc cảm, bản năng
cứ cuộn trào. Con người được khai thác ở phần sâu nhất, nói tiếng nói
thật nhất. Bên cạnh đó, không thể phủ nhận, cuộc sống càng hiện đại,
con người càng rơi vào cảm giác hoang mang, hoài nghi, và tìm đến
cõi tâm linh như muốn cứu vãn niềm tin, tìm một chỗ dựa cho tinh
thần. Đời sống tâm linh cũng được các nhà tiểu thuyết thể hiện khá
nhiều trong tác phẩm. Tâm linh trở thành một đức tin không thể lý
21


giải. Khi hiện thực không thể neo đậu lòng mình, con người chỉ biết
vịn vào những điều không có thực. Con người trong tiểu thuyết giai
đoạn này được khắc hoạ với sự quẫy đạp của vô thức cùng những ám
ảnh tâm linh tạo nên hiện thực phản ánh mới - hiện thực bất khả lý giải
của con người bên trong con người.
Mặt khác, xã hội đương đại phức hợp giữa vui - buồn, khổ đau hạnh phúc, vấn đề số phận con người trở thành mối quan tâm khắc
khoải của những người cầm bút. Nhà văn không chỉ cảm nhận, suy
ngẫm mà con muốn phơi bày tận cùng đau thương mà con người đang
phải nếm trải từng ngày. Hầu hết các nhà tiểu thuyết không dừng lại ở
việc miêu tả hiện thực đời sống, mà hướng ngòi bút của mình vào tận
sâu thế giới tâm hồn nhân vật. Hiện thực bên trong con người với
những phức cảm trở thành một đề tài thu hút nhiều cây bút. Phân tâm
học đã phân tích nguyên nhân của những bi kịch phức tạp ấy từ sự mâu
thuẫn trong chính con người cá nhân. Càng ý thức về thân phận, con

người càng tự day dứt mình bởi phức cảm. Sự đấu tranh muôn thuở
giữa khát khao hướng về cái đẹp, cái thiện và sự bủa vây trì trệ của
hoàn cảnh, số phận đã gây ra những phức cảm Hoạn, phức cảm
Oedipe. Con người phức cảm cũng là một kiểu nhận vật xuất hiện khá
nhiều trong tiểu thuyết đầu thế kỷ XXI.
Bên cạnh đó, tiểu thuyết đương đại đã mạnh dạn phá toang cửa
ngõ bản năng để phơi bày trên trang viết. Các cây bút đã không còn e
dè, ngần ngại khi đề cập yếu tố sắc dục, tình yêu nhục thể - vấn đề khá
nhạy cảm, riêng tư của mỗi cá nhân. Từ sau đổi mới văn học năm
1986, con người tính dục cũng được nhắc đến khá nhiều trong văn học
với nhiều góc nhìn khác nhau. Đó có thể là khát khao tính dục đầy
nhân bản, là cảm xúc tính dục buông tuồng, cả nỗi cô đơn, ẩn ức.
Thuyết tính dục được xem như lõi của phân tâm học. Chạm đến vấn
đề tính dục, các nhà tiểu thuyết đã thể hiện một cái nhìn cảm thông và
trân trọng. Những gì thuộc về con người phải đều không xa lạ đối với
văn học. Nhà văn phải nói lên tiếng nói của khát khao và ẩn ức, phơi
trần điều đằng sau lớp phông màn một thời giấu kín. Tuy nhiên, từ
trong cô đơn bế tắc, con người hiện đại nhiều lúc cũng không giữ được
mình. Lối sống hiện đại vượt rào đạo đức cũng được bóc trần trong
22


nhiều tiểu thuyết. Sự sa đọa về nhân cách và lối sống trở thành tiếng
kêu, hồi chuông thức tỉnh về cõi người tận thế.
Tiểu thuyết đương đại là bức tranh sống động về một xã hội trần
trụi. Giá trị của tác phẩm không chỉ dừng lại ở góc nhìn Đẹp về con
người và cuộc sống, mà ngược lại, đó còn là sự lên án và hướng Thiện.
Văn học hoán cải con người ngay trong cái Ác, cái Xấu, cái nhỏ nhen
và sa đọa. Trong tiểu thuyết đương đại, các kiểu nhân vật được khắc
họa một cách đa dạng như chính sự tồn tại của nó giữa cuộc đời. Con

người được phản ánh từ góc nhìn vô thức, tâm linh, với những phức
cảm và cả bản năng tính dục. Rõ ràng, tiểu thuyết đầu thế kỷ XXI đã
chạm đến góc khuất sâu kín nhất, cái thế giới tiềm tàng mà mãnh liệt,
da diết bên trong con người như một réo gọi của tổ tông, của uyên
nguyên nguồn cội.
Từ sự vận động đổi mới phạm vi phản ánh, các nhà tiểu thuyết đã
nỗ lực cách tân phương diện nghệ thuật. Đây được xem như một thành
tựu lớn của tiểu thuyết giai đoạn này, đặc biệt là từ góc nhìn phân tâm
học. Việc sử dụng biểu tượng, cách xây dựng các yếu tố không gian,
thời gian, ngôn từ nghệ thuật mới lạ trong các tiểu thuyết đầu thế kỷ
thực sự là những sáng tạo góp phần biểu đạt thế giới tâm hồn. Với Carl
Jung, biểu tượng trở thành thứ ngôn ngữ để giải mã giấc mơ, xung đột
nội tâm hay ham muốn đã trở thành mặc cảm. Những ý nghĩ trong giấc
mơ cũng thường bị chuyển dịch, bóp méo, biến hình bằng thứ ngôn
ngữ đầy ý nghĩa ẩn dụ thông qua các biểu tượng. Tiếp nhận ý nghĩa
biểu tượng từ góc nhìn phân tâm học, các nhà tiểu thuyết đương đại
đã có dụng ý nghệ thuật khi sử dụng khá nhiều các biểu tượng trong
sáng tác của mình, đặc biệt là hai biểu tượng mang tính mẫu gốc tự
nhiên như lửa và nước. Đó là sự hoà hợp giữa con người và thiên
nhiên, sự huỷ diệt và tái sinh theo quy luật vĩnh hằng của vũ trụ, đất
trời. Mặt khác, việc xây dựng các kiểu không gian, thời gian nhuốm
màu sắc vô thức, tâm linh cũng mở ra nhiều góc nhìn khác nhau vào
cõi sâu hồn người, khám phá mạch ngầm tâm trạng. Hiện thực tâm
hồn giữa ngổn ngang ham muốn, mặc cảm vốn được che giấu, nay
chợt phanh phui trên từng trang viết. Cửa ngõ đi vào vô thức được nhà
văn hé mở bằng nhiều mã nghệ thuật khác nhau, để người đọc tự do
23



×