Tải bản đầy đủ (.pdf) (11 trang)

Các nguồn và thương phẩm ở đàng trong thế kỷ XVI – XVIII

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (277.78 KB, 11 trang )

Các nguồn và thương phẩm
ở Đàng Trong thế kỷ XVI – XVIII
Vũ Thị Xuyến
Trường Đại học Khoa học Xã hội và Nhân văn
Luận văn ThS. Lịch sử thế giới; Mã số: 60 22 03 11
Người hướng dẫn: TS. Nguyễn Mạnh Dũng
Năm bảo vệ: 2014
Abstract. Luận văn đã làm rõ được chức năng của Nguồn trong thương mại của Đàng
Trong. Các mặt hàng chủ yếu trong thương mại xứ Quảng, cách thức thu mua và buôn bán
chúng cũng được luận văn tập trung khảo cứu.
1. Thế kỷ XVI – XVII là một giai đoạn đầy biến động trong lịch sử Việt Nam.
Trước những cuộc đấu tranh chính trị phức tạp trong chính quyền nhà Lê, để bảo toàn sự
sinh tồn của mình, Nguyễn Hoàng (1524 – 1613) buộc phải rời khỏi Đàng Ngoài vào trấn
thủ Thuận Hóa giúp chúa Trịnh ổn định biên giới phía nam của Đại Việt. Trong một thế
cuộc chính trị phức tạp, việc ra đi của Nguyễn Hoàng chắc chắn chưa chứa đựng ngay mưu
đồ cát cứ, xẻ đôi sơn hà. Nhưng chính những xung lực phát triển của vùng đất mới, cùng
những điều kiện thuận lợi cho sự đi lên của kinh tế ngoại thương, Nguyễn Hoàng đã dần
thay đổi cái nhìn truyền thống của Nho giáo và thay vào đó là cái nhìn năng động, cởi mở
và hướng mạnh mẽ về kinh tế biển. Với tầm nhìn và tư tưởng vượt thời đại, cùng việc
“kiềm chế” những tính xấu trong con người ông để dung hợp, hòa nhập vào vùng đất vốn
có quá khứ huy hoàng của người Chăm, Nguyễn Hoàng đã mang lại sự hồi sinh cho vùng
đất vốn được coi là vùng biên viễn, chốn Ô châu ác địa của Đại Việt. Cũng chính Tư duy
và chính sách hưởng biển của Nguyễn Hoàng đã đặt nền móng cho chúa Nguyễn Phúc
Nguyên và nhiều vị chúa về sau tiếp tục kế thừa và phát triển mạnh mẽ kinh tế hải thương
và những mối giao lưu, buôn bán trên biển. Thế kỷ XVII – XVIII, vương quốc của chúa
Nguyễn là điểm đến của nhiều đoàn thuyền buôn các nước. Chính nhờ có tiềm lực kinh tế
thu được từ thương mại, chúa Nguyễn đã không ngường mở rộng lãnh thổ về phía Nam và
phía Đông. Vị thế của Đàng Trong không ngừng được củng cố và nâng cao trong khu vực
và thế giới.
2. Sự phát triển trột vượt của Đàng Trong trong nhiều thế kỷ là sự tích hợp của
những yếu tố nội sinh và ngoại sinh. Những vị chúa khai mở xứ Thuận Hóa đã rất nhanh


nhạy khi kết hợp những tiềm lực của vùng đất mới với điều kiện thuận lợi do hoàn cảnh
mang lại, triệt để khai thác những sản vật của xứ Quảng biến chúng thành những thương
phẩm mang giá trị thương mại rất cao tại thị trường khu vực và thế giới. Trong ý nghĩa đó,
có thể nói thương mại chính là nền tảng mang lại thế đứng chân vững chắc cho chính


quyền Thuận Hóa trên vùng đất mới, vốn mang nhiều khác biệt về điều kiện địa lý, xã hội
và văn hóa với Đàng Ngoài. Được cho là cơ sở tồn tại của thương mại xứ Quảng, chức
năng kinh tế của Nguồn giữ vị trí then chốt và quan trọng nhất. Tuy nhiên, cùng với cái
nhìn hệ thống thì chúng ta cũng cần có quan điểm phân lập khi nhìn nhận, nghiên cứu về vị
trí, vai trò của Nguồn trong thương mại xứ Thuận – Quảng. Không thể phủ nhận rằng cùng
với vai trò cung cấp hàng hóa thì Nguồn còn có chức năng hành chính, quân sự và chức
năng thu thuế. Tuy nhiên, những đặc điểm này của Nguồn luôn có sự đan xen, hòa quện và
bổ sung cho nhau. Thông qua chức năng hành chính, thu thuế của Nguồn chúa Nguyễn đã
kiểm soát được vùng đất cư trú của người Thượng. Cách thức quản lý của chúa Nguyễn
với vùng biên giới phía Tây đã cho thấy lối ứng xử khéo léo, mềm dẻo mang nhiều điểm
khác biệt với các chính thể phong kiến trước đây trong mối quan hệ với những tộc người
thiểu số. Có thể nói trong việc ổn định vùng biên viễn, điều hòa những mối quan hệ với các
tộc người ở miền núi thì chính sách Kimi, nhu viễn luôn được các triều đại nhà Lý (1009 –
1225), nhà Trần (1225 – 1400), nhà Lê Sơ (1428 – 1789)…áp dụng triệt để. Điểm nổi bật
trong chính sách này đó là chính quyền Thăng Long thường gả con gái cho các tù trưởng ở
đây, hoặc cử một vị tướng giỏi là đại diện của triều đình hiện diện ở miền đất này…. Dưới
thời chúa Nguyễn Đàng Trong, những biện pháp này vẫn được chính quyền Thuận Hóa kế
thừa và sử dụng. Tuy nhiên, một điều độc đáo là, chúa Nguyễn còn sử dụng lối ứng đối
linh hoạt đó là thông qua các hoạt động thương mại để ràng buộc vùng đất và con người
phía Tây vào chính quyền Đàng Trong. Nhận thức rất rõ về tầm quan trọng của nguồn
hàng phía Tây mang lại, kế thừa những di sản của người tiền nhiệm Chăm Pa, chúa
Nguyễn đã cho thiết lập tại những đầu Nguồn các sở tuần ty để thu thuế hoạt động thương
mại giữa người miền ngược và thương nhân miền xuôi, đồng thời qua đó để kiểm soát,
điều hòa, duy trì mối quan hệ hòa bình với người Thượng. Với chính sách khôn khéo, hợp

