Tải bản đầy đủ (.pdf) (113 trang)

ĐỜI SỐNG VĂN HÓA CỦA SINH VIÊN ĐẠI HỌC MỎ - ĐỊA CHẤT HIỆN NAY

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.04 MB, 113 trang )

HỌC VIỆN CHÍNH TRỊ QUỐC GIA HỒ CHÍ MINH

NGUYỄN KIM CHUNG

ĐỜI SỐNG VĂN HÓA CỦA SINH VIÊN
ĐẠI HỌC MỎ - ĐỊA CHẤT HIỆN NAY
Chuyên ngành

: Văn hóa học

Mã số

: 60 31 06 04

LUẬN VĂN THẠC SĨ VĂN HÓA HỌC

Người hướng dẫn khoa học: TS. VŨ THỊ PHƯƠNG HẬU

HÀ NỘI - 2014


LỜI CAM ĐOAN

Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu riêng của
bản thân, dưới sự hướng dẫn của TS. Vũ Thị Phương Hậu.
Các số liệu, kết quả trong luận văn là trung thực. Những kết
luận khoa học của Luận văn chưa từng được công bố trong
bất kỳ công trình nào.
Tôi chịu trách nhiệm hoàn toàn về lời cam đoan này!

Tác giả



Nguyễn Kim Chung


MỤC LỤC
Trang
MỞ ĐẦU

1

Chương 1: MỘT SỐ KHÁI NIỆM VỀ VĂN HÓA VÀ KHÁI QUÁT VỀ SINH
VIÊN SINH VIÊN TRƯỜNG ĐẠI HỌC MỎ - ĐỊA CHẤT

1.1. Một số khái niệm

8
8

1.2. Khái quát về Trường Đại học Mỏ - Địa chất và đặc điểm sinh
viên Trường Đại học Mỏ - Địa chất

21

1.3. Vai trò của đời sống văn hóa đối với việc học tập và rèn luyện
của sinh viên Trường Đại học Mỏ - Địa chất

28

Chương 2: THỰC TRẠNG ĐỜI SỐNG VĂN HÓA SINH VIÊN TRƯỜNG
ĐẠI HỌC MỎ - ĐỊA CHẤT


37

2.1. Nhận thức về đời sống văn hóa sinh viên Trường Đại học Mỏ Địa chất

37

2.2. Thực trạng các thiết chế văn hóa phục vụ đời sống văn hóa sinh
viên của Trường Đại học Mỏ - Địa chất

43

2.3. Thực trạng các hoạt động văn hóa của sinh viên Trường Đại học
Mỏ - Địa chất

51

Chương 3: PHƯƠNG HƯỚNG VÀ GIẢI PHÁP XÂY DỰNG ĐỜI SỐNG
VĂN HOÁ SINH VIÊN ĐẠI HỌC MỎ - ĐỊA CHẤT TRONG
THỜI GIAN TỚI

3.1. Những nhân tố tác động đến đời sống văn hóa sinh viên

74
74

3.2. Phương hướng và giải pháp xây dựng đời sống văn hóa của sinh
viên Đại học Mỏ - Địa chất

87


KẾT LUẬN

103

DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO

105

PHỤ LỤC


DANH MỤC CÁC BẢNG TRONG LUẬN VĂN

Trang
Bảng 1.1: Sinh viên trường Đại học Mỏ - Địa chất

27

Bảng 2.1: Kết quả đánh giá của sinh viên về mức độ quan tâm của
Nhà trường tới đời sống văn hóa của sinh viên

41

Bảng 2.2: Nhận thức của sinh viên Đại học Mỏ - Địa chất về đời sống
văn hóa
Bảng 2.3: Các hoạt động Văn – Thể được tổ chức tại Trường

43
52


Bảng 2.4: Kết quả học tập của sinh viên Đại học Mỏ - Địa chất trong
3 năm gần đây

53

Bảng 2.5: Nhu cầu thưởng thức và tiêu dùng sản phẩm văn hóa của
sinh viên Đại học Mỏ - Địa chất

63

Bảng 2.6: Những biểu hiện tiêu cực trong nhà trường

67

DANH MỤC CÁC SƠ ĐỒ, BIỂU ĐỒ TRONG LUẬN VĂN

Trang
Sơ đồ 1.1: hệ thống tổ chức quản lý trường Đại học Mỏ - Địa chất

22

Biểu đồ 2.1: Các thiết chế văn hóa trong trường Đại học Mỏ - Địa chất

44

Biểu đồ 2.2: Các phương tiện chủ yếu để sinh viên thưởng thức các
sản phẩm văn hóa nghe nhìn

65



1
MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Ở bất kỳ thời đại nào, con người bao giờ cũng là chủ thể đích thực
sáng tạo ra lịch sử, là trung tâm của mọi sự phát triển xã hội. Thời đại ngày
nay, chiến lược phát triển nguồn lực con người với tư cách là động lực của sự
phát triển đang là vấn đề được quan tâm hàng đầu của các quốc gia, dân tộc
trên thế giới. Trong đường lối cách mạng Việt nam, Đảng ta khẳng định: con
người vừa là mục tiêu vừa là động lực thúc đẩy phát triển kinh tế xã hội. Đảng
chủ trương lấy việc phát huy nguồn lực con người làm yếu tố cơ bản cho sự
phát triển nhanh và bền vững. Quan điểm này đã đặt ra cho quá trình phát
triển nguồn nhân lực ở nước ta nhiều nhiệm vụ to lớn mới mẻ, đặc biệt là việc
chăm lo giáo dục thế hệ trẻ Nghị quyết Đại hội đại biểu Toàn quốc lần thứ XI
của Đảng mới đây đã khẳng định chủ trương
Tập trung xây dựng đời sống, lối sống và môi trường văn hóa lành
mạnh; coi trọng văn hóa trong lãnh đạo, quản lý, văn hóa trong kinh
doanh và văn hóa trong ứng xử. Chú trọng xây dựng nhân cách con
người Việt Nam về lý tưởng, trí tuệ, đạo đức và lối sống, thể chất,
lòng tự tôn dân tộc, trách nhiệm xã hội, ý thức chấp hành pháp luật,
nhất là trong thế hệ trẻ [21].
Đây là một trong những định hướng có ý nghĩa rất quan trọng đối với
mọi hoạt động văn hóa ở nước ta hiện nay. Trong đó, xây dựng đời sống văn
hóa cho thanh niên, sinh viên là nhiệm vụ rất cấp bách bởi vì vấn đề hiện đại
hóa đất nước chính là hiện đại hóa thế hệ trẻ.
Hiện cả nước có hơn 230 trường đại học và cao đẳng, với tổng số hơn
một triệu sinh viên. Việc quan tâm xây dựng đời sống văn hóa cho sinh viên
trong hệ thống nhà trường có vị trí hết sức quan trọng đối với quá trình xây
dựng, phát triển đội ngũ trí thức trẻ, đáp ứng yêu cầu đẩy mạnh công nghiệp

hóa, hiện đại hóa đất nước. Xây dựng đời sống có văn hóa cho thế hệ trẻ nói
chung và thanh niên sinh viên nói riêng là góp phần thực hiện quan điểm của


