Tải bản đầy đủ (.docx) (125 trang)

Khóa luận: SỬ DỤNG PHƯƠNG PHÁP TRANH BIỆN TRONG DẠY HỌC LỊCH SỬ VIỆT NAM LỚP 11 THPT (CHƯƠNG TRÌNH CHUẨN)

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (685.88 KB, 125 trang )

LỜI CẢM ƠN
Em xin gửi lời cảm ơn chân thành và sâu sắc nhất đến PGS.TS Nguyễn
Thị Thế Bình - người đã tận tình hướng dẫn, chỉ bảo, giúp đỡ để em hoàn
thành khóa luận này.
Đồng thời, em xin chân thành cảm ơn thầy cô trong bộ môn Lý luận và Phương
pháp dạy học Lịch sử đã tạo điều kiện thuận lợi cho em trong quá trình học tập,
nghiên cứu tại Khoa và Trường.
Em xin chân thành cảm ơn!!!
Hà Nội, tháng 4 năm 2016
Sinh viên
Ngô Ngọc Linh

1


DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT

2

Chữ viết tắt

Giải thích

DHLS

Dạy học lịch sử

GQVĐ

Giải quyết vấn đề


GV

Giáo viên

HS

Học sinh

LS

Lịch sử

NVLS

Nhân vật lịch sử

NXB

Nhà xuất bản

PPDH

Phương pháp dạy học

PPĐV

Phương pháp đóng vai

PPTB


Phương pháp tranh biện

SGK

Sách giáo khoa

SKLS

Sự kiện lịch sử

TB

Tranh biện

TDPB

Tư duy phản biện

THPT

Trung học phổ thông

TLG

Tư liệu gốc

TW

Trung ương



PHẦN MỞ ĐẦU
1.

Lý do chọn đề tài
Để theo kịp sự phát triển của thế giới hiện nay, khoa học và giáo dục
giữ vị trí rất quan trọng, trong đó giáo dục là nguồn xuất phát và phát triển
nguồn nhân lực có chất lượng cao, là nguồn đào tạo và bồi dưỡng nhân tài cho
đất nước. Đồng thời, giáo dục phổ thông cũng là nền tảng vững chắc để đào
tạo học sinh trở thành những công dân năng động, sáng tạo, thích ứng nhanh –
công dân toàn cầu nhưng vẫn giữa được truyền thống của dân tộc. Đáp ứng
nhu cầu phát triển đó của luật Giáo dục Việt Nam được Quốc hội thông qua số
38, ngày 14/6/2005 đã xác định: “Mục tiêu giáo dục là đào tạo con người Việt
Nam phát triển toàn diện, có đạo đức, tri thức, sức khỏe, thẩm mỹ và nghề
nghiệp, trung thành với lý tưởng độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội; hình
thành và bồi dưỡng nhân cách, phẩm chất và năng lực của công dân, đáp
ứng nhu cầu của sự nghiệp bảo vệ Tổ quốc” [2;40]
Là một bộ môn thuộc khoa học khoa hội nhân văn, bộ môn Lịch sử ở
trường phổ thông có ưu thế rất lớn trong việc giáo dục thái độ, tình cảm,
truyền thống. Mặt khác, môn Sử không chỉ trang bị một vốn kiến thức cần
thiết về lịch sử dân tộc và thế giới, mà còn góp phần quan trọng trong bồi
dưỡng lòng yêu nước, chủ nghĩa nhân văn, tinh thần tôn trọng các giá trị lịch
sử văn hóa nhân loại, trong hình thành nhân cách và bản lĩnh con người, ý
thức trách nhiệm của công dân trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc.
Để cho lộ trình hội nhập về giáo dục nói chung và môn lịch sử nói riêng có
thể rút ngắn lại, cả ngành giáo dục đang nỗ lực không ngừng để đổi mới
phương pháp dạy học ở khắp các cấp học, bậc học.
Vì thế, Đảng và Nhà nước ta cũng rất quan tâm đến vấn đề này, định
hướng đổi mới phương pháp dạy học đã được xác định trong nghị quyết TW 4
khóa IV(1/1993),nghị quyết TW 2 khoá VIII(12/1996). Để được thể chế hóa

3


trong Luật giáo dục (2005),được cụ thể hóa trong các chỉ thị của Bộ GD&ĐT.
Nghị quyết TW 1 khóa VIII đã khẳng định đổi mới mạnh mẽ phương pháp
giáo dục và đào tạo, khắc phục lối truyền thụ một chiều, rèn luyện nếp tư duy
sáng tạo của người học, từng bước áp dụng các phương pháp tiên tiến, các
phương tiện hiện đại cho vào dạy học, đảm bảo điều kiện và khả năng tự học,
tự nghiên cứu cho học sinh và trong Luật giáo dục (điều 24.2) ghi rõ “phương
pháp giáo dục phổ thông phải phát huy tính tích cực, tự giác,sáng tạo của
học sinh, phù hợp với đặc điểm trường lớp môn học. Bồi dưỡng phương pháp
tự học, rèn luyện kỹ năng vận dụng kiến thức vào thực tiễn tác động đến tình
cảm, đem lại niềm vui hứng thú học tập cho học sinh”.
Thực tế những năm gần đây, đa số học sinh không có hứng thú trong
học tập bộ môn Lịch Sử, hiện tượng “sợ sử”, “chán sử” diễn ra phổ biến. Có
nhiều nguyên nhân dẫn đến tình trạng nàynhư dochương trình sách giáo khoa
hiện hành nặng kiến thức, dày đặc sự kiện, vừa thừa vừa thiếu, HS có tâm lý
coi môn sử là môn phụ. Nhưng có lẽ nguyên nhân chủ yếu nhất dẫn đến hiện
tượng trên có lẽ là phương pháp giảng dạy của giáo viên lịch sử trong quá
trình dạy học bộ môn.Lịch sử là môn học hấp dẫn, thú vị, giàu kiến thức,
phong phú cảm xúc.Dạy học là một khoa học, một nghệ thuật nhưng trước hết
dạy học là một nghề. Mục tiêu của việc dạy lịch sử chỉ được mô tả chủ yếu là
chuyển tải những kiến thức có sẵn trong sách giáo khoa cho học sinh, làm cho
học sinh ghi nhớ các sự kiện, các mốc thời gian, các ý nghĩa rút ra từ bài học
chứ không dạy cho các em các phương pháp sử học, khả năng tư duy độc lập,
phân tích và phê phán các sự kiện lịch sử.
Thế nhưng phương pháp của giáo viên chỉ mang tính chất truyền thụ
một chiều, thiếu sinh động, khô khan, đòi hỏi phải ghi nhớ và học thuộc nhiều
khiến dễ gây ra tâm lý chán nản trong học sinh. Do vậy đổi mới phương pháp
dạy học theo hướng tích cực hóa hoạt động của người học là đòi hỏi cấp bách

của môn Lịch Sử cũng như nền giáo dục nước ta hiện nay.