thời, hợp lòng người, chúa Nguyễn đã kéo theo sự chuyển dịch của cả khu vực phía Tây
lãnh thổ, lôi cuốn những người bản địa vào các hoạt động thương mại. Những cuộc trao đổi
nhộn nhịp giữa đồng bằng và miền núi đã diễn ra tại nhiều địa điểm buôn bán thuận lợi của
xứ Quảng. Thương nhân miền xuôi không chỉ có được nguồn lâm, thổ sản mang giá trị cao
mà người Thượng cũng có được những mặt hàng thiết yếu trong cuộc sống của mình. Theo
trục lộ của những dòng sông, những con đường thương mại theo lối Tây – Đông vốn đã tồn
tại tại Đàng Trong nay càng nhộn nhịp và phát huy hết vai trò của nó. Như nhiều nghiên
cứu đã cho rằng, thương mại là mối quan hệ lâu đời nhất giữa người Việt và người
Thượng, dưới thời chúa Nguyễn, chiều sâu của những mối liên hệ lịch sử, văn hóa, kinh tế
giữa các tộc người càng có cơ hội hồi sinh và phát triển.
3. Mặc dù cùng có sự hiện diện của những dòng sông lớn, nhưng thật hiếm có vùng
đất nào mà vị trí của sông nước lại đóng vai trò quan trọng và then chốt như tại xứ Thuận –
Quảng. Những con sông bắt nguồn từ phía Tây đâm ngang lãnh thổ xứ Quảng rồi đổ ra
biển không chỉ là phương tiện chuyên chở, đi lại mà còn quy định lên những đặc tính văn
hóa, xã hội và tôn giáo của xứ Quảng. Nếu như những dãy núi đâm ngang ra tận biển đã
chia cắt địa hình xứ Thuận Hóa thì dòng chảy của những dòng sông chính là phương tiện


để thống nhất vùng miền của Đàng Trong. Trong suốt mấy thế kỷ tồn tại, với sự bùng nổ
của các hoạt động giao thương, hoạt động thương mại trên những con sông đã tạo nên sự
nhộn nhịp của tuyến giao thương nội thủy tại Đàng Trong. Những hoạt động thương mại
trên trục lộ của sông Thạch Hãn, suông Hương, sông Thu Bồn, sông Côn…. là phương tiện
chính yếu để kết nối thương mại nội vùng của Đàng Trong. Thương phẩm của miền ngược
mà đặc trưng là các sản phẩm từ rừng, nguồn khoáng sản…. hẳn là đã theo những dòng
sông này hội tụ tại vùng đồng bằng, trong sự tác động qua lại, những sản phẩm đặc trưng
của miền xuôi, của biển cũng theo đó mà thấm sâu vào vùng nội địa. Cùng với tuyến giao
thương trên các dòng sông, trong mối quan hệ với những quốc gia láng giềng phía Tây như
Lạc Hoàn, Vạn Tượng (Lào), Chân Lạp… ở Đàng Trong hẳn là đã tồn tại tuyến giao
thương lục địa. Khảo cứu những biên chép trong các bộ địa chí thì Lạc Hoàn, Vạn Tượng
được biết đến là vùng đất giàu có với nguồn lâm sản quý như nguồn gỗ quý, voi, … Từ