2
Đảng: Văn hóa là nền tảng tinh thần của xã hội, vừa là mục tiêu là động lực
để phát triển kinh tế - xã hội ở nước ta.
Trong xu thế phát triển và hội nhập quốc tế, thanh niên, sinh viên đang
đứng trước những thời cơ, thuận lợi nhưng cũng phải sẵn sàng đối mặt với
những thách thức, khó khăn. Việc tiếp thu những thành tựu khoa học công
nghệ tiên tiến trên thế giới và mở rộng giao lưu hội nhập quốc tế đã giúp
thanh niên, sinh viên có nhận thức, tư duy phát triển, thị hiếu thẩm mỹ nâng
lên, sống có văn hóa và biết tôn trọng kỷ cương xã hội. Tuy nhiên, đồng thời
với thành tựu của sự phát triển là mặt trái của cơ chế thị trường đã tác động
không nhỏ, ảnh hưởng không nhỏ tới môi trường sống của toàn xã hội, đặc
biệt là đời sống văn hóa của thanh niên, sinh viên, do vậy nhu cầu hưởng thụ
văn hóa và tham gia các hoạt động văn hóa của thanh niên, sinh viên cũng có
rất nhiều biến đổi theo chiều hướng tích cực và tiêu cực.
Trường Đại học Mỏ - Địa chất là một trường đại học chuyên ngành
lớn mang tính chất kỹ thuật đặc thù được nằm ở Thủ đô Hà Nội - Trung tâm
văn hóa, chính trị và kinh tế của cả nước. Với tỉ lệ sinh viên nam chiếm khá
đông. Phần lớn sinh viên Đại học Mỏ - Địa chất hiện nay vẫn giữ được truyền
thống văn hóa dân tộc, phẩm chất tốt đẹp của cha ông ta như “tôn sư trọng
đạo”, hiếu học, kính thầy, yêu bạn, lối sống giản dị, chăm chỉ. Tuy nhiên vẫn
còn một bộ phận không nhỏ sinh viên chỉ quan tâm đến bản thân và nhu
cầu trước mắt, sống thực dụng, kém ý chí vươn lên, học đòi lối sống xa
hoa, hưởng thụ, thiếu trung thực trong học tập, tha hóa nhân cách, sa vào tệ
nạn xã hội.
Theo số liệu báo cáo hàng năm của Phòng Công tác chính trị - Sinh
viên từ năm 2007 đến nay đã xử lý kỷ luật 1458 sinh viên vi phạm nội quy,

quy chế nhà trường, trong đó kỷ luật khiển trách 266 sinh viên, cảnh cáo
toàn trường 1186 sinh viên; đình chỉ học tập vì vi phạm nội quy 08 sinh
viên. Số sinh viên bị đình chỉ học tập vì điểm kém từ năm 2009 đến nay là
758 sinh viên.


3
Từ năm 2003 đến nay tại Ký túc xá của Trường đã xảy ra 02 vụ án
mạng nghiêm trọng giữa các sinh viên của trường chỉ vì những xích mích rất
nhỏ trong sinh hoạt hàng ngày, 02 vụ sinh viên tổ chức đánh bài ăn tiền trong
ký túc xá. Đó là những biểu hiện suy thoái về lối sống văn hóa của sinh viên
Trường Đại học Mỏ - Địa chất trong những năm gần đây. Thực tế này đòi hỏi
cần phải tăng cường giáo dục nếp sống, lối sống văn hóa và đạo đức cho
thanh niên, sinh viên, cuốn hút sinh viên tham gia xây dựng đời sống văn hóa
lành mạnh, phòng chống hiệu quả các tệ nạn xã hội định hướng để sinh viên
phấn đấu rèn luyện theo chuẩn mực “vừa hồng vừa chuyên” như Bác Hồ kính
yêu đã dạy.
Xuất phát từ những lý do trên, tôi chọn đề tài “Đời sống văn hóa của
sinh viên Đại học Mỏ - Địa chất hiện nay” làm luận văn tốt nghiệp hệ đào
tạo Thạc sỹ chuyên ngành Văn hóa học. Với mục đích nghiên cứu một cách
tổng thể và đề xuất những giải pháp có tính khả thi nhằm nâng cao đời sống
văn hóa cho sinh viên Trường Đại học Mỏ - Địa chất trong thời gian tới.
2. Tình hình nghiên cứu liên quan đến đề tài
Đời sống văn hóa là một đề tài được rất nhiều nhà nghiên cứu văn hóa
quan tâm. Có thể thấy trong những công trình nghiên cứu gần đây được công
bố dưới hình thức luận văn, luận án, sách, bài viết tạp chí, cũng có khá nhiều
tác giả đã đề cập đến vấn đề đời sống văn hóa và việc xây dựng đời sống văn
hóa trong bối cảnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước. Cụ thể: cuốn “Xây
dựng đời sống văn hóa ở cơ sở” do Viện Văn hóa, Nhà xuất bản Văn hóa
thông tin xuất bản năm 1984 là một công trình tập trung vào việc nghiên cứu

về văn hóa, chính sách đã góp phần không nhỏ vào việc nâng cao nhận thức,
cũng như định hướng phát triển đời sống văn hóa ở cơ sở. Tiếp đó là hàng
loạt những công trình như “Khái niệm về văn hóa” (1986) của Viện Văn hóa.
“Đời sống văn hóa ở cơ sở thực trạng và những vấn đề cần giải quyết"
(1991), “Lối sống trong đời sống đô thị hiện nay” (1993) của Viện Văn hóa
xuất bản đều là những công trình đề cập đến nhiều mặt của đời sống văn hóa


4
nói chung. Một số các tác giả khác như: Nguyễn Viết Chức “Xây dựng tư
tưởng, đạo đức lối sống và đời sống văn hóa ở thủ đô Hà Nội trong thời kỳ
đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước” (2001). GS Vũ Khiêu
“Văn hóa Việt Nam xã hội và con người” (2005)... Những công trình nghiên
cứu về văn hóa và đời sống văn hóa trên đây thực sự là một nguồn tư liệu quý
giá góp phần đặt nền móng cho việc nghiên cứu về đời sống văn hóa của
thanh niên, sinh viên sau này.
Về văn hóa của thanh niên nói chung, cũng đã có rất nhiều công
trình nghiên cứu được công bố dưới dạng các cuốn sách, các luận văn, luận
án như: “Văn hóa với thanh niên, thanh niên với văn hóa. Một số vấn đề lý
luận và thực tiễn” của Ban Tư tưởng - Văn hóa Trung ương (2002); “Văn
hóa thanh niên và thanh niên với văn hóa dân tộc” của tác giả Dương Tự
Đam (2001) “Văn hóa thanh niên trong quá trình hội nhập quốc tế của
thanh niên" (2002) và “Xã hội học thanh niên” do Đặng Cảnh Khanh thực
hiện năm (2006). Đây là các công trình nghiên cứu chuyên sâu về các vấn
đề lý luận và thực tiễn căn bản nhất liên quan đến văn hóa thanh niên Việt
Nam với tính cách là một nhóm xã hội không đồng nhất, trong đó định
hướng giá trị, văn hóa, cấu trúc của thanh niên và phong trào thanh niên đã
được phân tích trong mối liên hệ tương tác đa chiều với một số yếu tố kinh
tế, xã hội, văn hóa....
Xung quanh vấn đề giáo dục thanh niên, sinh viên và xây dựng đời sống

văn hóa cho thanh niên, sinh viên đã có những Hội thảo được tổ chức như:
- Hội thảo “Bồi dưỡng lý tưởng cách mạng cho thanh niên giai đoạn
hiện nay”, do Đảng ủy khối cơ quan Trung ương về công tác tư tưởng tổ
chức, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2005.
- Hội thảo “Đời sống văn hóa sinh viên - Thực trạng và giải pháp” do
Ban Tư tưởng văn hóa Trung ương phối hợp với Bộ Giáo dục và Đào tạo, Bộ
Văn hóa - Thông tin tổ chức tháng 4/2007.


