Những điểm mới và nội dung cơ bản của Hiến pháp 2013 so với Hiến pháp 1992
Ngày 28/11/2013, tại kỳ họp thứ 6 Quốc hội nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam
khóa XIII đã thơng qua bản Hiến pháp 2013. Bản Hiến pháp mới đã đạt được các mục đích, u
cầu đặt ra là thể chế hóa những đường lối, chính sách lớn của Đảng; ghi nhận những thành tựu
của hơn 25 năm đổi mới; xứng tầm một bản Hiến pháp mang tính ổn định, lâu dài. Những sửa
đổi, bổ sung trong Hiến pháp mới rất căn bản, sâu sắc, khẳng định con đường chúng ta đi theo là
đúng, được nâng lên tầm cao hơn, tạo điều kiện cho bước phát triển mới của đất nước, và bản
Hiến pháp mới có hiệu lực thi hành từ ngày 01/01/2014. Sau đây là những điểm mới và nội dung
cơ bản của Hiến pháp 2013 so với Hiến pháp 1992:
Điểm mới thứ nhất, Hiến pháp 2013 gồm 11 chương và 120 điều (giảm 1 chương, 27 điều; giữ
nguyên 7 điều, làm mới 12 điều, sửa đổi 101 điều so với Hiến pháp 1992). Lời nói đầu của Hiến pháp
2013 rất ngắn, gọn, từ ngữ chắt lọc (độ dài chưa bằng 1/3 so với Hiến pháp 1992), phản ánh lịch sử hào
hùng của dân tộc, thành quả cách mạng to lớn mà nhân dân ta đã giành được; khẳng định việc kế thừa,
xây dựng, thi hành và bảo vệ Hiến pháp vì mục tiêu dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn
minh.
Điểm mới thứ hai, CHƯƠNG I: CHẾ ĐỘ CHÍNH TRỊ
Trên cơ sở sửa đổi Chương I và gộp Chương XI về Quốc kỳ, Quốc huy, Quốc ca, ngày
Quốc khánh, thủ đô của Hiến pháp 1992, nội dung cơ bản về chế độ chính trị của nước ta hiện nay
đã được Hiến pháp 2013 kế thừa Hiến pháp năm 1946, 1959, 1980 và 1992 nhưng đã được chắt lọc
ngắn gọn và súc tích hơn. Cách thể hiện trong các điều hợp lý hơn, thể hiện được mối quan hệ mật
thiết giữa Đảng và Nhân dân. Trong đó, mơ hình Nhà nước được giữ nguyên, nhưng những quy định
hoạt động của bộ máy Nhà nước được đổi mới hơn so với Hiến pháp năm 1992; cụ thể như sau:
Thứ nhất, tiếp tục khẳng định: “Nhà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam là nhà nước
pháp quyền xã hội chủ nghĩa của Nhân dân, do Nhân dân, vì Nhân dân”; “tất cả quyền lực nhà nước
thuộc về Nhân dân mà nền tảng là liên minh giữa giai cấp công nhân với giai cấp nơng dân và đội ngũ trí
thức”; (khoản 3, Điều 1). Lần đầu tiên chữ Nhân dân được viết hoa.
Thứ hai, tiếp tục khẳng định “Nhà nước bảo đảm và phát huy quyền làm chủ của Nhân dân;
công nhận, tôn trọng, bảo vệ và bảo đảm quyền con người, quyền công dân; thực hiện mục tiêu dân
giàu, nước mạnh, dân chủ, cơng bằng, văn minh, mọi người có cuộc sống ấm no, tự do, hạnh phúc, có
điều kiện phát triển toàn diện” (Điều 3), và “Nhân dân thực hiện quyền lực nhà nước (không chỉ) bằng
dân chủ trực tiếp, bằng dân chủ đại diện thông qua Quốc hội, Hội đồng nhân dân (mà còn) và thông
qua các cơ quan khác của Nhà nước” (Điều 6).
Thứ ba, khẳng định sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam: “Đảng Cộng sản Việt Nam Đội tiên phong của giai cấp công nhân, đồng thời là đội tiên phong của Nhân dân lao động và của dân
tộc Việt Nam, đại biểu trung thành lợi ích của giai cấp công nhân, Nhân dân lao động và của cả dân
tộc, lấy chủ nghĩa Mác – Lê nin và tư tưởng Hồ Chí Minh làm nền tảng tư tưởng là lực lượng lãnh đạo
Nhà nước và xã hội”.
Hiến pháp 2013 bổ sung một điểm mới rất quan trọng về nguyên tắc đó là: “Quyền lực nhà
nước là thống nhất, có sự phân cơng, phối hợp, kiểm sốt giữa các cơ quan nhà nước trong việc thực
hiện các quyền lập pháp, hành pháp, tư pháp” (khoản 3, Điều 1). Có thể khẳng định đây là lần đầu tiên
trong lịch sử lập Hiến, nguyên tắc kiểm soát quyền lực nhà nước được ghi nhận trong Hiến pháp.
Nguyên tắc kiểm soát quyền lực nhà nước là nguyên tắc của nhà nước pháp quyền XHCN,
nhằm mục đích để giúp các cơ quan lập pháp, hành pháp, tư pháp thực hiện nhiệm vụ của mình một
cách có hiệu lực, hiệu quả; đồng thời tránh việc lợi dụng, lạm dụng quyền lực nhà nước trong khi thi
hành nhiệm vụ, công vụ của các cơ quan nhà nước nói trên.
Lần đầu tiên trong kỹ thuật lập hiến, Hiến pháp 2013 quy định “Nhân dân thực hiện quyền lực
nhà nước bằng dân chủ trực tiếp, bằng dân chủ đại diện thông qua Quốc hội, Hội đồng nhân dân và
thông qua các cơ quan khác của Nhà nước” (Điều 6). Như vậy so với Hiến pháp 1992, điểm mới của
Hiến pháp 2013 là quy định Nhân dân thực hiện quyền lực nhà nước không chỉ bằng dân chủ trực tiếp,
bằng dân chủ đại diện thông qua Quốc hội, Hội đồng nhân dân mà cịn thơng qua các cơ quan khác
của Nhà nước.
Hiến pháp 2013 tiếp tục khẳng định sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam, khoản 1 Điều 4
Hiến pháp 2013 ghi nhận: “Đảng Cộng sản Việt Nam - Đội tiên phong của giai cấp công nhân, đồng thời
là đội tiên phong của Nhân dân lao động và của dân tộc Việt Nam, đại biểu trung thành lợi ích của giai
cấp công nhân, Nhân dân lao động và của cả dân tộc, lấy chủ nghĩa Mác – Lê nin và tư tưởng Hồ Chí
Minh làm nền tảng tư tưởng là lực lượng lãnh đạo Nhà nước và xã hội”.
Xác định trách nhiệm của Đảng Cộng sản Việt Nam, tại khoản 2, Điều 4 của Hiến pháp 2013 đã
ghi rõ: “Đảng Cộng sản Việt Nam gắn bó mật thiết với Nhân dân, phục vụ Nhân dân, chịu sự giám sát
của Nhân dân, chịu trách nhiệm trước Nhân dân về những quyết định của mình”; tại khoản 3 Điều 4
Hiến pháp 2013 còn quy định: “Các tổ chức của Đảng và đảng viên Đảng Cộng sản Việt Nam hoạt động
trong khuôn khổ Hiến pháp và pháp luật”.
