Tải bản đầy đủ (.pdf) (186 trang)

MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÍ LUẬN VÀ THỰC TIỄN VỀ TỔ CHỨC LÃNH THỔ NÔNG NGHIỆP

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.57 MB, 186 trang )

TS. NGUYỄN THỊ TRANG THANH

MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÍ LUẬN VÀ THỰC TIỄN VỀ
TỔ CHỨC LÃNH THỔ NÔNG NGHIỆP

1


LỜI NÓI ĐẦU
Tổ chức lãnh thổ nông nghiệp là một hình thức của tổ chức lãnh thổ kinh
tế. Mục tiêu của tổ chức lãnh thổ nông nghiệp là tạo ra một nền nông nghiệp
phát triển theo hướng công nghiệp hóa, hiện đại hóa, sử dụng có hiệu quả
các khác biệt lãnh thổ của các điều kiện tự nhiên, tài nguyên thiên nhiên,
điều kiện kinh tế - xã hội nhằm phát triển nông nghiệp theo hướng thị
trường một cách bền vững.
Quá trình chuyển đổi cơ cấu kinh tế theo hướng công nghiệp của
phần lớn các nước đang phát triển, đặc biệt là mức tăng nhanh thu nhập ở
các nước đông dân như Trung Quốc, Ấn Độ và xu thế chuyển một phần
lương thực sang sản xuất nhiên liệu sinh học, thức ăn gia súc sẽ đẩy nhanh
nhu cầu về lương thực, thực phẩm, làm tăng giá các nông sản này trong
tương lai. Thêm vào đó, sự tăng trưởng kinh tế trên thế giới nói chung sẽ
đẩy mạnh nhu cầu về các mặt hàng nguyên liệu phục vụ công nghiệp khác
như cao su, gỗ... cũng như các mặt hàng nông sản thực phẩm. Mặt khác,
biến đổi khí hậu, các hiện tượng thời tiết khắc nghiệt bất thường sẽ dẫn đến
sụt giảm sản lượng lương thực, đe dọa an ninh lương thực toàn cầu. Vì vậy,
làm thế nào để tổ chức sản xuất nông nghiệp một cách hiệu quả trên diện
tích đất nông nghiệp đang bị thu hẹp để đáp ứng nhu cầu tiêu dùng trên thế
giới ngày càng tăng cao là vấn đề mà nhiều quốc gia đang chú trọng trong
chiến lược phát triển kinh tế của mình.
Nông nghiệp hiện nay vẫn là ngành kinh tế cơ bản của Việt Nam với
hơn 68% dân số sống ở khu vực nông thôn, lao động nông nghiệp chiếm


hơn 47% lao động xã hội và giá trị tăng thêm của ngành nông nghiệp vẫn
chiếm gần 20% tổng sản phẩm trong nước. Vì vậy, phát triển nông nghiệp
theo hướng sản xuất hàng hóa là một trong những mục tiêu cơ bản nhằm
thực hiện công nghiệp hóa, hiện đại hóa nền kinh tế Việt Nam.
Cùng với quá trình phát triển kinh tế - xã hội, các hình thức tổ chức lãnh thổ
nông nghiệp ở Việt Nam hình thành và phát triển góp phần thúc đẩy nông
nghiệp Việt Nam phát triển theo hướng chuyên môn hóa, hiện đại hóa. Trong
các hình thức tổ chức lãnh thổ nông nghiệp ở Việt Nam, một số hình thức
đang phát triển và đạt hiệu quả cao như các trang trại, các vùng chuyên

2


canh; một số hình thức mới hình thành và phát triển như khu nông nghiệp
công nghệ cao, vùng nông nghiệp; một số hình thức đang trong quá trình
chuyển đổi để phù hợp hơn với nền kinh tế thị trường như hợp tác xã nông
nghiệp, nông trường quốc doanh,…
Cuốn sách Một số vấn đề lí luận và thực tiễn về tổ chức lãnh thổ nông
nghiệp nhằm cung cấp cho người đọc một cách khái quát về tổ chức lãnh
thổ nông nghiệp: quan niệm, các nhân tố ảnh hưởng, các hình thức tổ chức
lãnh thổ nông nghiệp trên thế giới và ở Việt Nam. Trên cơ sở lí luận đó,
cuốn sách phân tích thực trạng tổ chức lãnh thổ nông nghiệp ở Việt Nam với
một số hình thức tổ chức lãnh thổ nông nghiệp chủ yếu. Nhằm làm rõ tổ
chức lãnh thổ nông nghiệp Việt Nam dưới cấp độ lãnh thổ nhỏ hơn, cuốn
sách phân tích tổ chức lãnh thổ nông nghiệp cấp tỉnh qua ví dụ tại tỉnh Nghệ
An, từ đó đề xuất phương hướng và một số giải pháp thúc đẩy nông nghiệp
phát triển hiệu quả hơn.
Cấu trúc cuốn sách gồm 3 chương
Chương 1. Cơ sở lí luận về tổ chức lãnh thổ nông nghiệp: Trong chương
này, tác giả tổng quan các quan niệm, vai trò, nguyên tắc, các nhân tố ảnh

hưởng đến tổ chức lãnh thổ nông nghiệp; giới thiệu các hình thức tổ chức
lãnh thổ nông nghiệp trên thế giới và Việt Nam từ trước đến nay.
Chương 2. Tổ chức lãnh thổ nông nghiệp một số nước trên thế giới và Việt
Nam: chương 2 gồm 2 phần. Phần thứ nhất tìm hiểu tổ chức lãnh thổ nông
nghiệp của một số nước trên thế giới và bài học kinh nghiệm cho Việt Nam.
Phần 2 tìm hiểu tổ chức lãnh thổ nông nghiệp ở Việt Nam với các nội dung
chính: Vai trò của nông nghiệp trong nền kinh tế Việt Nam, các nhân tố ảnh
hưởng, đặc điểm nền nông nghiệp và tổ chức lãnh thổ nông nghiệp Việt
Nam. Phần các hình thức tổ chức lãnh thổ nông nghiệp Việt Nam, tập trung
vào một số hình thức tiêu biểu ở Việt Nam: trang trại, vùng nông nghiệp
sinh thái.
Chương 3. Tổ chức lãnh thổ nông nghiệp tỉnh Nghệ An: Nhằm làm rõ tổ
chức lãnh thổ nông nghiệp ở cấp lãnh thổ nhỏ hơn, trong chương này, tác
giả phân tích thực trạng tổ chức lãnh thổ nông nghiệp của tỉnh Nghệ An với
một số hình thức tổ chức lãnh thổ nông nghiệp ở quy mô lãnh thổ nhỏ như:
trang trại, vùng chuyên canh, tiểu vùng nông nghiệp. Từ đó đề xuất định

3


hướng và giải pháp tổ chức lãnh thổ nông nghiệp ở tỉnh Nghệ An một cách
hợp lí và bền vững.
Trong quá trình thực hiện cuốn sách, tác giả đã tham khảo và kế thừa
số liệu, tư liệu từ nhiều nguồn tư liệu khác nhau cũng như nhận được nhiều
nhận xét, góp ý quý báu của nhiều nhà khoa học. Tác giả xin trân trọng cảm
ơn PGS.TS. Nguyễn Minh Tuệ, GS.TS. Lê Thông cùng nhiều nhà khoa học
khác. Xin cám ơn các cơ quan và đồng nghiệp đã giúp đỡ tác giả hoàn thành
cuốn sách này.
Nhân dịp này, tác giả xin trân trọng cám ơn Nhà xuất bản Chính trị
quốc gia đã tạo điều kiện thuận lợi cho tác giả biên soạn và xuất bản cuốn

sách này. Trong quá trình biên soạn, cuốn sách có thể còn nhiều thiếu sót.
Tác giả mong nhận được những ý kiến đóng góp của các độc giả.
TS. Nguyễn Thị Trang Thanh