4


Trong đó, phương pháp tranh biện có vai trò lớn trong việc phát huy
năng lực nhận thức, tư duy độc lập của học sinh, nâng cao hiệu quả bài học
lịch sử. Đồng thời dạy học lịch sử mà sử dụng phương pháp tranh biện cũng
phát huy được tính tích cực, chủ động, sáng tạo của học sinh, rèn luyện cho
các em nhìn nhận các nội dung lịch sử dưới góc độ nhiều chiều, có tư duy
phản biện và năng lực giải quyết vấn đề. So với thế giới, đây không phải là
một phương pháp dạy học mới.Nhưng ở trường THPT của Việt Nam, phương
pháp này còn tỏ ra lạ lẫm với cả GV và HS.
Trong khi bộ môn lịch sử có đặc trưng là mang tính quá khứ khiến
chúng ta không thể trực tiếp quan sát những sự kiện đã qua, hay trực tiếp tiếp
xúc với những nhân vật lịch sử, mà chỉ có thể dựa vào những nguồn sử liệu để
khôi phục lại nó. Nên chắc chắn sẽ xảy ra trường hợp có nhiều ý kiến, quan
điểm khác nhau về cùng một vấn đề lịch sử.Trong tình huống không tránh
khỏi như thế này, việc sử dụng phương pháp tranh biện trong dạy học lịch sử
lại càng trở nêncần thiết. Bởi lẽ một bài học lịch sử hiệu quả không được
quyết định bởi lượng kiến thức GV đưa ra nhiều hay ít mà phụ thuộc vào
phương pháp GV sử dụng trong hoạt động dạy – học như thế nào và mức độ
HS nhận thức về kiến thức lịch sử đó ra sao. Phương pháp tranh biện phù hợp
với đặc trưng của bộ môn Lịch sử nên nếu được áp dụng sẽ góp phần giúp HS
hiểu rõ bản chất và nhìn nhận các sự kiện LS một cách linh hoạt hơn.
Mặt khác, trong chương trình lịch sử lớp 11 THPT – Chương trình
chuẩn, phần Lịch sử Việt Nam có vị trí và vai trò rất quan trọng. Phần Lịch
sử Việt Nam lớp 11 cung cấp hệ thống kiến thức về tình hình đất nước ta từ
giữa thế kỉ XIX đến đầu thế kỉ XX. Là giai đoạn biến động của lịch sử, đánh
dấu mở đầu là sự kiện Pháp xâm lược Việt Nam (năm 1858).Để HS thấy được

vai trò quan trọng, có cái nhìn khách quan nhất, biết đánh giá chính xác đối
với giai đoạn lịch sử này là hết sức cần thiết trong DHLS ở trường THPT, tạo
nền tảng bền vững để các em có thể học tốt chương trình Lịch sử Việt Nam
lớp 12.
5


Xuất phát từ những đòi hỏi của cuộc sống và xã hội về chất lượng
nguồn nhân lực, mục tiêu, vị trí, vai trò bộ môn; thực tiễn DHLS ở trường
THPT, chúng tôi lựa chọn vấn đề: “SỬ DỤNG PHƯƠNG PHÁP TRANH
BIỆN TRONG DẠY HỌC LỊCH SỬ VIỆT NAM LỚP 11 THPT (CHƯƠNG
TRÌNH CHUẨN)” làm đề tài khóa luận tốt nghiệp của mình.
2.

Lịch sử nghiên cứu vấn đề
Vấn đề sử dụng phương pháp tranh biện nói chung và DHLS nói riêng
đã được nhiều nhà khoa học, giáo dục, nhiều học giả trong và ngoài nước
quan tâm. Tính đến thời điểm hiện tại đã có rất nhiều các công trình nghiên
cứu đề cập đến vấn đề này. Dưới đây xin điểm lại một số công trình nghiên
cứu tiêu biểu:
*Tài liệu nước ngoài
Trước tiên, chúng ta phải kể đến cuốn “Khám phá tranh biện”(Discover
Debate Paperback) của LeBeau , Harrington, Lubetsky. Khám phá tranh biện
tạo ra các cuộc thảo luận và các tiếp cận tranh biện dễ dàng, vui vể và thú vị.
Tác giả chia các vấn đề phức tạp, kĩ năng nói và nghe được sử dụng trong
tranh biện thành các kĩ năng rõ ràng giúp cho người đọc rất dẽ tiếp thu các
vấn đề lý luận của tranh biện. Cuốn sách giúp sinh viên dần dần từ nói suy
nghĩ đến giải thích, hỗ trợ và triển khai ý kiến. Sau đó, sinh viên học cách
nghiên cứu, đặt câu hỏi và bác bỏ ý kiến. Mỗi 1 bài học về tranh biện được
tác giả được ra với sáu bước thân thiện với họ viên gồm: khám phá, hình mẫu,

tập trung ngôn ngữ, bài luyện tập kiểm soát, đưa vào thực tế tranh biện và
triển khai luận điểm. Cuốn sách cung cấp cho chúng tôi những vấn đề lý luận
tranh biện một cách sinh động và hấp dẫn.
Một tài liệu nữa cũng rất hữu ích đối với chúng tôi trong quá trình
tiếp cận đề tài nghiên cứu đó là cuốn “Tranh biện căn bản” (Basic Debate)
của NXB MacGraw-Hill, phiên bản 5 vào tháng 5/2005. Đây là cuốn sách
căn bản mà những mới bắt đầu tranh biện cần đọc. Cuốn sách này dạy chúng
ta những căn bản trong tranh biện, từ kĩ năng phân tích và nghiên cứu cho đến
những kĩ thuật làm bài và tìm lý lẽ logic. Sách cũng đề cập rất rõ nhưng vai
6


trò và ý nghĩa của việc sử dụng tranh biện thường xuyên trong học tập và
cuộc sống. Sinh viên sử dụng tranh biện một cách tự nhiên phát triển sự tự tin,
để cảm thấy thoải mái trong các lĩnh vực học thuật mình theo đuổi. Tác giả
tập trung chứng minh một số những ví dụ cụ thể và phân tích những cuộc thi
tranh biện sẽ thúc đẩy suy luận logic, tư duy phản biện cho HS như thế nào.
“Cuốn hướng dẫn cần phải có trong cuốn sổ tranh biện thành công”
(The Debatabase Book, 6th edition: A Must Have Guide for Successful
Debate Paperback) của Hiệp hội Tranh biện Quốc tế (International Debate
Education Association) xuất bản vào năm 2013 lại cung cấp cho chúng tôi
việc sử dụng phương pháp tranh biện ở một khía cạnh khác. Đây là một
nguồn cung cấp quý cho những người tranh biện. Cuốn sách này đưa ra
những tiểu sử, cái nhìn chung,tranh biện và nguồn cho hơn 110 chủ đề tranh
biện ở đa dạng các lĩnh vực như: Kinh tế, khoa học và công nghệ, môi trường,
chính trị, vùng miền, văn hóa và giáo dục. Cuốn sách trở thành một công cụ
tuyệt vời cho giáo viên trong việc xây dựng và tổ chức các chủ đề tranh biện.
Tiếp đó, chúng ta cần phải kể đến cuốn “Tranh biện ở trường cấp ba”
(The high school debate book) của E. C. Robbins xuất bản vào năm 2015.
Cuốn sách này là một công trình lịch sử quan trọng đã được xuất bản vào năm