Về vấn đề các dân tộc cùng sinh sống trên đất nước Việt Nam được Hiến pháp 2013 quy định
rõ tại Điều 5; cụ thể như sau: “1. Nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam là quốc gia thống nhất
của các dân tộc cùng sinh sống trên đất nước Việt Nam. 2. Các dân tộc bình đẳng, đồn kết, tơn trọng
và giúp nhau cùng phát triển; nghiêm cấm mọi hành vi kỳ thị, chia rẽ dân tộc”. Khoản 3 Điều 5 của
Hiến pháp 2013 quy định: “Ngôn ngữ quốc gia là tiếng Việt. Các dân tộc có quyền dùng tiếng nói, chữ
viết, giữ gìn bản sắc dân tộc, phát huy phong tục, tập quán, truyền thống và văn hoá tốt đẹp của mình”.
Chính sách đối với các dân tộc thiểu số được Hiến pháp 2013 quy định tại khoản 4 Điều 5 của
Hiến pháp 2013: “Nhà nước thực hiện chính sách phát triển toàn diện và tạo điều kiện để các dân tộc
thiểu số phát huy nội lực, cùng phát triển với đất nước”.
Về Mặt trận Tổ quốc và các tổ chức Chính trị -Xã hội được Hiến pháp 2013 quy định cụ thể
như sau: “1. Mặt trận Tổ quốc Việt Nam là tổ chức liên minh chính trị, liên hiệp tự nguyện của tổ chức
chính trị, các tổ chức chính trị - xã hội, tổ chức xã hội và các cá nhân tiêu biểu trong các giai cấp, tầng
lớp xã hội, dân tộc, tôn giáo và người Việt Nam định cư ở nước ngoài.
Mặt trận Tổ quốc Việt Nam là cơ sở chính trị của chính quyền nhân dân; đại diện, bảo vệ
quyền và lợi ích hợp pháp, chính đáng của Nhân dân; tập hợp, phát huy sức mạnh đại đoàn kết toàn
dân tộc, thực hiện dân chủ, tăng cường đồng thuận xã hội; giám sát, phản biện xã hội; tham gia xây
dựng Đảng, Nhà nước, hoạt động đối ngoại nhân dân góp phần xây dựng và bảo vệ Tổ quốc.
2. Cơng đồn Việt Nam, Hội Nơng dân Việt Nam, Đồn Thanh niên Cộng sản Hồ Chí Minh,
Hội Liên hiệp Phụ nữ Việt Nam, Hội Cựu chiến binh Việt Nam là các tổ chức chính trị - xã hội được
thành lập trên cơ sở tự nguyện, đại diện và bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp, chính đáng của thành viên,
hội viên tổ chức mình; cùng các tổ chức thành viên khác của Mặt trận phối hợp và thống nhất hành
động trong Mặt trận Tổ quốc Việt Nam.
3. Mặt trận Tổ quốc Việt Nam, các tổ chức thành viên của Mặt trận và các tổ chức xã hội khác
hoạt động trong khuôn khổ Hiến pháp và pháp luật. Nhà nước tạo điều kiện để Mặt trận Tổ quốc Việt
Nam các tổ chức thành viên của Mặt trận và các tổ chức xã hội khác hoạt động” (Điều 9).
Điều 10 Hiến pháp 2013 quy định: “Cơng đồn Việt Nam là tổ chức chính trị - xã hội của giai
cấp công nhân và của người lao động được thành lập trên cơ sở tự nguyện, đại diện cho người lao
động, chăm lo và bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp, chính đáng của người lao động; tham gia quản lý nhà
nước, quản lý kinh tế - xã hội; tham gia kiểm tra, thanh tra, giám sát hoạt động của cơ quan nhà nước,
tổ chức, đơn vị, doanh nghiệp về những vấn đề liên quan đến quyền, nghĩa vụ của người lao động;
tuyên truyền, vận động người lao động học tập, nâng cao trình độ, kỹ năng nghề nghiệp, chấp hành
pháp luật, xây dựng và bảo vệ Tổ quốc”.
Về đường lối đối ngoại của nước ta hiện nay, Điều 12 Hiến pháp 2013 quy định: “Nước Cộng
hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam thực hiện nhất quán đường lối đối ngoại độc lập, tự chủ, hịa bình, hữu
nghị, hợp tác và phát triển; đa phương hóa, đa dạng hóa quan hệ, chủ động và tích cực hội nhập, hợp
tác quốc tế trên cơ sở tôn trọng độc lập, chủ quyền và tồn vẹn lãnh thổ, khơng can thiệp vào cơng việc
nội bộ của nhau, bình đẳng, cùng có lợi; tuân thủ Hiến chương Liên hợp quốc và điều ước quốc tế mà
Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam là thành viên; là bạn, đối tác tin cậy và thành viên có trách nhiệm
trong cộng đồng quốc tế vì lợi ích quốc gia, dân tộc, góp phần vào sự nghiệp hịa bình, độc lập dân tộc,
dân chủ và tiến bộ xã hội trên thế giới”.
Điểm mới thứ ba, VỀ QUYỀN CON NGƯỜI, QUYỀN VÀ NGHĨA VỤ CƠ BẢN CỦA
CÔNG DÂN
Đặt trang trọng ngay sau Chương I về Chế độ chính trị, Chương II “Quyền con người,
quyền và nghĩa vụ cơ bản của công dân”, đây là một trong những thành công lớn nhất của Hiến pháp
năm 2013, thể hiện được tinh thần cốt lõi của bản Hiến pháp là quyền con người và quyền cơ bản của
công dân, thể hiện được sự đổi mới trong tư duy, nhận thức, nội dung và kỹ thuật lập hiến. Với kết cấu
nhiều điều trong Chương II nên Hiến pháp mới đã xác định xuyên suốt, chi tiết, rõ ràng để việc thực
hiện được thuận lợi. Hiến pháp mới đã quy định rõ, tách bạch giữa quyền con người với quyền và nghĩa
vụ của công dân. Con người, Nhân dân được đặt vào trung tâm của sửa đổi Hiến pháp, khẳng định “nhà
nước Cộng hòa Xã hội chủ nghĩa Việt Nam là nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của Nhân dân, do
Nhân dân, vì Nhân dân”. Hiến pháp 2013 khẳng định các quyền con người, quyền công dân về chính
trị, dân sự, kinh tế, văn hóa, xã hội được công nhận, tôn trọng, bảo vệ, bảo đảm theo Hiến pháp và
pháp luật. Hiến pháp mới bổ sung nguyên tắc “Quyền con người, quyền cơng dân chỉ có thể bị hạn chế
theo quy định của luật trong trường hợp cần thiết vì lý do quốc phịng, an ninh quốc gia, trật tự, an toàn
xã hội, đạo đức xã hội, sức khỏe của cộng đồng”. (Điều 14). Hiến pháp 2013 quy định: “Quyền công
dân khơng tách rời nghĩa vụ cơng dân. Mọi người có nghĩa vụ tơn trọng quyền của người khác. Cơng
dân có trách nhiệm thực hiện nghĩa vụ đối với Nhà nước và xã hội.Việc thực hiện quyền con người,
quyền công dân khơng được xâm phạm lợi ích quốc gia, dân tộc, quyền và lợi ích hợp pháp của người
khác” (Điều 15).
Hiến pháp 2013 còn bổ sung một số điều mới về quyền con người, quyền công dân, quy định tại
các Điều 19, 20, 21, 34 và Điều 36. Cụ thể như sau:
Mọi người có quyền hiến mơ, bộ phận cơ thể người và hiến xác theo quy định của luật.