4


CHƯƠNG 1. CƠ SỞ LÍ LUẬN CỦA
TỔ CHỨC LÃNH THỔ NÔNG NGHIỆP
I. TỔNG QUAN VỀ TỔ CHỨC LÃNH THỔ KINH TẾ - XÃ HỘI
1. Một số lí thuyết về tổ chức lãnh thổ kinh tế - xã hội
Khái niệm tổ chức lãnh thổ (territorial organization) hay còn gọi là
tổ chức không gian (spatial organization) được sử dụng khi đề cập đến vấn
đề tổ chức lãnh thổ cả theo chiều thẳng đứng và chiều ngang. Khái niệm tổ
chức lãnh thổ đã được dùng ở các nước phương Tây từ cuối thế kỉ XIX,
được phát triển về mặt lí luận thông qua các lí thuyết về tổ chức lãnh thổ.
a. Lí thuyết khu vị luận công nghiệp của A.Weber
Mô hình tổ chức không gian công nghiệp ra đời trong thế kỉ XIX,
được A.Weber là một đại diện tiêu biểu đưa lên thành lí thuyết "Khu vị luận
công nghiệp". Tư tưởng chủ đạo của ông là coi thành phố là những nút hay
trọng điểm lãnh thổ. Sức lan tỏa ảnh hưởng của nó rất lớn. Xung quanh
thành phố (nút) là các vành đai với các chức năng khác nhau, nhưng đều
phục vụ cho một trung tâm. Lý thuyết này phù hợp với một nền kinh tế mà
quá trình công nghiệp hóa và đô thị hóa chưa mạnh và có ý nghĩa trong việc
xác định vai trò của trung tâm ở những khu vực có nền kinh tế còn chậm
phát triển1.
b. Lí thuyết phát triển các điểm trung tâm của W.Christaller
Vào đầu những năm 1930, W.Christaller (Mỹ) đã đưa ra lí thuyết
phát triển các điểm trung tâm (1933). W.Christaller đã góp phần to lớn vào
việc tìm ra quy luật phát triển của toàn bộ hoạt động sản xuất vật chất và phi

sản xuất theo không gian, là ý tưởng cho việc nghiên cứu tổ chức không
gian kinh tế - xã hội sau này.
W.Christaller cho rằng, không có nông thôn nào lại không chịu sự
tác động của một cực hút, đó là thành phố. Thành phố là trung tâm đối với

1

Xem: Lê Thông, Nguyễn Minh Tuệ: Tổ chức lãnh thổ công nghiệp Việt Nam, Nxb. Giáo

dục, Hà Nội, 2000, tr. 10.

5


tất cả các điểm dân cư còn lại trong vùng, đảm bảo cung cấp hàng hóa cho
chúng. Các trung tâm tồn tại theo nhiều cấp, từ thấp đến cao. Các trung tâm
cấp cao có khả năng lựa chọn hàng hóa và dịch vụ. Ông cho rằng, thành phố
có vai trò như những cực phát triển và là hạt nhân cho sự phát triển. Nó trở
thành đối tượng để đầu tư, trên cơ sở sức hút và mức độ ảnh hưởng đến các vùng
xung quanh thông qua bán kính tiêu thụ các sản phẩm.
Lí thuyết trung tâm của W.Christaller đã được nhà bác học người
Đức - A.Losch bổ sung và phát triển. Công lao của W.Christaller và
A.Losch ở chỗ đã khám phá quy luật phân bố không gian từ tương quan
giữa các điểm dân cư, phát hiện một trật tự được tính toán trong sự phân bố
các thành phố và nông thôn. Điều đó được áp dụng khi quy hoạch các điểm
dân cư trên những lãnh thổ mới khai phá, hoặc nghiên cứu các hệ thống
không gian, hay làm cơ sở xác định các nút trọng điểm trong một lãnh thổ
nhất định.
b. Lí thuyết cực tăng trưởng của Francoi Perroux (1950)
Lí thuyết cực tăng trưởng của nhà kinh tế học người Pháp Francoi

Perroux được đưa ra vào đầu những năm 1950. Ông quan niệm, một vùng
không thể phát triển kinh tế đều đặn ở tất cả các điểm trên lãnh thổ vào cùng
một thời gian. Xu hướng chung là có một hoặc một vài điểm phát triển mạnh
nhất, trong khi đó các điểm khác lại chậm phát triển hay bị trì trệ. Tất nhiên,
các điểm phát triển nhanh là các điểm có lợi thế so với toàn vùng. Như vậy, lí
thuyết cực phát triển chú ý đến những thay đổi trong phạm vi một khu vực
của lãnh thổ làm phát sinh tăng trưởng kinh tế.
Lí thuyết cực tăng trưởng được áp dụng tương đối rộng rãi ở châu Á,
nhất là các nước ASEAN. Nhiều kinh nghiệm đã được tích lũy và có giá trị
đối với các quốc gia cần huy động vốn đầu tư từ nước ngoài. Đây cũng là lí
thuyết giải thích sự cần thiết của việc phát triển kinh tế lãnh thổ theo hướng
phát triển có trọng điểm1.

1

Xem: Lê Thông, Nguyễn Minh Tuệ: Tổ chức lãnh thổ công nghiệp Việt Nam, Nxb. Giáo

dục, Hà Nội, 2000, tr. 11.

6


2. Quan niệm về tổ chức lãnh thổ kinh tế - xã hội
Vấn đề tổ chức lãnh thổ hay tổ chức không gian các hoạt động của
con người, trước hết là hoạt động kinh tế, bắt nguồn từ những cơ sở lí thuyết
kinh tế của Adam Smith và David Ricardo, từ các công trình nghiên cứu của
Thunen vào 1826, của Weber vào 1909 và một số tác phẩm khác, sau đó
được phát triển về mặt lí luận và ứng dụng thực tiễn vào những năm 50 của
thế kỉ XX tại các nước Châu Âu, Liên Xô (cũ) và Mỹ.
Ở Liên Xô (cũ) tổ chức lãnh thổ được coi là nhiệm vụ quan trọng

hàng đầu của địa lí đã được nêu lần đầu tiên vào năm 1961 bởi
Iu.G.Xauskin “lĩnh vực thực tiễn trực tiếp để tập trung nỗ lực của các nhà
địa lí Xô Viết là tổ chức lãnh thổ lực lượng sản xuất (ở đây bao gồm cả sơ
đồ lãnh thổ và các dự án cải tạo và sử dụng các điều kiện tự nhiên và tài
nguyên thiên nhiên)”. Những quan niệm về tổ chức lãnh thổ công nghiệp
được trình bày trong các công trình của A.T.Khrutsov (1966, 1969, 1972).
Thuật ngữ “tổ chức lãnh thổ sản xuất” được đưa vào trong các nghiên cứu của
A.E.Probxt và M.G.Skolnicov vào giữa thập kỉ 60 của thế kỉ XX1.
Vào đầu thập kỉ 70, quan niệm về tổ chức không gian xuất hiện được
đưa vào các công trình của các nhà địa lí Xô Viết. Nhưng có thể thấy rằng
sợi dây xuyên suốt trong các nghiên cứu theo hướng này trong mấy thập kỉ
qua là tổ chức lãnh thổ lực lượng sản xuất (từ tổ chức lãnh thổ sử dụng tự
nhiên, tổ chức lãnh thổ các ngành kinh tế đến tổ chức không gian cư trú
nông thôn và đô thị,...)
Các nhà khoa học Liên Xô (cũ) trước đây thường sử dụng khái niệm
“phân bố lực lượng sản xuất”, nghĩa là phân bố sức sản xuất theo lãnh thổ.
Nền tảng cơ sở lí luận của phân bố lực lượng sản xuất được bắt nguồn từ lí
thuyết về chu trình năng lượng - sản xuất của N.N.Koloxopxki và thể tổng
hợp lãnh thổ sản xuất của các nhà khoa học Xô Viết. Theo họ, phân bố lực
lượng sản xuất được thực hiện trên các lãnh thổ cụ thể ở những cấp độ khác
nhau, phổ biến là trên các vùng kinh tế cơ bản và vùng kinh tế hành chính
1

Xem: Lê Thông, Nguyễn Minh Tuệ: Tổ chức lãnh thổ công nghiệp Việt Nam, Nxb. Giáo

dục, Hà Nội, 2000, tr.16.