chiều sâu lịch sử những mối quan hệ thương mại giữa nhà nước Đại Việt với các chính thể
này đã sớm được thiết lập. Là quốc gia lục địa điển hình của Đông Nam Á, nên những
thương cảng của miền Trung Việt Nam được coi là lối thông hành ra biển của các quốc gia
ở phía Tây của Đàng Trong. Thông qua tuyến giao thương lục địa, với sự tồn tại của hệ
thống chợ dọc biên giới phía Tây của Đàng Trong như chợ Cam Lộ…. mà những tộc người
này có được những sản phẩm đặc trưng của vùng biển như muối, cá khô, hải sản…. Tuyến
giao thương lục địa có sự cộng hưởng mật thiết với tuyến giao thương nội thủy, trước khi
thương phẩm được chuyển xuống tuyến giao thương cuối cùng đó là tuyến giao thương đại
dương. Với sự phong phú của các hải cảng, cảng cửa sông, kín gió, hệ thống thương cảng
Đàng Trong chính là chặng cuối cùng của nguồn thương phẩm trước khi nó được xuất
khẩu ra thị trường quốc tế. Có thể thấy, hệ thống các hải cảng của xứ Quảng đóng vai trò
kép, đây có thể là địa điểm cung cấp hàng hóa trực tiếp cho thuyền buôn đến từ các cảng ở
phía Nam Trung Hoa, từ Nhật Bản, hay các thuyền buôn phương Tây. Tuy nhiên, các cảng
thị cũng có thể là địa điểm dừng chân, neo đậu của các tàu thuyền để sửa chữa tàu, lấy
thêm nước ngọt hay mua thêm hàng hóa trong lộ trình từ vùng biển Tây (vịnh Xiêm) đến
các cảng biển ở phía Nam. Những cảng thị được coi là cửa ngõ của xứ Quảng, cũng như
hoạt động thương mại nhộn nhịp tại đây đã góp phần thống nhất Đàng Trong cả về mặt địa
lý và kinh tế.
4. Thương mại đã mang đến cho Đàng Trong một diện mạo hoàn toàn khác với
Đàng Ngoài và khác với nhiều mô hình đã tồn tại trước và sau đó trong lịch sử Việt Nam.
Những tuyến thương mại trên lãnh thổ của chúa Nguyễn đã kéo xứ Quảng chuyển dịch
theo cả hướng Bắc – Nam và Đông – Tây. Nguồn tài chính từ những hoạt động giao
thương chính là cơ sở để chúa Nguyễn không ngừng mở rộng lãnh thổ về phía Nam và theo
đó, người Việt từng bước di dân và chiếm lĩnh những vùng đất mới. Là những người
“ngoại quốc” tại Đàng Trong, người Việt hẳn phải có cái nhìn cởi mở, chấp nhận sự khác
biệt để hòa nhập với đặc trưng văn hóa, kinh tế bản địa tại đây. Trong mạng lưới thương
mại theo hướng Tây – Đông, chúng ta thấy có sự hiện diện, cộng hưởng của nhiều tộc
người. Mỗi tộc người dường như đảm bảo vai trò của mình trên mỗi tuyến thương mại



khác nhau, nếu như người Thượng đóng vai trò quan trọng trong việc thu gom nguồn hàng
lâm, thổ sản thì người Việt, thương nhân ngoại quốc, người Thượng lại giữ vị trí trung
gian, chuyển nguồn hàng này đến những thị trường của miền xuôi. Tới những thị trường
vùng đồng bằng thì những thương nhân như người Việt, người Hoa, người Nhật…. hoạt
động tại đây lại tiếp tục phân phối hàng hóa tới những chặng thương mại xa hơn. Điểm
cuối cùng trong lộ trình thương mại này chính là các cảng biển ở phía Đông. Tại đây
thương nhân khu vực như người Hoa, người Nhật giữ nhiệm vụ phân phối hàng hóa tới thị
trường quốc tế và truyền tải nguồn hàng ngoại nhập vào thị trường bản địa. Thương mại
chính là cơ sở để hội tụ, hội nhập các tộc người. Những giá trị văn hóa, xã hội theo đó mà
cũng được giao lưu, chia sẻ. Trong dòng chảy thương mại theo chiều Tây – Đông này, di
sản của người Chăm được người Việt triệt để kế thừa. Như nhiều nghiên cứu đã chỉ ra
rằng, mô hình kinh tế theo chiều Tây – Đông đặc biệt là theo dòng chảy của những con
sông đóng vai trò quan trọng đối với kinh tế của người Chăm. Trong những mặt hàng mà
người Chăm xuất khẩu đi nước ngoài thì nguồn lâm sản, gỗ quý giữ vị trí then chốt. Dưới
thời chúa Nguyễn người Chăm và người Việt hẳn là có sự cộng hưởng mật thiết trong việc
thu gom nguồn lâm sản đặc biệt là trầm hương và kỳ nam, mặt hàng được coi là sản phẩm
đặc trưng, quan trọng nhất của hải thương Chămpa. Không chỉ liên kết trong việc thu mua
nguồn hàng ở khu vực phía Tây, nhiều nhà nghiên cứu còn cho rằng dấu tích của người
Chăm còn rất đậm nét ngay tại thương cảng Hội An – thương cảng lớn nhất của Đàng
Trong. Có thể nói, thương mại đã mang lại điều kiện cho sự hội nhập, giao lưu văn hóa của
các tộc người trên vùng đất Thuận – Quảng.
5. Trong hơn hai thế kỷ tồn tại, kinh tế hải thương đã mang lại nhiều chuyển biến
mạnh mẽ cho xứ Thuận Hóa. Thương nhân ngoại quốc khi đến Đàng Trong đều choáng
ngợp trước vẻ đẹp và điều kiện thuận lợi cho sự phát triển của thương mại tại Đàng Trong.
Hơn nữa, theo miêu tả của những nhà buôn thì đây còn là vùng đất có nền ngoại thương
vững mạnh và đông đảo thương nhân ngoại quốc. Thương mại đã kéo theo sự chuyển dịch
của cả khu vực phía Tây lãnh thổ - khu vực cư trú của người Thượng và lôi cuốn nhiều
thương nhân bản địa vào các mối giao thương. Sự cộng hưởng của người Thượng, người
Việt, người Hoa, người Nhật và người phương Tây…. đã mang đến sắc màu đa dạng trong
hệ thống kinh tế Đàng Trong. Thương mại đã trở thành thước đo cho sự phát triển kinh tế

và vững mạnh của quốc gia, hình ảnh này dường như chưa từng xuất hiện trong lịch sử
Việt Nam. Trong sự bùng nổ của các mối giao thương thì quan niệm, thói quen, tư tưởng
phóng khoáng cho kinh tế biển mang lại đã ăn sâu vào nhiều vùng miền của Đàng Trong.
Những cư dân vùng Nam Trung Bộ vẫn phổ biến câu ca dao trong dân gian, “Làm trai cho
đáng nên trai, Phú Xuân đã trải Đồng Nai đã từng” như một minh chứng cho tư tưởng cởi
mở, ưa khám phá vốn là đặc trưng của kinh tế biển, đã có sự ăn sâu vào truyền thống văn
hóa của người Nam Bộ. Đây phải chăng là lí do khiến Gia Long ngay sau khi lên ngôi đã
phái chấn chỉnh ngay tư tưởng “bỏ gốc theo ngọn” đang diễn ra một cách phổ biến tại vùng
Gia Định. Đại Nam thực lục cho biết: Năm 1800, lại ra lệnh cho các dinh ở Gia Định
khuyên việc làm ruộng trồng dâu. Dụ rằng: “Nghề nông là gốc của nước; sự ăn trọng nhất


