Tải bản đầy đủ (.docx) (111 trang)

ĐẢNG BỘ HUYỆN GIA LÂM, THÀNH PHỐ HÀ NỘI LÃNH ĐẠO PHÁT TRIỂN GIÁO DỤC PHỔ THÔNG TỪ NĂM 2005 ĐẾN NĂM 2015

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (536.38 KB, 111 trang )

ĐẢNG BỘ HUYỆN GIA LÂM, THÀNH PHỐ HÀ NỘI
LÃNH ĐẠO PHÁT TRIỂN GIÁO DỤC PHỔ THÔNG
TỪ NĂM 2005 ĐẾN NĂM 2015
Chuyên ngành: Lịch sử Đảng Cộng sản Việt Nam
Mã số:
ĐỀ CƯƠNG LUẬN VĂN THẠC SỸ LỊCH SỸ LỊCH SỬ ĐẢNG
Hướng dẫn khoa học:

Hà Nội, tháng 10– 2015

A.MỞ ĐẦU


1. Lí do chọn đề tài
Giáo dục phổ thông là nền tảng trong hệ thống giáo dục quốc dân của nước
ta, nó đặt những cơ sở ban đầu rất quan trọng cho sự phát triển toàn diện về đạo
đức, trí tuệ, thể chất, thẩm mỹ và các kỹ năng cơ bản nhằm hình thành nhân cách
con người, cũng là tiền đề cho học sinh tiếp tục học lên những bậc cao hơn như:
trung cấp, cao đẳng, đại học, đi vào cuộc sống,…
Đảng và Nhà nước ta luôn coi công tác giáo dục và đào tạo có vai trò và tầm
quan trọng đặc biệt. Trước đây, mặc dù trong điều kiện chiến tranh, nhưng sự nghiệp
giáo dục và đào tạo vẫn giành được sự quan tâm đặc biệt và đã giành được những
thành tựu hết sức quan trọng. Thực hiện công cuộc đổi mới, Đảng và Nhà nước ta luôn
khẳng định sự nghiệp giáo dục và đào tạo là ưu tiên hàng đầu trong chính sách phát
triển nguồn nhân lực. Bước sang thế kỉ XXI, khoa học công nghệ tiếp tục phát triển
như vũ bão và trở thành một yếu tố trực tiếp của lực lượng sản xuất. Sự hội nhập kinh
tế thế giới đòi hỏi trình độ ngày càng cao của các quốc gia. Nền kinh tế tri thức ra đời,
hàm lượng trí tuệ kết tinh trong sản phẩm ngày càng tăng.Chính vì thế, Đảng ta đã
sớm xác định: Giáo dục là quốc sách hàng đầu và là động lực đưa đất nước thoát khỏi
nghèo nàn, lạc hậu.Tại Hội nghị TW2 khóa VIII (1996), Đảng đã đưa ra định hướng
Chiến lược phát triển giáo dục đào tạo nói chung và giáo dục phổ thông nói riêng trong


thời kì đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá: Thực sự coi giáo dục là quốc sách
hàng đầu. Tư tưởng này, tiếp tục được nhấn mạnh và cụ thể hóa qua các Đại hội Đảng:
IX,X, XI.
Căn cứ vào những chủ trương chung của Đảng về GD & ĐT, nhận thức rõ tầm
quan trọng của giáo dục phổ thông đối với sự nghiệp phát triển đi lên của Thành phố,
với vai trò là một trong những địa phương của thành phố Thủ đô,Huyện Gia Lâm đã
và đang nỗ lực phấn đấu hết mình để từng bước đưa giáo dục địa phương đi lên, đáp
ứng được yêu cầu thực tiễn của huyện và yêu cầu phát triển giáo dục của Thủ đô.
Năm 2001 Trên cơ sở Nghị quyết số 15 – NQ/TW của Bộ Chính trị “ Về
phương hướng, nhiệm vụ phát triển Thủ đô Hà Nội trong thời kì 2001 – 2010” và Pháp
lệnh Thủ đô với định hướng đẩy mạnh phát triển Thủ đô về phía Bắc, năm 2003,
Chính Phủ ban hành Nghị định số 132/2003/NĐ-CP điều chỉnh địa giới hành chính,
huyện Gia Lâm chuyển giao 13 xã, thị trấn để thành lập quận Long Biên. Sau khi chia


tách địa bàn, Giáo dục huyện Gia Lâm gặp không ít những khó khăn về cơ sở vật chất,
trường lớp ( còn tới 80% phòng học cấp IV)… Chủ động khắc phục khó khăn, nhận
thức đúng đắn về đường lối đổi mới đẩy mạnh phát triển giáo dục phổ thông thời kì
công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước, Đảng bộ huyện Gia Lâm tiếp tục chỉ đạo triển
khai chương trình số 09 về nâng cao chất lượng Giáo dục & Đào tạo với hướng đi là
xây dựng chất lượng giáo dục toàn diện. Quy mô giáo dục tiếp tục được giữ vững và
có bước phát triển, đáp ứng nhu cầu học tập của nhân dân. Tuy nhiên bên cạnh những
thành tích đã đạt được, sự nghiệp GDPT ở Gia Lâm vẫn còn những hạn chế nhất định:
Chất lượng giáo dục các bậc học, cấp học, ngành học còn thấp chưa đồng đều. Bên
cạnh đó năng lực trình độ tổ chức quản lý của đội ngũ cán bộ cán bộ, giáo viên còn
thấp so với yêu cầu nâng cao dân trí, đào tạo nhân lực, bồi dưỡng nhân tài cho xã hội.
Đây là những vấn đề đặt ra cần phải giải quyết.
Việc tổng kết 10 năm Đảng bộ địa phương lãnh đạo phát triển giáo dục phổ
thông, rút ra những kinh nghiệm cho sự lãnh đạo của Đảng bộ huyện trong thời gian
tới là một việc làm cần thiết.

Vì những lí do trên, tôi lựa chọn đề tài: “Đảng bộ Huyện Gia Lâm, thành phố
Hà Nội lãnh đạo phát triển giáo dục phổ thông từ năm 2005 đến năm 2015” làm đề
tài luận văn tốt nghiệp cao học, chuyên ngành Lịch sử Đảng cộng sản Việt Nam.Kết
quả nghiên cứu của luận văn sẽ góp phần luận giải cơ sở lý luận, thực tiễn và những
giải pháp chủ yếunhằm tăng cường công tác quan trọng này ở địa phương.
2.Tình hình nghiên cứu đề tài
Xuất phát từ vị trí, vai trò của GD & ĐTnói chung, GDPT nói riêng đối với sự
phát triển KT – XH của đất nước, trong những năm qua, các tổ chức, học giả trong và
ngoài nước rất quan tâm, đã công bố một số công trình nghiên cứu, bài viết bàn về
thực trạng, phương hướng phát triển sự nghiệp GDPT. Sau đây là một số công trình
tiêu biểu:
Công trình nghiên cứu về giáo dục trên bình diện chung có liên quan đến
đề tài như:
Nhà trường phổ thông Việt Nam qua các thời kỳ lịch sửcủa Viện Khoa học
giáo dục, 2001;
Đổi mới nâng cao vai trò, trách nhiệm, đạo đức của đội ngũ giáo viên và cán


bộ quản lý giáo dục trong xu thế Việt Nam hội nhập quốc tế của nhiều tác giả, Nxb.
Lao động, 2006,
Những cuốn sách của tác giả Phạm Minh Hạc: Phát triển giáo dục - phát triển
con người - phục vụ phát triển kinh tế xã hội,Nxb Khoa học xã hội, Hà Nội (1966).
Giáo dục nhân cách. Đào tạo nhân lực,Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội (1997). Giáo
dục Việt Nam trước ngưỡng cửa thế kỷ XXI, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội (1999).
Nghiên cứu con người và nguồn nhân lực đi vào công nghiệp hoá, hiện đại hoá, Nxb
Chính trị quốc gia, Hà Nội(2001).
Nguyễn Hữu Châu (1999), Về định hướng chiến lược giáo dục đầu thế kỷ XXI
của một số nước trên thế giới, Viện Khoa học giáo dục; Quốc hội (2010).
Những cuốn sách này tựa chung lại đã nghiên cứu viết về vấn đề gì?
Nghiên cứu về sự lãnh đạo của các đảng bộ địa phương đối với giáo dục phổ

thông, có một số công trình như:
Lý Trung Thành, Đảng bộ tỉnh Thái Nguyên lãnh đạo sự nghiệp giáo dục phổ
thông từ năm 1997 đến năm 2005, Luận văn Th.s lịch sử, ĐHQGHN;
Trần Xuân Tĩnh, Đảng bộ Bà Rịa - Vũng Tàu lãnh đạo sự nghiệp Giáo dục và
Đào tạo những năm 1991 - 2000. Luận văn Th.s lịch sử, ĐHQGHN;
Đặng Thanh Phương (2004), Giáo dục chủ nghĩa yêu nước cho thanh niên, sinh
viên thủ đô trong giai đoạn hiện nay, Luận văn thạc sĩ, chuyên ngành Triết học, Học
viện Chính trị Quốc gia Hồ Chí Minh;
Phan Quốc Huy (1996), Đảng Cộng sản Việt Nam với sự nghiệp đổi mới ngành
giáo dục đại học nước nhà (1987 - 1995), Luận văn thạc sĩ,chuyên ngành Lịch sử, Học
viện Chính trị Quốc gia Hồ Chí Minh;
Nội dung của các công trình trên đều đề cập đến công tác giáo dục và đào tạo
quốc dân, dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam, hay Đảng bộ địa phương.
Tuy vậy, đến nay vẫn chưa có một công trình chuyên sâu nghiên cứu về sự lãnh đạo
phát triển GDPT của Đảng bộ Huyện Gia Lâm,thành phố Hà Nội trong những năm
2005 - 2015, song những công trình trên là những tài liệu tham khảo quý giá để tác giả
thực hiện luận văn.
Mục đích, nhiệm vụ nghiên cứu
3.1. Mục đích nghiên cứu:


