MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Quan điểm về xây dựng khối ĐĐKTD của Chủ tịch Hồ Chí Minh là một nội
dung quan trọng trong hệ thống những luận điểm cách mạng của Người. Vận dụng
quan điểm đó vào tư tưởng cách mạng Việt Nam Đảng ta xác định: xây dựng khối
ĐĐKTD là vấn đề chiến lược trong đường lối cách mạng. Việc thực hiện xây dựng
khối ĐĐKTD qua các thời kỳ lịch sử đã được Đảng tổng kết là một bài học kinh
nghiệm, một nguồn gốc tạo nên thắng lợi của sự nghiệp cách mạng. Hiện nay quan
điểm về xây dựng khối ĐĐKTD của Chủ tịch Hồ Chí Minh đang được kế thừa và
phát triển nhằm đáp ứng yêu cầu của thời kỳ Đảng lãnh đạo toàn dân thực hiện
thắng lợi sự nghiệp CNH, HĐH đất nước. Nội dung xây dựng khối ĐĐKTD trong
điều kiện mới đã có thêm những nhân tố mới, phản ánh đầy đủ, tập trung
nhất trong Văn kiện đại hội IX của Đảng Cộng sản Việt Nam:
"Thực hiện đại đoàn kết các dân tộc, tôn giáo, giai cấp, tầng lớp thành phần
kinh tế, mọi giới, mọi lứa tuổi, mọi vùng của đất nước, người trong Đảng và người
ngoài Đảng, người đang công tác và người đã nghỉ hưu, mọi thành viên trong đại
gia đình dân tộc Việt Nam dù sống ở trong nước hay ở nước ngoài. Phát huy sức
mạnh của cả cộng đồng dân tộc, truyền thống yêu nước, ý chí tự lực tự cường và
lòng tự hào dân tộc, lấy mục tiêu giữ vững độc lập dân tộc, thống nhất, vì dân giàu
nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ văn minh làm điểm tương đồng; tôn trọng
những ý kiến khác nhau không trái với lợi ích chung của dân tộc, xóa bỏ mặc cảm,
định kiến, phân biệt đối xử về quá khứ, giai cấp, thành phần xây dựng tinh thần cởi
mở, tin cậy lẫn nhau, hướng tới tương lai"[12, tr.45].
Để cụ thể hóa chủ trương về xây dựng khối ĐĐKTD mà Đại hội Đảng IX xác
định, Hội nghị lần thứ bảy Ban Chấp hành Trung ương khóa IX ra Nghị quyết (số
23 NQ/TW, 12-3-2003) về phát huy sức mạnh đại đoàn kết dân tộc vì dân giàu
nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh. Hội nghị khẳng định: ĐĐKTD
là vấn đề chính trị hệ trọng, có quan hệ đến sự phát triển của đất nước, đến đời
sống chính trị, kinh tế, xã hội của các tầng lớp nhân dân, vừa có tính thời sự cấp
bách, vừa có ý nghĩa chiến lược lâu dài, cần phải được giải quyết một cách khách
quan khoa học.
Trước tình hình thế giới và khu vực đang có nhiều diễn biến phức tạp, chủ
nghĩa đế quốc và các thế lực thù địch với nhiều âm mưu thủ đoạn thâm độc xảo
quyệt chống phá cách mạng nước ta. Chúng xuyên tạc quan điểm xây dựng khối
ĐĐKTD của Chủ tịch Hồ Chí Minh, đường lối chính sách đoàn kết dân tộc của
Đảng, gây chia rẽ đoàn kết giữa các dân tộc, các giai cấp, các tầng lớp xã hội, làm
tổn hại mối quan hệ máu thịt giữa Đảng với nhân dân, Đảng với Nhà nước, quân
đội Mặt trận Tổ quốc Việt Nam... Vì thế việc nghiên cứu, tìm hiểu tư tưởng xây
dựng khối ĐĐKTD của Chủ tịch Hồ Chí Minh để vận dụng xây dựng, mở rộng,
củng cố khối ĐĐKTD hiện nay là một yêu cầu cấp thiết, có ý nghĩa quan trọng về
lý luận và thực tiễn .
Tuy nhiên phạm vi và nội dung về xây dựng khối ĐĐKTD của Chủ tịch Hồ
Chí Minh rất phong phú, đa dạng ở các giai đoạn, thời kỳ cách mạng khác nhau.
Trong giới hạn của luận văn thạc sĩ lịch sử Đảng, tôi chọn đề tài:Chủ tịch Hồ Chí
Minh với việc xây dựng khối ĐĐKTD trong kháng chiến chống thực dân Pháp
xâm lược (1945-1954); qua đó góp phần vào nhiệm vụ nghiên cứu học tập tư
tưởng Hồ Chí Minh về xây dựng khối ĐĐKTD hiện nay.