của dân. Gần đây đã nhiều lần có lệnh khuyến nông, nhưng nhiều người còn thích theo
đuổi nghề ngọn mà chưa chăm nghề gốc. Những dân ăn chơi chưa chịu về hết làm ruộng.
Vậy hạ lệnh cho các dinh thần đi khắp các huyện và làng ấp mà thân hành khuyến khích,
khiến mọi người siêng năng làm việc, đừng tiếc công làm cỏ, để có thể hát mừng thóc lúa
đầy kho” [95, tr. 409-410] Có thể thấy, sự hưng thịnh và phát triển mạnh mẽ của kinh tế
ngoại thương đã mang đến cho Đàng Trong một mẫu hình phát triển đặc trưng, độc đáo,
nhiều dị biệt trong tiến trình đi lên của lịch sử dân tộc.

Keywords. Lịch sử Việt Nam; Đàng Trong; Thương phẩm; Thương mại
Content.
Ngoài phần mở đầu và kết luận, luận văn bao gồm 3 chương
Chương 1: Vai trò, vị thế và tiềm năng của Đàng Trong
Chương 2: Nguồn trong kinh tế thương mại Đàng Trong.
Chương 3: Thương phẩm tại Đàng Trong.
References.
TÀI LIỆU TIẾNG VIỆT
1.
Dương Văn An (2009), Ô châu cận lục, Nxb Giáo dục, Hà Nội.

2.
Đỗ Bang (1996), Phố Quảng vùng Thuận Quảng thế kỷ XVII – XVIII, Nxb Thuận Hóa,
Huế.
3.
Đỗ Bang (2002), Ngoại thương Đàng Trong thời chúa Nguyễn Phúc Nguyên (1614 –
1635), Tạp chí Nghiên cứu Lịch sử, số 6 (325).
4.
J. Barrow (2008), Một chuyến du hành tới xứ Nam Hà (1792 – 1793), Nxb. Thế giới, Hà
Nội.
5.
Borri, Cristophoro (1998), Xứ Đàng Trong năm 1621, Nxb. Tp. Hồ Chí Minh.
6.
Xuân Chiêm (1998), Người Anh với Cù Lao Chàm và Đà Nẵng, Tạp chí Xưa và Nay, số
49B.
7.
Phan Huy Chú (2007), Lịch triều hiến chương loại chí, tập I, Nxb. Giáo dục, Hà Nội.
8.
Phan Huy Chú (2007), Lịch triều hiến chương loại chí, tập II, Nxb. Giáo dục, Hà Nội.
9.
Coedès G (2008), Cổ sử các quốc gia Ấn Độ hóa ở Viễn Đông, (bản dịch của PGS.TS
Nguyễn Thừa Hỷ), Nxb. Thế giới, Hà Nội.
10.
Dam Bo (2003), Miền đất huyền ảo (Các dân tộc miền núi Nam Đông Dương) (Nguyên
Ngọc dịch), Nxb Hội Nhà Văn.
11.
Jacques Dournes (2013), Potao một lý thuyết về quyền lực của người Jorai Đông Dương
(Nguyên Ngọc dịch), Nxb Tri Thức.
12.
Nguyễn Phước Bảo Đàn, Lê Thị Như Khuê, Đà Rằng: Dòng sông lịch sử và lối mở của
những luồng giao lưu, bài viết đăng trên Website:

13.
Nguyễn Đình Đầu (1998), Đà Nẵng qua các thời đại, Tạp chí Xưa và Nay, số 54B.
14.
Lê Quang Định (2005), Hoàng Việt nhất thống dư địa chí, Nxb Thuận Hóa, Huế.
15.
Phan Đại Doãn (1991), Hội An và Đàng Trong, trong Đô thị cổ Hội An, Nxb. Khoa học
Xã hội, Hà Nội.


16.
17.
18.
19.
20.
21.
22.
23.
24.

25.
26.
27.
28.
29.
30.
31.
32.
33.
34.
35.

36.
37.
38.

39.