- Làm rõcơ sở lý luận, thực tiễn sự lãnh đạo của Đảng bộ huyện Gia Lâm về
phát triển giáo dục từ năm 2005 đến năm 2015. Từ đó nêu lên được những thành tựu
cũng như hạn chế và rút ra những bài học kinh nghiệm cho công tác lãnh đạo, chỉ đạo
phát triển GDPThuyện Gia Lâm, thành phố Hà Nội trong các giai đoạn tiếp theo.
3.2. Nhiệm vụ nghiên cứu:
- Khái lược về các điều kiện, yếu tố tác động đến phát triển giáo dục phổ
thông của Huyện Gia Lâm thành phố Hà Nội; phân tích tầm quan trọng của việc thực
hiện đổi mới giáo dục phổ thông huyện Gia Lâm.
- Tìm hiểu những chủ trương của của Đảng bộ huyện Gia Lâm với công tác

phát triển giáo dục phổ thông từ năm 2005-2015
- Trình bày quá trình thực hiện phát triển giáo dục phổ thông của huyện Gia Lâm từ
năm 2005-2015
- Rút ra ưu điểm, hạn chế , nguyên nhân, bài học kinh nghiệm của quá trình Đảng
bộ huyên Gia Lâm lãnh đạo chỉ đạo thực hiện phát triển giáo dục phổ thông từ năm 20052015
4. Đối tượng, phạm vi nghiên cứu
4.1Đối tượng nghiên cứu: Sự lãnh đạo, chỉ đạo của Đảng bộ huyện Gia Lâm,
thành phố Hà Nội phát triển giáo dục phổ thông từ năm 2005 đến năm 2015.
4.2. Phạm vi nghiên cứu:
+ Về nội dung: Sự lãnh đạo của Đảng bộ huyện Gia Lâm về giáo dục phổ
thông thể hiện ở 2 cấp học: Cấp học Tiểu học và THCS.
+ Về không gian: Luận văn nghiên cứu địa bàn thành phố Hà Nội, mà chủ yếu
là địa bàn huyện Gia Lâm
+ Về thời gian: Từ năm 2005 đến năm 2015
5. Cơ sở lý luận, thực tiễn và phương pháp nghiên cứu
5.1. Cơ sở lý luận, thực tiễn:
- Luận văn nghiên cứu trên cơ sở lý luận chủ nghĩa Mác – Lênin, tư tưởng Hồ
Chí Minh và quan điểm của Đảng CSVN về giáo dục. Đây là cơ sở lý luận cho việc
nghiên cứu quá trình lãnh đạo của Đảng bộ huyện Gia Lâm, thành phố Hà Nội phát
triển GDPT từ năm 2005 đến năm 2015.
5.2. Phương pháp nghiên cứu:
Luận văn sử dụng phương pháp lịch sử, phương pháp logic và kết hợp sử dụng


một số phương pháp khác như: Phương pháp phân tích, tổng hợp; phương pháp thống
kê, so sánh,…. để thực hiện đề tài.

6. Đóng góp mới về mặt khoa học của luận văn
Đóng góp về mặt khoa học: Hệ thống hóa được những chủ trương, quá trình lãnh
đạo của Đảng bộ Huyện Gia Lâm về việc thực hiện đổi mới giáo dục phổ thông từ

2005 đến năm 2015. Từ những thành công và hạn chế tồn tại rút ra kinh nghiệm và chỉ
ra phương hướng để tham khảo cho giai đoạn về sau.
- Đóng góp về mặt tư liệu : Bổ sung thêm nguồn tài liệu về lịch sử địa phương
- Đóng góp về mặt phương pháp nghiên cứu: Góp phần vào việc sử dụng phương
pháp tổng kết thực tiễn, làm sáng tỏ lýluận, đường lối quan điểm của Đảng.
7. Kết cấu của luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo, phụ lục, luận văn
được kết cấu làm 3 chương:
Chương 1: Công tác lãnh đạophát triển giáo dục phổ thông của Đảng bộ
huyện Gia Lâm, thành phố Hà Nội từ năm 2005 đến năm 2010
Chương 2: Đảng bộ huyện Gia Lâm, Thành phố Hà Nội tăng cường lãnh đạo
phát triển giáo dục phổ thôngtừ năm 2011 đến năm 2015
Chương 3: Nhận xét và một sốkinh nghiệm.


Chương 1:
CÔNG TÁC LÃNH ĐẠO PHÁT TRIỂN GIÁO DỤC PHỔ THÔNG
CỦA ĐẢNG BỘ HUYỆN GIA LÂM, THÀNH PHỐ HÀ NỘI
TỪ NĂM 2005 – 2010

1.1.

Những nhân tố tác động đến công tác lãnh đạo sự nghiệp giáo dục phổ

thông của Đảng bộ huyện Gia Lâm, thành phố Hà Nội.
1.1.1. Điều kiện tự nhiên, điều kiện kinh tế - xã hội
- Điều kiện tự nhiên:
Gia Lâm - vùng đất địa linh nhân kiệt, nằm ở cửa ngõ phía Đông của Thủ đô Hà
Nội ngàn năm văn hiến, nơi giao thoa của dòng văn hoá Thăng Long và Kinh Bắc.
Nhân dân Gia Lâm giàu truyền thống yêu nước và cách mạng với nhiều đức tính tốt

đẹp: cần cù, chịu khó, anh hùng, thông minh, sáng tạo. Từ khi có Đảng lãnh đạo, nhất
là sau cuộc Cách mạng tháng Tám -1945 lịch sử, chính quyền dân chủ nhân dân được
thành lập, nhân dân Gia Lâm cùng Thủ đô và đất nước lập thêm bao kỳ tích để xây
dựng và bảo vệ quê hương góp phần làm rạng rỡ truyền thống anh hùng bất khuất của
Thủ đô Hà Nội anh hùng và dân tộc Việt Nam quang vinh.
Vị trí địa lý
Huyện Gia Lâm nằm ở phía Đông của Thủ đô Hà Nội. Phía Bắc của Huyện là
quận Long Biên; phía Tây Nam có địa giới là dòng sông Hồng, bên kia bờ là huyện
Thanh Trì và quận Hoàng Mai; phía Đông Bắc và Đông giáp với các huyện Từ Sơn,
Tiên Du, Thuận Thành của tỉnh Bắc Ninh; phía Nam giáp với huyện Văn Lâm, tỉnh
Hưng Yên.
Diện tích: 114,79 km2.
Dân số: khoảng 243.957 người (năm 2011).
Lịch sử hình thành
Xa xưa, Gia Lâm thuộc vùng đất Long Biên
Thời Lý, Gia Lâm thuộc phủ Thiên Đức
Thời Trần, thuộc lộ Bắc Giang
Thời Hậu Lê, thuộc phủ Thuận An, trấn Kinh Bắc
Thời Nguyễn, huyện Gia Lâm nằm trong trấn Kinh Bắc.
Năm 1831, huyện Gia Lâm có 10 tổng (79 thôn, sở) đó là các Tổng: Cổ Biện,
Kim Sơn, Đặng Xá, Gia Thuỵ, Đông Dư, Đa Tốn, Cự Linh, Nghĩa Trai, Như Kinh và
Lạc Đạo.


Sau năm 1858, ba Tổng là: Nghĩa Trai, Như Kinh và Lạc Đạo chuyển về huyện
Văn Lâm thuộc đạo Bãi Sậy (Hưng Yên).
Trước năm 1945, huyện Gia Lâm thuộc phủ Thuận An, rồi phủ Thuận Thành,
tỉnh Bắc Ninh.
Ngày 28/11/1948, Chủ tịch nước ra Sắc lệnh số 263/SL đưa huyện Gia Lâm (kể
cả đặc khu Ngọc Thuỵ) thuộc tỉnh Bắc Ninh sáp nhập vào Hưng Yên. Một năm sau, do

yêu cầu của tình hình mới, ngày 07/11/1949, Chủ tịch nước ra Sắc lệnh số 127/SL đưa
toàn bộ huyện Gia Lâm trở lại Bắc Ninh.
Sau ngày Thủ đô giải phóng, đặc khu Ngọc Thuỵ trở thành Quận 8 thuộc thành
phố Hà Nội.
Theo Nghị quyết của Quốc hội nước Việt Nam dân chủ cộng hoà, kỳ họp thứ 2
ngày 20/4/1961 và Quyết định của Thủ tướng Chính phủ ký ngày 31/5/1961 quy định
địa dư hành chính huyện Gia Lâm và sáp nhập huyện Gia Lâm về Hà Nội bao gồm:
toàn bộ Quận 8, huyện Gia Lâm, 7 xã và thị trấn Yên Viên của hai huyện Từ Sơn và
Tiên Du, 2 xã Dương Quang, Dương Xá (huyện Thuận Thành) và xã Văn Đức (huyện
Văn Giang); huyện Gia Lâm có 31 xã và 2 thị trấn.
Ngày 13/10/1982, Hội đồng Bộ trưởng (nay là Chính phủ) quyết định thành lập
2 thị trấn là Sài Đồng và Đức Giang. Huyện Gia Lâm có 31 xã và 04 thị trấn
Từ ngày 01/01/2004, theo Nghị định 132/2003/NĐ-CP của Chính phủ, một
phần đất và dân số huyện Gia Lâm (gồm 13 xã, thị trấn) được tách ra để thành lập
quận mới Long Biên.
Ngày 02/01/2005, Chính phủ quyết định chuyển xã Trâu Quỳ thành thị trấn
Trâu Quỳ.
Huyện Gia Lâm ngày nay gồm 20 xã, 2 thị trấn. Đó là các xã: Bát Tràng, Cổ Bi,
Dương Hà, Dương Quang, Dương Xá, Đặng Xá, Đa Tốn, Đình Xuyên, Đông Dư, Kiêu
Kỵ, Kim Lan, Kim Sơn, Lệ Chi, Ninh Hiệp, Phù Đổng, Phú Thị, Trung Màu, Yên
Viên, Yên Thường, Văn Đức và 2 thị trấn: Yên Viên, Trâu Quỳ.
Trụ sở cơ quan lãnh đạo Huyện đóng tại thị trấn Trâu Quỳ.
Quá trình xây dựng và phát triển huyện Gia Lâm
Gia Lâm được xác định là vùng kinh tế trọng điểm, là địa bàn quân sự chiến
lược ở phía Đông của Thủ đô Hà Nội. Trên địa bàn huyện có nhiều tuyến đường giao
thông quan trọng đã và đang được đầu tư xây dựng: Quốc lộ 1A; Quốc lộ 1B; Quốc lộ