1923, sau đó được chỉnh lý, bổ sung và tái tạo lại vào năm 2015. Trong cuốn
sách này, tác giả đã đề cập những lý thuyết về tranh biện và việc sử dụng
phương pháp tranh biện tại các trường cấp ba. Đây là một cẩm nang hữu ích
cho chúng tôi trong việc thiết kế bài giảng và sử dụng tranh biện trong việc
dạy học ở trường THPT.
Ngoài những cuốn sách trên ra, để phục vụ cho quá trình nghiên cứu các
lý thuyết về tranh biện và vận dụng PPTB vào dạy học, chúng tôi cũng đọc rất
nhiều bài nghiên cứu về tranh biện trên các trang web /> . Ở đó các tác giả đã
đề cập đến rất nhiều khía cạnh của tranh biện với rất nhiều chủ đề đã tạo
nguồn cảm hứng cho chúng tôi trong quá trình làm đề tài.
*Tài liệu trong nước:
Phương pháp tranh biện tuy đã được sử dụng khá phổ biến trên thế giới
và các trường đại học nhưng chưa được chú ý dạy ở trường phổ thông. Cho
đến nay, có rất ít công trình nghiên cứu nhắc tới phương pháp tranh biện với
tư cách như một phương pháp dạy học tích cực ở trường phổ thông.
7


Tác giả Phạm Thị Xuyến với bài viết “Rèn luyện năng lực tự học cho
học sinh trong giờ văn học sử qua hình thức tranh luận”, Tạp chí Giáo dục số
102, năm 2004 đã phân tích rất cặn kẽ tác dụng của phương pháp tranh luận
trong dạy học nói chung và đưa ra biện pháp tối ưu nhất để tổ chức tranh luận
cho học sinh trong giờ văn học sử là tạo tình huống học tập. Tác giả cho rằng:
“Tổ chức cho học sinh tranh luận và đề xuất thắc mắc là một cách học mang
tính tư duy, vừa có tác dụng hoàn thiện tri thức, vừa rèn luyện khả năng tư
duy độc lập và khả năng tự học cho học sinh. Đây chính là phép biện chứng
của học – hỏi – hiểu” [34; 27]. Dù chỉ cung cấp những khái niệm liên quan
đến tranh luận và cách vận dụng phương pháp tranh luận trong DHLS của tác
giả nhưng đây cũng là một nguồn tham khảo của chúng tôi.
Bài phỏng vấn GS. Vũ Đức Vượng, Giám đốc chương trình Giáo dục

tổng quát của Đại học Hoa Sen, TP. Hồ Chí Minh được đăng tải trên báo điện tử
vietnamnet.vn, ngày 2/10/2013 với tiêu đề “Đi tìm sự thật ở nhà trường Việt
Nam” đã đề cập rất sâu, kĩ lưỡng về thực trạng sử dụng phương pháp tranh luận
và dạy TDPB ở các nhà trường Việt Nam. GS. Vũ Đức Vượng cho rằng tranh
luận là cốt lõi của các ngành Xã hội và nhân văn để đi đến sự thật, là một kĩ năng
cần đưa vào dạy ở trường lớp: trường học các cấp phải dạy và khuyến khích
khả năng tranh biện. Ngay ở những lớp thấp nhất, như mẫu giáo, giảng viên
khéo léo có thể lái những cuộc cãi vã giữa các em thành một cuộc tranh biện có
lý lẽ, dựa trên logic và quyền lợi chung… Từ đó, ông đã đưa ra những biện pháp
và những lưu ý khi tổ chức tranh luận trong nhà trường
Trong khóa luận tốt nghiệp khoa Lịch sử trường Đại học Sư phạm Hà
Nội của tác giả Nguyễn Thị Thương với đề tài: “Sử dụng phương pháp tranh
luận nhằm phát triển tư duy phản biện cho học sinh trong dạy học lịch sử
Việt Nam ( thế kỉ X – giữa thế kỉ XIX) lớp 10 THPT (chương trình chuẩn) .
Khóa luận đã làm rõ khái niệm và các hình thức tổ chức tranh luận. Đặc
biệt là vai trò to lớn của phương pháp tranh luận đối với việc phát triển
TDPB cho học sinh trong dạy học lịch sử, vận dụng phương pháp này
vào phần lịch sử Việt Nam từ thế kỉ X đến giữa thế kỉ XIX, lớp 10 THPT
(chương trình chuẩn). Đây là một nguồn tài liệu tham khảo và gợi ý để
8


giúp chúng tôi có thể tổ chức PPTB trong DHLS Việt Nam lớp 11THPT
(chương trình chuẩn)
Một nguồn tài liệu nữa rất quan trọng đối với chúng tôi trong quá
trình nghiên cứu đó là Giáo án khóa học debate, tài liệu lưu hành nội bộ
trong khóa học về tranh biện và tư duy phản biện của Vietyouthtodebate –
một tổ chức nghiên cứu về tranh biện dành cho giới trẻ Việt Nam. Trong giáo
trình đã chỉ rõ vai trò, ý nghĩa của việc sử dụng phương pháp tranh biện cũng
như cách để tranh biện hiệu quả. Tài liệu rất nhấn mạnh đến mục đích và giá

trị của tranh biện là để tiếp cận gần hơn với chân lý mà trong DHLS, chân lý
ở đây chính là sự thật lịch sử.
Như vậy, chúng ta có thể thấyphương pháp tranh biện đã được đề cập
trong một số công trình của các nhà nghiên cứu trong và ngoài nước. Tuy
nhiên, chưa có công trình nào nghiên cứu về việc sử dụng phương pháp tranh
biện cho học sinh trong dạy học lịch sử; chưa công trình nào đáp ứng yêu cầu
lí luận hoàn chỉnh, có hệ thống phù hợp với đặc trưng, nhiệm vụ cũng như
việc đổi mới phương pháp dạy học bộ môn.
Trên cơ sở kế thừa những thành tựu nghiên cứu lí luận và thực tiễn sử
dụng phương pháp tranh biện trong dạy học trên thế giới cũng như trong
nước, chúng tôi mong muốn bước đầu đưa ra những kiến giải về vấn đề sử
dụng phương pháp tranh biện như một phương pháp dạy học tích cực. Mục
đích là tạo cơ sở cho việc tìm tòi, nghiên cứu và thực tiễn hóa rộng rãi phương
pháp này ở trường phổ thông nhằm nâng cao chất lượng dạy học bộ môn,
cũng là lấp đi một khoảng trống trong lí luận và thực tiễn dạy học lịch sử hiện
nay.
3.
3.1

Đối tượng, phạm vi nghiên cứu của đề tài
. Đối tượng nghiên cứu
Như tên đề tài đã chỉ ra, đối tượng nghiên cứu của khóa luận là quy
trình sử dụng phương pháp tranh biện trong dạy học Lịch sử Việt Nam lớp 11
THPT (chương trình chuẩn).
3.2. Phạm vi nghiên cứu
9


- Căn cứ vào tình hình thực tiễn, chúng tôi chỉ tập trung nghiên cứu
việc sử dụng phương pháp tranh biện trong dạy học Lịch sử lớp 11 THPT