7



tỉnh. Họ coi phân bố lực lượng sản xuất là sự sắp xếp, bố trí và phối hợp các
đối tượng hay thực thể vật chất cụ thể, hay đó là các hệ thống sản xuất, hệ
thống tự nhiên đã được sử dụng vào hệ thống dân cư. Các đối tượng này ảnh
hưởng lẫn nhau, có liên hệ qua lại với nhau trong một lãnh thổ xác định,
nhằm sử dụng một cách hợp lí các tiềm năng tự nhiên, cơ sở vật chất kĩ
thuật của lãnh thổ để đạt hiệu quả kinh tế, xã hội, môi trường và nâng cao
mức sống dân cư của lãnh thổ đó.
Các nhà khoa học Xô Viết sau này phát triển phân bố lực lượng sản
xuất theo hướng tổ chức lãnh thổ. Theo Xauskin: Tổ chức xã hội theo lãnh
thổ là tạo ra một hệ thống sử dụng đất đai do những tập đoàn người khác
nhau. Hệ thống này làm cho các tập đoàn người ấy có thể cư trú được trên
bề mặt trái đất, khai thác các tài nguyên thiên nhiên, phân bố các điểm dân
cư, tái sinh sản nòi giống, phân bố các nguồn cung cấp nước và thực phẩm,
các địa điểm sản xuất ra các công cụ lao động, quần áo, giày dép và các vật
liệu khác cần thiết cho đời sống, phân bố xí nghiệp và khu vực chữa bệnh,
nghỉ ngơi, khoa học, văn hóa, các nhà hát, rạp chiếu phim,...
Các nhà khoa học phương Tây lại thường sử dụng thuật ngữ “tổ
chức không gian kinh tế - xã hội”. Khái niệm tổ chức không gian ra đời cuối
thế kỉ XIX và đã phát triển thành một khoa học về “thiết lập” trật tự kinh tế,
xã hội, môi trường trong phạm vi một lãnh thổ xác định.
Quan niệm về tổ chức không gian (tổ chức lãnh thổ) cũng được coi
trọng trong địa lí Mĩ vào 1970 – 1971. Ở Mĩ có các công trình lớn của
R.Abler, J.Adams, P.Gould “tổ chức không gian, cách nhìn thế giới của các
nhà địa lí” và của R.Morill “Tổ chức không gian xã hội”.
Ở Anh, các quan niệm về tổ chức lãnh thổ kinh tế - xã hội được phát
triển theo hướng mô hình hóa, áp dụng các phương pháp định lượng. Có thể
thấy tiêu biểu trong các công trình của Peter Haggett và các cộng sự “Phân
tích không gian trong địa lí kinh tế” xuất bản năm 1965, “các mô hình địa
lí” xuất bản năm 1967 và “Địa lí học: một sự tổng hợp hiện đại” xuất bản
năm 1975.

Theo Morrille (1970): Tổ chức không gian là khái niệm của loài người
về sử dụng có hiệu quả không gian trên trái đất. Nhiều tác giả Pháp như
P.Brunet, J.Monod, P.de Castelbazac (1980), Jean Paulde Gaudemar (1992),...

8


cho rằng: tổ chức không gian là sự tìm kiếm một sự phân bố tối ưu về vùng,
các hoạt động và tài sản để tránh những sự mất cân đối trên lãnh thổ quốc gia
hay một vùng1.
Quan niệm về tổ chức lãnh thổ có những chuyển biến mới hơn từ
những năm 1990 đến nay với những nghiên cứu của Paul Krugman, các Báo
cáo phát triển thế giới,.... Paul Krugman (nhà kinh tế học người Mỹ) là
người đề xuất lí thuyết sau này được gọi tên là “địa lí kinh tế mới” (1991).
Krugman phát triển lí thuyết về sự lựa chọn địa điểm của lao động và hãng
kinh doanh, trong đó cốt lõi là hiệu quả kinh tế của quy mô lớn2.
Theo Paul Krugman (1991): sản xuất có xu hướng tập trung vào
những nơi “trung tâm” đông đúc dân cư và vốn. Để phát triển nền kinh tế và
giảm thiểu chi phí vận chuyển, các công ty sản xuất có xu hướng tập trung
vào những khu vực trung tâm vì tận dụng được lợi thế nhờ quy mô. Việc
này sẽ dẫn đến dân cư sẽ càng di chuyển tới những “trung tâm” này. Sự hạn
chế của tập trung hóa chính là ở chi phí vận chuyển. Chi phí vận chuyển tới
người tiêu dùng sẽ cao nếu như các hãng tập trung hóa ở một khu vực nhất
định trong quốc gia. Do đó, quyết định lựa chọn địa điểm sản xuất của các
hãng phụ thuộc vào tương quan giữa việc tận dụng lợi thế quy mô và tiết
kiệm chi phí vận chuyển. Giảm chi phí vận chuyển sẽ dẫn tới quá trình tập
trung hóa và đô thị hóa2.
Trong Báo cáo phát triển thế giới 2009 “Tái định dạng địa kinh tế”
đã giải thích sự tăng trưởng kinh tế có thể diễn ra không đồng đều, nhưng sự
phát triển vẫn có thể mang tính hòa nhập. Khi các nền kinh tế tăng trưởng,

sản xuất sẽ tập trung cao hơn theo không gian. Đây cũng là những lí thuyết
giải thích cho sự tập trung hóa và đô thị hóa ở các quốc gia. Báo cáo phát
triển thế giới năm 2009 cho rằng: Các địa phương phát triển tốt nếu chúng
Xem: Viện Chiến lược phát triển, Bộ Kế hoạch và Đầu tư. Hội thảo khoa học “Tổ chức lãnh
thổ kinh tế - xã hội Việt Nam – Nghệ thuật đảm bảo đất nước phát triển thành công trong bối
cảnh hội nhập quốc tế”. Hà Nội, tháng 2 năm 2007.
2
Xem: Krugman, P.R, 1991b, Increasing returns and economic geography. Journal of
Political Economy, 99, 483-499. Website:
/>41361257
1.

9


thúc đẩy sự chuyển đổi của các khía cạnh địa kinh tế: mật độ dày hơn khi
các thành phố phát triển, khoảng cách ngắn hơn khi công nhân và doanh
nghiệp di chuyển đến gần khu trung tâm hơn và có ít sự chia cắt hơn khi các
quốc gia giảm bớt các biên giới kinh tế và tiến vào thị trường thế giới để tận
dụng quy mô kinh tế và buôn bán các sản phẩm chuyên biệt. Sự chuyển đổi
của 3 khía cạnh địa kinh tế này (mật độ, khoảng cách và sự chia cắt) là then
chốt cho sự phát triển. Như vậy, phát triển kinh tế sẽ tập trung cao hơn theo
không gian, nhưng phát triển vẫn có thể mang tính hòa nhập mang lại cho
người dân mức sống đồng đều hơn giữa các vùng với các chính sách phù
hợp đối với mỗi quốc gia1.
Ở Việt Nam, lí luận về tổ chức lãnh thổ như là một trong những nội
dung nghiên cứu cơ bản của địa lí học được đưa vào khá sớm, từ những năm
1970. Công việc này thu hút nhiều công sức đóng góp của các nhà địa lí, các
nhà kinh tế vùng và của các nhà kế hoạch cũng như các Bộ, ngành. Trong
nhiều năm, hướng nghiên cứu được thể hiện qua việc lập tổng sơ đồ phân bố

lực lượng sản xuất của từng ngành và của các cấp lãnh thổ trong cả nước.
Kết tinh của các nghiên cứu theo hướng này là các công trình 70.01, lập
Tổng sơ đồ phát triển và phân bố lực lượng sản xuất Việt Nam thời kì 1986
– 2000 (tổng sơ đồ I) và chuẩn bị nội dung cho Tổng sơ đồ II (giai đoạn
1991 – 2005); “Dự thảo đề cương báo cáo tổng kết công tác phân vùng quy
hoạch và phân bố lực lượng sản xuất cả nước trong 5 năm qua và phương
hướng, nhiệm vụ trong những năm tới”.
Tổ chức lãnh thổ được coi trọng bằng những cách nhìn mới nhằm
mục tiêu phát triển bền vững, làm cơ sở khoa học cho việc hoạch định các
chính sách phát triển vùng, đảm bảo sự công bằng xã hội ngay cả trong việc
giảm sự chênh lệch giữa các đồng bằng, giảm sự phân hóa giàu nghèo. Các
kết quả nghiên cứu liên ngành dưới sự chỉ đạo của Nhà nước được thể hiện
ở việc lập các bản đồ quy hoạch tổng thể phát triển các ngành và các vùng
lãnh thổ lớn như tổ chức lãnh thổ quốc gia Việt Nam và mô hình không gian
của Việt Nam. Những nhiệm vụ chính của tổ chức lãnh thổ là phân bổ lại
Xem: Ngân hàng thế giới, Báo cáo phát triển thế giới 2009: Tái định dạng địa kinh tế.
Nxb. Văn hóa Thông tin. Hà Nội, 2009, tr.9-10.
1

10


nguồn vốn và tài sản quốc gia, sửa chữa lại sự mất cân đối giữa các vùng, sử
dụng hợp lí nhất các điều kiện tự nhiên và kinh tế - xã hội và giải quyết
công ăn việc làm...
Đi đầu trong nghiên cứu tổ chức lãnh thổ là GS. Lê Bá Thảo. Trong
báo cáo “Địa lí học Việt Nam và thử nghiệm tổ chức lãnh thổ”, Ông cho
rằng: Về khía cạnh địa lí, có thể coi tổ chức lãnh thổ là một hành động của
địa lí học có chủ ý (géographie volontaire) hướng tới một sự công bằng về
mặt không gian1.