3 mới Hà Nội - Thái Nguyên; Quốc lộ 5; Đường ôtô cao tốc Hà Nội - Hải Phòng;
đường Hà Nội - Hưng Yên; đường 181...; đường thuỷ sông Hồng, sông Đuống, ga Yên

Viên và hệ thống đường sắt ngược lên phía Bắc, Đông Bắc và xuôi cảng biển Hải
phòng. Trên địa bàn Huyện có nhiều khu đô thị, khu công nghiệp và các trung tâm
thương mại được hình thành; nhiều làng nghề nổi tiếng, thu hút đông khách thập
phương trong và ngoài nước như làng gốm sứ Bát Tràng, dát vàng, may da Kiêu Kỵ,
chế biến thuốc bắc Ninh Giang. Đây chính là những động lực và tiềm năng to lớn để
phát triển kinh tế thương mại, du lịch, dịch vụ giao thông, giao lưu hàng hoá hiện nay
và và trong tương lai.
Đất và người Gia Lâm gắn liền với truyền thống lịch sử dựng nước và giữ nước
của dân tộc; kiên cường bất khuất đánh đuổi giặc ngoại xâm; cần cù, thông minh, sáng
tạo trong xây dựng cuộc sống. Gia Lâm tự hào là quê hương của hai vị thánh: Phù
Đổng Thiên Vương và Chử Đồng Tử, là hai trong "Tứ bất tử" trong tín ngưỡng dân
gian Việt Nam. Gia Lâm còn gắn liền với tên tuổi của Nguyên Phi Ỷ Lan, Ngọc Hân
công chúa, Cao Bát Quát, Lý Thường Kiệt và biết bao anh hùng hào kiệt khác mà công
tích của họ đã góp phần viết lên những trang sử vàng chói lọi của dân tộc.
Từ khi Đảng Cộng sản Việt Nam ra đời, truyền thống cách mạng hào hùng, tinh
thần yêu nước, vì độc lập dân tộc của cha ông tiếp tục được các thế hệ con cháu trên
mảnh đất Gia Lâm nối tiếp. Gia Lâm tự hào bởi từ tháng 8/1929 đã có Chi bộ Đảng
Cộng sản được thành lập ở Nhà máy gạch Cầu Đuống. Sau khi Đảng bộ Thành phố
được thành lập (tháng 6/1930), các chi bộ Đảng ở Gia Lâm lần lượt ra đời và không
ngừng phát triển, lãnh đạo, chỉ đạo phong trào quần chúng cách mạng. Những năm 40
của thế kỷ 20, xã Trung Mầu đã trở thành một điểm “An toàn khu” của Trung ương và
Xứ uỷ Bắc Kỳ. Khi thời cơ cách mạng đến, dưới sự lãnh đạo của Đảng, ngày
18/8/1945 nhân dân Gia Lâm đã đồng loạt đứng lên khởi nghĩa, đập tan chế độ cũ
giành chính quyền về tay nhân dân.
Trong công cuộc kháng chiến anh dũng và lâu dài của dân tộc, dưới sự lãnh đạo
của Đảng bộ huyện, quân và dân Gia Lâm mưu trí, dũng cảm, kiên cường chiến đấu
chống kẻ thù, lập lên những chiến công vang dội, góp phần vào những chiến thắng
vang dội ở Bắc Ninh và Thủ đô Hà Nội. Trong các cuộc kháng chiến thần thánh của
dân tộc để bảo vệ độc lập, tự do của Tổ quốc, hàng vạn thanh niên Gia Lâm đã hăng
hái lên đường tòng quân giết giặc bảo vệ Tổ quốc: 4.417 người con ưu tú của Gia Lâm



đã anh dũng hy sinh trên các chiến trường. Hàng chục gia đình có từ 2 đến 3 con là liệt
sĩ, 6 đồng chí được tặng danh hiệu Anh hùng lực lượng vũ trang nhân dân, nhiều đồng
chí được tặng danh hiệu Anh hùng lao động; 134 bà mẹ đã được Đảng và Nhà nước
tôn vinh danh hiệu cao quý: Bà mẹ Việt Nam anh hùng. Với những thành tích to lớn,
những chiến công đặc biệt xuất sắc trong kháng chiến chống thực dân, đế quốc, nhân
dân và lực lượng vũ trang huyện Gia Lâm và các xã Yên Thường, Yên Viên, Trâu
Quỳ, Trung Mầu, Kim Sơn, Đa Tốn và một số cơ quan, đơn vị trên địa bàn được
Đảng, Nhà nước tuyên dương danh hiệu cao quý: “Anh hùng lực lượng vũ trang nhân
dân”.
Trong công cuộc đổi mới, Đảng bộ và nhân dân Gia Lâm không ngừng phấn
đấu vươn lên, vượt qua mọi khó khăn, thử thách, tranh thủ điều kiện và thời cơ thuận
lợi, phát huy nguồn lực, động viên mọi tầng lớp nhân dân hăng hái lao động, sản xuất
kinh doanh giành nhiều thành tựu to lớn; kinh tế liên tục phát triển và có mức tăng
trưởng khá, văn hoá xã hội phát triển, an ninh quốc phòng được giữ vững, bộ mặt nông
thôn, đô thị có nhiều đổi mới, đời sống của nhân dân không ngừng được cải thiện và
nâng cao, lòng tin của nhân dân đối với Đảng được củng cố tăng cường. Huyện Gia
Lâm luôn là đơn vị dẫn đầu các huyện ngoại thành, 03 năm (1997-1999) được tặng cờ
thi đua của Chính phủ, gần 49 đơn vị, ngành được tặng Huân chương Lao động.
Sau khi thực hiện nhiệm vụ điều chỉnh địa giới hành chính để thành lập Quận
Long Biên (01/2004), Gia Lâm tiếp tục phát huy truyền thống cách mạng vẻ vang, tích
cực khai thác mọi tiềm năng, thế mạnh, tiếp tục vững bước đi lên trên đường đổi mới.
Đại hội lần thứ XX Đảng bộ huyện Gia Lâm nhiệm kỳ 2010-2015 đã xác định: "Phát
huy truyền thống cách mạng và anh hùng, tiếp tục nâng cao năng lực lãnh đạo và sức
chiến đấu của Đảng bộ, tăng cường sức mạnh khối đại đoàn kết toàn dân, đẩy mạnh
công nghiệp hóa - hiện đại hóa, xây dựng huyện Gia Lâm giàu đẹp, dân chủ, văn
minh".
Quán triệt sâu sắc quan điểm chỉ đạo trên, các cấp các ngành từ Huyện đến cơ
sở đã chủ động khắc phục khó khăn, tích cực khai thác tiềm năng, thế mạnh, tranh thủ

sự chỉ đạo của Thành ủy - HĐND - UBND thành phố, sư ủng hộ và phối hợp của các
sở, ban, ngành Thành phố, các đơn vị đóng trên địa bàn, tập trung có hiệu quả nhiệm
vụ phát triển kinh tế - xã hội, đảm bảo an ninh - quốc phòng, tăng cường hoạt động của
hệ thống chính trị từ Huyện đến cơ sở. Năm 2013, giá trị sản xuất các ngành kinh tế


chủ yếu do Huyện quản lý tăng 9,22% so với năm 2012; cơ cấu giá trị sản xuất của
Huyện: Công nghiệp, xây dựng 54,05%; Dịch vụ 30,95%; Nông, lâm nghiệp, thuỷ sản
15,00%. Tổng số thu ngân sách nhà nước đạt 1.136,6 tỷ đồng; loại trừ kết dư, thu
chuyển nguồn, tổng thu ngân sách nhà nước đạt 1.017,5 tỷ đồng bằng 68,6% dự toán
Thành phố giao, bằng 67,8% dự toán Huyện giao và bằng 93,9% so với năm trước (đã
loại trừ các khoản thu thuế giãn, hoãn theo quy định); trong đó thu ngân sách nhà nước
trên địa bàn đạt 453,3 tỷ đồng, bằng 49,2% dự toán Thành phố giao, bằng 48,4% dự
toán Huyện giao và bằng 78% so với năm trước. Công tác đầu tư, thực hiện các dự án
trọng điểm, công tác giải phóng mặt bằng được chỉ đạo quyết liệt, thúc đẩy tiến độ
thực hiện; công tác xây dựng nông thôn mới, công tác quản lý trật tự đô thị, tài
nguyên, môi trường được tập trung chỉ đạo và triển khai tổ chức thực hiện tích cực.
Sự nghiệp giáo dục và đào tạo, y tế, chăm sóc sức khỏe ban đầu cho nhân dân,
công tác Dân số - Gia đình & Trẻ em được quan tâm. Năm học 2012-2013, chất lượng
giáo dục và đào tạo tiếp tục được nâng lên, ngành giáo dục và đào tạo huyện Gia Lâm
đứng đầu khối Huyện, được UBND Thành phố tặng cờ thi đua; có thêm 3 trường được
công nhận đạt chuẩn Quốc gia (nâng tổng số trường đạt chuẩn Quốc gia lên 42/70
trường, đạt tỷ lệ 59,2%). Đã khám bệnh cho 201,217 lượt người, trong đó trẻ em dưới
6 tuổi 37,784 lượt; kiểm tra vệ sinh ATTP 1.585 lượt cơ sở, xử phạt 11 cơ sở với tổng
kinh phí 15,7 trệu đồng, cảnh cáo 85 cơ sở, phê bình, nhắc nhở 95 cơ sở và tiêu hủy
sản phẩm của 12 cơ sở. Thực hiện tốt chính sách xã hội; tổ chức thăm hỏi, tặng quà
cho 69.796 lượt người có công và các đối tượng xã hội với tổng kinh phí rên 17,3 tỷ
đồng. Triển khai xây dựng 12 và sửa chữa 6 nhà ở cho gia đình chính sách với tổng
kinh phí 1 tỷ đồng; cải tạo, nâng cấp 5 công trình ghi công liệt sỹ với kinh phí 85,5 tỷ
đồng; hỗ trợ sửa chữa 31 nhà đại đoàn kết với kinh phí 925 trệu đồng. Triển