(chương trình chuẩn)
- Các phân tích đánh giá chủ yếu dựa trên SGK Lịch sử 11, chương
trình chuẩn và các đối tượng HS đang theo học bộ sách này.
- Do khả năng và thời gian thực hiện đề tài không cho phép, việc thực
nghiệm sư phạm chỉ tiến hành trong hai lớp (11A1 và 11A5) tại trường THPT
Quang Trung – Hà Đông.
4. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
* Mục đích nghiên cứu
- Trên cơ sở nghiên cứu lý luận dạy học nói chung và thực tiễn việc
DHLS ở trường THPT nói riêng, đề tài tập trung làm rõ phương pháp tranh
biện một cách hệ thống và chỉ ra khả năng sử dụng phương pháp này trong
dạy học phần Lịch sử Việt Nam lớp 11 THPT.
- Khẳng định vai trò, ý nghĩa của tranh biện, trên cơ sở đó đề xuất
hướng sử dụng phương pháp tranh biện trong dạy học phần Lịch sử Việt Nam
lớp 11 THPT.
* Nhiệm vụ nghiên cứu
- Hệ thống hóa một số vấn đề cơ bản về cơ sở lý luận của phương pháp
tranh biện.
- Khảo sát thực tiễn việc sử dụng phương pháp tranh biện trong dạy học
môn Lịch sử ở trường phổ thông.
- Nghiên cứu chương trình và sách giáo khoa Lịch sử 11 và xác định
những nội dung có thể sử dụng phương pháp tranh biện.
- Nghiên cứu các biện pháp để sử dụng phương pháp tranh biện trong
dạy học Lịch sử.
-Tiến hành thực nghiệm sư phạm và đánh giá kết quả của những biện
pháp sư phạm đề ra, từ đó rút ra kết luận khoa học liên quan đến đề tài.
5. Phương pháp luận và phương pháp nghiên cứu
5.1.

Phương pháp luận

10


Dựa trên quan điểm chủ nghĩa Mác – Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh,
quan điểm, đường lối của Đảng và Nhà nước về giáo dục đào tạo nói chung,
dạy học lịch sử nói riêng.
-

Phương pháp nghiên cứu
Nghiên cứu lí luận qua các tài liệu giáo dục học, tâm lí học, sử học, phương

-

pháp dạy học lịch sử và các vấn đề có liên quan đến đề tài.
Điều tra, khảo sát thực tiễn việc sử dụng phương pháp tranh biện nói riêng và

5.2.

trong DHLS nói chung ở trường THPT hiện nay thông qua phiếu điều tra, dự
giờ, thăm lớp kiểm tra để thấy được thực tế tổ chức tranh luận trong dạy học
-

nhằm phát huy năng lực nhận thức độc lập của học sinh.
Nghiên cứu SGK, nội dung cụ thể phần lịch sử Việt Nam lớp 11 THPT,

-

chương trình chuẩn.
Thực nghiệm sư phạm: Soạn bài và tiến hành thực nghiệm sư phạm những
biện pháp đề tài đề xuất và kiểm nghiệm hiệu quả những biện pháp đề tài đề


6.

xuất trong thực tiễn.
Giả thuyết nghiên cứu
Nếu phương pháp tranh biện được sử dụng một cách hợp lí, linh
hoạt sẽ góp phần tích cực trong việc tạo hứng thú học tập môn Lịch sử
cho HS ở trường phổ thông cũng như góp phần đa dạng hóa phương pháp
dạy học Lịch sử ở trường phổ thông.

7.
-

Ý nghĩa khoa học và thực tiễn của đề tài
Ý nghĩa khoa học:
Đề tài đã nghiên cứu, phân tích một cách cụ thể, rõ ràng và đầy đủ về khái
niệm, nguyên tắc sử dụng phương pháp tranh biện cũng như ý nghĩa của việc
sử dụng phương pháp tranh biện để phát triển sự chủ động, tích cực, sáng tạo
của HS. Đề tài cũng đưa ra những cách thức tổ chức phương pháp tranh biện
trong dạy học lịch sử nhằm đổi mới phương pháp dạy học bộ môn.

-

Ý nghĩa thực tiễn:
Hoàn thành tốt đề tài nghiên cứu này sẽ giúp chúng tôi có thể vận dụng
kết quả nghiên cứu vào thực tiễn dạy học lịch sử ở trường THPT sau này.

8.

Cấu trúc của đề tài

Ngoài phần Mở đầu, kết luận, tài liệu tham khảo, phụ lục thì khóa luận
bao gồm 2 chương:
11


Chương 1: Cơ sở lý luận và thực tiễn của việc sử dụng phương pháp
tranh biện trong dạy học lịch sử Việt Nam lớp 11 THPT (chương trình chuẩn)
Chương 2: Một số biện pháp sử dụng phương pháp tranh biện trong
dạy học lịch sử Việt Nam lớp 11 THPT (chương trình chuẩn)

12


NỘI DUNG
CHƯƠNG 1: CƠ SỞ LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN
CỦA VIỆCSỬ DỤNG PHƯƠNG PHÁP TRANH BIỆN
TRONG DẠY HỌC LỊCH SỬ VIỆT NAM LỚP 11 THPT
(CHƯƠNG TRÌNH CHUẨN)
1.1.
1.1.1.
1.1.1.1.

Cơ sở lý luận
Một số khái niệm cơ bản của
Khái niệm “phương pháp”
Như chúng ta đã biết, phương pháp là một từ Hán -Việt, được ghép từ
hai từ: phương (hướng) và pháp (phép), được sử dụng để chỉ những cách
thức, lề lối để tiến hành một công việc, hoạt động theo hướng tốt nhất. Đây
cũng là một trong những khái niệm rất thông dụng, được sử dụng ở nhiều
mảng và vấn đề trong đời sống lẫn học thuật [Dẫn theo 51]

Sử dụng trong lĩnh vực giáo dục , Phương pháp dạy học (PPDH) là khái
niệm cơ bản của lý luận dạy học, nhưng đến nay vẫn còn nhiều vấn đề cần
được tiếp tục nghiên cứu và thống nhất trong cách định nghĩa, phân loại cũng
như xác định mô hình cấu trúc của PPDH. Khái niệm PPDH có thể hiệu theo
nghĩa rộng là những hình thức và cách thức hoạt động của giáo viên và học
sinh trong những điều kiện dạy học xác định nhằm đạt được mục tiêu dạy
học.
Còn hiểu theo nghĩa hẹp PPDH là các mô hình hành động cụ thể. PPDH
cụ thể là những cách thức hành động của giáo viên và học sinh nhằm thực hiện
những mục tiêu dạy học xác định, phù hợp với những nội dung và điều kiện dạy
học cụ thể. PPDH cụ thể bao gồm những phương pháp chung cho nhiều môn và
các phương pháp đặc thù bộ môn. Bên cạnh các phương pháp truyền thống quen
thuộc như thuyết trình, đàm thoại, trực quan, làm mẫu, có thể kể một số phương
pháp khác như: phương pháp giải quyết vấn đề, phương pháp học tập theo tra
cứu, phương pháp dạy học dự án, phương pháp tranh biện …
13


Có rất nhiều cách để phân loại về PPDH nhưng 2 phương pháp thông
dụng nhất đó là:
- Phương pháp dạy học truyền thống: người dạy trực tiếp thiết kế tổ chức
còn người học thụ động tiếp thu. người dạy làm mẫu cho người học làm theo.
-

Phương pháp dạy học tích cực: Người học chủ động tìm ra kiến thức dưới sự
hướng dẫn, chỉ đạo, định hướng của người dạy. Thông qua quá trình học,
người học rõ vấn đề và cách giải quyết vấn đề, cách sống và trưởng thành, tự
đánh giá và điều chỉnh làm cơ sở cho giáo viên cho điểm cơ động.
Trong đó, nằm trong hệ thống các phương pháp giáo dục tích cực,
“phương pháp tranh biện” có một vai trò và ý nghĩa quan trọng góp phần thực

hiện hiệu quả việc nâng cao chất lượng bài học Lịch sử ở trường THPT.Việc
tổ chức tranh biện cho học sinh là một phương pháp thực hiện tích cực hóa,
hoạt động hóa, đa dạng hóa các hoạt động học tập của học sinh, rèn luyện óc
độc lập suy nghĩ, tinh thần tự chủ, sáng tạo, tính năng động, phương pháp
hoạt động tích cực, có hiệu quả cho học sinh ngay từ khi ngồi trên ghế nhà
trường, đặc biệt rèn luyện và phát triểnnăng lực tư duy và khả năng giải quyết
các vấn đề.