Lê Quý Đôn (2007), Phủ biên tạp lục, Nxb. Văn hóa thông tin, Hà Nội.
Phan Du (1974), Quảng Nam qua các thời đại (Quyền thượng), Cổ học tùng thư.
Trịnh Hoài Đức (1998), Gia Định thành thông chí, Nxb Giáo dục, Hà Nội, 1998.
Nguyễn Mạnh Dũng (2006), Về hoạt động thương mại của Công ty Đông Ấn Pháp với
Đại Việt (nửa cuối thế kỷ XVII – giữa thế kỷ XVIII), Tạp chí Nghiên cứu Lịch sử, số 9.
Nguyễn Mạnh Dũng (2009), Vùng Đông Bắc Việt Nam trong tuyến hải trình Đông Á thế
kỷ VIII-XVIII, Tạp chí Nghiên cứu Đông Nam Á, số 9 (114).
Cửu Long Giang – Toan Ánh (1974), Việt Nam chí lược Miền thượng cao nguyên.
Đỗ Trường Giang (2008), Sự chuyển hóa từ thương cảng Chăm sang Việt (trường hợp
Thị Nại – Nước Mặn), Tạp chí nghiên cứu Đông Nam Á, số 8.
Vũ Minh Giang (1991), Người Nhật, Phố Nhật và di tích Nhật Bản ở Hội An, trong Đô
thị cổ Hội An, Nxb. Khoa học Xã hội, Hà Nội.
Andrew Hardy (2008), “Nguồn” trong kinh tế hàng hóa Đàng Trong, trong Chúa
Nguyễn và vương triều Nguyễn trong lịch sử Việt Nam từ thế kỷ XVI đến thế kỷ XIX , Kỷ
yếu Hội thảo khoa học, Thanh Hóa 18-19/10/2008, Nxb. Thế Giới.
Hasebe Gakuji (1991), Tìm hiểu mối quan hệ Việt – Nhật qua đồ gốm, sứ trong Đô thị cổ
Hội An, Nxb. Khoa học Xã hội, Hà Nội
Hội khoa học Lịch sử Việt Nam (2001), Những vấn đề lịch sử Việt Nam, Nguyệt san Xưa
& Nay - Nxb. Trẻ.
Nguyễn Hồng (1999), Lịch sử truyền giáo ở Việt Nam , Tập I, Nxb. Từ điển bách khoa.
Dương Văn Huy (2007), Quản lý ngoại thương của chính quyền Đàng Trong thế kỷ XVII
– XVIII, tạp chí Nghiên cứu Đông Nam Á, số 12.
Dương Văn Huy (2007), Nhìn lại chính sách “Hải cấm” của nhà Minh – Trung Quốc,
trong Việt Nam trong hệ thống thương mại châu Á thế kỷ XVII – XVIII, Nxb. Thế giới.

Dương Văn Huy (2009), Giao thương giữa vùng Đông Bắc Việt Nam với các cảng miền
Nam Trung Hoa thế kỷ X-XIV, Tạp chí Nghiên cứu Đông Nam Á, số 3(108).
Dương Văn Huy (2010), Hoạt động kinh tế của người Hoa ở Hội An thời kỳ các chúa
Nguyễn, Tạp chí Nghiên cứu Lịch sử, số 4.
Nguyễn Thừa Hỷ- Đỗ Bang – Nguyễn Văn Đăng (2000), Đô thị Việt Nam dưới triều
Nguyễn, Nxb Thuận Hóa.
Shigenru Ikuta (1991), Vai trò của các cảng thị vùng ven biển Đông Nam Á từ thế kỷ 2
TCN đến đầu thế kỷ 19, trong Đô thị cổ Hội An, Nxb. Khoa học Xã hội, Hà Nội.
Kawamoto Kuniye (1991), Nhận thức quốc tế của chúa Nguyễn ở Quảng Nam, trong Đô
thị cổ Hội An, Nxb Khoa học Xã hội, Hà Nội.
Khoa Lịch sử, Trường ĐH KHXH&NV (2000), Một chặng đường Nghiên cứu lịch sử
(1995-2000), Nxb. Chính trị Quốc gia, Hà Nội.
Phan Khoang (2001), Việt sử xứ Đàng Trong (1558-1777) cuộc Nam tiến của dân tộc
Việt, Nxb. Văn Học, Hà Nội.
Nguyễn Văn Kim (2000), Chính sách đóng cửa của Nhật Bản thời kỳ Tokugawa nguyên
nhân và hệ quả, Nxb Thế giới, Hà Nội.
Nguyễn Văn Kim (2002), Hệ thống buôn bán ở Biển Đông thế kỷ XVI-XVII và vị trí của
một số thương cảng Việt Nam (Một cái nhìn từ điều kiện địa – nhân văn), Tạp chí Nghiên
cứu Lịch sử, số 1.
Nguyễn Văn Kim (2003), Quan hệ của Nhật Bản với Đông Nam Á, Nxb. Đại học Quốc
gia Hà Nội, Hà Nội.


40.
41.
42.
43.
44.
45.
46.

47.
48.
49.
50.
51.
52.
53.
54.
55.
56.
57.
58.
59.

60.

61.
62.
63.
64.

Nguyễn Văn Kim, Nhật Bản với châu Á - Những mối liên hệ lịch sử và chuyển biến kinh
tế - xã hội, Nxb. Đại học Quốc gia Hà Nội, Hà Nội.
Nguyễn Văn Kim (2006), Xứ Đàng Trong trong các mối quan hệ và tương tác quyền lực
khu vực, Tạp chí Nghiên cứu Lịch Sử, số 6/2006.
Nguyễn Văn Kim, Mạng lưới giao thương Đông Á trước thời đại mở cửa và những hệ
quả phát triển - Trường hợp Hội An, Tạp chí Nghiên cứu Đông Bắc Á, số 3 (97).
Nguyễn Văn Kim (2010), Ứng đối của chính quyền Đàng Trong với các thế lực phương Tây,
Tạp chí khoa học ĐHQGHN, Khoa học Xã hội và Nhân Văn, 26.
Nguyễn Văn Kim (2011): Nguồn hàng và thương phẩm Đàng Trong, Tạp chí Nghiên cứu