khai chương trình cho vay giải quyết việc làm với tổng kinh phí trên 23,2 tỷ đồng;
cho 996 hộ nghèo vay vốn phát triển kinh tế với kinh phí trên 22,6 tỷ đồng, góp phần
giải quyết việc làm cho 8.055 người (đạt 100,7% kế hoạch); giảm 357 hộ nghèo (đạt
119% kế hoạch), tỷ lệ hộ nghèo còn 1,75%; đưa 82 đối tượng đi cai nghiện tại các
trung tâm của Thành phố đạt 115,5% chỉ tiêu. Duy trì và thực hiện tốt công tác giải
quyết các thủ tục hành chính theo cơ chế "Một cửa" và "Một cửa liên thông" từ Huyện
đến cơ sở, thực hiện nghiêm chỉ đạo "Năm kỷ cương hành chính 2015" của Thành
phố; kiểm tra công tác giải quyết thủ tục hành chính tại 07 xã; tiếp tục duy trì và cải


tiến quy trình, thủ tục thực hiện theo TCVN ISO 9001:2008 tại Huyện và 03 xã, thị
trấn; triển khai xây dựng và áp dụng hệ thống quản lý chất lượng theo TCVN ISO
9001:2008 tại 04 xã. Năm 2013, tại Huyện đã tiếp nhận 25.884 hồ sơ hành chính, đã
giải quyết 25.117 hồ sơ (đạt 97,03%); trong đó, đúng hạn: 24.551 hồ sơ (đạt 97,75%),
quá hạn 566 hồ sơ (chiếm 2,25%); tại các xã, thị trấn tiếp nhận 171.215 hồ sơ, đã giải
quyết được 171.215 hồ sơ (đạt 100%), trong đó, giải quyết đúng hạn là 171.209 hồ sơ
(đạt 99,99%), quá hạn 06 hồ sơ (chiếm 0,01%); không có khiếu nại về kết quả giải
quyết các thủ tục hành chính tại Huyện và các xã, thị trấn. Quan tâm chỉ đạo công tác
phòng chống tham nhũng, thực hành tiết kiệm chống lãng phí; triển khai đồng bộ các
biện pháp thực hành tiết kiệm, thẩm định thiết kế kỹ thuật, dự toán các dự án, quyết
toán vốn, đấu thầu mua sắm tài sản .... giảm trừ được trên 31, 4 tỷ đồng; tiết kiệm
trong sử dụng điện, sử dụng biên chế 9,2 tỷ đồng; tiết kiệm chi thường xuyên 20% dự
toán giao đầu năm và 10% của 7 tháng cuối năm 2013 với tổng kinh phí trên 25,2 tỷ
đồng. Chú trọng công tác tiếp dân, giải quyết đơn thư khiếu nại, tố cáo của công dân.
Tại Huyện đã tiếp 340 lượt công dân, tiếp nhận giải quyết 150 đơn; Huyện đã chỉ đạo
giải quyết, kết luận 128/150 đơn, đạt 85,3% (trong đó: 24/27 đơn khiếu nại, bằng
88,9%; 06/07 đơn tố cáo, bằng 86,7%; 98/116 đơn đề nghị, dân nguyện bằng 84,5%).
Các xã, thị trấn tiếp nhận 458 đơn, thụ lý giải quyết 371/458 đơn đạt 81%. Hòa giải
thành công ở cơ sở 555/648 vụ đạt 85,6%.
Kết quả công tác thi đua năm 2013: Huyện Gia Lâm được UBND Thành phố

tặng cờ thi đua xuất sắc; Ủy ban Kiểm tra, Ban Tuyên giáo, Ban Tổ chức, Văn phòng
Huyện ủy, Ủy ban MTTQ, Hội Liên hiệp Phụ nữ, Hội Cựu chiến binh, Đoàn
THCSHCM, Hội Cựu Thanh niên xung phong, phòng Giáo dục & Đào tạo, phòng
Lao động - Thương binh & xã hội, Hội Chữ thập đỏ, Trung tâm Dân số Gia đình &Trẻ em, Công an Huyện... được UBND Thành phố tặng cờ thi đua xuất sắc;
Ban Dân vận Huyện ủy được Ban Thường vụ Thành ủy tặng bằng khen; Liên đoàn lao
động huyện được Tổng Liên đoàn lao động tặng cờ thi đua; Ban chỉ huy Quân sự
huyện được Bộ Tư lệnh Thủ đô tặng cờ đơn vị dẫn đầu phong trào thi đua quyết
thắng.....

1.1.2. Tình hình giáo dục phổ thông ở huyện Gia Lâm trước năm 2005.


Cùng nhìn lại tình hình giáo dục phổ thông Huyện Gia Lâm trước năm
2005. Trước năm 2005, điều kiện kinh tế của Huyện còn gặp nhiều khó khăn, đời
sống vật chất của người dân tuy đã được nâng cao nhưng vẫn chưa đáp ứng yêu
cầu. Huyện Gia Lâm đã đạt được những thành tựu khả quan trước năm 2005,
trong đó có giáo dục và đào tạo. Đảng bộ Huyện qua các nhiệm kỳ lãnh đạo
nhân dân, các ban ngành đoàn thể từng bước thực hiện thắng lợi Nghị Quyết Đại
hội của Huyện. Hoàn thành nhiều chỉ tiêu phát triển kinh tế xã hội.
Trước năm 2005, Đảng bộ Huyện Gia lâm đã rất chú trọng trong công tác
lãnh đạo phát triển giáo dục phổ thông. Tuy nhiên, vì nhiều nguyên nhân khách
quan, chú quan mà giáo dục huyện Gia Lâm trước 2005 vẫn cón rất nhiều tồn tại,
yếu kém.

Đại hội Đảng lần thứ VI (1986) đã đề ra đường lối đổi mới toàn diện,
trong đó có đổi mới về vấn đề giáo dục: “Giáo dục nhằm mục tiêu hình thành và
phát triển toàn diện nhân cách xã hội chủ nghĩa của thế hệ trẻ, đào tạo đội ngũ
lao động có kĩ thuật, đồng bộ về ngành nghề phù hợp với yêu cầu phân công lao
động của xã hội ” [27 – tr.94]. Đối với giáo dục phổ thông Đại hội cũng nhấn
mạnh: “Các trường phổ thông phải dạy kiến thức phổ thông cơ bản, lao động kĩ

thuật tổng hợp, hướng nghiệp và dạy nghề phổ thông” [10 – tr.16]. Từ sau Đại
hội Đảng VI, thực hiện chủ trương đổi mới giáo dục của Đảng, chỉ đạo của
Đảng bọ Thành phố Hà nội, Đảng bộ Huyện Gia Lâm cùng cả nước bước vào
thời kỳ đổi mới. Thực hiện đường lối đổi mới giáo dục của Đảng, giáo dục - đào
tạo của Huyện Gia Lâm ngày càng có những bước chuyển đáng kể. Quy mô giáo
dục được phát triển ở các cấp học. Mạng lưới trường học được bố trí hợp lý hơn.
Cơ sở vật chất trường lớp được đầu tư tu sửa, xây dựng khang trang hơn. Trong
các năm 2000 - 2005, ngành giáo dục tập trung vào nhiệm vụ củng cố và từng
bước phát triển sự nghiệp giáo dục phổ thông. Phòng Giáo dục và Đào tạo từng
bước tiến hành đổi mới công tác giáo dục, quy hoạch mạng lưới trường lớp, mở
rộng giáo dục phổ thông, đa dạng hóa các loại hình đào tạo, hình thức học tập ở
các cấp học, ngành học đã đáp ứng một phần nhu cầu học tập của nhân dân.
Chất lượng giáo dục có những chuyển biến. Mạng lưới giáo dục được sắp
xếp lại: bậc tiểu học được cơ cấu hợp lý. Công tác giáo dục chính trị, đạo đức,


giáo dục truyền thống, giáo dục hướng nghiệp được tăng cường. Việc giảng dạy
ngoại ngữ, tin học, âm nhạc, hội họa… được mở rộng. Phong trào nhà nước và
nhân dân cùng chăm lo xây dựng trường học được phát động và tiếp tục được
duy trì, phát huy hiệu quả; ngân sách nhà nước đầu tư cho giáo dục ổn định và
tăng dần nên bộ mặt trường lớp, khung cảnh sư phạm đổi mới, cơ sở vật chất,
trang thiết bị dạy và học, phòng thí nghiệm, phòng chuyên môn, đồ dùng dạy
học được tăng cường.
Phát huy vai trò của Nhà nước và toàn xã hội trong việc bảo vệ và chăm
sóc trẻ em: thực hiện chương trình phòng chống suy dinh dưỡng, chăm sóc trẻ
có hoàn cảnh đặc biệt… Tập trung nâng cao chất lượng toàn diện. Nghiên cứu
ứng dụng khoa học công nghệ, giáo dục để đổi mới nội dung chương trình,
phương pháp giáo dục phù hợp với xu thế hiện đại, bên cạnh đó vẫn phải coi
trọng giáo dục pháp luật, đạo đức, lòng yêu nước, hoài bão, lý tưởng cho học
sinh. Xây dựng chính sách khuyến khích ưu tiên học sinh giỏi, học sinh tài năng,