1.1.1.2.

Phương pháp tranh biện
*Quan niệm về tranh biện
Để có một cái nhìn khách quan và chính xác về vai trò của việc sử dụng
tranh biện trong dạy học nói chung và dạy học lịch sử nói riêng thì trước hết
chúng ta phải đi tìm hiểu những vấn đề lý luận liên quan đến phương pháp
tranh biện.
“Tranh biện” là một trong những hoạt động lâu đời nhất của nền văn
minh. Tại các quốc gia phát triển như Mỹ, Anh, Pháp, Đức…, việc thực hành
tranh biện được thể hiện rõ ràng không chỉ qua các hoạt động giáo dục
14


(educational debate) mà còn qua các phương tiện truyền thông (media) và đời
sống chính trị, kinh tế, văn hóa xã hội. Tranh biện là cuộc trình diễn tổng hợp các
kỹ năng: tư duy phản biện, nói trước công chúng, nghiên cứu, tổ chức sắp xếp,
làm việc nhóm, nghe, ghi chép…
Vì thế, chúng ta có nhiều quan niệm và định nghĩa khác nhau về tranh biện.
Theo “Từ điển Hán Việt Từ Nguyên” của Bửu Kế đã định nghĩa
“Tranh” là “giành”; “biện” là “cãi lẽ”; “tranh biện” là “cãi lẽ để giành lẽ phải
về phần mình”; “Tranh biện” đồng nghĩa với “tranh luận” [14;2197]

Hay nhóm tác giả Hoàng Phê, Hoàng Thị Tuyền Linh, Vũ Xuân Lương,
Phạm Thị Thủy, Đào Thị Minh Thu, Đặng Thanh Hòatrong cuốn “Từ điển
Tiếng Việt” cũng có quan niệm khác: “Tranh biện” là “tranh luận phải trái”;
“Tranh luận” là “bàn cãi để tìm ra lẽ phải”; “tranh biện” đồng nghĩa với
“tranh cãi” [13;1583]
Theo “Từ điển Oxford” định nghĩa “tranh biện là việc tham gia vào cuộc
tranh luận bằng việc nêu ra ý kiến trái ngược” (To engage in argument by
discussing opposing points)[Dẫn theo 50]
Còn hiểu theo tổ chức Vietnam Youth to Debate (Y2D) – tổ chức nghiên
cứu và giáo dục về tranh biện cho thanh thiếu niên Việt Nam lại có định nghĩa
khác. Hiểu theo nghĩa hẹp, “tranh biện là một trong những loại hình giao tiếp
bằng lời” [33,70]. Tuy nhiên, tranh biện cũng có những đặc điểm khác với
những loại hình giao tiếp bằng lời khác.Những đặc điểm của tranh biện trong
tương quan với các loại hình khác có thể được thầy Nguyễn Thiên Minh - cán
bộ trung tâm Ứng dụng Việt ngữ học, ĐH Khoa học xã hội và Nhân văn thể
hiện thông qua bảng sau:
Loại hình
Ví dụ
giao tiếp

Mục
chính

Đối thoại Nói chuyện Trao
15

Ứng
dụng
tiện
Biến

thể
Đặc điểm nổi bật
chủ
yếu
(nếu có)
trong
đổi
Mọi hình thức
Tự do, không hạn
Giao tiếp

đích
Phương
chủ yếu


thông tin của lời nói định

Thảo luận Cuộc họp

Thống nhất
Giả thuyết
các ý kiến Kết luận

Các bài tranh
Tìm ra cái Lập
gì luận
Tranh luậnluận trên tạp
đúng
Kết luận

chí khoa học
Các
Tranh biệnchiến
báo

bút
Tìm
trên
đúng

ra

Lập luận

Cần người dẫn
dắt
Giáo dục Thương
Cần chương trình
Hội họp thuyết
định trước
Chính xác cao độGiáo dục
Phân biệt rạch ròi
Luật pháp
Phê phán
đúng sai
Khoa học
Nghệ thuật
Có một giải pháp
Tư tưởng
“tối ưu” hơn các

Giáo dục
giải pháp khác Các vấn đề
xã hội

Hiểu theo nghĩa rộng, “Tranh biệnđược hiểu là quá trình tư duy và biểu
đạt tư duy từ thu thập, phân tích xử lý thông tin đến xây dựng, hệ thống sắp
xếp các lập luận để ra quyết định. Tranh biện có thể sử dụng ngôn ngữ (thông
qua nói, viết) hoặc không sử dụng ngôn ngữ (tự tranh biện – self-debate trong
bản thân từng cá nhân). Tranh biện giúp giải quyết vấn đề, bằng cách chỉ ra
những xung đột/ mâu thuẫn giữa các luận điểm (crashes) do người học sử
dụng tư duy phản biện để phản đối trực tiếp trên luận điểm của đối phương”
[33;73]
Tranh biện còn nhằm thuyết phục chính bản thân mình, hoặc người
khác rằng lựa chọn nào là tốt hơn, đặt trong những bối cảnh và điều kiện cụ
thể.Kết luận của tranh biện mang tính tương đối, không có đúng nhất mà
mang tính tạm thời tại thời điểm kết thúc cuộc tranh biện.
Trên cơ sở tham khảo ý kiến từ các nhà nghiên cứu trong và ngoài
nước, theo chúng tôi:Tranh biện là quá trình giao lưu ngôn ngữ đòi hỏi
những người tham gia phải chứng minh được quan điểm của mình là đúng
đắn bằng hệ thống các lập luận logic. Đó là cách ngắn nhất và ôn hòa nhất
giúp mọi người cùng đi đến một nhận thức chung. Chính vì thế, tranh biện
16