Lịch sử, số 4 (420).
Nguyễn Văn Kim (cb) (2011): Người Việt với biển, Nxb Thế Giới, Hà Nội.
Kỷ yếu Hội thảo khoa học: Quảng Trị - đất dựng nghiệp của chúa Nguyễn Hoàng (1558
– 2013), Triệu Phong tháng 9/2013.
Kỷ yếu hội thảo khoa học (2002), Vai trò lịch sử Dinh trấn Quảng Nam, 8 – 2002
Phan Huy Lê (2006), Tưởng nhớ công lao của vua Trần Nhân Tông và công chúa Huyền
Trân, tạp chí Xưa và Nay, số 263 (7/2006).
Nguyễn Nhật Linh (2007), Thương nhân Hồi giáo và quan hệ thương mại giữa Đông
Nam Á và Tây Á thế kỷ XV – XVII, Tạp chí nghiên cứu Đông Nam Á, số 6.
Henri Maitre (2008), Rừng người Thượng, Nxb Tri thức, H.
Charles B. Maybon (2006), Những người Châu Âu ở nước An Nam, Nxb Thế giới, Hà
Nội.
Shiro, Momoki (1999), Chămpa chỉ là một thể chế biển, Tạp chí Nghiên cứu Đông Nam
Á, số 4.
Shiro, Momoki (2004), Đại Việt và thương mại Biển Đông từ thế kỷ X đến thế kỷ XV,
trong Đông Á – Đông Nam Á: Những vấn đề lịch sử và hiện tại, Nxb Thế giới, Hà Nội.
Nguyễn Đức Nghinh (1998), Hai tài liệu Hà Lan nói đến người Nhật Bản ở Việt Nam vào
nửa đầu thế kỷ XVII, Tạp chí Nghiên cứu Lịch sử, số 4.
Lại Bích Ngọc (2003), Về hoạt động của công ty Đông Ấn Hà Lan ở châu Á thế kỷ XVII,
Tạp chí Nghiên cứu Lịch sử, số 2 (327).
Nguyễn Quang Ngọc (cb) (2003), Tiến trình lịch sử Việt Nam, Nxb. Giáo dục, Hà Nội.
Vũ Dương Ninh (Cb) (2007), Đông Nam Á - Truyền thống và hiện tại, Nxb. Thế Giới, Hà
Nội.
Phân Viện Văn hóa Nghệ thuật Việt Nam tại Huế (2009), Nhận thức về miền Trung Việt
Nam hành trình 10 năm tiếp cận, Nxb Thuận Hóa, Huế.
Lê Đình Phụng (2007), Thương cảng Nước Mặn (Quy Nhơn) – xứ Đàng Trong, trong Kỷ
yếu Hội thảo khoa học Việt Nam trong hệ thống thương mại Biển Đông, Nxb Thế giới,
Hà Nội.
Trần Kỳ Phương, Thung lũng sông Thu Bồn: Một mẫu hình của phương thức trao đổi ven
sông nối kết thương đạo Đông – Tây ở miền Trung Việt Nam, bài viết đăng trên website:

vanhoamientrung.org
Le Pichon (2011), Những kẻ săn máu, bản dịch của Tạ Đức, Nxb Thế Giới, Hà Nội.
Rhodes, Alexandre de (1994), Hành trình và truyền giáo, Tủ sách đại kết Thành phố Hồ
Chí Minh.
Sakurai, Yumio (1996), Thử phác dựng cấu trúc lịch sử của khu vực Đông Nam Á (thông
qua mối quan hệ giữa biển và lục địa), Tạp chí Nghiên cứu Đông Nam Á, số 4.
Thích Đại Sán (1963), Hải ngoại kỷ sự, Viện đại học Huế.


65.
66.
67.
68.
69.
70.
71.
72.
73.
74.
75.
76.
77.
78.
79.
80.
81.
82.
83.

84.


85.
86.

87.
88.
89.
90.
91.

Vĩnh Sính (2001), Việt Nam và Nhật Bản giao lưu văn hóa, Nxb Văn Nghệ và Trung tâm
nghiên cứu Quốc học.
Sở văn hóa Thông tin - Thể thao Hải Hưng (1994), Phố Hiến kỷ yếu hội thảo khoa học,
Li Tana (1999), Xứ Đàng Trong lịch sử kinh tế - xã hội Việt Nam thế kỷ 17 và 18, Nxb
Trẻ.
Li Tana (Nguyễn Tiến Dũng dịch) (2009), Một cách nhìn từ biển: Bối cảnh vùng duyên
hải miền Bắc và Trung Việt Nam, Tạp chí Nghiên cứu Lịch sử, số 7&8.
Tạp chí Xưa và Nay (2007), Những vấn đề lịch sử triều Nguyễn, Nxb Văn hóa Sài Gòn.
Keith W. Taylor (2002), Nguyễn Hoàng và bước khởi đầu cuộc Nam tiến, tạp chí Xưa và
Nay, số 104, (11/2002)
Nguyễn Q. Thắng (2007), Hoàng Sa, Trường Sa Lãnh thổ Việt Nam nhìn từ công pháp
quốc tế, Nxb Tri Thức.
Nguyễn Hữu Thông (cb) (2004), Ka Tu kẻ sống đầu nguồn ngọn nước, Nxb Thuận Hóa,
Huế.
Nguyễn Hữu Thông (cb) (2005), Văn hóa làng miền múi Trung Bộ giá trị truyền thống và
những bước chuyển lịch sử (Dẫn liệu từ miền núi Quảng Nam), Nxb Thuận Hóa, Huế.
Trung tâm nghiên cứu Huế (1999), Nghiên cứu Huế, tập I.
Trung tâm nghiên cứu Huế (2001), Nghiên cứu Huế,Tập II.
Trung tâm nghiên cứu Huế (2002), Nghiên cứu Huế, Tập III.
Trung tâm nghiên cứu Huế (2002), Nghiên cứu Huế, Tập IV.