chăm lo giúp đỡ trẻ em nghèo, tàn tật, con thương binh, liệt sĩ… Coi trọng hơn
nữa việc đào tạo, bồi dưỡng giáo viên và cán bộ quản lý giáo dục. Huy động mọi
lực lượng tham gia xây dựng cơ sở vật chất cho giáo dục, kết hợp giáo dục gia
đình - nhà trường - xã hội.
Giáo dục tiểu học. Số học sinh giảm dần và ổn định trong giai đoạn 2001
- 2005(do tỷ lệ tăng dân số ổn định). Trẻ ra lớp đúng độ tuổi đạt tỷ lệ 98 – 99%.
Quy mô phát triển trường lớp chuyển dần theo hướng 2 buổi một ngày. Nội
dung chương trình học do Bộ quy định, bên cạnh đó các trường tiểu học tổ chức
cho học sinh học thêm các môn tự chọn: làm quen với tiếng Anh, nâng cao toán,
tiếng việt, các môn năng khiếu như họa, nhạc, thể dục…Việc đổi mới phương
pháp giáo dục được triển khai sớm, chất lương giáo dục tốt, đáp ứng được nhu
cầu học tập của con em nhân dân trong Huyện.
Giáo dục THCS: Những năm 2001 - 2005 số học sinh tăng do đà tăng tự
nhiên của dân số, trường học được xây dựng ở những khu dân cư mới và ở
những xã có tác động tích cực làm cho số học sinh tăng lên “Tỷ lệ bỏ học giảm
từ 10% những năm trước xuống còn 0,7%. Bình quân 45 hs/ lớp; Chương trình


mới được biên soạn hợp lý. Giáo dục Huyện đã có những chủ trương biện pháp
giữ vững, đảm bảo chất lượng, xác định chuẩn kiến thức cho các môn học.
Chất lượng văn hóa đại trà của học sinh được giữ vững và phát triển, số
học sinh yếu kém giảm rõ rệt. Các trường có nhiều chuyển biển trong việc thực
hiện chương trình toàn diện các môn học. Chất lượng mũi nhọn được chú trọng.
Công tác bồi dưỡng học sinh giỏi được các trường quan tâm, các lớp chuyên,
lớp chọn tiếp tục thực hiện điều chỉnh về thời gian đối với một số môn để tăng
cường chất lượng môn chuyên. Chất lượng giáo dục đạo đức học sinh trong các
trường cũng được coi trọng. Ngành giáo dục chỉ đạo “Tăng cường giáo dục đạo
đức trong các trường học, tập trung giáo dục truyền thống” thông qua các giờ
sinh hoạt lớp, các hoạt động kỉ niệm ngày lễ lớn, giáo dục ý thức tổ chức kỷ luật
nếp sống văn minh, giáo dục phát luật, an toàn giao thông.

Có được những kết quả trên là do Đảng bộ, chính quyền và nhân dân
Huyện thực hiện đúng đường lối, chính sách về giáo dục của Đảng, Thành Phố,
đồng thời do thành quả phát triển kinh tế xã hội của địa phương và nhờ truyền
thống hiếu học của thủ đô đã góp phần tác động tích cực đến sự phát triển của
giáo dục. Tuy nhiên trong ngành giáo dục phổ thông cũng còn nhiều hạn chế,
yếu kém như: chất lượng giáo dục chính trị, đạo đức, các môn khoa học xã hội
và nhân văn còn thấp; giáo dục hướng nghiệp, dạy nghề còn hạn chế; đội ngũ
giáo viên còn thiếu, một số giáo viên chưa chuyên tâm với nghề, yêu nghề; trang
thiết bị trường học không đồng bộ; trong trường học còn có những biểu hiệniêu
cực như bệnh thành tích, nhất là trong thi cử, tuyển sinh, trong việc dạy thêm,
học thêm chưa được quản lý… Nguyên nhân của những hạn chế là do: công tác
quản lý giáo dục còn nhiều yếu kém, nhất là việc quản lý chương trình, nội
dung, chất lượng dạy học; chưa có những biện pháp tích cực để phát hiện, xử lý
khắc phục kịp thời những biểu hiện tiêu cực trong ngành giáo dục - đào tạo;
chưa có cơ chế thích hợp để thực hiện có hiệu quả việc phối hợp nhà trường gia đình - xã hội trong việc tạo ra môi trường giáo dục lành mạnh …
Những hạn chế trong giáo dục phổ thông là lực cản bước phát triển của thành
phố về mọi mặt. Yêu cầu khách quan đặt ra là cần có nhận thức đúng để tìm ra


giải pháp, bước đi phù hợp trong phát triển giáo dục phổ thông của Huyện. Đây
là cơ sở cho Huyện cùng Thành phố đẩy mạnh công cuộc đổi mới, đẩy mạnh
công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước.
1.2.

Đảng bộ huyện Gia Lâm lãnh đạo phát triển giáo dục phổ thông từ

năm 2005 đến năm 2010
1.2.1. Quan điểm của Đảng, chủ trương của Đảng bộ thành phố Hà Nội về
phát triển giáo dục phổ thông
1.2.1.1. Quan điểm chỉ đạo của Đảng

Nhìn lại quan điểm, chủ trương của Đảng về chỉ đạo phát triển giáo dục giai
đoạn 2001 – 2005: Nhằm đáp ứng yêu cầu của đất nước và nâng cao hơn nữa chất
lượng giáo dục, sau khi Nghị quyết Trung ương 2 (khóa VIII) ra đời, tại kỳ họp ngày
10-12- 2000, Quốc hội khóa X đã thông qua hai Nghị quyết quan trọng về giáo dục là
Nghị quyết số 40/2000/QH10 về đổi mới chương trình giáo dục phổ thông và Nghị
quyết số 41/2000/QH10 về thực hiện phổ cập trung học cơ sở. Tiếp đó, ngày 28-122000, Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa VIII đã ra Chỉ thị 61/CT-TW “Về việc
thực hiện phổ cập Trung học cơ sở”. Chỉ thị nhấn mạnh: “Việc thực hiện phổ cập giáo
dục Trung học cơ sở giai đoạn 2001 – 2010 có ý nghĩa chiến lược quan trọng nhằm
góp phần phát triển và nâng cao chất lượng nguồn nhân lực, đáp ứng yêu cầu của sự
nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước” [4 – tr.501].
Đại hội IX của Đảng (2001) tiếp tục khẳng định quan điểm: “Phát triển giáo
dục và đào tạo là một trong những động lực quan trọng thúc đẩy sự nghiệp công
nghiệp hóa, hiện đại hóa, là điều kiện để phát huy nguồn lực con người - yếu tố cơ bản
để phát triển xã hội, tăng trưởng kinh tế nhanh và bền vững” [27 – tr.654]. Đại hội đã
đề ra Chiến lược phát triển kinh tế - xã hội trong giai đoạn 2001- 2010, trong đó xác
định: “Để đáp ứng yêu cầu về con người và nguồn nhân lực là nhân tố quyết định sự
phát triển đất nước trong thời kỳ công nghiệp hóa, hiện đại hóa, cần tạo chuyển biến
cơ bản, toàn diện về giáo dục và đào tạo” [27 – tr.732]. Đại hội xác định mục tiêu của
giáo dục là phải: “Bồi dưỡng thế hệ trẻ tinh thần yêu nước, yêu quê hương, gia đình và
tự tôn dân tộc, lý tưởng xã hội chủ nghĩa, lòng nhân ái, ý thức tôn trọng pháp luật, tinh
thần hiếu học, chí tiến thủ lập nghiệp, không cam chịu nghèo hèn”, [27 – tr.732]. Đại
hội cũng nhấn mạnh phải nâng cao chất lượng giáo dục toàn diện, đổi mới phương
pháp dạy và học, hệ thống hóa trường lớp và hệ thống quản lý giáo dục, thực hiện
“chuẩn hóa, hiện đại hóa, xã hội hóa”; Riêng đối với giáo dục phổ thông, nghị quyết