Như vậy, tổ chức không gian kinh tế - xã hội được xem như nghệ
thuật kiến thiết và sử dụng lãnh thổ một cách đúng đắn và có hiệu quả.
Nhiệm vụ chủ yếu của tổ chức không gian là xác định được sức chứa của
lãnh thổ, tìm kiếm quan hệ tỉ lệ hợp lí và liên hệ chặt chẽ trong phát triển
kinh tế - xã hội giữa các ngành và giữa các lãnh thổ nhỏ hay tiểu vùng trong
một vùng cũng như đảm bảo mối quan hệ giữa các vùng trong một quốc gia
có tính tới mối quan hệ giữa các quốc gia với nhau. Nhờ có sự sắp xếp có
trật tự và hài hòa giữa các đối tượng trong lãnh thổ mà tạo ra một giá trị mới
lớn hơn, làm cho sự phát triển hài hòa và bền vững hơn. Tổ chức không gian
kinh tế - xã hội dưới góc độ chính sách, xem như là một trong những hành
động hướng tới sự công bằng về mặt không gian, tối ưu hóa các mối quan hệ
hữu cơ giữa trung tâm và ngoại vi, giữa các cực với nhau và giữa các cực
với các không gian còn lại, nhằm làm cho lãnh thổ phát triển bền vững, tạo
được sự ổn định cần thiết để thiết lập tiền đề cho tăng trưởng, cho phát triển.
Từ những quan niệm trên có thể hiểu "Tổ chức không gian kinh tế xã hội là sự "sắp xếp" và "phối hợp" các đối tượng trong mối liên hệ liên
ngành, liên vùng nhằm sử dụng một cách hợp lí các tiềm năng tự nhiên, lao
động, vị trí địa lí kinh tế, chính trị và cơ sở vật chất kĩ thuật đã và sẽ được
tạo dựng để đem lại hiệu quả kinh tế - xã hội cao và nâng cao mức sống,
đảm bảo sự phát triển bền vững của một lãnh thổ" 2.
1 Xem: Lê Bá Thảo: Địa lí học Việt Nam và thử nghiệm tổ chức lãnh thổ, Hội thảo “Tổ

chức lãnh thổ”, Hội Địa lí Việt Nam, Hà Nội, 1995, tr. 4.
2 Xem: Ngô Doãn Vịnh (chủ biên): Bàn về phát triển kinh tế (Nghiên cứu con đường dẫn
tới giàu sang), Nxb. Chính trị Quốc gia, Hà Nội, 2005. Tr. 366.

11


Tổ chức không gian kinh tế - xã hội gồm nhiều thành phần liên kết
chặt chẽ với nhau. Phân theo ngành, tổ chức lãnh thổ kinh tế - xã hội gồm:

tổ chức lãnh thổ công nghiệp, tổ chức lãnh thổ nông nghiệp và tổ chức lãnh
thổ dịch vụ. Phân theo không gian, tổ chức lãnh thổ kinh tế - xã hội gồm các
đô thị, các trung tâm kinh tế, các tuyến lực,…và tổ chức lãnh thổ nông
nghiệp là một trong những hình thức của tổ chức lãnh thổ kinh tế - xã hội.
II. QUAN NIỆM, Ý NGHĨA VÀ NGUYÊN TẮC CHỦ YẾU CỦA TỔ
CHỨC LÃNH THỔ NÔNG NGHIỆP
1. Quan niệm
Vấn đề tổ chức lãnh thổ nông nghiệp đã có sức thu hút mãnh mẽ sự
chú ý của nhiều nhà khoa học. Người đầu tiên đưa ra ý tưởng về tổ chức
lãnh thổ nông nghiệp là nhà khoa học người Đức J.H.Von Thunen (1783 1850). Đầu những năm 1800, Ông đã đề xuất "lí thuyết vành đai giữa trung
tâm và ngoại vi"
Dựa trên các kết quả tính toán của mình, Thunen kết luận rằng trồng
trọt chỉ đem lại lợi nhuận ở một khoảng cách nào đó tính từ thành phố. Nếu
vùng sản xuất ở quá xa trung tâm thành phố thì chi phí vận chuyển sẽ rất
cao, hay ở quá gần trung tâm đô thị thì giá địa tô chênh lệch cũng rất lớn. Cả
hai trường hợp trên đều không thu được lợi nhuận tối đa. Một sản phẩm
nông nghiệp thu được lợi nhuận tối đa sẽ có một khoảng cách tương ứng
nhất định với nơi tiêu thụ. Khi chi phí vận chuyển biến thiên, trên vùng sản
xuất nông nghiệp sẽ xuất hiện các vành đai sản xuất. Theo ông, xung quanh
một thành phố trung tâm (với giả thiết là hoàn toàn cô lập với các trung tâm
khác) có thể tồn tại và phát triển 5 vành đai sản xuất chuyên môn hóa nông
nghiệp theo nghĩa rộng liên tục từ trong ra ngoài, gồm: vành 1 là thực phẩm
tươi sống; vành 2 là lương thực, thực phẩm; vành 3 là vành cây ăn quả; vành
4 là vành lương thực và chăn nuôi; vành 5 là vành lâm nghiệp. Tùy theo
điều kiện cụ thể về điều kiện tự nhiên, tập quán sản xuất của cư dân và quy

12


mô của thành phố trung tâm mà xác định số lượng vành đai, cũng như bán

kính của mỗi vành đai nông nghiệp1.
Mô hình 5 vành đai nông nghiệp thể hiện bước đầu về ý tưởng tổ
chức lãnh thổ. Tuy nhiên, vành đai nông nghiệp theo lí thuyết của Thunen
cũng bộc lộ hạn chế. Đó là các vành đai nông nghiệp này mới chỉ được
nghiên cứu trong sự tương tác giữa hai nơi ở cùng một thời điểm, mà trên
thực tế có rất nhiều trung tâm cùng tồn tại và chúng đều có những tác động
khác nhau lên sự xuất hiện của các vành đai nông nghiệp.
Trong trường phái địa lí Xô Viết, Nhà địa lí N.N.Kôlôxôpxki đưa ra
lí thuyết chu trình năng lượng - sản xuất (năm 1947). Lí thuyết này cũng
khẳng định tính liên tục giữa các khâu trong quá trình sản xuất khép kín để
có giải pháp phân bố chúng. Từ khai thác nguyên liệu ban đầu, nhiên liệu và
việc sử dụng các nguồn năng lượng khác để sơ chế nguyên liệu sản xuất ra
bán thành phẩm và các chi tiết, đến sản xuất thành phẩm dưới dạng tư liệu
sản xuất, tư liệu tiêu dùng, đến tiến bộ khoa học kĩ thuật giao thông vận tải,
thương nghiệp phục vụ sự tiêu dùng của dân cư. Từ đó, xuất hiện những nhu
cầu và khả năng mới liên quan ảnh hưởng tới tự nhiên, tới việc sử dụng các
nguồn tài nguyên.
Chu trình năng lượng sản xuất của N.N.Kôlôxôpxki đã nêu một
phương pháp nghiên cứu liên ngành có hiệu quả, cho phép nghiên cứu vùng
một cách đầy đủ và toàn diện hơn. Thực tiễn phân bố sản xuất trên thế giới
và ở Việt Nam trong những năm trước đây đã phần nào khẳng định ý nghĩa
lí luận và thực tiễn qua trọng của lí thuyết chu trình năng lượng - sản xuất.
Trong lí thuyết này, khái niệm thể tổng hợp nông nghiệp được xem như một
hình thức tổ chức lãnh thổ nông nghiệp.
Một trong những chuyên gia Xô Viết hàng đầu nghiên cứu về tổ
chức lãnh thổ sản xuất nông nghiệp là giáo sư tiến sĩ địa lí K.I.Ivanov.
Trong luận án tiến sĩ với đề tài "Tổ chức lãnh thổ sản xuất các sản phẩm
nông nghiệp và việc tính toán điều kiện của địa phương" (1967), ông đã
1


Xem: Lê Thông, Nguyễn Minh Tuệ: Tổ chức lãnh thổ công nghiệp Việt Nam, Nxb. Giáo

dục, Hà Nội, 2000, tr.9.