Việc thử nghiệm y học, dược học, khoa học hay bất kỳ hình thức thử nghiệm nào khác trên cơ thể người
phải có sự đồng ý của người được thử nghiệm. ((Khoản 3, Điều 20)
-
Cơng dân có quyền được bảo đảm an sinh xã hội (Điều 34)
Nhà nước bảo hộ hôn nhân và gia đình, bảo hộ quyền lợi của người mẹ và trẻ em (Điều 36).
Ngoài ra trong các Điều:
Điều 41: “Mọi người có quyền hưởng thụ và tiếp cận các giá trị văn hố, tham gia vào đời
sống văn hóa, sử dụng các cơ sở văn hóa”.
Điều 42: “Cơng dân có quyền xác định dân tộc của mình, sử dụng ngôn ngữ mẹ đẻ, lựa chọn
ngôn ngữ giao tiếp”.
Điều 43: “Mọi người có quyền được sống trong mơi trường trong lành và có nghĩa vụ bảo vệ
mơi trường”.
Điều 44: “Cơng dân có nghĩa vụ trung thành với Tổ quốc. Phản bội Tổ quốc là tội nặng nhất”.
Điều 45: “1. Bảo vệ Tổ quốc là nghĩa vụ thiêng liêng và quyền cao quý của công dân. 2. Công
dân phải thực hiện nghĩa vụ quân sự và tham gia xây dựng nền quốc phịng tồn dân”.
Nghĩa vụ của cơng dân: “Cơng dân có nghĩa vụ tuân theo Hiến pháp và pháp luật; tham gia
bảo vệ an ninh quốc gia, trật tự, an toàn xã hội và chấp hành những quy tắc sinh hoạt công cộng” (Điều
46).
- Mở rộng nghĩa vụ: “Mọi người có nghĩa vụ nộp thuế theo luật định” (Điều 47).
- Trách nhiệm của nhà nước là phải ban hành Pháp luật: Ví dụ: “Cơng dân nam, nữ bình đẳng
về mọi mặt”. “Nhà nước có chính sách bảo đảm quyền và cơ hội bình đẳng giới” (Điều 26), hoặc
“Cơng dân có quyền tham gia quản lý nhà nước và xã hội”, thì “Nhà nước tạo điều kiện để cơng dân
tham gia quản lý nhà nước và xã hội”…(Điều 28).
Điểm mới thứ tư, CHƯƠNG III: KINH TẾ, XÃ HỘI, VĂN HÓA, GIÁO DỤC, KHOA
HỌC, CÔNG NGHỆ VÀ MÔI TRƯỜNG
Hiến pháp 2013 đã gộp Chương II và Chương III của Hiến pháp 1992, thể hiện được sự gắn kết
giữa phát triển kinh tế với các vấn đề khác của xã hội, và bổ sung thêm nội dung môi trường là một
điểm mới, rất phù hợp thực tế hiện nay.
Quan điểm phát triển kinh tế phải kết hợp chặt chẽ, hài hòa với phát triển văn hóa, giáo dục,
khoa học và cơng nghệ, thực hiện tiến bộ và công bằng xã hội, bảo vệ mơi trường của Đảng đã được
Hiến pháp thể chế hóa, quy định ở trong cùng một chương (Chương III). Các quy định này mang tính
khái quát, ổn định về mục tiêu, định hướng và các chính sách cơ bản ở tầm vĩ mô làm căn cứ pháp lý
cao nhất cho sự phát triển nhanh và bền vững của đất nước trên tất cả các lĩnh vực kinh tế - xã hội, văn
hóa, giáo dục, khoa học - công nghệ và môi trường.
Hiến pháp mới không nêu cụ thể các thành phần kinh tế như Hiến pháp 1992, nhưng Hiến pháp
xác định rõ với nhiều hình thức sở hữu, nhiều thành phần kinh tế và kinh tế nhà nước giữ vai trò chủ
đạo.
Lần đầu tiên doanh nhân, doanh nghiệp và cá nhân, tổ chức khácđược ghi trong Hiến pháp;
“Nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam xây dựng nền kinh tế độc lập, tự chủ, phát huy nội lực,
hội nhập, hợp tác quốc tế, gắn kết chặt chẽ với phát triển văn hóa, thực hiện tiến bộ và công bằng xã
hội, bảo vệ môi trường, thực hiện cơng nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước” (Điều 50).
Về các thành phần kinh tế: Điều 51: “1. Nền kinh tế Việt Nam là nền kinh tế thị trường định
hướng xã hội chủ nghĩa với nhiều hình thức sở hữu, nhiều thành phần kinh tế; kinh tế nhà nước giữ vai
trò chủ đạo. 2. Các thành phần kinh tế đều là bộ phận cấu thành quan trọng của nền kinh tế quốc
dân. Các chủ thể thuộc các thành phần kinh tế bình đẳng, hợp tác và cạnh tranh theo pháp luật. 3. Nhà
nước khuyến khích, tạo điều kiện để doanh nhân, doanh nghiệp và cá nhân, tổ chức khác đầu tư,
sản xuất, kinh doanh; phát triển bền vững các ngành kinh tế, góp phần xây dựng đất nước. Tài sản hợp
pháp của cá nhân, tổ chức đầu tư, sản xuất, kinh doanh được pháp luật bảo hộ và không bị quốc hữu
hóa.
Về quản lý đất đai: “Đất đai, tài nguyên nước, tài nguyên khoáng sản, nguồn lợi ở vùng biển,
vùng trời, tài nguyên thiên nhiên khác và các tài sản do Nhà nước đầu tư, quản lý là tài sản cơng
thuộc sở hữu tồn dân do Nhà nước đại diện chủ sở hữu và thống nhất quản lý’ (Điều 53).
Điều 54: “1. Đất đai là tài nguyên đặc biệt của quốc gia, nguồn lực quan trọng phát triển đất
nước, được quản lý theo pháp luật. 2. Tổ chức, cá nhân được Nhà nước giao đất, cho thuê đất, công
nhận quyền sử dụng đất. Người sử dụng đất được chuyển quyền sử dụng đất, thực hiện các quyền và
nghĩa vụ theo quy định của luật. Quyền sử dụng đất được pháp luật bảo hộ. 3. Nhà nước thu hồi đất do
tổ chức, cá nhân đang sử dụng trong trường hợp thật cần thiết do luật định vì mục đích quốc phịng, an
ninh; phát triển kinh tế - xã hội vì lợi ích quốc gia, công cộng. Việc thu hồi đất phải công khai, minh
bạch và được bồi thường theo quy định của pháp luật. 4. Nhà nước trưng dụng đất trong trường hợp
thật cần thiết do luật định để thực hiện nhiệm vụ quốc phịng, an ninh hoặc trong tình trạng chiến
tranh, tình trạng khẩn cấp, phịng, chống thiên tai.
Về Tài chính cơng: Điều 55 Hiến pháp quy định: “1. Ngân sách nhà nước, dự trữ quốc gia,
quỹ tài chính nhà nước và các nguồn tài chính cơng khác do Nhà nước thống nhất quản lý và phải
được sử dụng hiệu quả, công bằng, công khai, minh bạch, đúng pháp luật. 2. Ngân sách nhà nước gồm
ngân sách trung ương và ngân sách địa phương, trong đó ngân sách trung ương giữ vai trò chủ đạo,
bảo đảm nhiệm vụ chi của quốc gia. Các khoản thu, chi ngân sách nhà nước phải được dự toán và do
luật định. 3. Đơn vị tiền tệ quốc gia là Đồng Việt Nam. Nhà nước bảo đảm ổn định giá trị đồng tiền
quốc gia”. Điều 56: “Cơ quan, tổ chức, cá nhân phải thực hành tiết kiệm, chống lãng phí, phịng,
chống tham nhũng trong hoạt động kinh tế - xã hội và quản lý nhà nước”.