được coi là tinh hoa của năng lực sử dụng ngôn ngữ, là cách thức phát triển trí
tuệ, là hòn đá mài sắc tư duy.
Tranh biện cũng rất khác với kiến nghị, thảo luận, tranh luận vàphản
biện.
Trong đó, “Kiến nghị là đưa ra ý kiến về một vấn đề để mọi người bàn
bạc và đưa ra hướng giải quyết” [Dẫn theo 51]. Trong tranh biện, kiến nghị là

vấn đề được đưa ra để làm chủ đề để tranh biện. Đó có thể là một nhận định,
một đề xuất, hay một dự báo về một vấn đề nào đó.
“Thảo luận là trao đổi ý kiến về một vấn đề, có phân tích lý lẽ” [Dẫn
theo 47]. Thảo luận sẽ là một khâu nằm trong tranh biện bởi nó là quá trình
mọi người giao lưu, bàn bạc để nhất trí đường hướng, cùng nhau giải quyết
vấn đề mà chúng ta đang cần phải tranh biện với nhau.
Trong cuốn “Từ điển tiếng Việt thông dụng” của Như Ý, NXB Giáo dục
định nghĩa “Tranh luận là bàn cãi có phân tích lí lẽ để tìm ra lẽ phải” [35;
808]. Như vậy, mục đích cuộc tranh luận ở đây là tìm xem ai đúng.
Còn Phản biện (counter-argument)là việc sử dụng một lý lẽ để chống
lại một lý lẽ, chỉ ra điểm yếu, điểm sơ hở của lý lẽ đó dựa trên các luận điểm
được đưa ra [Dẫn theo 51]. Mục tiêu chính là thiết lập sự cân nhắc đối với
các lựa chọn được đưa ra và tăng cường sự thuyết phục đối với quan điểm cá
nhân bằng cách làm suy yếu quan điểm của đối phương.
Như vậy, chúng ta thấy rằng “tranh biện” là một khái niệm khác hẳn với
những khái niệm trên và không thể đồng nhất tất cả các khái niệm đó với
nhau.
*Phương pháp tranh biện
Tranh biện là xương sống của giáo dục.Trong các môn khoa học tự nhiên,
người nghiên cứu có thể chứng minh được sự thật khi dùng những dữ kiện
hay thử nghiệm tự nhiên vào việc này.Tuy nhiên, đối với những môn xã hội
môn Lịch sử chẳng hạn thì cách tiếp cận vấn đề hoàn toàn khác.

17


Trong dạy học, tổ chức cho học sinh tranh biện vừa là một hình thức tổ
chức dạy học vừa là phương pháp dạy học cần áp dụng phổ biến hiện nay
nhằm giúp các em tự chiếm lĩnh tri thức, kĩ năng…
Vậy “phương pháp tranh biện” trong dạy học được hiểu như thế nào?

Phương pháp tranh biện là cách giáo viên đưa ra, gợi mở cho học sinh suy
nghĩ, đánh giá về một vấn đề nhất định theo những hướng khác nhau, thậm
chí trái ngược nhau. Sau đó dựa trên những tìm hiểu của các em, giáo viên tổ
chức cho các em trao đổi, bàn bạc, phản biện về vấn đề đó. Học sinh sẽ đưa ra
và bảo vệ quan điểm của mình, đồng thời thuyết phục đối phương theo ý kiến
đó bằng những lập luận, lí lẽ, bằng chứng xác thực nhằm làm rõ những khía
cạnh khác nhau của vấn đề và làm giàu sự hiểu biết của cá nhân theo yêu cầu
của mục tiêu và nhiệm vụ dạy học [30;72]
Trong quá trình dạy học, GV có thể lựa chọn sử dụng tranh biện trong
việc kiểm tra bài cũ, tổ chức dạy học và nghiên cứu kiến thức mới; củng cố và
kiểm tra, đánh giá. Hiểu một cách đơn giản về phương pháp này là GV đề
xướng, tổ chức còn HS chủ động trao đổi, bàn luận, tranh biện, linh hoạt, sáng
tạo tiếp thu tri thức một cách vững chắc và hiệu quả.
Đối với mỗi một quốc gia, một dân tộc, lịch sử luôn đóng một vô cùng
quan trọng đối với sự phát triển của quốc gia, dân tộc đó.Từ lịch sử, dân tộc
đó có thể hiểu được về quá khứ, hiểu về chính dân tộc mình và rút ra rất nhiều
bài học từ kho tàng lịch sử quý báu ấy.
Tuy nhiên, hiện nay ở Việt Nam, tình hình giáo dục lịch sử chưa được
xem trọng đúng mức.Vì vậy, sử dụng phương pháp tranh biện trong lịch sử là
một hướng tiếp cận mới, mong muốn đưa học sinh tiếp cận những góc nhìn đa
chiều và sự phân tích sâu sắc về cùng 1 nhân vật hoặc sự kiện lịch sử.

1.1.2.

18

Phân loại PPTB trong DHLS


Trong quá trình DHLS, GV có thể lựa chọn nhiều cách tổ chức tranh

biện khác nhau.
Dựa vào hai tiếu chí là hình thức và nội dung thì ta có thể phân loại
cách tổ chức PPTB trong DHLS thành 2 nhóm sau:
Một là về hình thức tranh biện giữa cá nhân HS với HS, tranh biện theo
nhóm hay tranh biện giữa GV với HS.
Hai là về nội dung tranh biện về NVLS và SKLS.
-

Hình thức tranh biện
+ Tổ chức tranh biện theo nhóm: Tranh biện theo nhóm là hình thức tổ

chức cho HS học tập, trao đổi, phản biện theo từng nhóm, cùng giải quyết một
nhiệm vụ học tập cụ thể nào đó dưới sự điều khiển và tổ chức của GV. Khi tổ
chức tranh luận theo nhóm sẽ diễn ra đồng thời hai hoạt động: việc thảo luận
giữa các thành viên trong nhóm để thống nhất ý kiến chung và tranh luận giữa
các nhóm với nhau.
+ Tổ chức tranh biện giữa HS với HS: Đây là hình thức có khả năng phát
huy tính tích cực, chủ động của từng học sinh trong học tập rất tốt, đáp ứng
yêu cầu và nhiệm vụ dạy học hiện nay. Nếu như tổ chức tranh biện nhóm sẽ
xảy ra hiện tượng một số học sinh không làm việc, ỉ lại thì khi tổ chức tranh
biện cá nhân, tất cả học sinh phải hoạt động và làm việc nghiêm túc vì thành
quả của sự tìm tòi, nghiên cứu của các em sẽ được thể hiện ngay trong quá
trình tranh luận. Tranh luận cá nhân có thể giúp học sinh khám phá ra những
giá trị tiềm ẩn của mình như khả năng hùng biện trước đám đông, khả năng tư
duy logic hay khả năng tự chủ.
+ Tổ chức tranh biện giữa GV với HS: Khi dạy học về một vấn đề lịch sử
có chủ đề cần tranh biện, GV sẽ nêu ra những luồng ý kiến khác nhau và cung
cấp những tư liệu, căn cứ để cho HS có được những hiểu biết nhất định về chủ
đề đó . Sau đó, giáo viên sẽ khích lệ tư duy của học sinh bằng cách đưa ngay ra ý
kiến của bản thân mình.Từ đó, HS mới có thể mạnh dạn đưa ra ý kiến, nếu ý