13


phát triển tư tưởng của N.N.Kôlôxôvxki về các thể tổng hợp lãnh thổ sản
xuất và đưa nó vào lĩnh vực nông nghiệp. Về phương diện lí thuyết,
K.I.Ivanov xây dựng cơ sở cho phương pháp dòng (băng chuyền) trong việc
tổ chức sản xuất của nhiều phân ngành nông nghiệp. Nhiều tư tưởng và
quan niệm mới của ông đã được ứng dụng trong lĩnh vực lập mô hình các hệ
thống lãnh thổ1.
Qua các công trình của K.I.Ivanov, của V.G.Kriutokov và một số tác
giả khác thì: “Tổ chức lãnh thổ nông nghiệp được hiểu là một hệ thống liên
kết không gian của các ngành, các xí nghiệp nông nghiệp và các lãnh thổ
dựa trên cơ sở các quy trình kĩ thuật mới nhất, chuyên môn hoá, tập trung
hoá, liên hợp hoá và hợp tác hoá sản xuất; cho phép sử dụng có hiệu quả
nhất sự khác nhau theo lãnh thổ về các điều kiện tự nhiên, kinh tế, nguồn lao
động và đảm bảo năng suất lao động xã hội cao nhất”1.
Vấn đề tổ chức lãnh thổ nông nghiệp ở nước ta cũng được nhà khoa
học quan tâm. Tác giả Lê Thông đã có cùng quan điểm về tổ chức lãnh thổ
nông nghiệp với các nhà địa lí Nga, trong đó đã đưa ra các hình thức tổ chức
lãnh thổ nông nghiệp từ thấp đến cao, đó là xí nghiệp nông nghiệp, thể tổng
hợp nông nghiệp, vùng nông nghiệp, băng chuyền địa lí trong nông
nghiệp.... Các nội dung này cũng được đề cập đến trong “Địa lí kinh tế - xã
hội đại cương”, “ Địa lí kinh tế - xã hội Việt Nam, “Tổ chức lãnh thổ nông
nghiệp Việt Nam”.... Trong các giáo trình này, các tác giả đã phân tích
những hình thức tổ chức lãnh thổ nông nghiệp đã và đang phát triển ở Việt
Nam như: trang trại, hợp tác xã, nông trường quốc doanh, vùng nông

nghiệp.....
Theo tác giả Nguyễn Viết Thịnh: tổ chức lãnh thổ nông nghiệp là tổ
chức các không gian nông nghiệp (các tiểu vùng nông nghiệp) trên cơ sở
đánh giá tác động tổng hợp của các nhân tố tương đối tĩnh (các điều kiện
sinh thái nông nghiệp) và các nhân tố động (với các mức độ động khác
nhau) như dân cư, lao động, mạng lưới đô thị, kết cấu hạ tầng sản xuất và
sinh hoạt, thị trường nông sản, chính sách phát triển,... nhằm: đánh giá được
Xem: Lê Thông: Nhập môn địa lý nhân văn (giáo trình dành cho hệ thạc sĩ chuyên ngành địa lí
kinh tế - giáo dục dân số), Trường ĐHSP HN 1, Hà Nội, 1996, tr 70.
1

14


sự phân hóa lãnh thổ nông nghiệp đã định hình, sự hợp lí và chưa hợp lí của
nó; đưa một (hoặc 2, 3) phương án định hướng tổ chức lãnh thổ nông
nghiệp, trong ra được đó phát hiện chính xác các địa bàn trọng điểm phát
triển nông nghiệp theo hướng công nghiệp hóa, hiện đại hóa; đồng thời phát
hiện các vùng khó khăn để đề xuất các chính sách phát triển phù hợp1.
Một khía cạnh khác của tổ chức lãnh thổ nông nghiệp cũng được tác
giả Nguyễn Hiền đề cập đến, đó là chính sách định vị nông nghiệp. Theo tác
giả: định vị nông nghiệp là lựa chọn được vùng chuyên môn hóa nông
nghiệp thích ứng với các điều kiện tự nhiên. Để phát triển được các vùng
chuyên canh nông nghiệp cần thiết phải có chính sách năng lượng, đào tạo
chuyên môn nhân lực kĩ thuật và kinh doanh gắn với thị trường tiêu thụ. Các
vùng chuyên môn hóa nông nghiệp có được thu nhập cao phải gắn với công
nghiệp chế biến để phát triển chuyên môn hóa sâu, có giá trị cao, cạnh tranh
được trên thị trường. Từ đây, sẽ hình thành các trung tâm, các đô thị, kéo
theo là các kết cấu hạ tầng kĩ thuật và xã hội2.
Tác giả Ngô Doãn Vịnh cho rằng: tổ chức lãnh thổ nông nghiệp là cách

thức phối hợp, kết hợp các đối tượng nông nghiệp trong một lãnh thổ xác định
có tính tới mối quan hệ với các đối tượng thuộc ngành và lĩnh vực khác trong
thế vận động và phát triển3
Trong xu thế toàn cầu hóa diễn ra ngày càng mạnh mẽ, tác động vào
mọi lĩnh vực trong cuộc sống, đòi hỏi chúng ta phải có một tư duy mới về tổ
chức lãnh thổ nói chung và tổ chức lãnh thổ nông nghiệp nói riêng. Rõ ràng,
chúng ta không chỉ xem xét tổ chức lãnh thổ trong khuôn khổ khép kín, chỉ
dựa vào những yếu tố sẵn có để phát triển, mà phải nhìn nhận được mối liên
kết giữa các lãnh thổ khác nhau, những lợi thế so sánh và chuỗi giá trị toàn
Xem: Nguyễn Viết Thịnh: Thử nghiệm định hướng tổ chức lãnh thổ nông nghiệp đồng
bằng sông Hồng. Hội thảo khoa học “Tổ chức lãnh thổ”, Hội Địa lí Việt Nam. Hà Nội,
1995.
1

Xem: Nguyễn Hiền: Tập bài giảng “Phân tích hệ thống trong tổ chức lãnh thổ”. Trường
Đại học khoa học tự nhiên, Đại học Quốc gia Hà Nội, Hà Nội, 2008, tr.51.
2

Xem: Ngô Doãn Vịnh (chủ biên): Quy hoạch phát triển kinh tế - xã hội, một số vấn đề lí
luận và thực tiễn, Nxb. Chính trị Quốc gia, Hà Nội, 2004, Tr. 90.
3

15


cầu. Ngày nay, biên giới giữa các quốc gia không chỉ là biên giới đất liền,
biên giới biển, biên giới trên không mà còn là biên giới của hàng hóa, dịch
vụ và văn hóa. Các cường quốc sử dụng lí thuyết này để mở rộng tầm ảnh
hưởng của mình bằng cách phát triển thị trường hàng hóa - dịch vụ mang
đậm hàm lượng văn hóa ra các nước khác.

Như vậy, tổ chức lãnh thổ nông nghiệp hiện nay không chỉ dựa vào
những điều kiện sản xuất hiện có, mà phải đặt trong mối quan hệ với các
khu vực xung quanh, đặc biệt là những nhu cầu của thị trường thì mới có thể
phát triển bền vững được. Hay nói cách khác, tổ chức lãnh thổ nông nghiệp
phải kết hợp được những yếu tố sẵn có và những yếu tố bên ngoài để sản
xuất một cách hiệu quả nhất về mặt kinh tế, xã hội và môi trường.
Từ các nội dung đã phân tích ở trên, tổ chức lãnh thổ nông nghiệp có
thể được tổng quát như sau: tổ chức lãnh thổ nông nghiệp là sự sắp xếp và
phối hợp các đối tượng nông nghiệp trong mối liên hệ liên ngành, liên vùng,
kết hợp với nhu cầu thị trường trên một lãnh thổ cụ thể nhằm sử dụng hợp lí
nhất các tiềm năng tự nhiên, lao động, vị trí địa lí và cơ sở vật chất kĩ thuật
để đem lại hiệu quả cao về mặt kinh tế, xã hội và môi trường.
2. Ý nghĩa kinh tế - xã hội của tổ chức lãnh thổ nông nghiệp
Nghiên cứu tổ chức lãnh thổ nông nghiệp tạo ra những tiền đề cần
thiết nhằm sử dụng hợp lí các nguồn lực về tự nhiên, kinh tế - xã hội của cả
nước cũng như của từng vùng, từng địa phương.
Trên thực tế, nhiều hình thức tổ chức lãnh thổ nông nghiệp có mối
liên hệ chặt chẽ với nhau. Cùng với sự phát triển của nền sản xuất xã hội đã
tạo hình thành các hình thức mới về tổ chức lãnh thổ nông nghiệp. Việc
nhận thức chúng một cách đúng đắn là chìa khóa để sử dụng hợp lí hơn các
điều kiện hiện có của đất nước.
Tổ chức lãnh thổ nông nghiệp tạo ra những điều kiện để đẩy mạnh
và chuyên môn hóa sản xuất nông nghiệp. Khi chuyên môn hoá phát triển
đến một mức độ nhất định, tất yếu sẽ dẫn đến quá trình hợp tác hoá, liên hợp
hoá trong phạm vi vùng, quốc gia và quốc tế.
Việc hoàn thiện các hình thức tổ chức lãnh thổ nông nghiệp tạo điều
kiện nâng cao năng suất lao động xã hội. Việc nâng cao năng suất lao động