5
- Hội thảo khoa học toàn quốc “Văn hóa học đường, Lý luận và thực
tiễn” do Hội Khoa học tâm lý giáo dục Việt Nam phối hợp với UBND tỉnh
Tiền Giang tổ chức tháng 3/2009.
Về đời sống văn hóa của thanh niên và sinh viên cũng đã có những
công trình tiêu biểu như: “Thực trạng và giải pháp nâng cao đời sống văn hóa
của thanh niên hiện nay” - Đề tài nghiên cứu khoa học của tác giả Vũ Việt Hùng
(2003); “Nghiên cứu thực trạng và đề xuất giải pháp xây dựng lối sống văn hóa
của thanh niên các trường đại học, cao đẳng Thủ đô Hà Nội trong giai đoạn
hiện nay” của tác giả Lê Cao Thắng (2008); “Đời sống văn hóa tinh thần của
sinh viên Học viện báo chí và tuyên truyền” hiện nay của tác giả Nguyễn Thị
Quỳnh Giang; “Đời sống văn hóa sinh viên các trường văn hóa nghệ thuật trên
địa bàn Thành phố Hà Nội” của tác giả Đinh Lan Hương (2010); “Đời sống văn
hóa thanh niên đô thị” của PGS.TS Nguyễn Thị Hương - Viện Văn hóa và phát
triển - Học viện Chính trị - Hành chính Quốc gia Hồ Chí Minh.
Có thể nói, qua các công trình nghiên cứu, các cuộc hội thảo, các cuốn
sách, bài viết trên, tác giả đã đề cập đến những vấn đề cốt lõi liên quan đến
đời sống văn hóa trong sinh viên hiện nay, như môi trường văn hóa, lối sống
văn hóa, đời sống tinh thần, các mối quan hệ trong xã hội, nhưng chưa có
công trình nào đi sâu nghiên cứu về đời sống văn hóa sinh viên của một
trường đại học nằm trong khối kỹ thuật cụ thể là Trường Đại học Mỏ - Địa

chất. Vì vậy luận văn này sẽ khai thác những khía cạnh về đời sống văn hóa
sinh viên nói chung cũng như sẽ có những đóng góp riêng mang tính đặc
trưng của sinh viên Đại học Mỏ - Địa chất.
3. Mục đích, nhiệm vụ nghiên cứu của luận văn
3.1 Mục đích
Trên cơ sở hệ thống những vấn đề lý luận về đời sống văn hóa, khảo
sát thực trạng đời sống văn hóa sinh viên Đại học Mỏ - Địa chất, luận văn đề
xuất phương hướng, giải pháp nhằm nâng cao đời sống văn hóa cho sinh viên
Đại học Mỏ - Địa chất, góp phần xây dựng con người nói chung và sinh viên
nói riêng phát triển toàn diện Trí - Đức - Thể - Mỹ.


6
3.2. Nhiệm vụ
- Làm rõ một số khái niệm cơ bản liên quan đến đời sống văn hóa sinh
viên, coi đó là công cụ nghiên cứu các vấn đề ở nội dung và làm rõ một số
đặc điểm của sinh viên Đại học Mỏ - Địa chất.
- Phân tích vai trò của đời sống văn hóa đối với sinh viên nước ta hiện nay.
- Phân tích thực trạng đời sống văn hóa của sinh viên Đại học Mỏ Địa chất hiện nay và những vấn đề đặt ra.
- Đề xuất các giải pháp để nâng cao đời sống văn hóa cho sinh viên
Đại học Mỏ - Địa chất giai đoạn hiện nay.
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu của luận văn
- Đối tượng nghiên cứu của luận văn: Đời sống văn hóa sinh viên
Trường Đại học Mỏ - Địa chất giai đoạn hiện nay.
- Phạm vi nghiên cứu luận văn: Phạm vi nghiên cứu luận văn là đời
sống văn hóa cho sinh viên Trường Đại học Mỏ - Địa chất tại cơ sở đào tạo
Hà Nội.
- Thời gian nghiên cứu trong 3 năm gần đây (tính theo năm học từ
2010-2-11; 2011-2012; 2012 - 2013)
5. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu của luận văn

5.1. Cơ sở lý luận
Thực hiện bản luận văn này tác giả dựa trên cơ sở của chủ nghĩa duy
vật biện chứng và chủ nghĩa duy vật lịch sử, tư tưởng Hồ Chí Minh và quan
điểm của Đảng Cộng sản Việt Nam về văn hóa và đời sống văn hóa. Ngoài ra
tác giả luận văn có tham khảo, kế thừa các thành tựu của các công trình
nghiên cứu đã được công bố có liên quan đến đề tài.
5.2 Phương pháp nghiên cứu
Tác giả sử dụng những phương pháp nghiên cứu sau để thực hiện mục
đích và nhiệm vụ của luận văn đã đề ra.
- Phương pháp tra cứu tài liệu
- Phương pháp khảo sát thực tế
- Phương pháp phân tích tổng hợp


7
- Phương pháp thống kê
- Phương pháp điều tra xã hội học.
6. Những đóng góp về khoa học của luận văn
Những kết quả mà luận văn đạt được có thể làm tài liệu tham khảo cho
việc nghiên cứu, giảng dạy hoặc tài liệu giúp các nhà quản lý, hoạch định chính
sách phục vụ công tác chỉ đạo, xây dựng đời sống văn hóa ở trong nhà trường.
7. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của luận văn
- Luận văn làm rõ một số vấn đề lý luận liên quan đến đời sống văn hóa
của sinh viên nói chung và đời sống văn hóa của sinh viên Trường Đại học Mỏ Địa chất nói riêng
- Góp phần làm sáng tỏ tầm quan trọng của việc xây dựng đời sống
văn hóa cho sinh viên Đại học Mỏ - Địa chất giai đoạn hiện nay.
- Trên cơ sở khái quát thực trạng đời sống văn hóa sinh viên Đại học
Mỏ - Địa chất, bước đầu đề xuất những giải pháp khả thi nhằm nâng cao đời
sống văn hóa cho sinh viên Đại học Mỏ - Địa chất giai đoạn hiện nay.
8. Kết cấu của luận văn

Ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo và phụ lục,
nội dung của luận văn gồm 3 chương, 8 tiết.