Trung tâm nghiên cứu Huế (2003), Nghiên cứu Huế, Tập V
Trung tâm nghiên cứu Huế (2008), Nghiên cứu Huế, Tập VI.
Tạ Chí Đại Trường (1973), Lịch sử nội chiến ở Việt Nam 1771 – 1802, Nxb. Văn Sử học,
Sài Gòn.
Trường Đại học Khoa học Xã hội và Nhân văn, ĐHQG HN (2007), Việt Nam trong hệ
thống thương mại châu Á thế kỷ XVI-XVII, Nxb. Thế giới, Hà Nội.
Yashiharu Tsuboi (1999), Nước Đại Nam đối diện với Pháp và Trung Hoa, Nxb Trẻ.
Hoàng Anh Tuấn (2000), Cù Lao Chàm và hoạt động thương mại ở Biển Đông thời
vương quốc Champa, trong: Một chặng đường nghiên cứu lịch sử (1995 – 2005), Nxb.
Chính trị Quốc gia, Hà Nội.
Hoàng Anh Tuấn (2004), Mậu dịch gốm sứ của Công ty Đông Ấn Hà Lan với Đàng
Ngoài nửa sau thế kỷ XVII, trong: Đông Á – Đông Nam Á: Những vấn đề lịch sử và hiện
tại, Nxb. Thế Giới, Hà Nội.
Hoàng Anh Tuấn (2005), kế hoạch Đông Á của công ty Đông Ấn Anh tại Đàng Ngoài
thập niên 70 của thế kỷ XVII, tạp chí Nghiên cứu Lịch sử, số 9.
Hoàng Anh Tuấn (2006), Hải cảng miền Đông Bắc và hệ thống thương mại Đàng Ngoài
thế kỷ XVII qua các nguồn tư liệu phương Tây, trong: Một chặng đường Nghiên cứu lịch
sử (2001 – 2006), Nxb. Thế giới, Hà Nội.
Hoàng Anh Tuấn (2008), Vị trí của Việt Nam trong hệ thống thương mại biển Đông thời
Cổ Trung đại, Tạp chí Nghiên cứu Lịch sử số 9+10 (389 + 390).
Nguyễn Phước Tương (2000), Nguồn hàng xứ Quảng dưới thời chúa Nguyễn, Tạp chí
Huế xưa và nay, số 39 & 40.
Nguyễn Phước Tương (2004), Hội An di sản thế giới, Nxb Văn nghệ thành phố Hồ Chí
Minh.
Viện sử học (2006), Đại Nam nhất thống chí, Tập 1, Nxb. Thuận Hóa, Huế.
Viện sử học (2006), Đại Nam nhất thống chí, Tập 2, Nxb. Thuận Hóa, Huế.


92.
93.

94.
95.
96.
97.
98.
99.
100.
101.
102.

103.
104.
105.
106.
107.
108.
109.
110.

Viện sử học (2006), Đại Nam nhất thống chí, Tập 3, Nxb. Thuận Hóa, Huế.
Viện sử học (2006), Đại Nam nhất thống chí, Tập 4, Nxb. Thuận Hóa, Huế.
Viện sử học (2006), Đại Nam nhất thống chí, Tập 5, Nxb. Thuận Hóa, Huế.
Viện sử học (2004), Đại Nam thực lục, Tập 1, Nxb Giáo Dục, Hà Nội.
Viện sử học (2004), Đại Nam thực lục, Tập 2, Nxb Giáo Dục, Hà Nội.
Viện sử học (2004), Đại Nam thưc lục, Tập 3, Nxb Giáo Dục, Hà Nội.
Viện sử học (1993), Đại Việt sử ký toàn thư, Tập III, Nxb. Khoa học Xã hội, Hà Nội.
Viện Nghiên cứu Đông Nam Á (1996), Biển với người Việt cổ, Nxb. Văn hoá Thông tin,
Hà Nội.
Viện Sử học (1991), Đô thị cổ Hội An, Nxb Khoa học Xã hội, H.1991, Hà Nội
Viện sử học (2007), Khâm định Việt sử thông giám cương mục, Nxb Giáo dục, Hà Nội.

Trần Quốc Vượng (2008): Chiêm cảng Hội An với cái nhìn về biển của người Chàm và
người Việt, trong: Kỷ yếu hộ thảo khoa học về khu phố cổ Hội An 23-24/7/1985, Hội An
(tháng 3/2008).
Trần Quốc Vượng (1991), Vị thế địa – lịch sử và bản sắc địa – văn hóa của Hội An, trong
Đô thị cổ Hội An, Nxb. Khoa học Xã hgội, Hà Nội.
Trần Quốc Vượng (1996), Theo dòng lịch sử - Những vùng đất, Thần và Tâm thức người
Việt, Nxb. Văn Hóa, Hà Nội.
Trần Quốc Vượng (1998), Việt Nam cái nhìn địa văn hoá, Nxb. Văn hoá Dân tộc, Hà
Nội.
Trần Quốc Vượng (1998), Việt Nam trung bộ: một cái nhìn địa sinh thái văn hóa nhân
văn, Tạp chí nghiên cứu Đông Nam Á, số 4.
Trần Quốc Vượng (1998), Văn hóa Việt Nam - Tìm tòi và suy ngẫm, Nxb. Văn hóa dân
tộc - Tạp chí Văn hóa Nghệ thuật, Hà Nội.
Thành Thế Vỹ (1961), Ngoại thương Việt Nam hồi đầu thế kỷ XVII, XVIII và đầu XIX,
Nxb. Sử học.
Vũ Thị Xuyến (2011), Các nguồn hàng và thương phẩm của Đàng Trong thế kỷ XVI XVIII, Khóa luận cử nhân, Khoa Lịch sử
Vũ Thị Xuyến (2013): Tư duy và chính sách hướng biển của Nguyễn Hoàng, Kỷ yếu Hội thảo
45 năm thành lập khoa Việt Nam học và Tiếng Việt, tháng 10/2013