đại hội IX chỉ ra cần phải củng cố thành tựu xóa mù chữ, phổ cập giáo dục tiểu học,
phấn đấu ngày càng có nhiều trường tiểu học đủ điều kiện học ngày 2 buổi, học sinh
được học ngoại ngữ và tin học. Đẩy nhanh tiến độ phổ cập giáo dục THCS, tạo điều
kiện cho những địa phương có khả năng hoàn thành sớm việc phổ cập giáo dục bậc

trung học thông qua việc mở rộng quy mô đào tạo và phát triển đa dạng hóa các loại
hình trường THPT, trung học chuyên nghiệp và dạy nghề, phấn đấu đến năm 2010
phần lớn các trường phổ thông có đủ điều kiện cho học sinh học tập và hoạt động cả
ngày tại trường.
Chủ trương của Đại hội đã được cụ thể hóa trong “Chiến lược phát triển giáo
dục và đào tạo 2001 - 2010” để phát triển sự nghiệp giáo dục phổ thông trong 10 năm
tới cần: Phát triển giáo dục mầm non. Củng cố vững chắc kết quả xoá mù chữ và phổ
cập giáo dục tiểu học, tiến hành phổ cập trung học cơ sở trong cả nước. Điều chỉnh
hợp lý cơ cấu bậc học, cơ cấu ngành nghề, cơ cấu vùng trong hệ thống giáo dục và đào
tạo phù hợp yêu cầu học tập của nhân dân, yêu cầu phát triển kinh tế - xã hội và các
mục tiêu của Chiến lược. Phát triển và nâng cao chất lượng các trường dân tộc nội trú;
tăng cường đào tạo, bồi dưỡng cán bộ người dân tộc. Khẩn trương biên soạn và đưa
vào sử dụng ổn định trong cả nước bộ chương trình và sách giáo khoa phổ thông phù
hợp với yêu cầu phát triển mới. Chú trọng trang bị và nâng cao kiến thức tin học,
ngoại ngữ cho học sinh, sinh viên. Đổi mới phương pháp dạy và học, phát huy tư duy
sáng tạo và năng lực tự đào tạo của người học, coi trọng thực hành, thực nghiệm,
ngoại khoá, làm chủ kiến thức, tránh nhồi nhét, học vẹt, học chay. Đổi mới và tổ chức
thực hiện nghiêm minh chế độ thi cử. Bảo đảm về cơ bản đội ngũ giáo viên đạt chuẩn
quốc gia và tỷ lệ giáo viên so với học sinh theo yêu cầu của từng cấp học. Có cơ chế,
chính sách bảo đảm đủ giáo viên cho các vùng miền núi cao, hải đảo. Tăng cường cơ
sở vật chất và từng bước hiện đại hoá nhà trường (lớp học, sân chơi, bãi tập, phòng thí
nghiệm, máy tính nối mạng Internet, thiết bị giảng dạy và học tập hiện đại, thư viện,
ký túc xá...) Phấn đấu đến năm 2010 phần lớn các trường phổ thông có đủ điều kiện
cho học sinh học tập và hoạt động cả ngày tại trường. Tăng đầu tư cho giáo dục từ
ngân sách nhà nước và đẩy mạnh xã hội hoá giáo dục, đào tạo. Tăng cường quản lý
nhà nước, đặc biệt là hệ thống thanh tra giáo dục, thiết lập kỷ cương, đẩy lùi các hiện
tượng tiêu cực. [88] Tiếp đó hội nghị trung ương 6 khóa IX đã tập trung đưa ra những
vấn đề về phát triển giáo dục phổ thông. Mục tiêu chung vẫn là nâng cao chất lượng



giáo dục toàn diện, đổi mới nội dung, phương pháp dạy và học, hệ thống trường lớp và
hệ thống quản lý giáo dục, thực hiện chuẩn hóa, hiện đại hóa, xã hội hóa giáo dục.
Cũng tại Hội nghị Ban chấp hành Trung ương khóa IX đã đưa ra kết luận số 14
– KL/TW ngày 26 tháng 7 năm 2002 về việc tiếp tục thực hiện nghị quyết Trung ương
2 khóa VIII, phương hướng phát triển giáo dục đào tạo từ 2002 – 2005 và đến năm
2010. Nhưng riêng về giáo dục phổ thông. Kết luận số 14 – KL/TW sau khi khẳng
định lại những thành tựu của năm năm thực hiện NQTW 2 khóa VIII đã đề ra nhưng
nhiệm vụ mà toàn Đảng, toàn dân và nòng cốt là đội ngũ giáo viên, cán bộ giáo dục
cần tập trung như sau:
Nâng cao chất lượng, hiệu quả giáo dục. Thực hiện công bằng xã hội trong giáo
dục. Để thực hiện các nhiệm vụ trên, cần tập trung làm tốt các việc chủ yếu sau : Đổi
mới mạnh mẽ quản lý nhà nước về giáo dục. Tiếp tục hoàn thiện cơ cấu hệ thống giáo
dục quốc dân và sắp xếp, củng cố, phát triển mạng lưới trường lớp, cơ sở giáo dục.
Đẩy mạnh xã hội hoá giáo dục, coi giáo dục là sự nghiệp của toàn dân [26 – tr.52 - 57]
Ngày 15 - 6 - 2004, Ban Bí thư Trung ương Đảng đã ban hành Chỉ thị số 40/ CTTW
về việc “Xây dựng, nâng cao chất lượng đội ngũ nhà giáo và cán bộ quản lý giáo dục”.
Mục tiêu là xây dựng đội ngũ nhà giáo và cán bộ quản lý giáo dục được chuẩn hóa,
đảm bảo chất lượng, đủ về số lượng, đồng bộ về cơ cấu; đặc biệt chú trọng nâng cao
bản lĩnh chính trị, phẩm chất, lối sống, lương tâm, tay nghề của nhà giáo, thông qua
việc quản lý, phát triển đúng định hướng và có hiệu quả sự nghiệp giáo dục để nâng
cao chất lượng đào tạo nguồn nhân lực, đáp ứng những đòi hỏi ngày càng cao của sự
nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước. Năm 2005, Chính phủ ban hành Nghị
quyết số 05/2005/NQ ngày 18/4/2005 về “Đẩy mạnh xã hội hóa các hoạt động giáo
dục, y tế, văn hóa, thể thao” trong đó có nội dung khuyến khích đa dạng hóa các loại
hình đào tạo ngoài công lập ở các cấp học, bậc học, sự tham gia của toàn thể xã hội,
của các ban, ngành, đoàn thể, các tổ chức xã hội, cá nhân, nhằm đa dạng hóa các loại
hình trường lớp, thực hiện các mục tiêu mà các đại hội đại biểu toàn quốc của Đảng đề
ra
Quan điểm, chủ trương chỉ đạo của Đảng giai đoạn 2005 – 2010: về cơ bản
vẫn giữ vững quan điểm giáo dục là quốc sách hàng đầu. Trong bối cảnh mới của đất

nước, Đảng đã có những chủ trương, quan điểm chỉ đạo mới phù hợp với tình hình,
yêu cầu mới của đất nước. Hiến pháp nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam


(1992), Luật Giáo dục (1998), Báo cáo chính trị tại Đại hội IX của Đảng (2001) và
Chiến lược phát triển kinh tế - xã hội 2001 - 2010 đã chỉ rõ những quan điểm chỉ đạo
phát triển giáo dục nước ta:
+ Xây dựng nền giáo dục có tính nhân dân, dân tộc, khoa học, hiện đại, theo
định hướng xã hội chủ nghĩa, lấy chủ nghĩa Mác - Lê nin và tư tưởng Hồ Chí Minh
làm nền tảng.
+ Giáo dục là sự nghiệp của Đảng, Nhà nước và của toàn dân. Xây dựng xã hội
học tập, tạo điều kiện cho mọi người, ở mọi lứa tuổi, mọi trình độ được học thường
xuyên, học suốt đời. Nhà nước giữ vai trò chủ đạo trong phát triển sự nghiệp giáo dục.
Đẩy mạnh xã hội hóa; khuyến khích, huy động và tạo điều kiện để toàn xã hội tham
gia phát triển giáo dục.
Chiến lược phát triển kinh tế xã hội 2001 - 2010 đã nêu rõ: để đáp ứng yêu cầu
về conngười và nguồn nhân lực là nhân tố quyết định sự phát triển đất nước trong thời
kỳ công nghiệp hóa, hiện đại hóa, cần tạo chuyển biến cơ bản và toàn diện về giáo
dục. Vì vậy, mục tiêu của Chiến lược phát triển giáo dục 2001 - 2010 là:
+ Tạo bước chuyển biến cơ bản về chất lượng giáo dục theo hướng tiếp cận với
trình độ tiên tiến của thế giới, phù hợp với thực tiễn Việt Nam, phục vụ thiết thực cho
sự phát triển kinh tế - xã hội của đất nước; của từng vùng, từng địa phương; hướng tới
một xã hội học tập. Phấn đấu đưa nền giáo dục nước ta thoát khỏi tình trạng tụt hậu
trên một số lĩnh vực so với các nước phát triển trong khu vực.
+ Ưu tiên nâng cao chất lượng đàotạo nhân lực, đặc biệt chú trọng nhân lực
khoa học - công nghệ trình độ cao, cán bộ quản lý, kinh doanh giỏi và công nhân kỹ
thuật lành nghề trực tiếp góp phần nâng cao sức cạnh tranh của nền kinh tế, đẩy nhanh
tiến độ thực hiện phổ cập trung học cơ sở.
Mục tiêu phát triển các cấp bậc học, trình độ và loại hình giáo dục:
+ Đồng thời với việc tăng cường chất lượng và hiệu quả, tiếp tục mở rộng quy

mô các cấp bậc học và trình độ đào tạo, phù hợp với cơ cấu trình độ, cơ cấu ngành
nghề, cơ cấu vùng miền của nhân lực. Nâng tỷ lệ lao động đã qua đào tạo ở các trình
độ vào năm 2010 đạt 40%, trong đó từ cao đẳng trở lên 6%, trung học chuyên nghiệp
8%, công nhân kỹ thuật 26%. Thực hiện phổ cập trung học cơ sở trong cả nước.
+ Thực hiện công bằng xã hội trong giáo dục và tạo cơ hội học tập ngày càng
tốt hơn cho các tầng lớp nhân dân, đặc biệt là ở các vùng còn nhiều khó khăn.