8
CHƯƠNG 1
MỘT SỐ KHÁI NIỆM VỀ VĂN HÓA VÀ KHÁI QUÁT VỀ SINH VIÊN
TRƯỜNG ĐẠI HỌC MỎ - ĐỊA CHẤT
1.1. MỘT SỐ KHÁI NIỆM

1.1.1. Khái niệm văn hóa
Khái niệm văn hóa theo các nhà nghiên cứu văn hóa ở Phương Tây
có nguồn gốc từ tiếng La tinh culture nghĩa gốc chỉ sự trồng trọt, canh tác
nông nghiệp. Sau được hiểu thành trau dồi, bồi dưỡng giáo dục con người
(trồng người). Trong thời kỳ cận hiện đại, văn hóa được sử dụng phổ biến
để chỉ trình độ học vấn, tri thức. Ở phương Đông, văn hóa được hiểu như
một khái niệm chỉ các phong tục tập quán, lễ hội, nhân cách, sáng tác
nghệ thuật…
Trong quan niệm Mác-xít, văn hóa là những biến đổi của bản thân con
người với tư cách là sự hình thành lịch sử hiện thực của con người; văn hóa
xuất hiện từ lao động, hiện ra như một nhiệm vụ thực tiễn biến đổi các quan
hệ qua lại giữa con người với thế giới và giữa con người với nhau. Văn hóa
theo quan điểm Mác-xít được biểu hiện như một qua trình biến con người
thành chủ thể của sự vận động lịch sử và trở thành một cá nhân toàn vẹn.
Con người không phải tự nhiên mà có văn hóa, văn hóa có được nhờ quá
trình tu dưỡng, tự kỷ luật với bản thân , chế ngự các bản năng tự nhiên, vốn có
của con người. Giáo sư Klaus P.Hansen, Cộng hòa Liên bang Đức cho rằng:
Văn hóa có nghĩa là sự thay đổi tự nhiên bên ngoài và bên trong một
cách toàn diện bởi lao động… Văn hóa không chỉ có nghĩa là sự thay đổi của
cái bên ngoài, cảnh quan tự nhiên nhờ con người mà nó trở thành cảnh quan

văn hóa - mà còn đồng thời thay đổi cái tự nhiên bên trong, như là cái tự
nhiên trong bản thân con người. Văn hóa có nghĩa là sự thuần hóa, sự chế ngự
các niềm say đắm hay nói một cách hiện đại hơn, là kỷ luật hóa bản năng,
ham muốn và tính vị kỷ của con người.


9
Vào thế kỷ XIX, từ văn hóa được những nhà nhân học phương Tây sử
dụng như một thuật ngữ khoa học. Họ cho rằng bản chất văn hóa hướng về trí
lực và sự vươn lên, sự phát triển này tạo thành văn minh. Edward B.Taylor là
đại diện của họ. Nhà nghiên cứu văn hóa người Anh này đã đưa ra một định
nghĩa văn hóa gây chú ý rằng:
“Trong ý nghĩa nhân học xa nhất, văn hóa là sự tổng hòa của tri thức,
niềm tin, nghệ thuật, đạo đức, luật pháp, phong tục và tất cả mọi thói quen và
khả năng còn lại, mà con người với tư cách là thành viên của xã hội đã chiếm
lĩnh được” [42].
Hiện nay, UNESCO đang nhìn nhận văn hóa với một ý nghĩa rộng
hơn, coi văn hóa như một phức thể, tổng thể các đặc trưng, diện mạo về tinh
thần, vật chất, tri thức, tình cảm… khắc họa nên bản sắc của một cộng đồng
gia đình, xóm làng, vùng miền, quốc gia, xã hội. Năm 1988, khi phát động
thập kỷ thế giới phát triển văn hóa, Tổng Giám đốc UNESCO Federico
Mayor đã đưa ra một định nghĩa:
“Văn hóa là tổng thể sống động các hoạt động sáng tạo của cá nhân
và cộng đồng trong quá khứ và trong hiện tại. Qua các thế kỷ, hoạt động sáng
tạo ấy đã hình thành nên một hệ thống các giá trị, các truyền thống và thị hiếu
- những yếu tố xác định đặc tính riêng của mỗi dân tộc” [27].
Hồ Chí Minh, trong quan niệm về văn hóa của mình đã khẳng định: Văn
hóa là toàn bộ những gì do con người sáng tạo ra, ở đâu có con người, quan hệ
giữa con người với con người thì ở đó có văn hóa. Văn hóa là sự tổng hợp của
nhiều bộ phận, nhiều yếu tố cấu thành, bao gồm: ngôn ngữ, chữ viết, đạo đức,

pháp luật, khoa học, tôn giáo, văn học và các loại hình nghệ thuật; văn hóa còn là
sự tổng hợp của mọi phương thức sinh hoạt cùng với biểu hiện của nó; văn hóa
còn là sự tổng hợp của các phương thức, cách thức sản xuất vật chất, sáng tạo ra
vật chất và các phương thức, cách thức sản xuất, sáng tạo tinh thần [40].
Cũng có thể tiếp cận từ góc đô văn hóa học với quan niệm: Văn hóa là
tổng thể sống động các hoạt động sáng tạo (của các cá nhân và cộng đồng)


10
trong quá khứ và hiện tại. Qua các thế kỷ, hoạt động sáng tạo ấy đã hình
thành nên hệ thống các giá trị, các truyền thống và thị hiếu - những yếu tố xác
định đặc tính riêng của mỗi dân tộc; mà văn hóa còn là môi trường - môi
trường trong đó con người vừa với tư cách là sản phẩm và chủ thể của mọi
sáng tạo.
Do đó, quan niệm về văn hóa phải trên cơ sở quan niệm ở cả hai
phương diện: một là, văn hóa gắn với sự thể hiện, phát huy, giải phóng “năng
lực bản chất người” trong tất cả mọi dạng hoạt động và quan hệ của con người,
văn hóa xuất hiện trong mọi lĩnh vực của đời sống xã hội. Hai là, văn hóa bao
gồm thế giới các giá trị được kết tinh trong những sản phẩm của hoạt động của
con người. Đây là phương diện hết sức cơ bản và quan trọng, quy định đặc điểm
về nội dung và quy luật phát triển có tính đặc thù của văn hóa và đời sống văn
hóa. Văn hóa là tổng hòa các giá trị mà con người sáng tạo ra trong suốt quá
trình hoạt động thực tiễn lịch sử - xã hội của mình, có quan hệ bản chất với khái
niệm giá trị, ngôn ngữ, biểu tượng, phong tục, tập quán, chuẩn mực, cũng như tư
tưởng, đạo đức, lối sống… của một chủ thể (cộng đồng, dân tộc).
Nghị quyết Hội nghị lần thứ 5 Ban chấp hành Trung ương Đảng khóa
VIII “về xây dựng và phát triển nền văn hóa Việt Nam tiên tiến, đậm đà bản
sắc dân tộc” đã nêu rõ:
Văn hóa Việt Nam là thành quả hàng ngàn năm lao động sáng tạo,
đấu tranh kiên cường dựng nước và giữ nước của cộng đồng các dân

tộc Việt Nam; là kết quả giao lưu và tiếp thu tinh hoa của nhiều nền
văn minh trên thế giới để không ngừng hoàn thiện mình. Văn hóa
Việt Nam đã hun đúc nên tâm hồn, khí phách, bản lĩnh Việt Nam,
làm rạng rỡ lịch sử vẻ vang của dân tộc [18].
Như vậy, có thể hiểu, văn hóa là toàn bộ giá trị vật chất và tinh thần
do con người sáng tạo ra trong quá khứ và hiện tại nhằm thỏa mãn nhu cầu
của cuộc sống và không ngừng vươn tới cái Chân - Thiện - Mỹ từ đó hình
thành nên những sắc thái riêng của mỗi dân tộc, mỗi cộng đồng.