111.
TÀI LIỆU TIẾNG ANH
112. C.R. Boxer (2004), South China in the Sixteenth Century, Orchid Press Bangkok
113. Bennet Bronson (1977), Exchange at the Upstream and Downstream Ends: Notes toward
a Functional Model of the Coastal State in Southeast Asia, in Karl Hutterer: Economic
Exchange and Social Interaction in Southeast Asia: Perspectives from Prehistory,
History, and Ethnography, Center for South and Southeast Asian Studies The University
of Michigan.
114. Jams Kong Chin (2004), The Junk trade between South China and Nguyen Vietnam in the
later Eighteenth and early nineteenth centuries, in Nola Cooke And Li Tana, Water
Frontier Commerce and the chinese in the lower Mekong region 1750 – 1880, Rowman

and Littlefield, Singapore.
115. John Crawfurd (1830), Journal of an embassy from the Governor – General of India to
the courts of Siam and Cochinchina.
116. David K. Wyatt (1994), Studies in Thai History, Silkworm Books.


117.

118.
119.
120.
121.
122.
123.

124.
125.

126.
127.
128.

129.

130.
131.

132.

133.

134.
135.

Olga Dror – K.W. Taylor (2006), Views of Seventeenth – Century Vietnam Christoforo
Borri on Cochinchina and Samuel Baron on Tonkin, Cornell University Ithaca, New
York.
George Dutton (2006), The Tay Sơn Upprising Society and Rebellion in Eighteenth –
century, University of Hawai’I Press Honolulu.
Wang Gungwu – Ng Chin – Keong (2004), Maritime China in Transition 1750 – 1850,
Harrassowits Verlag.
Dr. Gutzlaff (1849), Geography of the Cochi – Chinese Empire, ở Jounal of the Royal
Geographical Society of London, Vol 19 (1849).
Andrew Hardy, Mauro Cucarzi and Patrizia Zolese (2008), Champa and the Archaeology
of My Son (Vietnam), NUS Press Singapore.
Gerald Cannon Hickey (1982), Sons of the moutains Enthnohistory of the Vietnamese
Central Highlands to 1954, Yale University Press.
Alastair Lamb (1970), The Mandarin to Road to Old Hue Narratives of Anglo –
Vietnamese Diplomacy from the 17th century to the eve of the French Conquest, Chatto
and Windus London.
Victor Lieberman (2003), Strange Parallels Southeast Asia in Global Context, c. 800 –
1830, Volume Integration on the Mainland, Cambridge University Press.
Pierre Poirve (1993), Voyage de Pierre Poirve en Cochinchine, in Li Tana – Anthony
Reid, Southern Vietnam under the Nguyen, Documents on the economic History of
Cochinchina (Đàng Trong) 1602 – 1777, Institute of Southeast Asia Studies.
Anthony Reid, Southeast Asia in the Early Modern Era Trade, Power, and Belief,
Cornell University Press.
Anthony Reid (1993), Southeast Asia in the Age of commerce, Volume 2: expansion and
crisis, Yale University press new Haven and LonDon.
Oscar Salemink (2010), A view from the mountain: A Critical history of lowland –
highlander relations in Vietnam, in 2010 International Conference on VietNamese and

Taiwanese Studies, National ChenKung University.
Li Tana (1998), Nguyễn Cochinchina Southern Vietnam in the Seventeenth and
Eighteenth Centuries, Southeast Asia Program Publications Cornell University Ithaca,
Newyork.
Li Tana (1998), An alternative Vietnam? The Nguyen Kingdom in the seventeenth and
eighteenth centuries, Journal of Southeast Asian Studies 29, 1 (March 1998).
Li Tana (2004), Ships and Shipbuilding on the Mekong Delta, 1750-1840, in Nola Cooke
And Li Tana, Water Frontier “Commerce and the chinese in the lower Mekong region,
1750 – 1880, Rowman and Littlefield, Singapore.
Li Tana (2006), The Eighteenth – century Mekong Delta and Its World of Water
Frontier, in Nhung Tuyet Tran and Anthony Reid, Viet Nam Boderless Histories, the
University of Wisconsin press.
Nicholas Tarling (1992), The Cambridge History of Southeast Asia, Volume I, From
Early Times to c. 1800, Cambridge University Press.
K.W. Taylor and John. Whitmore (1995), Essays into Vietnamese Pasts, Cornell
University, Ithaca, New York.
B.J. Terwiel (1984), A History of Modern Thailand 1767 – 1942, University of
Queensland Press.


136.
137.

138.

139.

Geoff Wade (2009), An Early Age of Commerce in Southeast Asia, 900 – 1300 CE,
Journal of Southeast Asian Studies, 40 (2), June.
Charles J. Wheeler (2001), Cross – Culture Trade and Trans- Regional Networks in the

Port of Hoi An Maritime Vietnam in the Early Modren Era, A Dissertation Presented to
the Faculty of the Graduate School of Yale University in Candidacy for the Degree of
Doctor of Philosophy.
Charles Wheeler (2006), One region, two histories: Cham precedents in the history of the
Hoi An Region, in Nhung Tuyet Tran and Anthony Reid, Vietnam Borderless Histories,
The University of Wisconsin Press.
Charles wheeler, Re-thinking the Sea in Vietnamese History: Littoral society in the
integration of Thuận – Quảng Seventeenth – eighteenth centuries, Journal of southeast
Asian Studies, 37.

TÀI LIỆU INTERNET
140. />141. />142. />143.



×