kiến đó khác với quan điểm của giáo viên và tranh biện với giáo viên.
19


-

Nội dung tranh biện

+ SKLS: Sự kiện lịch sử bao gồm hiện tượng, biến cố xảy ra trong quá khứ
được ghi lai bằng tư liệu, do hoạt động nhận thức của con người, nhận thức
này mang dấu vết của ý thức xã hội.Sự kiện lịch sử mang tính quá khứ, đã xảy
ra và không còn nữa.Sự kiện lịch sử không bao giờ lặp lại, không thể trực tiếp
quan sát, không thể tiến hành trong phòng thí nghiệm.Thế nên việc tổ chức
tranh biện liên quan đến nhiều SKSL có nhiều ý kiến trái chiều sẽ góp phần
giúp các em nhận thức sâu sắc hơn về các sự kiện gắn liền với bối cảnh lịch
sử đó.
+ NVLS: Do nhiều lý do khác nhau như việc bổ sung thêm những nghiên cứu
mới, sự khác nhau trong lập trường nghiên cứu hay sự thay đổi về thời đại đã
tạo nên sự đa chiều trong việc đánh giá về một nhân vật lịch sử. Đặc biệt đối
với những “nhân vật lưỡng tuyến” GV có thể tận dụng PPTB để giúp cho HS
có nhận thức khách quan về NV đồng thời giáo dục cho các em tư tưởng, tình
cảm, thái độ đúng đắn với những người có công to lớn đối với lịch sử dân tộc
và thái độ phê phán nghiêm khắc với những việc làm đi ngược lại lợi ích của
quần chúng, cản trở sự phát triển của dân tộc.
Trên đây là hai cách phân loại phổ biến nhất về việc sử dụng PPTB
trong DHLS.Mỗi một cách phân loại đều có một ưu thế và kĩ thuật riêng mà
GV nắm vững mới có thể sử dụng linh hoạt được.Trong đề tài nghiên cứu
khóa luận của mình, do thời gian và không gian không cho phép nên chúng
tôi sẽ đi sâu vào TB về SKLS và NVLS.Bởi lẽ lịch sử là những sự việc đã
diễn ra, có thật và tồn tại khách quan trong quá khứ.Vì vậy không thể phán

đoán, suy luận hay tưởng tượng để nhận thức lịch sử, mà cần phải thông qua
những "dấu tích" của quá khứ, những chứng cứ về sự tồn tại của các sự việc
đã diễn ra. Cùng một vấn đề lịch sử thế giới và dân tộc có rất nhiều nhân vật
và sự kiện lịch sử còn tồn tại những ý kiến đánh giá không đồng nhất với
nhau ở mặt này hay mặt khác. Đây chính là cơ sở để giáo viên có thể tổ chức
cho học sinh tranh biện về những nhân vật và sự kiện lịch sử đó.Tóm lại, do
20


đặc trưng của bộ môn Lịch sử nói riêng và tầm quan trọng của nhân vật, sự
kiện lịch sử trong nội dung bài học mà chúng tôi sẽ sử dụng PPTB theo hướng
khai thác các biện pháp tổ chức tranh biện về NVLS và SKLS cho HS.
1.1.3.

Tiến trình tổ chức PPTB trong DH
Việc tổ chức tranh biện trong dạy học lịch sử ở trường THPT nói chung

và dạy học môn lịch sử nói riêng trải qua những giai đoạn sau:
-

Giai đoạn 1: chuẩn bị tổ chức tranh biện
Trước hết, GV cần phải xác định được vấn đề cần tranh biện.Từ đó, GV
xây dựng kế hoạch tổ chức tranh biện và cả GV cùng HS đều tham gia chuẩn
bị. Bởi đây là hoạt động chiếm khá nhiều thời lượng trong một tiết học nên rất
cần sự chuẩn bị kĩ lưỡng của GV và HS để đảm bảo hiệu quả như mục tiêu
đặt ra ban đầu.
* Bước 1: Xác định vấn đề tranh biện
Yêu cầu đặt ra cho chủ đề/ vấn đề tranh biện đó là phải hướng vào đúng
trọng tâm nội dung bài học và thông qua bàn bạc về nó, GV và HS đạt mục
tiêu bài học đề ra. Bởi vậy, để xác định được vấn đề tranh biện, GV cần phải

xác định mục tiêu, yêu cầu của bài học cũng như nắm vững nội dung lịch sử.
Từ việc xác định nội dung tranh biện, GV sẽ căn cứ vào vị trí, thời
lượng của nội dung đó so với bài học là bao nhiêu để linh hoạt vấn đề tổ chức
và sắp xếp thời gian cho hoạt động tranh biện một cách hợp lí, không ảnh
hưởng đến thời lượng của cả tiết học.
*Bước 2: Lập kế hoạch tổ chức tranh biện
Đây là hoạt động không thể thiếu để tạo nên một hoạt động đạt hiệu
quả như mong muốn. Vì trước hết, kế hoạch tổ chức sẽ giúp GV có thể chủ
động trong tiến trình lên lớp, không bị xáo trộn hay phụ thuộc vào những thay
đổi của điểu kiện khách quan và chủ quan, đảm bảo cho giờ học diễn ra đúng
kế hoạch, đúng tiến độ thời gian quy định. Việc lập kế hoạch còn giúp HS
hoạt động có mục đích, có trọng tâm.Điều đó đặc biệt có ý nghĩa khi tranh

21


luân lại là hoạt động có thể phát sinh nhiều vấn đề mà GV không thể ngờ tới,
cần phải rất linh hoạt để điều khiển và dẫn dắt HS trong quá trình tổ chức.
Kế hoạch tổ chức cho HS tranh biện cần được thể hiện một cách chi tiết
thông qua việc thiết kế giáo án. Trong giáo án, GV cần phân định rõ ràng tiến
trình của bài học bằng những hoạt động của GV và HS, dự kiến phân bố thời
gian cho từng hoạt động, tổ chức tranh luận sao cho HS lĩnh hội kiến thức một
cách chủ động và nghiêm túc. Thời gian tương ứng với tiến trình tranh biện là
vô cùng quan trọng mà người GV phải dự tính được một cách thực tế.
Bên cạnh việc thiết kế giáo án, GV cần xây dựng một hệ thống câu hỏi,
sử dụng trong 2 trường hợp.Trước hết là để hỗ trợ cho quá trình chuẩn bị nội
dung tranh luận cho HS. GV sẽ đưa ra một số câu hỏi mang tính chất định
hướng khai thác nội dung ngay sau khi cho HS biết vấn đề tranh biện để gợi ý
hướng để HS biết cách tìm tài liệu và xây dựng luận cứ, dẫn chứng. Câu hỏi
phải rõ ràng, mạch lạc, dễ hiểu, chính xác và ở nhiều mức độ khác nhau.

-

Giai đoạn 2: Tổ chức hoạt động tranh biện
Bước 1: Giáo viên giới thiệu vấn đề tranh biện, học sinh tiếp nhận
nhiệm vụ. Vấn đề tranh biện phải được giáo viên đưa ra hết sức cụ thể và sinh
động, trong đó chứa đựng các mâu thuẫn nhận thức.Ở giai đoạn này học sinh
phải nhận thức được các mâu thuẫn và có nhu cầu giải quyết nó. Đây là động
lực thúc đẩy tính tích cực tư duy sáng tạo của từng học sinh.
Bước 2:Tổ chức cho học sinh đưa ra ý kiến, quan điểm, đánh giá của
mình và tranh biện lẫn nhau. Đây là bước cơ bản và trọng tâm nhất của quá
trình tranh biện, hiệu quả của giờ học sử dụng phương pháp tranh biện phụ
thuộc rất lớn vào hoạt động của giáo viên và học sinh ở bước này. Công việc
này rèn luyện cho học sinh cách nghe, hiểu, tái hiện được kiến thức đã thu
nhận được thông qua việc tranh biện với các học sinh khác, từ đó học sinh tự
mở rộng được hiểu biết của mình cũng như làm sâu sắc hơn những kiến thức
mình đã có. Giáo viên làm trọng tài khoa học, theo dõi kết quả làm việc của
của học sinh và có những định hướng kịp thời.
22