11
1.1.2. Khái niệm đời sống văn hóa, sinh viên và đời sống văn hóa
sinh viên
1.1.2.1. Đời sống văn hóa
Có thể nói rằng, thuật ngữ “đời sống văn hóa” hiện nay đang được sử
dụng rất nhiều trên các phương tiện thông tin đại chúng, nhưng để đưa ra một
định nghĩa thực sự về “đời sống văn hóa” là gì thì cho đến nay vẫn chưa có
một định nghĩa nào thật hoàn chỉnh. Dưới nhiều góc nhìn khác nhau, các cách
tiếp cận khác nhau mà các nhà nghiên cứu đã đưa ra một số quan niệm khác
nhau về “đời sống văn hóa”.
Nói đến đời sống văn hóa là nói đến một lĩnh vực trong đời sống của
con người. Theo Đại từ điển tiếng Việt do Nguyễn Như Ý chủ biên, đời sống
được định nghĩa là “hoạt động của con người về một lĩnh vực nào đó nói
chung” [63]. Theo Từ điển bách khoa mở, thì ngoài nghĩa nói trên, đời sống còn
được hiểu là phương tiện để sống, lối sống, lối sống của cá nhân hay tập thể (đời
sống xa hoa, đời sống cần kiệm…). Đời sống của con người bao gồm rất nhiều
lĩnh vực khác nhau, nhưng có liên quan mật thiết với nhau, chẳng hạn như: đời
sống kinh tế, đời sống chính trị, đời sống xã hội, đời sống văn hóa…
Theo GS. Hoàng Vinh:
Đời sống văn hóa là bộ phận của đời sống xã hội, bao gồm các yếu

tố văn hóa tĩnh tại (các sản phẩm văn hóa vật thể, các thiết chế văn
hóa) cũng như các yếu tố văn hóa động thái (con người và các dạng
hoạt động văn hóa của nó). Xét về một phương diện khác, đời sống
văn hóa bao gồm các hình thức văn hóa hiện thực và cả các hình
thức sinh hoạt văn hóa tâm linh [61].
PGS.TS. Nguyễn Hữu Thức có đưa ra một định nghĩa khác:
Đời sống văn hóa được hiểu một cách khái quát là hiện thực sinh
động các hoạt động của con người trong môi trường sống để duy trì
đồng thời tái tạo sản phẩm văn hóa vật chất, văn hóa tinh thần theo
những giá trị và chuẩn mực xã hội nhất định nhằm không ngừng tác


12
động, biến đổi tự nhiên, xã hội và đáp ứng nhu cầu đổi mới, nâng
cao chất lượng sống của chính con người [43].
Tiếp cận theo quan niệm của Chủ tịch Hồ Chí Minh, lĩnh vực văn hóa
có thể được hiểu như sau: “Trong công cuộc kiến thiết nước nhà, có bốn vấn
đề cần chú ý, cũng phải coi là quan trọng ngang nhau; chính trị, kinh tế, xã
hội, văn hóa. Nhưng văn hóa là một kiến trúc thượng tầng” (Báo Cứu quốc, số
ra ngày 8/10/1945). Bởi vì Người cho rằng phải xây dựng kinh tế, xây dựng
cơ sở hạ tầng thì mới có nền tảng, có điều kiện để xây dựng và phát triển văn
hóa. Người cho rằng:
Muốn tiến lên chủ nghĩa xã hội thì phải phát triển kinh tế và văn
hóa. Vì sao không nói phát triển văn hóa và kinh tế? Tục ngữ ta có
câu: Có thực mới vực được đạo; vì thế kinh tế phải đi trước. Nhưng
phát triển để làm gì? Phát triển kinh tế và văn hóa để nâng cao đời
sống vật chất và văn hóa của nhân dân ta [40].
Qua quan niệm này, có thể thấy rằng, người coi đời sống văn hóa là
đời sống tinh thần.
Trong Nghị quyết Trung ương 5 khóa VIII, Đảng cộng sản Việt Nam

cũng cho rằng: văn hóa là đời sống tinh thần của xã hội, “Văn hóa là nền tảng
tinh thần của xã hội, vừa là mục tiêu, vừa là động lực thúc đẩy sự phát triển
kinh tế xã hội” [18]. Điều này cũng được khẳng định trong Văn kiện Đại hội
Đại biểu toàn quốc lần thứ XI của Đảng: “Xử lý tốt mối quan hệ giữa kinh tế
và văn hóa để văn hóa thực sự là nền tảng tinh thần của xã hội, là một động
lực phát triển kinh tế - xã hội và hội nhập quốc tế” [21].
Cũng có những nhà nghiên cứu về văn hóa cho rằng đời sống văn hóa
thuộc đời sống tinh thần mà đời sống tinh thần được coi là một lĩnh vực hoạt
động của đời sống con người và giữa các lĩnh vực hoạt động của đời sống con
người có mối quan hệ biện chứng không thể tách rời nhau.
Cá nhân tác giả đồng tình với quan điểm cho rằng đời sống văn hóa
thuộc đời sống tinh thần hay nói cách khác đời sống văn hóa là “một vệ tinh”


13
của đời sống tinh thần. Từ quan điểm trên, có thể đưa ra khái niệm đời sống
văn hóa như sau: đời sống văn hóa là hiện thực sống động các hoạt động của
con người với sự hỗ trợ của các thiết chế văn hóa và sản phẩm văn hóa nhằm
sáng tạo, hưởng thụ và lưu giữ, phát huy các giá trị văn hóa kết tinh trong
những sản phẩm văn hóa vật thể và phi vật thể, nâng cao chất lượng cuộc
sống của con người.
1.1.2.2. Khái niệm sinh viên
Thuật ngữ sinh viên được bắt nguồn từ một từ gốc latinh students với
nghĩa là người học tập, làm việc, tìm hiểu, khai thác tri thức [55].
Theo từ điển Oxford (1995) thuật ngữ Student được giải thích như sau:
- Một người thường ở độ tuổi trên 16 đang theo học ở một trường Đại
học hoặc cao đẳng.
- Một thiếu niên nam hoặc nữ ở Trường phổ thông [56].
Từ điển Việt Nam (2001) định nghĩa là: “người học ở bậc đại học” [57].
Theo Quy chế công tác học sinh, sinh viên trong các trường đào tạo

của Bộ Giáo dục và Đào tạo thì “người đang học trong hệ Đại học và Cao
đẳng thì gọi là sinh viên” [10].
Nhìn chung, khái niệm sinh viên nên hiểu theo nghĩa chung nhất: Là
tất cả những người đã tốt nghiệp Trung học phổ thông và tương đương đang
theo học tại các trường Đại học và Cao đẳng thuộc mọi loại hình đào tạo.
Có thể nói, sinh viên là giai đoạn đẹp nhất của cuộc đời, là lứa tuổi
đang phát triển và trưởng thành về mọi mặt: thể chất và tinh thần, nhu cầu
tình cảm và lý trí, về khả năng và năng lực, tư duy năng động và tính sáng tạo
hướng tới sự phát triển hài hòa hoàn thiện nhân cách. Đó là lứa tuổi đang
nhập cuộc và khẳng định mình trong xã hội, nhạy cảm với cái mới và họ sẵn
sàng tiếp nhận những cái mới theo cả hai hướng tích cực và tiêu cực.
1.1.2.3. Khái niệm về đời sống văn hóa sinh viên
Trước hết phải khẳng định rằng sinh viên là một đối tượng đặc thù
khác với các nhóm xã hội khác như tộc người, công nhân hay nông dân.... từ