Về Xã hội, văn hóa, giáo dục, khoa học, cơng nghệ và môi trường: Hiến pháp 2013 quy
định bởi các Điều 57 đến Điều 63. Điểm mới là: “Nhà nước bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của người
lao động, người sử dụng lao động và tạo điều kiện xây dựng quan hệ lao động tiến bộ, hài hòa và ổn
định (Điều 57).
Chăm sóc sức khỏe nhân dân: Hiến pháp quy định: “1. Nhà nước, xã hội đầu tư phát triển sự
nghiệp bảo vệ, chăm sóc sức khỏe của Nhân dân, thực hiện bảo hiểm y tế tồn dân, có chính sách ưu
tiên chăm sóc sức khoẻ cho đồng bào dân tộc thiểu số, đồng bào ở miền núi, hải đảo và vùng có điều
kiện kinh tế - xã hội đặc biệt khó khăn. 2. Nhà nước, xã hội và gia đình có trách nhiệm bảo vệ, chăm
sóc sức khỏe người mẹ, trẻ em, thực hiện kế hoạch hóa gia đình” (Điều 58).
Chính sách tơn vinh, khen thưởng: Điều 59:“1. Nhà nước, xã hội tơn vinh, khen thưởng, thực
hiện chính sách ưu đãi đối với người có cơng với nước. 2. Nhà nước tạo bình đẳng về cơ hội để cơng
dân thụ hưởng phúc lợi xã hội, phát triển hệ thống an sinh xã hội, có chính sách trợ giúp người cao
tuổi, người khuyết tật, người nghèo và người có hồn cảnh khó khăn khác. 3. Nhà nước có chính sách
phát triển nhà ở, tạo điều kiện để mọi người có chỗ ở.”
Chính sách phát triển nền văn hóa Việt Nam tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc: Điều 60: “1.
Nhà nước, xã hội chăm lo xây dựng và phát triển nền văn hóa Việt Nam tiên tiến, đậm đà bản sắc dân
tộc, tiếp thu tinh hoa văn hóa nhân loại. 2. Nhà nước, xã hội phát triển văn học, nghệ thuật nhằm đáp
ứng nhu cầu tinh thần đa dạng và lành mạnh của Nhân dân; phát triển các phương tiện thông tin đại
chúng nhằm đáp ứng nhu cầu thông tin của Nhân dân, phục vụ sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc.
3. Nhà nước, xã hội tạo môi trường xây dựng gia đình Việt Nam ấm no, tiến bộ, hạnh phúc; xây dựng
con người Việt Nam có sức khỏe, văn hóa, giàu lịng u nước, có tinh thần đồn kết, ý thức làm chủ,
trách nhiệm cơng dân”.
Chính sách giáo dục: Hiến pháp 2013 quy định: “1. Phát triển giáo dục là quốc sách hàng
đầu nhằm nâng cao dân trí, phát triển nguồn nhân lực, bồi dưỡng nhân tài. 2. Nhà nước ưu tiên đầu tư
và thu hút các nguồn đầu tư khác cho giáo dục; chăm lo giáo dục mầm non; bảo đảm giáo dục
tiểu học là bắt buộc, Nhà nước khơng thu học phí; từng bước phổ cập giáo dục trung học; phát triển
giáo dục đại học, giáo dục nghề nghiệp; thực hiện chính sách học bổng, học phí hợp lý. 3. Nhà nước
ưu tiên phát triển giáo dục ở miền núi, hải đảo, vùng đồng bào dân tộc thiểu số và vùng có điều kiện
kinh tế - xã hội đặc biệt khó khăn; ưu tiên sử dụng, phát triển nhân tài; tạo điều kiện để người khuyết
tật và người nghèo được học văn hoá và học nghề”. (Điều 61).
Chính sách Khoa học: Điều 62: “1. Phát triển khoa học và công nghệ là quốc sách hàng đầu,
giữ vai trò then chốt trong sự nghiệp phát triển kinh tế - xã hội của đất nước. 2. Nhà nước ưu tiên đầu
tư và khuyến khích tổ chức, cá nhân đầu tư nghiên cứu, phát triển, chuyển giao, ứng dụng có hiệu quả
thành tựu khoa học và cơng nghệ; bảo đảm quyền nghiên cứu khoa học và công nghệ; bảo hộ quyền sở
hữu trí tuệ. 3. Nhà nước tạo điều kiện để mọi người tham gia và được thụ hưởng lợi ích từ các hoạt
động khoa học và cơng nghệ”.
Chính sách về Mơi trường: Điều 63: “1. Nhà nước có chính sách bảo vệ mơi trường; quản lý,
sử dụng hiệu quả, bền vững các nguồn tài nguyên thiên nhiên; bảo tồn thiên nhiên, đa dạng sinh học;
chủ động phòng, chống thiên tai, ứng phó với biến đổi khí hậu. 2. Nhà nước khuyến khích mọi hoạt
động bảo vệ mơi trường, phát triển, sử dụng năng lượng mới, năng lượng tái tạo. Hiến pháp bổ sung
quy định: Tổ chức, cá nhân gây ô nhiễm môi trường, làm suy kiệt tài nguyên thiên nhiên và suy giảm
đa dạng sinh học phải bị xử lý nghiêm và có trách nhiệm khắc phục, bồi thường thiệt hại.
Điểm mới thứ năm, CHƯƠNG IV: BẢO VỆ TỔ QUỐC
Bảo vệ Tổ quốc Việt Nam XHCN từ trước đây cũng như trong tình hình hiện nay ln luôn là
một nhiệm vụ cực kỳ quan trọng. Hiến pháp 2013 khẳng định nhiệm vụ: “Bảo vệ Tổ quốc Việt Nam
xã hội chủ nghĩa là sự nghiệp của toàn dân. Nhà nước củng cố và tăng cường nền quốc phòng tồn dân
và an ninh nhân dân mà nịng cốt là lực lượng vũ trang nhân dân; phát huy sức mạnh tổng hợp của đất
nước để bảo vệ vững chắc Tổ quốc, góp phần bảo vệ hịa bình ở khu vực và trên thế giới. Cơ quan, tổ
chức, công dân phải thực hiện đầy đủ nhiệm vụ quốc phòng và an ninh” (Điều 64). Hiến pháp khẳng
định vai trò nòng cốt của lực lượng vũ trang nhân dân là: “Tuyệt đối trung thành với Tổ quốc, Nhân
dân, với Đảng và Nhà nước, có nhiệm vụ bảo vệ độc lập, chủ quyền, thống nhất, toàn vẹn lãnh thổ của
Tổ quốc, an ninh quốc gia và trật tự, an toàn xã hội; bảo vệ Nhân dân, Đảng, Nhà nước và chế độ xã
hội chủ nghĩa, cùng toàn dân xây dựng đất nước và thực hiện nghĩa vụ quốc tế” (Điều 65). Hiến pháp
nhấn mạnh quan điểm mới: “kết hợp quốc phòng, an ninh với kinh tế, kinh tế với quốc phòng, an
ninh; xây dựng lực lượng vũ trang nhân dân hùng mạnh, không ngừng tăng cường khả năng bảo vệ Tổ
quốc”.