+ Giáo dục mầm non: Nâng cao chất lượng chăm sóc giáo dục trẻ trước 6 tuổi,
tạocơ sở để trẻ phát triển toàn diện về thể chất, tình cảm, trí tuệ, thẩm mỹ; mở rộng hệ
thống nhà trẻ và trường lớp mẫu giáo trên mọi địa bàn dân cư, đặc biệtở nông thôn và
những vùng khó khăn; tăng cường các hoạt động phổ biến kiến thức và tư vấn nuôi
dạy trẻ chocác gia đình. Tăng tỷ lệ huy động học sinh trong độ tuổi đến trường từ 95%
năm 2000 lên 97% năm2005 và 99% năm 2010.
+ Trung học cơ sở: Cung cấp cho học sinh học vốn phổ thông cơ sở và những
hiểu biết banđầu về kỹ thuật và hướng nghiệp để thực hiện phân luồng sau trung học
cơ sở,tạo điều kiện để học sinh tiếp tục học tập hoặc đi vào cuộc sống lao động. Đạt
chuẩn phổ cập trung học cơ sở ở các thành phố, đô thị vùng kinh tế phát triển vào năm
2005, trong cả nước vào năm2010. Tăng tỷ lệ học sinh trung học cơ sở trong độ tuổi từ
74% năm 2000 lên 80%vào năm 2005 và 90% vào năm 2010.
+ Trung học phổ thông: Thực hiện chương trình phân ban hợp lý nhằm đảm bảo
cho học sinh có học vấn phổ thông, cơ bản theo một chuẩn thống nhất, đồng thời tạo
điều kiện cho sự phát huy năng lực của mỗi học sinh, giúp học sinh có những hiểu biết
về kỹ thuật, chú trọng hướng nghiệp để tạo điều kiện thuận lợi cho việc phân luồng sau
trung học phổ thông, để học sinh vào đời hoặc chọn ngành nghề học tiếp sau khi tốt
nghiệp.Tăng tỷ lệ học sinh trong độ tuổi vào trung học phổ thông từ 38% năm 2000
lên 45%vào năm 2005 và 50% vào năm 2010.
Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ X của Đảng họp từ ngày 18 - 4 đến ngày
25/4/2006. Đại hội đã kiểm điểm việc thực hiện Nghị quyết Đại hội IX của Đảng, kế
hoạch phát triển kinh tế - xã hội 5 năm 2001 – 2005 và Chiến lược phát triển kinh tế xã hội 10 năm 2001 – 2010, nhìn lại 20 năm đổi mới; quyết định phương hướng, mục

tiêu, nhiệm vụ phát triển kinh tế - xã hội 5 năm 2006 – 2010.
Về phát triển giáo dục, Đại hội tiếp tục khẳng định quan điểm: “Giáo dục và
đào tạo cùng với khoa học và công nghệ là quốc sách hàng đầu, là nền tảng và động
lực thúc đẩy công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước” [28 - tr.95]. Vì vậy cần phải“đổi
mới toàn diện giáo dục và đào tạo, phát triển nguồn nhân lực chất lượng cao” [28 –
tr.95] Đại hội đã đề ra mục tiêu, nhiệm vụ và chỉ tiêu chủ yếu phát triển kinh tế xã hội
5 năm 2006 – 2010. Theo đó, để phát triển nguồn nhân lực đáp ứng yêu cầu của thời
kỳ mới, trong 5 năm tới cần “phát triển mạnh khoa học công nghệ, giáo dục và đào
tạo; nâng cao chất lượng nguồn nhân lực, đáp ứng yêu cầu công nghiệp hóa, hiện đại


hóa đất nước và phát triển kinh tế tri thức [28 – tr.187]. Đặc biệt, trong lĩnh vực giáo
dục và đào tạo phấn đấu đến năm 2010 “hoàn thành phổ cập giáo dục trung học cơ sở”
[28 – tr.189] Nghị quyết Số: 56/2006/NQ-QH11 ngày 29 tháng 06 năm 2006 Về Kế
hoạch phát triển Kinh tế - Xã Hội năm năm 2006 – 2010.
Quốc hội nước CHXHCNVN. Đã nêu rõ những yêu cầu về GD&ĐT như sau:
“Cần tiếp tục đổi mới GD&ĐT một cách toàn diện. Phát triển quy mô hợp lý, đồng
thời đẩy mạnh xã hội hóa, chuẩn hóa, hiện đại hóa nhằm nâng cao chất lượng
GD&ĐT. Đảm bảo chất lượng đổi mới chương trình giáo dục các cấp học phổ thông;
ưu tiên phát triển giáo dục, dạy nghề, đảm bảo cơ cấu hợp lý nguồn nhân lực, đáp ứng
nhu cầu phục vụ công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước và xuất khẩu lao động. Đầu
tư tập trung cho các mục tiêu ưu tiên, các chương trình quốc gia phát triển giáo dục,
dạy nghề; hỗ trợ các đối tượng chính sách, đồng bào dân tộc thiểu số, trẻ em khuyết
tật, người ở vùng có điều kiện kinh tế - xã hội đặc biệt khó khăn, miền núi, hải đảo,
biên giới. Chú trọng bồi dưỡnghọc sinh năng khiếu, những tài năng trong khoa học.
Đảm bảo các điều kiện để đẩy mạnh giáo dục thể chất trong trường học…” Để thực
hiện nhiệm vụ trên, Ngành giáo dục – đào tạo cần tạo được chuyển biến cơ bản về phát
triển giáo dục và đào tạo với những định hướng phát triển của Đảng và Nhà nước như
sau:
+ Đổi mới tư duy giáo dục một cách nhất quán, từ mục tiêu, chương trình, nội

dung, phương pháp đến cơ cấu và hệ thống tổ chức, cơ chế quản lý để tạo được chuyển
biến cơ bản và toàn diện của nền giáo dục nước nhà, tiếp cận với trình độ giáo dục của
khu vực và thế giới; khắc phục cách đổi mới chắp vá, thiếu tầm nhìn tổng thể, thiếu kế
hoạch đồng bộ. Xây dựng nền giáo dục của dân, do dân và vì dân; bảo đảm công bằng
về cơ hội học tập cho mọi người, tạo điều kiện để toàn xã hội học tập và học tập suốt
đời.
+ Ưu tiên hàng đầu cho việc nâng cao chất lượng dạy và học. Đổi mới phương
pháp dạy và học, nâng cao chất lượng đội ngũ giáo viên và tăng cường cơ sở vật chất
của nhà trường, phát huy khả năng sáng tạo và độc lập suy nghĩ của học sinh, sinh
viên. Coi trọng bồi dưỡng cho học sinh, sinh viên khát vọng mãnh liệt xây dựng đất
nước giàu mạnh, gắn liền lập nghiệp bản thân với tương lai của cộng đồng, của dân
tộc, trau dồi cho học sinh, sinh viên bản lĩnh, phẩm chất và lối sống của thế hệ trẻ Việt


Nam hiện đại. Triển khai thực hiện hệ thống kiểm định khách quan, trung thực chất
lượng giáo dục, đào tạo.
+ Hoàn chỉnh và ổn định lâu dài hệ thống giáo dục quốc dân; chú trọng phân
luồng đào tạo sau trung học cơ sở; bảo đảm liên thông giữa các cấp đào tạo. Đổi mới
cơ bản và toàn diện giáo dục đại học, tạo chuyển biến mạnh mẽ về chất lượng đào tạo.
+ Mở rộng quy mô dạy nghề và trung học chuyên nghiệp, bảo đảm tốc độ tăng
nhanh hơn đào tạo đại học, cao đẳng. Tăng nhanh tỉ lệ học sinh tốt nghiệp phổ thông
được học tiếp lên đại học, cao đẳng, trung học chuyên nghiệp, học nghề.
+ Đẩy mạnh xã hội hoá giáo dục và đào tạo. Đi đôi với việc đổi mới cơ chế
quản lý, nâng cao chất lượng các trường công lập, cần bổ sung chính sách ưu đãi
đểphát triển các trường ngoài công lập và các trung tâm giáo dục cộng đồng. Có lộ
trình cụ thể cho việc chuyển một số cơ sở giáo dục, đào tạo công lập sang dân lập, tư
thục; xoá bỏ hệ bán công.
+ Sửa đổi chế độ học phí đi đôi với đổi mới cơ chế tài chính giáo dục và đào tạo
theo hướng xác định đầy đủ chi phí dạy và học, chia sẻ hợp lý trách nhiệm chi trả giữa
nhà nước, xã hội và người học; thực hiện miễn, giảm học phí và cấp học bổng cho học

sinh nghèo, học sinh thuộc diện chính sách và học sinh giỏi.
+ Tập trung ưu tiên đầu tư phát triển giáo dục và đào tạo ở vùng sâu, vùng xa,
vùng đồng bào dân tộc thiểu số; tiếp tục hoàn chỉnh hệ thống trường lớp, cơ sở vật
chất kỹ thuật các cấp học, mở thêm các trường nội trú, bán trú và có chính sách bảo
đảm đủ giáo viên cho các vùng này...
+ Đổi mới và nâng cao năng lực quản lý nhà nước về giáo dục và đào tạo; Nhà
nước thực hiện đúng chức năng định hướng phát triển, tạo lập khung pháp lý và kiểm
tra, thanh tra, giám sát việc thực thi pháp luật, tạo môi trường cạnh tranh lành mạnh
trong giáo dục và đào tạo; chống bệnh thành tích. Đổi mới tổ chức và hoạtđộng, đề cao
và bảo đảm quyền tự chủ, tự chịu trách nhiệm của nhà trường, nhất là trường đại học,
cao đẳng, trung học chuyên nghiệp và dạy nghề. Tập trung khắc phục những tiêu cực
trong dạy thêm, học thêm, thi cử, tuyển sinh, đánh giá kết quả học tập và cấp chứng
chỉ, văn bằng.
+Tăng cường hợp tác quốc tế về giáo dục, đào tạo; từng bước xây dựng nền
giáo dục hiện đại, đáp ứng yêu cầu công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước.[69 – tr.4]
Tiếp đó, ngày 08-9-2006, Thủ tướng Chính phủ đã ra Chỉ thị số 33/2006/CTTTg “Về


chống tiêu cực và khắc phục bệnh thành tích trong giáo dục”. Trên cơ sở đánh giá tình
hình trong những năm gần đây, các biểu hiện tiêu cực trong lĩnh vực giáo dục không
những không giảm bớt mà còn có xu hướng ngày càng phổ biến, Thủ tướng Chính phủ
chỉ thị đối với Bộ Giáo dục và Đào tạo cần xây dựng Chương trình hành động chống
tiêu cực và khắc phục bệnh thành tích trong giáo dục giai đoạn 2006 - 2010. Thủ
tướng Chính phủ yêu cầu các Bộ, Ban, Ngành, gia đình vàcác bậc phụ huynh, Ban đại
diện cha mẹ học sinh… cần phối hợp với Bộ Giáo dục và Đào tạo thực hiện Chương
trình hành động chống tiêu cực và khắc phục bệnh thành tích trong giáo dục giai đoạn
2006 – 2010 một cách có hiệu quả.
Thực hiện Chỉ thị số 33/2006/CT- TTg của Thủ tướng Chính phủ, Bộ Giáo dục
và Đào tạo đã phát động trong toàn ngành thực hiện cuộc vận động “Nói không với
tiêu cực trong thi cử và bệnh thành tích trong giáo dục”. Cuộc vận động này được xác