14
lứa tuổi, đặc điểm tâm sinh lý, trình độ học vấn và môi trường sống. Cụ thể
với tộc người, để nghiên cứu đời sống văn hóa của một tộc người nào đó thì
điều đầu tiên ta thấy đó là về phổ tuổi rất rộng, tiếp nữa là về đặc điểm tâm
sinh lý cũng vô cùng đa dạng (từ trẻ nhỏ tới người già), về trình độ văn hóa
cũng không đồng đều, chưa kể đời sống văn hóa của tộc người còn chịu sự chi
phối của các phong tục, tập quán các vùng miền nơi địa bàn cư trú. Ở công
nhân hay nông dân cũng vậy họ cũng là những nhóm người mang những đặc
trưng về nghiệp riêng.
Sở dĩ nói sinh viên là đối tượng đặc thù bởi lẽ họ là những người đã
tương đối hoàn thiện về mọi mặt từ thể chất cho tới tâm sinh lý, về trình độ học
vấn cũng đồng đều hơn và quan trọng hơn cả đặc trưng hơn cả là họ cùng học
tập và sinh hoạt trong một môi trường đặc thù đó là các trường đại học và cao
đẳng. Do vậy đời sống văn hóa của sinh viên cũng có những đặc trưng riêng.

Qua các khái niệm về đời sống văn hóa, khái niệm về sinh viên được
trình bày ở trên có thể đi đến khái niệm về đời sống văn hóa sinh viên như
sau: Đời sống văn hóa sinh viên là toàn bộ những hoạt động của sinh viên với
sự hỗ trợ của các thiết chế văn hóa nhằm sáng tạo, hưởng thụ và lưu giữ,
phát huy các giá trị văn hóa kết tinh trong những sản phẩm văn hóa vật thể
và phi vật thể, làm thỏa mãn những nhu cầu của sinh viên và nâng cao chất
lượng sống của sinh viên trong khuôn khổ nhà trường.
1.1.3. Các yếu tố cấu thành nên đời sống văn hóa sinh viên
Nói về các yếu tố cấu thành nên đời sống văn hóa hiện nay cũng có rất
nhiều quan điểm khác nhau, cụ thể như: Trong một nghiên cứu của mình,
nhóm tác giả Trường Cao đẳng Văn hoá thành phố Hồ Chí Minh cho rằng đời
sống văn hoá
Là tổng thể những yếu tố văn hoá vật thể, phi vật thể và nhân cách
văn hoá bao quanh con người, gây ra sự tác động lẫn nhau giữa các
cá nhân trên phạm vi không gian nào đó, trực tiếp hình thành lối
sống và nếp sống con người ở đó [46].


15
Thể thống nhất này gồm 4 loại yếu tố: những yếu tố văn hoá vật thể và
phi vật thể hiện diện ở mỗi cộng đồng; những yếu tố cảnh quan văn hoá (tự
nhiên và nhân tạo); những yếu tố văn hoá cá nhân (học vấn, sở thích, sinh
hoạt và xử lý thời gian, nếp sống...); những yếu tố văn hoá của các vi môi
trường trong những cộng đồng (gia đình, tập thể nhỏ về lao động, học tập...)
Quan điểm này cho thấy sự thiếu chặt chẽ về mặt hệ thống khi tách
cảnh quan văn hoá ra khỏi văn hoá vật thể và phi vật thể, tách văn hoá vật thể
và phi vật thể ra khỏi văn hoá cá nhân và cộng đồng. Có thể thấy rằng, đời
sống văn hoá không phải là số cộng của các sản phẩm văn hoá, các năng lực văn
hoá của con người cũng như số cộng của các yếu tố văn hoá trong những nhóm
người riêng lẻ. Đời sống văn hoá phải là tổng thể những hoạt động sống của con

người cùng với các giá trị văn hoá vận động trong sự tương tác giữa quá khứ và
hiện đại, giữa con người và môi trường, giữa cá nhân và cộng đồng.
Theo PGS Lương Văn Kế cho rằng, các yếu tố cấu thành của đời sống
văn hóa gồm lễ hội truyền thống; đời sống tôn giáo; nghề thủ công mỹ nghệ;
bảo tàng và danh thắng; báo chí, phát thanh và truyền hình; sân khấu và điện
ảnh; nghệ thuật tạo hình và kiến trúc [35, tr.128].
Quan điểm trên của PGS Lương Văn Kế cho thấy các yếu tố cấu thành
nên đời sống văn hóa nghiêng về những yếu tố văn hóa vật thể.
Trong Giáo trình "Lý luận văn hoá và đường lối văn hoá của Đảng" hệ
cử nhân chính trị, Học viện Chính trị-Hành chính Quốc gia Hồ Chí Minh, cấu
trúc của đời sống văn hoá được xác định bao gồm: con người văn hoá, hoạt
động văn hoá và sản phẩm văn hoá [26].
Có thể nói quan điểm trên đây đúng nhưng áp nó vào những yếu tố
cấu thành nên đời sống văn hóa sinh viên thì chưa phù hợp bởi thiếu các yếu
tố như hệ thống các thiết chế hỗ trợ cho các hoạt động văn hóa cũng như để
tạo ra các sản phẩm văn hóa.
Ở một phương diện khác, có thể xác định cấu trúc của đời sống văn hoá
từ góc độ diện mạo của các hoạt động văn hoá. Nếu tiếp cận từ phương diện


16
này, chúng ta thấy đời sống văn hoá bao gồm: con người văn hoá, các sản
phẩm văn hoá của cá nhân và cộng đồng, các thiết chế văn hoá, các hoạt động
văn hoá, các giá trị văn hoá.
Có thể thấy trong quan niệm này khá đầy đủ các yếu tố cấu thành nên
đời sống văn hóa của một cộng đồng người. Tuy nhiên đối với đời sống văn
hóa sinh viên thì quan niệm trên lại tương đối rộng. Bởi lẽ các hoạt động văn
hóa nói chung vô cùng phong phú, nhưng đối với sinh viên nhiệm vụ chính là
học tập và rèn luyện nên các hoạt động văn hóa chắc chắn là sẽ có những giới
hạn nhất định.