Bước 3: Giáo viên chốt lại những vấn đề có bản, trọng tâm.Trên cơ sở
những ý kiến tranh biện của học sinh, giáo viên khái quát toàn bộ vấn để, chốt
lại những vấn đề cơ bản, trọng tâm và gợi mở tư duy cho học sinh.Đồng thời
giáo viên cần dành thời gian động viên, khen thưởng kịp thời những thành
viên, nhóm hoạt động tích cực, có kết quả làm việc tốt và tích cực.
Mặt khác, GV có thể tổ chức PPTB trong việc giúp HS tổ chức và
nghiên cứu kiến thức mới, trong luyện tập củng cố và một khâu nữa không thể
thiếu của quá trình DH là kiểm tra, đánh giá.
-


Giai đoạn 3: Kiểm tra, đánh giá kết quả bài học theo hoạt động tranh
biện
Việc kiểm tra, đánh giá kết quả học tập của học sinh trong quá trình dạy
học có tầm quan trọng đặc biệt.Việc tổ chức tranh biện với tư cách là phương
pháp dạy học cần được kiểm tra đánh giá, thông qua đó để kịp thời điều chỉnh
hoạt động dạy của giáo viên và hoạt động học của học sinh, đồng thời rút kinh
nghiệm cho quá trình về sau.
Căn cứ vào mục đích đề tài nghiên cứu, theo tinh thần đổi mới phương
pháp dạy học lịch sử ở trường THPT, việc đánh giá được xác định trên các
tiêu chí sau:
+ Kết quả nhận thức của học sinh.
+ Kĩ năng vận dụng kiến thức.
+ Mức độ chú ý của học sinh trong giờ học.
+ Mức độ hứng thú của học sinh đối với giờ học.
+ Hoạt động của học sinh trong giờ học.
Khi đánh giá kết quả học tập của học sinh sau mỗi tiết học cần phải tạo
điều kiện cho các em tự đánh giá và đánh giá lẫn nhau.
Trên đây là quy trình sử dụng PPTB trong DH nói chung và trong DHLS
nói riêng. Trong đó, GV sẽ đóng vai trò xây dựng, đề xuất các chủ đề tranh biện
đồng thời vừa là người điều phố hoạt động tranh biện diễn ra một cách thuận lợi
và suôn sẻ, đảm bảo với mục tiêu của bài học bằng việc tranh biện về một nhân
23


vật LS hoặc một sự kiện LS nhất định. Cùng với đó, GV có thể tổ chức PPTB
trong việc giúp HS tổ chức và nghiên cứu kiến thức mới, trong luyện tập củng cố
và một khâu nữa không thể thiếu của quá trình DH là kiểm tra, đánh giá. Từ đó
GVcó thể có những đề xuất, biện pháp nhằm tăng chất lượng của các phiên
tranh biện tiếp theo nói riêng và chất lượng của hoạt động tranh biện trong dạy
học nói chung.Còn HS tích cực, chủ động tiếp nhận vấn đề tranh biện và nỗ lực

trong việc tìm ra những lập điểm, dẫn chứng minh chứng cho quan điểm của
mình một cách thuyết phục.Có được sự kết hợp chặt chẽ giữa GV với HS thì tiến
trình tổ chức TB mới có thể thành công và đạt hiệu quả tốt nhất được.
1.1.4. Ưu, nhược điểm của PPTB
- Ưu điểm:
+ Quá trình tranh biện bao quát toàn bộ vấn đề, phát hiện và tìm mới
những luận điểm, tư duy mới về vấn đề đặt ra để tranh biện. Thông qua tranh
biện, bài học lịch sử được nhìn nhận đa chiều và sâu sắc hơn. Trong đó, GV là
người dẫn dắt vấn đề, tạo điều kiện để vấn đề được nhìn nhận dưới các góc độ
khác nhau, phát huy được tính tích cực, chủ động, sáng tạo của người học.
+ Tạo điều kiện và cơ hội cho HS được thể hiện quan điểm, chính kiến
về một vấn đề, dựa trên những kiến thức có được thông qua học tập và nghiên
cứu tìm hiểu. Từ đó kích thích người học tham gia tranh biện tích cực nghiên
cứu học thuật để trao dồi hiểu biết, củng cố ý tưởng của luận điểm.
+ Kích thích người học tranh biện và tự tranh biện về những vấn đề
được nói đến, đấu tranh và tự đấu tranh với các quan điểm. Khi và chỉ khi tạo
được xung đột, thì mới tạo được động lực để phát triển đi lên, dần hoàn thiện
hơn, phát triển tư duy phản biện và năng lực giải quyết vấn đề cho HS.
+ Môi trường tranh biện tạo điều kiện cho HS được đứng lên và trình bày
một vấn đề, dần dần hoàn thiện sự tự tin, mạnh dạn khi trình bày một quan điểm.
Đồng thời, quá trình tranh biện đặt người học một môi trường phản biện cao độ,

24


dần hình thành cho người học thói quen phản biện về các vấn đề trong cuộc
sống, từ đó rút ra được quan điểm, kết luận cho bản thân mình.
-

Nhược điểm:

+ Tranh biện là một phương pháp dạy học còn mới mẻ, việc chuyển
giao giữa hình thức học tập theo phương pháp cũ sang hình thức học tập theo
tranh biện sẽ gây nên những xáo trộn, khó khăn nhất định, ảnh hưởng đến
chất lượng chung của quá trình dạy học. Điều này đồng nghĩa với việc người
dạy phải nắm vững kiến thức, kỹ năng tranh biện nhằm điều phối hoạt động
tranh biện diễn ra một cách có hiệu quả và đem lại lợi ích cao nhất so với kỳ
vọng đặt ra.
+ Thời gian mỗi tiết học ở phổ thông rất hạn chế nên việc áp dụng
PPTB trong dạy học gặp nhiều khó khăn do vẫn phải bảo đảm nội dung và
tiến trình dạy học.
+ Đặt trong tình huống cụ thể, là với môn Lịch sử thì các vấn đề, quan
điểm, sự kiện tạo xung đột trong nhìn nhận, đánh giá và phân tích còn hạn
chế, không bao quát được hết các nội dung được truyền tải liên quan đến
chương trình học do Bộ Giáo dục -Đào tạo quy định. Đồng thời, các vấn đề có
cơ hội tạo xung đột còn bị hạn chế về mặt nhận thức, quan điểm ở người học,
do quá trình học theo phương pháp cũ không kích thích tốt khả năng tư duy
quan điểm và đánh giá, quan điểm không có sự tương tác và hướng dẫn tư
duy cụ thể, mang tính định hướng và tạo sẵn.
1.1.5.

Cơ sở xuất phát của việc sử dụng phương pháp tranh biện trong dạy
học Lịch sử Việt Nam ở THPT
Thứ nhất, xuất phát từ mục tiêu giáo dục.Mục tiêu giáo dục là cái

“đích” phải nhằm tới để đạt những kết quả trong sự hình thành và phát
triển nhân cách HS.Nó phải được xây dựng trên cơ sở lí luận và thực tiễn,
tuân thủ những nguyên tắc: đáp ứng mục tiêu phát triển kinh tế - xã hội,
xuất phát từ vị trí, chức năng, nhiệm vụ của các bậc, cấp giáo dục, kế thừa
25



×