16



là kết quả của hàng loạt yếu tố gắn liền với sự thay đổi của ba thành phần
thuộc quá trình lao động: phương tiện lao động, đối tượng lao động và lực
lượng lao động. Một trong những con đường nâng cao năng suất lao động,
sử dụng tối ưu nguồn lao động, tăng số lượng nông phẩm trên một đơn vị
diện tích với chi phí ít nhất trên một đơn vị sản phẩm là việc xác định một
cách khoa học các hình thức tổ chức lãnh thổ nông nghiệp.
Nghiên cứu các hình thức tổ chức lãnh thổ nông nghiệp góp phần
vào công tác quy hoạch theo lãnh thổ nền kinh tế quốc dân.
3. Nguyên tắc chủ yếu của tổ chức lãnh thổ nông nghiệp
- Tổ chức lãnh thổ nông nghiệp phải phù hợp với điều kiện sinh thái có tính
tới khả năng tài nguyên và yêu cầu thị trường
Sản xuất nông nghiệp phụ thuộc vào điều kiện tự nhiên nhiều hơn các
ngành sản xuất khác. Hoạt động nông nghiệp bao trùm phạm vi lãnh thổ rộng
lớn với các điều kiện tự nhiên rất khác nhau. Trong chừng mực nhất định, các
điều kiện tự nhiên nào đó có thể thuận lợi hoặc không thuận lợi cho sự phát
triển từng loại vật nuôi, cây trồng. Do vậy, khi tổ chức lãnh thổ nông nghiệp
cần nghiên cứu kĩ các điều kiện tự nhiên, tiến hành đánh giá chúng về phương
diện sinh thái. Điều đó có nghĩa là cây trồng, vật nuôi phải được phân bố ở
những nơi có điều kiện thích hợp nhất. Như các loại cây công nghiệp và cây
ăn quả cần những điều kiện sinh thái chặt chẽ hơn so với cây lương thực;
mặt khác sản phẩm của nó đòi hỏi phải được chế biến mới nâng cao được
giá trị sản phẩm. Do đó, nhóm cây này cần được phân bố tập trung, hình
thành những vùng sản xuất chuyên môn hoá lớn để kết hợp tốt với phát triển
công nghiệp chế biến, nhằm nâng cao hiệu quả kinh tế trong sản xuất. Vì
thế, việc phân bố cây trồng, vật nuôi cần được tiến hành trên cơ sở vạch ra các
hình thức tổ chức lãnh thổ nông nghiệp.
Mặt khác, trong nền kinh tế thị trường, tổ chức lãnh thổ nông nghiệp
không chỉ dựa vào thế mạnh của từng vùng, mà phải tính tới nhu cầu thị
trường để giảm thiểu chi phí, tối đa hiệu quả. Thị trường có ý nghĩa quyết

định sự lựa chọn địa điểm phân bố cơ sở sản xuất của các nhà đầu tư, các
sản phẩm chính của nông nghiệp và quyết định đến hiệu quả và sự thành
công của tổ chức lãnh thổ.

17


Thỏa mãn yêu cầu về khả năng tài nguyên và yêu cầu của thị trường
đó là sự thỏa mãn các yếu tố đáp ứng nhu cầu cả đầu vào và đầu ra nhằm
đem lại lợi ích kinh tế, xã hội và môi trường cho con người.
- Tổ chức lãnh thổ nông nghiệp phải đảm bảo lợi ích cộng đồng và đạt hiệu
quả kinh tế - xã hội cao
Điều quan trọng nhất của tổ chức lãnh thổ nông nghiệp là phải đạt được
hiệu quả kinh tế - xã hội cao nhất cho lãnh thổ và mang lại lợi ích cho cả cộng
đồng, đặc biệt trong việc xóa đói, giảm nghèo, nâng cao chất lượng cuộc sống
của người dân ở những vùng khó khăn.
- Tổ chức lãnh thổ nông nghiệp phải đảm bảo có sự phù hợp giữa trình độ
nguồn nhân lực và trình độ khoa học công nghệ
Mỗi loại cây trồng, vật nuôi đều có những yêu cầu nhất định về các
quy trình kĩ thuật như quy trình canh tác, kĩ thuật chăm sóc, thu hoạch, bảo
quản, chế biến… yêu cầu về máy móc, công cụ và yêu cầu về kĩ năng lao
động, về trình độ nghiệp vụ quản lí. Như vậy, tổ chức lãnh thổ nông nghiệp
phải dựa trên tính chất và đặc điểm công nghệ cũng như trình độ của người
lao động để có cách thức tổ chức lãnh thổ hợp lí nhằm đảm bảo sự thống
nhất giữa các khâu trong quá trình sản xuất để đạt hiệu quả cao nhất.
III. CÁC NHÂN TỐ ẢNH HƯỞNG ĐẾN TỔ CHỨC LÃNH THỔ NÔNG
NGHIỆP
1. Vị trí địa lí
Vị trí địa lí có vai trò đặc biệt quan trọng trong phát triển kinh tế - xã
hội của một lãnh thổ và vị trí địa lí như một yếu tố khác biệt có tác động đến

tổ chức lãnh thổ lãnh thổ kinh tế - xã hội nói chung và tổ chức lãnh thổ nông
nghiệp nói riêng. Trong điều kiện kinh tế thị trường và xu thế hội nhập kinh
tế toàn cầu, yếu tố vị trí địa lí càng được đánh giá cao khi lựa chọn các địa
bàn để đầu tư, phát triển các lãnh thổ trọng điểm và tạo ra các mối liên kết
liên vùng, liên khu vực.
2. Các nhân tố tự nhiên
Các nhân tố tự nhiên thường được coi là yếu tố tiền đề, có tính vật
chất để tổ chức lãnh thổ kinh tế. Điều này càng đặc biệt quan trọng đối với

18


vấn đề tổ chức lãnh thổ nông nghiệp, bởi vì đất đai là tư liệu sản xuất của
nông nghiệp và nông nghiệp là ngành phụ thuộc nhiều vào tự nhiên.
- Đất đai
Nông nghiệp có những đặc điểm đặc thù khác với các ngành sản
xuất khác. Đặc điểm đầu tiên phải đề cập đến là đất đai được coi là tư liệu
sản xuất quan trọng nhất của nông nghiệp. Quy mô sản xuất, trình độ phát
triển, mức độ thâm canh, phương hướng sản xuất và cả việc tổ chức lãnh thổ
nông nghiệp lệ thuộc và số lượng và chất lượng của đất đai.
Sự phân hóa lãnh thổ của đất trồng là nhân tố có ý nghĩa rất lớn đối
với sự phân bố nông nghiệp. Trên thế giới, những vùng đất màu mỡ, phì
nhiêu đều là những vùng nông nghiệp trù phú.
Do đất đai là tư liệu sản xuất chủ yếu nên hoạt động nông nghiệp
phân bố trong phạm vi không gian rộng lớn. Trong nông nghiệp, không thể
đầu tư (vốn, tư liệu sản xuất,…) quá nhiều trên một đơn vị diện tích, bởi vì
làm như vậy sẽ không đem lại hiệu quả kinh tế cao. Điều này khác hẳn trong
sản xuất công nghiệp.
Khi nghiên cứu tổ chức lãnh thổ nông nghiệp không thể bỏ qua các
đặc điểm nói trên. Sự ra đời của một hoạt động xí nghiệp nào đó (đặc biệt

trong ngành trồng trọt) trước hết phải gắn liền với tư liệu sản xuất hàng đầu
này. Mặc dù sản xuất nông nghiệp trải rộng theo không gian, nhưng điều đó
hoàn toàn không mang tính chất tùy tiện. Khi xác định quy mô, cơ cấu sản
xuất của các hình thức tổ chức lãnh thổ nông nghiệp, nhất thiết phải chú ý
đến mối tương tác từ các đặc điểm của sản xuất nông nghiệp.
- Khí hậu
Khí hậu với các yếu tố nhiệt độ, lượng mưa, ánh sáng, độ ẩm, chế độ
gió và cả những bất thường của thời tiết như bão, lũ lụt, hạn hán, gió
nóng…có ảnh hưởng rất lớn với việc xác định cơ cấu cây trồng, vật nuôi, cơ
cấu mùa vụ, khả năng xen canh, tăng vụ và hiệu quả sản xuất nông nghiệp.
Tính mùa của khí hậu quy định tính mùa trong sản xuất và cả trong tiêu thụ
sản phẩm. Mỗi loại cây trồng, vật nuôi chỉ thích hợp với những điều kiện
khí hậu nhất định, nghĩa là trong giới hạn cho phép.