Điểm mới thứ sáu, CHƯƠNG V. QUỐC HỘI
Hiến pháp mới kế thừa Hiến pháp 1992 và thể chế hóa quan điểm của Đảng về xây dựng
Nhà nước pháp quyền Xã hội chủ nghĩa. Về tổ chức bộ máy Nhà nước, Hiến pháp tiếp tục khẳng
định Quốc hội là cơ quan đại biểu cao nhất của nhân dân, cơ quan quyền lực nhà nước cao nhất của
nước CHXHCN Việt Nam nhưng đã không xác định Quốc hội là cơ quan duy nhất có quyền lập hiến
và lập pháp. Đồng thời, trong việc quyết định kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội của đất nước và
chính sách quốc gia, Quốc hội chỉ quyết định mục tiêu, chỉ tiêu, chính sách, nhiệm vụ cơ bản phát triển
kinh tế - xã hội; quyết định chính sách cơ bản về tài chính, tiền tệ.
Điều 69 Hiến pháp 2013 khẳng định: “Quốc hội là cơ quan đại biểu cao nhất của Nhân dân,
cơ quan quyền lực nhà nước cao nhất của nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam. Quốc hội thực
hiện quyền lập hiến, quyền lập pháp, quyết định các vấn đề quan trọng của đất nước và giám sát tối
cao đối với hoạt động của Nhà nước”. Hiến pháp 2013 điều chỉnh 1 số nhiệm vụ, quyền hạn của Quốc
hội, cụ thể: “Quốc hội có những nhiệm vụ và quyền hạn sau đây: 1. Làm Hiến pháp và sửa đổi Hiến
pháp; làm luật và sửa đổi luật; 2. Thực hiện quyền giám sát tối cao việc tuân theo Hiến pháp, luật và
nghị quyết của Quốc hội; xét báo cáo công tác của Chủ tịch nước, Uỷ ban thường vụ Quốc hội, Chính
phủ, Tồ án nhân dân tối cao, Viện kiểm sát nhân dân tối cao, Hội đồng bầu cử quốc gia, Kiểm toán
Nhà nước và cơ quan khác do Quốc hội thành lập; 3. Quyết định mục tiêu, chỉ tiêu, chính sách, nhiệm
vụ cơ bản phát triển kinh tế - xã hội của đất nước; (Mới) 4. Quyết định chính sách cơ bản về tài chính,
tiền tệ quốc gia; quy định, sửa đổi hoặc bãi bỏ các thứ thuế; quyết định phân chia các khoản thu và
nhiệm vụ chi giữa ngân sách trung ương và ngân sách địa phương; quyết định mức giới hạn an toàn nợ
quốc gia, nợ cơng, nợ chính phủ; quyết định dự tốn ngân sách nhà nước và phân bổ ngân sách trung
ương, phê chuẩn quyết tốn ngân sách nhà nước;(Mới) 5. Quyết định chính sách dân tộc, chính sách
tơn giáo của Nhà nước; 6. Quy định tổ chức và hoạt động của Quốc hội, Chủ tịch nước, Chính phủ,
Tồ án nhân dân, Viện kiểm sát nhân dân, Hội đồng bầu cử quốc gia, Kiểm tốn Nhà nước, chính
quyền địa phương và cơ quan khác do Quốc hội thành lập; 7. Bầu, miễn nhiệm, bãi nhiệm Chủ tịch
nước, Phó Chủ tịch nước, Chủ tịch Quốc hội, Phó Chủ tịch Quốc hội, Ủy viên Uỷ ban thường vụ Quốc
hội, Chủ tịch Hội đồng dân tộc, Chủ nhiệm Ủy ban của Quốc hội, Thủ tướng Chính phủ, Chánh án Toà
án nhân dân tối cao, Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân tối cao, Chủ tịch Hội đồng bầu cử quốc gia,
Tổng Kiểm toán Nhà nước, người đứng đầu cơ quan khác do Quốc hội thành lập; phê chuẩn đề nghị
bổ nhiệm, miễn nhiệm, cách chức Phó Thủ tướng Chính phủ, Bộ trưởng và thành viên khác của Chính
phủ, Thẩm phán Tịa án nhân dân tối cao; phê chuẩn danh sách thành viên Hội đồng quốc phòng và an
ninh, Hội đồng bầu cử quốc gia. (Mới) Sau khi được bầu, Chủ tịch nước, Chủ tịch Quốc hội, Thủ
tướng Chính phủ, Chánh án Tịa án nhân dân tối cao phải tuyên thệ trung thành với Tổ quốc, Nhân dân
và Hiến pháp; 8. Bỏ phiếu tín nhiệm đối với người giữ chức vụ do Quốc hội bầu hoặc phê chuẩn; 9.
Quyết định thành lập, bãi bỏ bộ, cơ quan ngang bộ của Chính phủ; thành lập, giải thể, nhập, chia, điều
chỉnh địa giới hành chính tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương, đơn vị hành chính - kinh tế đặc biệt;
thành lập, bãi bỏ cơ quan khác theo quy định của Hiến pháp và luật; 10. Bãi bỏ văn bản của Chủ tịch
nước, Uỷ ban thường vụ Quốc hội, Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ, Tồ án nhân dân tối cao, Viện
kiểm sát nhân dân tối cao trái với Hiến pháp, luật, nghị quyết của Quốc hội; 11. Quyết định đại xá; 12.
Quy định hàm, cấp trong lực lượng vũ trang nhân dân, hàm, cấp ngoại giao và những hàm, cấp nhà
nước khác; quy định huân chương, huy chương và danh hiệu vinh dự nhà nước; 13. Quyết định vấn đề
chiến tranh và hồ bình; quy định về tình trạng khẩn cấp, các biện pháp đặc biệt khác bảo đảm quốc
phòng và an ninh quốc gia; 14. Quyết định chính sách cơ bản về đối ngoại; phê chuẩn, quyết định gia
nhập hoặc chấm dứt hiệu lực của điều ước quốc tế liên quan đến chiến tranh, hịa bình, chủ quyền quốc
gia, tư cách thành viên của Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam tại các tổ chức quốc tế và khu vực
quan trọng, các điều ước quốc tế về quyền con người, quyền và nghĩa vụ cơ bản của công dân và các
điều ước quốc tế khác trái với luật, nghị quyết của Quốc hội; 15. Quyết định trưng cầu ý dân” (Điều
70).
Về Uỷ ban thường vụ Quốc hội:
Hiến pháp 2013 quy định Uỷ ban thường vụ Quốc hội có 13 nhiệm vụ và quyền hạn, trong đó
có những điểm mới quy định tại các khoản sau đây ở Điều 74: Khoản 7. Giám sát và hướng dẫn hoạt
động của Hội đồng nhân dân; bãi bỏ nghị quyết của Hội đồng nhân dân tỉnh, thành phố trực thuộc
trung ương trái với Hiến pháp, luật và văn bản của cơ quan nhà nước cấp trên; giải tán Hội đồng nhân
dân tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương trong trường hợp Hội đồng nhân dân đó làm thiệt hại
nghiêm trọng đến lợi ích của Nhân dân; Khoản 8. Quyết định thành lập, giải thể, nhập, chia, điều chỉnh
địa giới đơn vị hành chính dưới tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương; khoản 12. Phê chuẩn đề nghị bổ
nhiệm, miễn nhiệm đại sứ đặc mệnh tồn quyền của Cộng hịa xã hội chủ nghĩa Việt Nam. Đồng thời
có những điểm mới quy định ở Điều 76.