Dựa trên cách tiếp cận về những yếu tố cấu thành nên đời sống văn
hóa của các nhà nghiên cứu đi trước và dựa trên tính đặc thù của của đối
tượng đang nghiên cứu là sinh viên, khi nói đến những yếu tố cấu thành nên
đời sống văn hóa của đối tượng này, chúng tôi chủ yếu quan tâm đến những
vấn đề sau đây:
Những yếu tố trong đời sống văn hóa sinh viên như: chủ thể hoạt động
văn hóa - Sinh viên; các thiết chế văn hóa và sản phẩm văn hóa phục vụ
những hoạt động văn hóa của sinh viên; các hoạt động văn hóa của sinh viên
thể hiện cụ thể qua các hoạt động học tập, văn hóa văn nghệ, thể thao, hoạt
động xã hội, hoạt động tiêu dùng các sản phẩm văn hóa, các quan hệ xã hội.
Theo chúng tôi cho rằng đây là những yếu tố cơ bản và quyết định trong đời
sống văn hóa của sinh viên
1.1.3.1. Chủ thể hoạt động văn hóa
Con người, với tư cách là chủ thể của mọi hoạt động xã hội, là yếu tố
khởi đầu trong cấu trúc của đời sống văn hoá. Như vậy, trong đời sống văn
hóa của sinh viên thì chủ thể đầu tiên cấu thành nên đời sống văn hóa ấy
chính là sinh viên. Tuy nhiên, như đã nói, sinh viên là đối tượng đặc thù bản
thân họ đang được đào tạo, được giáo dục trong một thiết chế xã hội đó là
trường học cho nên khi xét tới chủ thể văn hóa sinh viên cũng cần phải quan


17
tâm đến các yếu tố khác (những yếu tố tác động trực tiếp, hay ảnh hưởng trực
tiếp đến các chủ thể văn hóa cụ thể ở đây là sinh viên).
Xét về đối tượng chủ thể văn hóa là sinh viên có thể nhận thấy:
Về độ tuổi của chủ thể văn hóa - sinh viên được giới hạn từ 18 tuổi
đến khoảng 25 (có nghĩa là đã tốt nghiệp Trung học phổ thông đến khi tốt
nghiệp ra trường 7 năm đối với đại học Y, 5 năm với khối kỹ thuật, 4 năm với
khối xã hội, 3 năm với cao đẳng và 2 năm với khối trung cấp). Như vậy về độ
tuổi, có thể nói rằng chủ thể văn hóa ở đây đã đủ tuổi trưởng thành. Về mặt

thể chất thì đây là đối tượng đã hoàn thiện về mặt thể chất. Về tâm sinh lý,
đây cũng là nhóm đối tượng đã tương đối ổn định về mặt tâm sinh lý.
Mặt khác chủ thể văn hóa ở đây là những đội ngũ trí thức trong tương
lai, là lực lượng trẻ, có học thức, nhạy cảm với cái mới, năng động và sáng tạo,
ham học hỏi, là những chủ nhân tương lai của đất nước. Là tầng lớp được xã hội,
được gia đình, được nhà trường hết sức quan tâm, chăm sóc.
Trong quan hệ xã hội, sinh viên giữ nhiều vị trí: là sinh viên, là người con,
là người anh, người chị, người em, người bạn v.v....Tuy nhiên, về vị trí thực trong
xã hội chưa được xác định, bởi vì họ chưa có nghề nghiệp ổn định, mà hoạt động
chính trị của họ trong trường là học tập và rèn luyện để trở thành những con người
có ích cho xã hội mai sau.
Sinh viên tuy xuất thân từ những nguồn gốc khác nhau nhưng khi đã
cùng học tập dưới một mái trường đồng nghĩa với việc cùng lựa chọn cho
mình một nghề nghiệp trong tương lai, cùng chung một mục đích học tập, rèn
luyện và tu dưỡng đạo đức. Nhưng đặc thù nghề nghiệp của các trường đào
tạo cũng khác nhau nên cũng tạo nên sự khác biệt giữa sinh viên các trường.
(ví dụ: sinh viên khối xã hội khác với sinh viên khối kỹ thuật, sinh viên khối
nghệ thuật khác sinh viên khối khoa học tự nhiên).
Mặt khác, đặc trưng của sinh viên là tính trẻ, năng động và sáng tạo họ
luôn là người tiếp cận những cái mới, các khởi xướng xã hội, các phong trào,
các dòng thời trang, âm nhạc gu thẩm mỹ…


18
Về nhu cầu hoạt động văn hóa, sinh viên là đối tượng là nhóm cộng
đồng có nhu cầu cao nhất về các hoạt động sáng tạo, cũng như vui chơi giải
trí, hoạt động thể dục thể thao, giao lưu, học tập, hưởng thụ các giá trị văn
hóa. Nhất là trong bối cảnh toàn cầu hóa như hiện nay, sinh viên lại càng có
nhiều điều kiện thuận lợi để tham gia các hoạt động văn hóa nói trên.
1.1.3.2. Hệ thống các thiết chế văn hóa và các sản phẩm văn hóa

Theo Từ điển Bách khoa Việt Nam:
Thuật ngữ thiết chế văn hóa được sử dụng rộng rãi trong ngành văn
hóa Việt Nam từ những năm 70 của thế kỷ 20. Thiết chế văn hóa là
chỉnh thể hội tụ đầy đủ các yêu tố cơ sở vật chất, bộ máy tổ chức, hệ
thống biện pháp hoạt động và kinh phí hoạt động phục vụ cho thiết chế
đó. Ví dụ, thiết chế nhà văn hóa bao gồm ngôi nhà, bộ máy tổ chức,
nhân sự, quy chế hoạt động, nguồn kinh phí; chỉ riêng ngôi nhà hoặc
công trình văn hóa chưa đủ để gọi là thiết chế văn hóa [58].
Trong giáo trình môn học “văn hóa xã hội chủ nghĩa” do Nhà xuất bản
Tư tưởng - Văn hóa ấn hành năm 1991 thì: “Thiết chế văn hóa là cơ quan văn
hóa, có nhiệm vụ tổ chức và điều hành quá trình sản xuất, bảo quản, phân
phối và tiêu dùng các sản phẩm văn hóa trong một cộng đồng dân cư nhất
định” [28, tr.266].
Từ những định nghĩa về thiết chế văn hóa nêu trên cho thấy rằng, hệ
thống các thiết chế đóng vai trò quan trọng cấu thành nên đời sống văn hóa.
Hệ thống các thiết chế văn hóa đóng vai trò là nơi lưu giữ và truyền tải các giá
trị văn hóa của cộng đồng đến từng cá nhân. Đó là môi trường đảm bảo cho
các hoạt động văn hóa diễn ra trong đời sống xã hội.
Đối với sinh viên bản thân họ đang được sống, học tập trong một thiết
chế văn hóa - xã hội đó là trường học. Trong thiết chế văn hóa - xã hội lớn
này lại bao gồm những thiết chế văn hóa nhỏ khác để phục vụ cho đời sống
văn hóa của nhóm đối tượng đặc thù là sinh viên. Bởi các hoạt động văn hóa
cũng như đời sống văn hóa của sinh viên khi học tập tại trường đều gắn với
nhà trường và các thiết chế văn hóa trong trường. Như vậy, trong nhà trường,


19
các thiết chế văn hóa nhằm đáp ứng nhu cầu của đời sống văn hóa sinh viên
có thể kể đến như: thư viện, nhà văn hóa, hội trường, phòng sinh hoạt đoàn
hội, hệ thống câu lạc bộ, nhà, sân thi đấu thể thao, nhà đa chức năng, khu vui