19


Những vùng có độ ẩm và lượng mưa phong phú, thời gian có ánh nắng
mặt trời nhiều, cường độ bức xạ lớn…sẽ cho phép trồng nhiều vụ trong năm
với cơ cấu cây trồng, vật nuôi phong phú, đa dạng có khả năng xen canh,
gối vụ cao. Tuy nhiên, để tổ chức lãnh thổ nông nghiệp một cách hiệu quả
cũng cần chú ý đến tính chất biến động thất thường của khí hậu, thời tiết
như bão, lũ lụt, hạn hán, sương muối…để giảm thiểu những tác hại của
chúng đến năng suất của cây trồng và vật nuôi, tránh tác hại đến sản xuất
nông nghiệp.
- Nguồn nước
Nước ngọt là một trong những nhân tố quan trọng hàng đầu của nông
nghiệp vì nước cần thiết cho sự sinh trưởng phát triển của cây trồng, vật nuôi.
Nó ảnh hưởng đến năng suất, chất lượng cây trồng, vật nuôi và hiệu quả sản
xuất nông nghiệp. Những nền nông nghiệp trù phú trên thế giới đều nằm ở

những nơi có nguồn nước dồi dào. Ngược lại nông nghiệp khó phát triển được
ở những nơi khan hiếm nước.
Tuy nhiên, ở những nơi có nguồn nước phong phú thì vẫn có sự phân
hóa theo thời gian: mùa khô và mùa mưa. Do đó, để có thể phát triển một
nền nông nghiệp ổn định và tổ chức lãnh thổ nông nghiệp hiệu quả cần phải
có giải pháp đảm bảo cấp nước vào mùa khô và tiêu nước vào mùa mưa.
Bên cạnh đó, hiện nay loài người còn phải đối mặt với hiện tượng thiếu
nước do nguồn nước ngọt bị ô nhiễm.
Tài nguyên nước ngầm cũng là phần quan trọng cho nông nghiệp, là
nguồn dự trữ quan trọng bổ sung cho nguồn nước mặt nhất là trong mùa khô
và một số nơi nguồn nước trên mặt bị hạn chế về số lượng và chất lượng.
- Sinh vật
Sinh vật là cơ sở để thuần dưỡng, tạo nên các giống cây trồng, vật
nuôi. Sự đa dạng về thảm thực vật và hệ động vật là tiền đề hình thành và
phát triển các giống vật nuôi, cây trồng và tạo khả năng chuyển đổi cơ cấu
nông nghiệp phù hợp với điều kiện tự nhiên và sinh thái. Trên thế giới, khu
vực nhiệt đới là nơi tập trung nhiều giống động, thực vật tự nhiên nhất thì
đây cũng là nơi có sản lượng nông sản cao nhất và cơ cấu sản phẩm nông
nghiệp đa dạng nhất.

20


Các diện tích đồng cỏ, bãi chăn thả và diện tích mặt nước tự nhiên là
cơ sở thức ăn tự nhiên để phát triển ngành chăn nuôi. Ngày nay, mặc dù
ngành chăn nuôi được đẩy mạnh nhờ áp dụng phương pháp chăn nuôi công
nghiệp, dựa trên nguồn thức ăn được chế biến công nghiệp, nhưng thức ăn tự
nhiên vẫn còn vai trò quan trọng.
3. Các nhân tố kinh tế - xã hội
- Dân cư và nguồn lao động

Dân cư và nguồn lao động ảnh hưởng tới tổ chức lãnh thổ nông
nghiệp dưới hai góc độ: là lực lượng sản xuất trực tiếp và là nguồn tiêu thụ
các nông sản.
Dưới góc độ là lực lượng sản xuất trực tiếp để tạo ra các sản phẩm
nông nghiệp, nguồn lao động được coi là nhân tố quan trọng để tổ chức lãnh
thổ nông nghiệp. Số lượng và chất lượng nguồn lao động quyết định phương
hướng phát triển nông nghiệp cũng như quyết định đến hình thức và nội
dung của tổ chức lãnh thổ nông nghiệp.
Sự phân bố dân cư ảnh hưởng lớn đến các hình thức tổ chức lãnh thổ
nông nghiệp. Dân cư ở các vùng đồng bằng phân bố tập trung thì sản xuất ở
đó có điều kiện thuận lợi để bố trí tập trung. Cư dân ở các vùng miền núi
thường sinh sống phân tán sẽ gắn liền với các kiểu tổ chức sản xuất không
tập trung quy mô lớn.
Tập quán, kinh nghiệm sản xuất và chế biến sản phẩm nông nghiệp
của người dân có ảnh hưởng nhất định đến quá trình tổ chức lãnh thổ nông
nghiệp. Trong những vùng dân cư có trình độ canh tác cao, có kinh nghiệm
sản xuất và chế biến, thì sản phẩm nông nghiệp có năng suất cao, chất lượng
tốt, sớm tiếp cận với nền sản xuất hàng hóa. Ngược lại, ở những vùng dân
cư có mức sống thấp, tập quán canh tác lạc hậu,… việc áp dụng khoa học kĩ
thuật mới sẽ gặp nhiều khó khăn và sản xuất không đáp ứng được sự thay
đổi nhanh chóng của thị trường.
- Tiến bộ khoa học kĩ thuật và công nghệ
Khoa học công nghệ là yếu tố quan trọng để thực thi các phương án
tổ chức lãnh thổ nông nghiệp. Tiến bộ công nghệ đã tạo khả năng sử dụng
các nguồn tài nguyên theo cả chiều rộng và chiều sâu, giảm thiểu mức độ

21


phụ thuộc vào tự nhiên của sản xuất nông nghiệp, nâng cao giá trị của các

sản phẩm đầu ra. Sự phát triển của khoa học công nghệ thúc đẩy sự hình
thành và phát triển các hình thức tổ chức lãnh thổ nông nghiệp mang lại
hiệu quả cao như trang trại, vùng chuyên canh, vùng nông nghiệp…
- Cơ sở hạ tầng và cơ sở vật chất kĩ thuật
Cơ sở hạ tầng bao gồm đường giao thông, thông tin liên lạc, hệ
thống điện nước ảnh hưởng rõ rệt tới việc tổ chức lãnh thổ nông nghiệp. Để
có thể phát triển nông nghiệp theo hướng sản xuất hàng hóa, thì một trong
những điều kiện quan trọng đầu tiên là cơ sở hạ tầng. Thực tiễn cho thấy, ở
những vùng có cơ sở hạ tầng tốt là cơ sở để hình thành và phát triển các
hình thức tổ chức lãnh thổ nông nghiệp, còn những vùng mà cơ sở hạ tầng
thấp kém thì hầu như sản xuất nông nghiệp chỉ mang tính chất tự cung tự
cấp, không có sự trao đổi hàng hóa giữa các vùng.
Cơ sở vật chất kĩ thuật là nền tảng cho việc phát triển và tổ chức lãnh
thổ nông nghiệp sản xuất hàng hóa. Nơi nào có cơ sở vật chất kĩ thuật tốt
(hệ thống thủy nông, các trạm giống, thú y, các xí nghiệp chế biến sản phẩm
nông nghiệp…) thì tổ chức lãnh thổ nông nghiệp sẽ đạt hiệu quả cao, nền
nông nghiệp phát triển ở trình độ cao, hướng về sản xuất hàng hóa. Và
ngược lại, khi hệ thống cơ sở vật chất kĩ thuật kém hoặc thiếu thì sẽ khó có
thể hình thành và phát triển các hình thức tổ chức lãnh thổ nông nghiệp một
cách hiệu quả.
- Đường lối chính sách phát triển nông nghiệp, nông thôn
Đường lối chính sách phát triển nông nghiệp, nông thôn có tác động
rất mạnh đến sự phát triển nông nghiệp nói chung và tổ chức lãnh thổ nông
nghiệp nói riêng. Sự điều hành vĩ mô của Nhà nước với các chính sách, chế
độ, biện pháp đúng đắn sẽ thúc đẩy các hình thức tổ chức lãnh thổ nông
nghiệp phát triển. Ngược lại, nếu hệ thống chính sách không phù hợp sẽ kìm
hãm, thậm chí đẩy lùi quá trình phát triển của các hình thức tổ chức lãnh thổ
nông nghiệp. Chính sách công nghiệp hóa ở nước ta đã tạo điều kiện cho
trang trại hình thành và phát triển; Chính sách phát triển kinh tế nhiều thành
phần đã huy động mọi thành phần tham gia sản xuất, tạo điều kiện cho việc