Về Đại biểu Quốc hội, Điều 82: “1. Đại biểu Quốc hội có trách nhiệm thực hiện đầy đủ nhiệm
vụ đại biểu; có quyền tham gia làm thành viên của Hội đồng dân tộc hoặc Ủy ban của Quốc
hội (Mới). 2. Uỷ ban thường vụ Quốc hội, Thủ tướng Chính phủ, Phó Thủ tướng Chính phủ, Bộ trưởng
và Thủ trưởng cơ quan ngang bộ và các cơ quan khác của Nhà nước có trách nhiệm tạo điều kiện để
đại biểu Quốc hội làm nhiệm vụ đại biểu. 3. Nhà nước bảo đảm kinh phí hoạt động của đại biểu Quốc
hội”.
Về việc Ban hành Văn bản quy phạm pháp luật: Điều 84 Hiến pháp quy định: “1. Chủ
tịch nước, Uỷ ban thường vụ Quốc hội, Hội đồng dân tộc, Uỷ ban của Quốc hội, Chính phủ, Tồ án
nhân dân tối cao, Viện kiểm sát nhân dân tối cao, Kiểm toán Nhà nước, Ủy ban trung ương Mặt trận
Tổ quốc Việt Nam và cơ quan trung ương của các tổ chức thành viên của Mặt trận có quyền trình dự
án luật trước Quốc hội, trình dự án pháp lệnh trước Ủy ban thường vụ Quốc hội. 2. Đại biểu Quốc hội
có quyền trình kiến nghị về luật, pháp lệnh và dự án luật, dự án pháp lệnh trước Quốc hội, Ủy ban
thường vụ Quốc hội”. Điều 85: “1. Luật, nghị quyết của Quốc hội phải được quá nửa tổng số đại biểu
Quốc hội biểu quyết tán thành; trường hợp làm Hiến pháp, sửa đổi Hiến pháp, quyết định rút ngắn hay
kéo dài nhiệm kỳ của Quốc hội, bãi nhiệm đại biểu Quốc hội phải được ít nhất hai phần ba tổng số đại
biểu Quốc hội biểu quyết tán thành. Pháp lệnh, nghị quyết của Ủy ban thường vụ Quốc hội phải được
quá nửa tổng số thành viên Ủy ban thường vụ Quốc hội biểu quyết tán thành. 2. Luật, pháp lệnh phải
được công bố chậm nhất là mười lăm ngày, kể từ ngày được thông qua, trừ trường hợp Chủ tịch nước
đề nghị xem xét lại pháp lệnh”.
Điểm mới thứ bảy, CHƯƠNG VI: CHỦ TỊCH NƯỚC
Đối với chế định Chủ tịch nước, Hiến pháp mới quy định từ Điều 86 đến Điều 93, trong
đó có nhiều bổ sung quan trọng về thẩm quyền của Chủ tịch nước, tương xứng với vị trí là nguyên thủ
quốc gia, người đứng đầu Nhà nước, thay mặt Nhà nước về đối nội, đối ngoại, thống lĩnh các lực
lượng vũ trang, Chủ tịch Hội đồng Quốc phòng và An ninh như quyền quyết định phong, thăng, giáng,
tước quân hàm, chức vụ, chức danh quan trọng trong lực lượng vũ trang và Tịa án. Cụ thể có các
điểm mới sau:
Điều 86: “Chủ tịch nước là người đứng đầu Nhà nước, thay mặt nước Cộng hoà xã hội chủ
nghĩa Việt Nam về đối nội và đối ngoại”.
Điều 87: “Chủ tịch nước do Quốc hội bầu trong số các đại biểu Quốc hội.
Chủ tịch nước chịu trách nhiệm và báo cáo công tác trước Quốc hội.
Nhiệm kỳ của Chủ tịch nước theo nhiệm kỳ của Quốc hội. Khi Quốc hội hết nhiệm kỳ, Chủ
tịch nước tiếp tục làm nhiệm vụ cho đến khi Quốc hội khoá mới bầu ra Chủ tịch nước”.
Điều 88: Chủ tịch nước có 6 nhiệm vụ và quyền hạn, trong đó khoản 3 của Điều này quy định
như sau: Chủ tịch nước “Đề nghị Quốc hội bầu, miễn nhiệm, bãi nhiệm Chánh án Toà án nhân dân tối
cao, Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân tối cao; căn cứ vào nghị quyết của Quốc hội bổ nhiệm, miễn
nhiệm, cách chức Thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao; bổ nhiệm, miễn nhiệm, cách chức Phó Chánh
án Tòa án nhân dân tối cao, Thẩm phán các Tịa án khác, Phó Viện trưởng, Kiểm sát viên Viện kiểm
sát nhân dân tối cao; quyết định đặc xá; căn cứ vào nghị quyết của Quốc hội công bố quyết định đại
xá;”
Điểm mới thứ tám, CHƯƠNG VII: CHÍNH PHỦ
Lần đầu tiên Hiến pháp chính thức khẳng định tính chất, vị trí của Chính phủ là cơ quan thực
hiện quyền hành pháp; nhấn mạnh và đề cao hơn tính chất, vị trí Chính phủ là cơ quan hành chính nhà
nước cao nhất của nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam. Điều 94: “Chính phủ là cơ quan hành
chính nhà nước cao nhất của nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam, thực hiện quyền hành pháp,
là cơ quan chấp hành của Quốc hội. Chính phủ chịu trách nhiệm trước Quốc hội và báo cáo công tác
trước Quốc hội, Ủy ban thường vụ Quốc hội, Chủ tịch nước”. Điều 96 Hiến pháp quy định Chính
phủ có 08 nhiệm vụ và quyền hạn. Trong đó, khẳng định vai trị hoạch định chính sách của Chính phủ,
“đề xuất, xây dựng chính sách trình Quốc hội, Ủy ban thường vụ Quốc hội quyết định hoặc quyết định
theo thẩm quyền để thực hiện nhiệm vụ, quyền hạn…” (khoản 2 Điều 96).
Quy định rõ hơn nhiệm vụ, quyền hạn của Chính phủ trong việc tổ chức thi hành Hiến pháp và
pháp luật (khoản 1 Điều 96); thi hành các biện pháp cần thiết khác để bảo vệ Tổ quốc, bảo đảm tính
mạng, tài sản của Nhân dân (khoản 3 Điều 96)…
Bên cạnh quyền trình dự án luật, Hiến pháp năm 2013 đã bổ sung quyền ban hành văn bản
pháp quy của Chính phủ như một nhiệm vụ, quyền hạn độc lập để thực hiện chức năng hành pháp:
“Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ, Bộ trưởng, Thủ trưởng cơ quan ngang bộ ban hành văn bản pháp
luật để thực hiện nhiệm vụ, quyền hạn của mình, kiểm tra việc thi hành các văn bản đó và xử lý các
văn bản trái pháp luật theo quy định của luật” (Điều 100).
Với những sửa đổi, bổ sung trên đây, quyền hành pháp của Chính phủ đã có bước đổi mới,
hoàn thiện, phù hợp với bản chất, chức năng của quyền hành pháp hiện đại.