định là khâu đột phá trong năm học 2006 – 2007 để toàn ngành giáo dục tự khẳng
định, đổi mới vì sự phát triển của ngành, vì sự nghiệp và cuộc sống của mỗi thầy giáo,
cô giáo, theo tinh thần và nhiệm vụ các Nghị quyết số 40; 41 Quốc hội khóa X và
Nghị quyết số 37 của Quốc hội khóa XI;
Luật Giáo dục năm 2005. Ngày 07-11-2006, Bộ Chính trị ra Chỉ thị số 06 CT/TW về tổ chức cuộc vận động “Học tập và làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chí
Minh”. Để thực hiện Chỉ thị trên trong ngành giáo dục, ngày 18-5-2007, Bộ trưởng Bộ
Giáo dục và Đào tạo đã ra Chỉ thị số 2516/CT - BGDĐT “Về việc thực hiện cuộc vận
động “Học tập và làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh trong ngành Giáo dục”.
Mục đích thực hiện cuộc vận động nhằm làm cho nhà giáo, cán bộ quản lý giáo dục,
viênchức, học sinh, sinh viên, học viên trong toàn ngành giáo dục nhận thức sâu sắc về
những nội dung cơ bản và những giá trị to lớn của tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh;
tạo sự chuyển biến mạnh mẽ về ý thức tu dưỡng, rèn luyện và làm theo tấm gương đạo
đức Hồ Chí Minh, nâng cao đạo đức cách mạng, cần, kiệm, liêm, chính, chí công vô
tư; đẩy lùi sự suy thoái về chính trị đạo đức, lối sống và các tệ nạn xã hội, góp phần
thực hiện thắng lợi Nghị quyết Đại hội X của Đảng.
Để sự nghiệp giáo dục đáp ứng yêu cầu ngày càng cao của sự nghiệp công
nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước trong bối cảnh hội nhập quốc tế, ngày 15/4/2009, Bộ
Chính trị ra Thông báo Kết luận số 242-TB/TW “Về tiếp tục thực hiện Nghị quyết
Trung ương 2 (Khóa VIII), phương hướng phát triển giáo dục và đào tạo đến năm


2020”. Trên cơ sở đánh giá thực trạng giáo dục trên cả nước, để đáp ứng yêu cầu của
tình hình mới, Bộ Chính trị yêu cầu cấp ủy, chính quyền, Mặt trận Tổ quốc và các
đoàn thể các cấp “cần tiếp tục quán triệt sâu sắc tư tưởng chỉ đạo của Đảng trong Nghị
quyết Trung ương 2 (Khóa VIII), phấn đấu đến năm 2020 nước ta có một nền giáo dục
tiên tiến, mang đậm bản sắc dân tộc, đáp ứng yêu cầu của sự nghiệp công nghiệp hóa,
hiện đại hóa đất nước trong bối cảnh hội nhập quốc tế” [5 - tr.3]. Bộ Chính trị yêu cầu
cần thực hiện tốt các nhiệm vụ, giải pháp phát triển giáo dục đến năm 2020 là: nâng
cao chất lượng giáo dục toàn diện, coi trọng giáo dục nhân cách, đạo đức, lối sống cho
học sinh, sinh viên, mở rộng quy mô giáo dục hợp lý; cần coi trọng cả ba mặt giáo dục

dạy làm người, dạy chữ, dạy nghề; phát triển quy mô hợp lý cả giáo dục đại trà và mũi
nhọn, xây dựng xã hội học tập, tạo điều kiện thuận lợi cho mọi người có thể học tập
suốt đời; đổi mới mạnh mẽ quản lý nhà nước đối với giáo dục và đào tạo; xây dựng
đội ngũ nhà giáo và cán bộ quản lý giáo dục đủ về số lượng, đáp ứng yêu cầu về chất
lượng; tiếp tục đổi mới chương trình, tạo chuyển biến mạnh mẽ về phương pháp giáo
dục; tăng cường nguồn lực cho giáo dục; đảm bảo công bằng xã hội trong giáo dục;
tăng cường hợp tác quốc tế về giáo dục và đào tạo. Kết luận của Bộ Chính trị nhấn
mạnh: “Để đáp ứng yêu cầu của sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước
trong bối cảnh hội nhập quốc tế, sự nghiệp giáo dục và đào tạo nước ta phải đổi mới
căn bản, toàn diện, mạnh mẽ” [5 - tr.7].
Như vậy, trong những năm 2006 – 2010, giáo dục và đào tạo tiếp tục được
Đảng, Nhà nước ta coi là quốc sách hàng đầu nhằm đáp ứng yêu cầu của sự nghiệp
công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước trong bối cảnh hội nhập quốc tế. Quán triệt đầy
đủ, đúng đắn chủ trương chỉ đạo của Đảng về công tác giáo dục nói chung, giáo dục
phổ thông nói riêng để có chủ trương, biện pháp cụ thể, đúng đắn, phù hợp với điều
kiện của Thành phố Hà Nội sẽ thúc đẩy giáo dục phổ thông của Thủ đô phát triển hơn
nữa, đáp ứng yêu cầu của sự nghiệp đổi mới, công nghiệp hóa, hiện đại hóa và hội
nhập quốc tế.
1.2.1.2 Chủ trương của Đảng bộ thành phố Hà Nội về phát triển giáo
dục phổ thông
Thực hiện quan điểm, chủ trương đường lối chỉ đạo về phát triển giáo dục
đào tạo nói chung và giáo dục phổ thông nói riêng. Cụ thể hóa chủ trương của
Đảng vào thực tiễn. Đảng bộ Thành phố Hà nội đã có những chủ trương chỉ đạo


phát triển hệ thống giáo dục của Hà nội. Trên cơ sở, tinh thần chung, trong quan
điểm chỉ đạo của mình, Đảng bộ Thành phố Hà nội bám sát quan điểm, chủ
trương của Đảng và Nhà nước Việt Nam.
Từ ngày 21-23/12/2005 tại Cung văn hoá Hữu nghị Việt Xô, Đảng bộ thành
phố Hà Nội tổ chức Đại hội Đại biểu lần thứ XIV, với 396 đại biểu chính thức đại diện

cho hơn 183.700 đảng viên trong toàn Đảng. Với tinh thần “Đổi mới, trí tuệ, dân chủ,
kỷ cương, đoàn kết”, “Phát huy truyền thống văn hiến, anh hùng và thành tựu đổi mới,
xây dựng thủ đô phát triển toàn diện, bền vững, thiết thực kỷ niệm 1000 năm Thăng
Long – Hà Nội” [22 – tr. 9]. Đại hội đã đánh giá chính xác, khách quan kết quả thực
hiện Nghị quyết Đại hội lần thứ XIII, Đảng bộ Thành phố và 20 năm thực hiện công
cuộc đổi mới, chỉ rõ những khuyết điểm, hạn chế, rút ra những bài học kinh nghiệm,
xác định phương hướng, mục tiêu, đề ra các giải pháp chủ yếu, khả thi để phát triển
Thủ đô giai đoạn 2006 - 2010 và những năm tiếp theo. Đại hội nêu lên những nhiệm
vụ và giải pháp để nâng cao chất lượng và hiệu quả giáo dục – đào tạo là:
+ Giáo dục và đào tạo phải đáp ứng nhu cầu cung cấp nguồn nhân lực chất
lượng cao cho phát triển kinh tế - xã hội Thủ đô và cả nước, là nòng cốt để xây dựng
người Hà Nội thanh lịch, văn minh, xây dựng xã hội học tập và tạo tiền đề phát triển
kinh tế tri thức. Tiếp tục đổi mới tư duy, nâng cao nhận thức về GD&ĐT, trước hết là
đổi mới phương pháp tổ chức, quản lý các hoạt động GD&ĐT, đổi mới phương pháp
dạy và học.
+ Đảm bảo chất lượng giáo dục toàn diện, quan tâm giáo dục mầm non, thực
hiện tốt đổi mới giáo dục phổ thông, tăng cường công tác hướng nghiệp, xây dựng hệ
thống giáo dục đa dạng, hiệu quả. Phấn đấu đạt chuẩn phổ cập giáo dục bậc trung học
và năm 2010, tăng nhanh tỷ lệ lao động qua đào tạo.
+Tăng cường giáo dục chủ nghĩa yêu nước, yêu CNXH, lòng tự hào dân tộc,
truyền thống thủ đô văn hiến, anh hùng và nếp sống văn hóa cho học sinh. Coi trọng
giáo dục đạo đức, thẩm mỹ, thể chất, đưa môn Hà Nội học, ngoại ngữ, tin học vào
giảng dạy ở các trường thuộc hệ thống GD&ĐT của Thành phố.
+ Nâng cao chất lượng đội ngũ giáo viên, cán bộ quản lý giáo dục, đảm bảo
100% có trình độ đạt chuẩn và tỷ lệ trên chuẩn cao. Phối hợp với Bộ GD&ĐT xây
dựng một số trường THPT, trung học chuyên nghiệp và đại học chất lượng cao, đạt
trình độ tiên tiến trong khu vực…



×