hình thành các vùng nguyên liệu, vùng sản xuất lương thực trọng điểm…

22


- Thị trường
Thị trường là yếu tố quan trọng, có tác động lớn đối với sự hình
thành tổ chức lãnh thổ nông nghiệp. Thông qua nhu cầu tiêu thụ sản phẩm
nông nghiệp, giá cả nông sản của thị trường trong nước và ngoài nước sẽ có
tác dụng điều tiết đối với sự hình thành và phát triển các vùng chuyên canh,
vùng nông nghiệp, cũng như các hình thức tổ chức lãnh thổ nông nghiệp
khác.
Thị trường có tác dụng điều tiết đối với sự hình thành và phát triển
vùng chuyên môn hóa nông nghiệp. Ở các nước trên thế giới, xung quanh
các thành phố trung tâm công nghiệp lớn đều hình thành vành đai nông
nghiệp ngoại thành mà hướng chuyên môn hóa là sản xuất rau xanh, thịt,
sữa, trứng,… dù rằng có thể điều kiện tự nhiên không thật thuận lợi. Điều đó
chỉ có thể lí giải được bằng nhân tố thị trường tiêu thụ.
Trong nền kinh tế thị trường, yếu tố thị trường càng có vai trò quyết
định đến sự phát triển nền nông nghiệp hàng hóa, cũng như thúc đẩy sự hình
thành và phát triển của các hình thức tổ chức lãnh thổ nông nghiệp tiên tiến.
Các yếu tố về tự nhiên, lao động, tiến bộ khoa học kĩ thuật, cơ sở vật chất,...
được xem là những yếu tố đầu vào, thì thị trường chính là yếu tố đầu ra, tác
động đến sự thay đổi tổ chức lãnh thổ nông nghiệp của một vùng, một lãnh
thổ.
- Nguồn vốn đầu tư
Nguồn vốn có vai trò to lớn đối với quá trình tổ chức lãnh thổ nông
nghiệp. Nguồn vốn tăng nhanh, được phân bố và sử dụng một cách có hiệu
quả sẽ tác động đến tăng trưởng và mở rộng sản xuất, đáp ứng các chương
trình phát triển nông nghiệp, đưa tiến bộ khoa học – công nghệ vào nông

nghiệp…thúc đẩy nông nghiệp cũng như các hình thức tổ chức lãnh thổ
nông nghiệp phát triển.
Đối với nông nghiệp, vấn đề thu hút vốn đầu tư rất khó khăn. So với
các ngành kinh tế khác thì nông nghiệp là ngành nhận được ít đầu tư nhất do
nông nghiệp phụ thuộc nhiều vào thiên nhiên, tiềm ẩn nhiều rủi ro, cũng như
tốc độ tăng trưởng của nông nghiệp thường thấp hơn nhiều so với công
nghiệp và dịch vụ. Vì vậy, để tổ chức lãnh thổ nông nghiệp một cách hiệu

23


quả, một trong những vấn đề quan trọng nhất là thu hút vốn đầu tư, áp dụng
các thành tựu khoa học kĩ thuật trong sản xuất nông nghiệp.
- Mối liên kết nội vùng và liên vùng
Trong nền kinh tế thị trường cần có mối liên kết giữa các ngành,
giữa các tiểu vùng trong lãnh thổ và giữa các lãnh thổ với nhau mới có thể
phát huy được thế mạnh của từng, từng vùng và tạo ra những sản phẩm có
khả năng cạnh tranh cao trên thị trường.
Mối liên hệ nội vùng là sự kết hợp và trao đổi lẫn nhau giữa ngành,
lĩnh vực, tiểu vùng này với ngành, lĩnh vực, tiểu vùng khác để tạo ra sức
mạnh tổng hợp cho lãnh thổ, bổ sung giữa nơi thừa cho nơi thiếu về một mặt
nào đó trong một lãnh thổ tạo điều kiện cần thiết để có được sự phát triển
nhịp nhàng.
Mặt khác, để tổ chức lãnh thổ nông nghiệp một cách hiệu quả cần
phải chú ý mối liên kết giữa lãnh thổ nghiên cứu với các lãnh thổ khác
thông qua việc phát hiện những điểm tương đồng, khác biệt, dự báo chính
xác các dòng trao đổi vật chất giữa các lãnh thổ.
IV. MỘT SỐ HÌNH THỨC TỔ CHỨC LÃNH THỔ NÔNG NGHIỆP
1. Một số hình thức tổ chức lãnh thổ nông nghiệp trên thế giới
- Hộ gia đình (nông hộ)

Nhìn chung ở trên thế giới cũng như ở Việt Nam, người ta thừa nhận
“hộ” là gia đình và “kinh tế hộ” là “kinh tế gia đình”. Hộ là đơn vị kinh tế tự
chủ trong nông nghiệp, do chủ gia đình lập nên, lao động và quản lí dựa vào
chủ hộ và các thành viên trong gia đình họ.
Hộ gia đình là hình thức vốn có của sản xuất nhỏ, tồn tại phổ biến ở
các nước đang phát triển thuộc châu Á. Hộ có những đặc trưng sau1:
+ Về đất đai, quy mô canh tác nhỏ bé, biểu hiện rõ tính chất tiểu nông. Ở Ấn
Độ bình quân diện tích đất canh tác dưới 2ha/ hộ, ở Philippin dưới 3 ha/ hộ.

Xem: Nguyễn Minh Tuệ (chủ biên), Nguyễn Viết Thịnh, Lê Thông. Địa lí kinh tế - xã
hội đại cương, Nxb. Đại học Sư phạm Hà Nội, Hà Nội, 2005, Tr. 300.
1

24


+ Về vốn, đại bộ phận rất ít, quy mô thu nhập nhỏ, khả năng tích lũy thấp
làm hạn chế khả năng đầu tư tái sản xuất. Vật tư được mua phục vụ cho sản
xuất từ tiền bán nông phẩm.
+ Về lao động, chủ yếu sử dụng lao động gia đình. Sức lao động của nông
hộ không phải hàng hóa mà là tự phục vụ nhằm thỏa mãn nhu cầu của gia
đình.
+ Kĩ thuật canh tác và công cụ sản xuất ít biến đổi, mang nặng tính truyền thống.
+ Quy mô sản xuất (đất đai, vốn, lao động) rất nhỏ bé.
Về mức độ phát triển, kinh tế hộ có thể trải qua các hình thức sau:
+ Nhóm kinh tế hộ sinh tồn: là dạng rất thấp của kinh tế hộ. Sản xuất một
vài nông sản chủ yếu để duy trì sự sống của gia đình, ít vốn, công cụ sản
xuất thô sơ, phụ thuộc vào tự nhiên, năng suất lao động thấp. Hiện nay,
nhóm hộ này còn tồn tại ở một số dân tộc ít người thuộc các vùng xa xôi hẻo
lánh, các vùng núi cao.

+ Nhóm kinh tế hộ tự cấp, tự túc: với nền nông nghiệp sản xuất nhỏ, lạc
hậu, phân tán. Sản xuất chủ yếu để cung cấp, lương thực, thực phẩm và một
số loại nông sản cần thiết khác đáp ứng đáp ứng yêu cầu tiêu dùng cho gia
đình, ít tiếp xúc với thị trường.
+ Nhóm hộ sản xuất hàng hoá nhỏ: trong quá trình sản xuất một bộ phận nông
dân làm ăn khá giả, ngoài phần tiêu dùng cho gia đình, còn dư ra một ít sản
phẩm, hộ đã đưa ra thị trường. Khi cung đã vượt cầu, họ đem những sản phẩm
thừa trao đổi trên thị trường và trở thành những hộ sản xuất hàng hoá nhỏ.
+ Nhóm hộ sản xuất hàng hoá lớn: động lực phát triển của nhóm hộ này là
tối ưu hoá lợi nhuận, hướng sản xuất tới trao đổi sản phẩm trên thị trường.
Phần lớn các trang trại gia đình đều hình thành từ những hộ sản xuất hàng
hoá lớn.
Đối với các nước đang phát triển, hộ gia đình đóng vai trò quan
trọng trong việc bảo tồn xã hội, phát triển kinh tế nông thôn và thúc đẩy
nông thôn quá độ tiến lên một trình độ cao hơn: sản xuất hàng hóa.
- Trang trại
Trang trại là hình thức tổ chức sản xuất kinh doanh cơ sở trong nông
– lâm – ngư nghiệp, phát triển trên cơ sở kinh tế hộ gia đình, có sự tích tụ và

25


×