Về mối quan hệ giữa Chính phủ với Quốc hội, Chủ tịch nước: Hiến pháp mới đã bỏ quy
định về thẩm quyền của Quốc hội quyết định chương trình xây dựng luật, pháp lệnh nhằm tạo điều
kiện cho Chính phủ chủ động, linh hoạt trong việc đề xuất xây dựng luật, pháp lệnh. Đồng thời, Hiến
pháp cũng phân định rõ hơn phạm vi chính sách và các vấn đề quan trọng do Quốc hội và Chính phủ
quyết định trong một số lĩnh vực (như Quốc hội quyết định mục tiêu, chỉ tiêu, chính sách, nhiệm vụ cơ
bản phát triển KTXH của đất nước, quyết định chính sách cơ bản về tài chính, tiền tệ quốc gia…, cịn
Chính phủ có thẩm quyền ban hành các chính sách cụ thể, biện pháp để quản lý, điều hành các lĩnh
vực); phân định rõ và phù hợp hơn nhiệm vụ, quyền hạn của Quốc hội, Chủ tịch nước, Chính phủ và
Thủ tướng Chính phủ trong việc đàm phán, ký kết, gia nhập điều ước quốc tế…
Về cơ cấu, thành phần Chính phủ: Hiến pháp sửa đổi quy định rõ “Chính phủ gồm Thủ
tướng Chính phủ, các Phó Thủ tướng Chính phủ, các Bộ trưởng và Thủ trưởng cơ quan ngang bộ” (bỏ
cụm từ “các thành viên khác” so với Hiến pháp 1992); bổ sung quy định “cơ cấu, số lượng thành viên
Chính phủ do Quốc hội quy định” để trên cơ sở đó quy định trong luật về cơ cấu, số lượng thành viên
Chính phủ.
Thủ tướng Chính phủ, trong bản Hiến pháp mới, chế định Thủ tướng Chính phủ tiếp
tục được đề cao. Tập trung thẩm quyền Thủ tướng Chính phủ trong việc lãnh đạo, điều hành Chính
phủ và hệ thống hành chính nhà nước từ Trung ương đến địa phương: Thủ tướng Chính phủ được Hiến
pháp khẳng định rõ vị trí, vai trị là người đứng đầu Chính phủ (mới bổ sung). Đồng thời, quy định rõ
hơn trách nhiệm giải trình của Thủ tướng: Chịu trách nhiệm trước Quốc hội về hoạt động của Chính
phủ và những nhiệm vụ được giao; báo cáo cơng tác của Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ trước Quốc
hội, Ủy ban thường vụ Quốc hội, Chủ tịch nước; Quy định rõ hơn nhiệm vụ và quyền hạn của Thủ
tướng đối với Chính phủ, nhất là đối với hệ thống hành chính Nhà nước: Thủ tướng “Lãnh đạo cơng
tác của Chính phủ; lãnh đạo việc xây dựng chính sách và tổ chức thi hành pháp luật”; “Lãnh đạo và
chịu trách nhiệm về hoạt động của hệ thống hành chính nhà nước từ Trung ương đến địa phương, bảo
đảm tính thống nhất và thơng suốt của nền hành chính quốc gia”. Điều 98 Hiến pháp mới quy
định Thủ tướng Chính phủ có 06 nhiệm vụ và quyền hạn cụ thể.
Bộ trưởng, Thủ trưởng cơ quan ngang bộ, Hiến pháp 2013 có một số sửa đổi, bổ sung nhằm
tăng cường vai trò, trách nhiệm cá nhân của Bộ trưởng, Thủ trưởng cơ quan ngang bộ; thể hiện rõ hơn
vị trí, nhiệm vụ, trách nhiệm của Bộ trưởng, Thủ trưởng cơ quan ngang bộ với tư cách vừa là thành
viên Chính phủ, đồng thời là một thiết chế có trách nhiệm quản lý nhà nước đối với ngành, lĩnh vực
trong phạm vi cả nước.
Cụ thể, về vị trí, vai trò của Bộ trưởng, Thủ trưởng cơ quan ngang bộ, Hiến pháp mới quy định
“Bộ trưởng, Thủ trưởng cơ quan ngang bộ là thành viên Chính phủ và là người đứng đầu bộ, cơ quan
ngang bộ, lãnh đạo công tác của bộ, cơ quan ngang bộ; chịu trách nhiệm quản lý nhà nước về ngành,
lĩnh vực được phân công” (khoản 1 Điều 99).
Về chế độ chịu trách nhiệm, Hiến pháp mới quy định rõ ràng và đầy đủ hơn: Bộ trưởng, Thủ
trưởng cơ quan ngang bộ “chịu trách nhiệm cá nhân trước Thủ tướng Chính phủ, Chính phủ và Quốc
hội về ngành, lĩnh vực được phân công phụ trách” (bổ sung chịu trách nhiệm cá nhân trước Chính
phủ); và “cùng các thành viên khác của Chính phủ chịu trách nhiệm tập thể về hoạt động của Chính
phủ” (mới bổ sung).
Về nhiệm vụ, quyền hạn, Hiến pháp sửa đổi đã bổ sung nhiệm vụ, quyền hạn của Bộ trưởng,
Thủ trưởng cơ quan ngang bộ: “tổ chức thi hành và theo dõi việc thi hành pháp luật liên quan đến
ngành, lĩnh vực trong phạm vi toàn quốc” (khoản 1 Điều 99); “ban hành văn bản pháp luật để thực
hiện nhiệm vụ, quyền hạn của mình, kiểm tra việc thi hành các văn bản đó và xử lý các văn bản trái
pháp luật theo quy định của luật” (Điều 100).
Một điểm mới rất quan trọng là Hiến pháp 2013 đã bổ sung quy định về trách nhiệm giải trình.
Bộ trưởng, Thủ trưởng cơ quan ngang bộ không chỉ chịu trách nhiệm giải trình trước Chính phủ, Thủ
tướng Chính phủ, mà cịn phải chịu trách nhiệm giải trình trước Nhân dân về những vấn đề quan trọng
thuộc trách nhiệm quản lý theo khoản 2 Điều 99.
Điểm mới thứ chín, CHƯƠNG VIII: TỊA ÁN NHÂN DÂN, VIỆN KIỂM SÁT NHÂN
DÂN
Điểm mới của Hiến pháp 2013 là khơng xác định các cấp Tịa án nhân dân và Viện Kiểm sát
nhân dân như Hiến pháp 1992 mà dành để Luật định.
Đối với Tòa án nhân dân, Hiến pháp quy định một số nguyên tắc mới trong tổ chức và hoạt
động thực hiện quyền tư pháp của Tòa án như nguyên tắc đảm bảo tranh tụng trong xét xử (khoản 5
Điều 103); chế độ xét xử sơ thẩm, phúc thẩm...