chơi giải trí, phòng truyền thống… Đây là nơi các hoạt động văn hóa diễn ra một
cách tập trung, phản ánh những giá trị kết tinh của đời sống văn hóa sinh viên
của một trường đại học, là chiếc cầu nối giữa sáng tạo và thưởng thức, là nơi
diễn ra quá trình chuyển tải những giá trị văn hóa tới cộng đồng nói chung và cụ
thể ở đây là đến với sinh viên - những chủ thể văn hóa nói riêng.
Bên cạnh những thiết chế văn hóa, cảnh quan văn hóa được xem là
một thành tố quan trọng của đời sống văn hóa. Đối với mỗi trường học, vai
trò của cảnh quan văn hóa và môi trường văn hóa cũng có tác động rất lớn đối
với đời sống văn hóa của sinh viên. Nó biểu hiện bề mặt trực tiếp của đời
sống văn hóa. Cảnh quan văn hóa trong trường học là môi trường vật chất văn hóa mà trong đó sinh viên sinh sống Qua kiến trúc, cảnh quan, môi
trường ít nhiều có thể khái quát được đời sống văn hóa của một nhà trường.
Chính cảnh quan, môi trường là do con người tạo ra nhưng cảnh quan, môi
trường văn hóa lại có tác động nâng đỡ, điều chỉnh hành vi con người, bên
trong cảnh quan chứa đựng những chuẩn mực của một cộng đồng cũng như
thấm đượm sự lan tỏa của các giá trị văn hóa.
Một yếu tố không thể thiếu được trong đời sống văn hóa của sinh viên
là các sản phẩm văn hóa vật thể và phi vật thể phục vụ cho các hoạt động văn
hóa của họ. Các sản phẩm văn hóa phục vụ cho đời sống văn hóa sinh viên có
thể kể đến như sách, báo tạp chí, phim, ảnh, băng, đĩa nhạc, internet v.v…. sự
đa dạng, phong phú của các sản phẩm văn hóa góp phần làm cho đời sống văn
hóa của sinh viên thêm đa dạng phong phú, đáp ứng nhu cầu văn hóa đa dạng
của sinh viên.
1.1.3.3. Các hoạt động văn hóa
Xét theo nghĩa rộng nhất của văn hóa, hoạt động sống nào của con
người cũng chứa đựng những giá trị văn hóa, từ lao động, học tập, ăn, mặc,


20
ở, đi lại đến giao tiếp, vui chơi v.v… Tuy nhiên, ở đây, tiếp cận theo quan
niệm của Hồ Chí Minh - coi văn hóa là những hoạt động trong lĩnh vực

tinh thần, mà mục đích và nội dung của nó là các giá trị chân, thiện, mỹ.
Đó cũng chính là những hoạt động sáng tạo, hưởng thụ, lưu giữ, phát huy
các giá trị văn hóa. Những hoạt động này có thể là hoạt động của các cá
nhân, nhưng luôn diễn ra trong mối liên hệ với cộng đồng hay nói cách
khác, những hoạt động văn hóa luôn mang tính xã hội.
Nói đến các hoạt động văn hóa là nói đến tính đa dạng của nó, bởi các
hoạt động văn hóa được phân chia thành nhiều dạng như: những hoạt động
sáng tạo các giá trị văn hóa (sáng tác văn chương, nghệ thuật, kiến trúc, hội
họa, nghiên cứu khoa học, biểu diễn nghệ thuật…); những hoạt động hưởng thụ
các giá trị văn hóa (như học tập, vui chơi, lễ hội, giải trí, thể dục thể thao,
thưởng thức các loại hình nghệ thuật, du lịch, mua sắm, tự do tín ngưỡng…);
những hoạt động lưu giữ, phát huy các giá trị văn hóa (các hoạt động khai trí
như giáo dục, đào tạo, thông tin, tuyên truyền, quảng bá; các hoạt động lễ hội;
các hoạt động ứng xử trong xã hội; các hoạt động bảo tồn, bảo tàng…).
Tuy nhiên đối với đối tượng là sinh viên - một đối tượng tương đối
đặc thù - và đời sống văn hóa của đối tượng đặc thù ấy đang diễn ra trong
một môi trường đặc thù đó chính là nhà trường. Do vậy các hoạt động văn
hóa của sinh viên cũng mang một sắc thái riêng gắn với quá trình sống, học
tập và rèn luyện của sinh viên. Hiện nay, trong mục tiêu đổi mới và phát
triển toàn diện giáo dục và đào tạo, Đảng ta đã luôn coi trọng giáo dục lý
tưởng, giáo dục truyền thống lịch sử cách mạng, đạo đức, lối sống, năng
lực sáng tạo, kỹ năng thực hành, tác phong công nghiệp, ý thức trách nhiệm
trong xã hội... đây cũng chính là quan điểm giáo dục và đào tạo thế hệ trẻ
phát triển toàn diện về Trí - Đức - Thể - Mỹ. Như vậy, để đào tạo thế hệ
trẻ đặc biệt là sinh viên - đội ngũ trí thức tương lai của đất nước, trong nhà
trường, bên cạnh hoạt động học tập, các hoạt động khác nhằm phát triển
toàn diện con người cũng luôn được quan tâm.


21

Trong khuôn khổ luận văn nghiên cứu về đời sống văn hóa sinh
viên, các hoạt động văn hóa của sinh viên, chúng tôi quan tâm đến các hoạt
động văn hóa mang tính đặc thù trong nhà trường của sinh viên như các
hoạt động học tập, hoạt động văn hóa, văn nghệ, thể dục thể thao, hoạt
động xã hội, hoạt động tiêu dùng một số sản phẩm văn hóa và các quan hệ
xã hội của sinh viên.
1.2. KHÁI QUÁT VỀ TRƯỜNG ĐẠI HỌC MỎ - ĐỊA CHẤT VÀ ĐẶC
ĐIỂM SINH VIÊN TRƯỜNG ĐẠI HỌC MỎ - ĐỊA CHẤT

1.2.1. Khái quát về Trường Đại học Mỏ - Địa chất
1.2.1.1. Lịch sử thành lập
Trường Đại học Mỏ - Địa chất được thành lập năm 1966, đến nay
Trường đã trở thành một trung tâm đào tạo của cả nước về lĩnh vực Mỏ, Địa
chất, Dầu khí và Trắc địa bản đồ. Ra đời trong hoàn cảnh đất nước có chiến
tranh, Trường phải sơ tán và di chuyển nhiều lần, từ Hà Bắc đến Thái
Nguyên, biết bao thiếu thốn gian khổ, khó khăn, cán bộ công chức và sinh viên
nhiều thế hệ của Nhà trường đã khắc phục, phấn đấu bền bỉ và hoàn thành xuất
sắc mọi nhiệm vụ được giao. Qua 47 năm xây dựng và phát triển Trường Đại
học Mỏ - Địa chất đã đào tạo được trên 35.000 cán bộ khoa học kỹ thuật có trình
độ đại học, trên đại học đáp ứng nhu cầu nguồn nhân lực có chất lượng cao trên
các lĩnh vực điều tra cơ bản, công nghệ khai thác tài nguyên khoáng sản trên đất
liền và biển, đo đạc quản lý lãnh thổ, lãnh hải, quy hoạch khai thác và bảo vệ
nguồn tài nguyên thiên nhiên, bảo vệ môi trường. Mục tiêu của nhà trường là
tiếp tục khẳng định vai trò, vị trí của một trường đại học đặc thù trong nước và
khu vực, là trung tâm đào tạo nguồn nhân lực có chất lượng cao, nghiên cứu
khoa học và chuyển giao công nghệ thuộc các lĩnh vực Khoa học Trái đất và
Mỏ, đáp ứng nhu cầu của xã hội, phục vụ sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại
hóa và hội nhập kinh tế quốc tế của đất nước [11].
1.2.1.2. Về cơ cấu tổ chức và quản lý
Cơ cấu tổ chức của Nhà trường thực hiện ở 3 cấp: Trường, Khoa, Bộ

môn. Hiện nay (2013) Nhà trường có 13 khoa trong đó có 9 khoa chuyên môn


×