Đối với Viện Kiểm sát nhân dân, Hiến pháp mới đã đặt vai trò, nhiệm vụ bảo vệ pháp luật, bảo
vệ quyền con người, quyền công dân lên trước rồi mới đến bảo vệ chế độ xã hội chủ nghĩa (XHCN),
lợi ích của Nhà nước, quyền, lợi ích hợp pháp của tổ chức, cá nhân, coi con người là chủ thể quan
trọng, nguồn lực chủ yếu trong xây dựng nhà nước pháp quyền XHCN Việt Nam (theo khoản 3 Điều
107)
Điểm mới thứ mười, CHƯƠNG IX: CHÍNH QUYỀN ĐỊA PHƯƠNG
Kế thừa Hiến pháp 1992, Hiến pháp mới tiếp tục thực hiện ổn định các đơn vị hành chính của
nước Cộng hịa xã hội chủ nghĩa Việt Nam. “1. Các đơn vị hành chính của nước Cộng hịa xã hội chủ
nghĩa Việt Nam được phân định như sau: Nước chia thành tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương; Tỉnh
chia thành huyện, thị xã và thành phố thuộc tỉnh; thành phố trực thuộc trung ương chia thành quận,
huyện, thị xã và đơn vị hành chính tương đương; Huyện chia thành xã, thị trấn; thị xã và thành phố
thuộc tỉnh chia thành phường và xã; quận chia thành phường. Đơn vị hành chính - kinh tế đặc biệt do
Quốc hội thành lập (Mới). 2. Việc thành lập, giải thể, nhập, chia, điều chỉnh địa giới đơn vị hành
chính phải lấy ý kiến Nhân dân địa phương và theo trình tự, thủ tục do luật định” (Điều 110).
Về Chính quyền địa phương: Điều 111: “1. Chính quyền địa phương được tổ chức ở các đơn
vị hành chính của nước Cộng hịa xã hội chủ nghĩa Việt Nam. 2. Cấp chính quyền địa phương gồm có
Hội đồng nhân dân và Ủy ban nhân dân được tổ chức phù hợp với đặc điểm nông thôn, đô thị, hải đảo,
đơn vị hành chính - kinh tế đặc biệt do luật định”. Luật Chính quyền địa phương sẽ quy định cụ thể
việc tổ chức Hội đồng nhân dân và Ủy ban nhân dân phù hợp với đặc điểm nông thơn, đơ thị, hải đảo,
đơn vị hành chính - kinh tế đặc biệt sau khi có Tổng kết thí điểm không tổ chức HĐND huyện, quân,
phường”.
Như vậy, để đảm bảo tính hợp hiến, hợp pháp đối với 10 tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương
hiện nay đang thực hiện thí điểm không tổ chức Hội đồng nhân dân huyện, quận, phường theo Nghị
quyết số 26/2008/QH12 ngày 15/11/2008 của Quốc hội khố XII, kỳ họp thứ 4, thì Quốc hội khóa XIII
cần sớm có văn bản hướng dẫn, chỉ đạo cụ thể.
Về nhiệm vụ, quyền hạn của chính quyền địa phương: Điều 112 Hiến pháp mới quy định:
“1. Chính quyền địa phương tổ chức và bảo đảm việc thi hành Hiến pháp, pháp luật tại địa phương;
quyết định các vấn đề của địa phương do luật định; chịu sự kiểm tra, giám sát của cơ quan nhà nước
cấp trên. 2. Nhiệm vụ, quyền hạn của chính quyền địa phương được xác định trên cơ sở phân định
thẩm quyền giữa các cơ quan nhà nước ở trung ương và địa phương và của mỗi cấp chính quyền địa
phương. 3. Trong trường hợp cần thiết, chính quyền địa phương được giao thực hiện một số nhiệm vụ
của cơ quan nhà nước cấp trên với các điều kiện bảo đảm thực hiện nhiệm vụ đó”.
Hội đồng nhân dân, Điều 113 Hiến pháp mới quy định: “1. Hội đồng nhân dân là cơ quan
quyền lực nhà nước ở địa phương, đại diện cho ý chí, nguyện vọng và quyền làm chủ của Nhân dân
địa phương, do Nhân dân địa phương bầu ra, chịu trách nhiệm trước Nhân dân địa phương và cơ quan
nhà nước cấp trên. 2. Hội đồng nhân dân quyết định các vấn đề của địa phương do luật định; giám sát
việc tuân theo Hiến pháp và pháp luật ở địa phương và việc thực hiện nghị quyết của HĐND”.
Uỷ ban nhân dân, Điều 114 Hiến pháp mới quy định: “1. Uỷ ban nhân dân ở cấp chính
quyền địa phương do Hội đồng nhân dân cùng cấp bầu là cơ quan chấp hành của Hội đồng nhân dân,
cơ quan hành chính nhà nước ở địa phương, chịu trách nhiệm trước Hội đồng nhân dân và cơ quan
hành chính nhà nước cấp trên. 2. Uỷ ban nhân dân tổ chức việc thi hành Hiến pháp và pháp luật ở địa
phương; tổ chức thực hiện nghị quyết của Hội đồng nhân dân và thực hiện các nhiệm vụ do cơ quan
nhà nước cấp trên giao”.
Điểm mới thứ mười một, CHƯƠNG X: HỘI ĐỒNG BẦU CỬ Q́C GIA, KIỂM TỐN
NHÀ NƯỚC
Lần đầu tiên Hiến pháp mới quy định 2 thiết chế mới là Hội đồng bầu cử quốc gia và Kiểm
toán Nhà nước. Hội đồng bầu cử quốc gia có nhiệm vụ tổ chức bầu cử đại biểu Quốc hội, chỉ đạo và
hướng dẫn bầu cử đại biểu HĐND các cấp (Điều 117). Kiểm toán Nhà nước thực hiện kiểm toán việc
quản lý, sử dụng tài chính, tài sản cơng của đất nước (Điều 118). Các thiết chế này sẽ khắc phục những
hạn chế trong công tác bầu cử thời gian qua; kiểm tra, kiểm kê, kiểm soát việc quản lý và sử dụng ngân
sách Nhà nước, tài sản quốc gia. Đây được xem là cơng cụ quan trọng để góp phần phát huy dân chủ,
thực hiện nguyên tắc tất cả quyền lực nhà nước thuộc về nhân dân.
Điểm mới thứ mười hai, CHƯƠNG XI. HIỆU LỰC CỦA HIẾN PHÁP VÀ VIỆC SỬA
ĐỔI HIẾN PHÁP
Hiến pháp mới đã có các quy định cụ thể về hiệu lực và quy trình thủ tục làm và sửa đổi Hiến
pháp; thể hiện tính chất dân chủ và pháp quyền của Nhà nước ta ngày càng hoàn thiện và phát triển.
Điều 119 Hiến pháp 2013 khẳng định đây là Bộ luật cơ bản của nước Cộng hoà xã hội chủ
nghĩa Việt Nam, có hiệu lực pháp lý cao nhất. Mọi văn bản pháp luật khác phải phù hợp với Hiến
pháp. Mọi hành vi vi phạm Hiến pháp đều bị xử lý. Quốc hội, các cơ quan của Quốc hội, Chủ tịch
nước, Chính phủ, Tịa án nhân dân, Viện kiểm sát nhân dân, các cơ quan khác của Nhà nước và tồn
thể Nhân dân có trách nhiệm bảo vệ Hiến pháp. “Quốc hội quyết định việc làm Hiến pháp, sửa đổi
Hiến pháp khi có ít nhất hai phần ba tổng số đại biểu Quốc hội biểu quyết tán thành. Quốc hội thành
lập Ủy ban dự thảo Hiến pháp. Ủy ban dự thảo Hiến pháp soạn thảo, tổ chức lấy ý kiến Nhân dân và
trình Quốc hội dự thảo Hiến pháp. Hiến pháp được thơng qua khi có ít nhất hai phần ba tổng số đại
biểu Quốc hội biểu quyết tán thành. Việc trưng cầu ý dân về Hiến pháp do Quốc hội quyết định (Điều
120)./.
ThS. Nguyễn Tiến Việt
Trường Đào tạo Cán bộ Lê Hồng Phong Hà Nộ