2. Tình hình nghiên cứu có liên quan đến đề tài
Có nhiều công trình nghiên cứu về xây dựng khối ĐĐKTD của Chủ tịch Hồ
Chí Minh đã được công bố như: Giáo trình Lịch sử Đảng Cộng sản Việt Nam, Nxb
Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2001[20]; Lịch sử Đảng Cộng sản Việt Nam (sơ
thảo), tập 1 (1981), Nxb Sự thật, Hà Nội[3]. Lịch sử cuộc kháng chiến chống thực
dân Pháp xâm lược 1945-1954, tập 1, tập 2 (1993), Nxb Quân đội nhân dân, Hà
Nội[4]. Tổng kết cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp, thắng lợi và bài
học (1996), Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội[1]. Các công trình này đã đề cập đến
nhiều vấn đề lịch sử quan trọnng diễn ra dưới tác động tư tưởng đại đoàn kết dân
tộc của Hồ Chí Minh, song không đi chuyên sâu vào việc xây dựng ĐĐKTD.
Các chuyên khảo về cuộc đời và sự nghiệp Hồ Chí Minh, trong đó có đề cập
tới tư tưởng ĐĐKTD như: Hồ Chí Minh người chiến sĩ trên Mặt trận giải phóng
dân tộc của Hùng Thắng, Nguyễn Thành (1985) Nxb Khoa học xã hội, Hà
Nội[55]. Về con đường giải phóng dân tộc của Hồ Chí Minh của Trịnh Nhu - Vũ
Dương Ninh (1996), Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội[51]. Sự hình thành về cơ bản
tư tưởng Hồ Chí Minh của Giáo sư Trần Văn Giàu (1997), Nxb Chính trị quốc
gia, Hà Nội[15]. Tư tưởng Hồ Chí Minh và con đường cách mạng Việt Nam của
Võ Nguyên Giáp (chủ biên) (1997), Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội[14]. Sức mạnh
dân tộc của cách mạng Việt Nam dưới ánh sáng tư tưởng Hồ Chí Minh của Lê
Mậu Hãn (2001), Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội[17]. Tư tưởng dân vận của Chủ
tịch Hồ Chí Minh của Ban Dân vận Trung ương (1995), Nxb Chính trị quốc gia, Hà
Nội[2]; Hồ Chí Minh về tôn giáo và tín ngưỡng của Viện Nghiên cứu tôn giáo
(1996), Nxb Khoa học xã hội, Hà Nội[59]. Các công trình này đã nói về cuộc đời sự
nghiệp và những tư tưởng cơ bản của Chủ tịch Hồ Chí Minh đối với cách mạng
Việt Nam, trong đó có tư tưởng ĐĐKTD nhưng mới chỉ dừng lại ở khía cạnh
chung nhất.
Ngoài ra một số chuyên luận của các nhà khoa học trong và ngoài nước đã
được in ấn xuất bản trên các tạp chí: Cộng sản, Lịch sử Đảng, Nghiên cứu lịch sử,
Lịch sử quân sự hoặc trong kỷ yếu của các cuộc hội thảo nhân dịp kỷ niệm ngày
sinh của Chủ tịch Hồ Chí Minh, Các luận án, luận văn chuyên ngành Lịch sử
Đảng... Tất cả các sách trên đều nói về tư tưởng Hồ Chí Minh trên các lĩnh vực
của đời sống xã hội và giá trị của nó với giai đoạn hiện nay. Ở đó có đề cập đến tư
tưởng ĐĐKTD của Chủ tịch Hồ Chí Minh với từng thời kỳ lịch sử khác nhau.
Như vậy, cho đến nay đã có nhiều công trình nghiên cứu trực tiếp hoặc gián
tiếp liên quan đến tư tưởng ĐĐKTD Hồ Chí Minh, nhưng chưa công trình nào
nghiên cứu đầy đủ và có hệ thống về tư tưởng và sự chỉ đạo xây dựng khối đoàn
kết toàn dân của Chủ tịch Hồ Chí Minh trong kháng chiến chống thực dân Pháp
xâm lược 1945-1954.
3. Mục đích và nhiệm vụ của luận văn
Mục đích: Nghiên cứu làm sáng tỏ vai trò to lớn của Chủ tịch Hồ Chí Minh
với việc xây dựng khối ĐĐKTD trong kháng chiến chống thực dân Pháp xâm lược,
từ đó nêu lên sự vận dụng tư tưởng xây dựng khối ĐĐKTD Hồ Chí Minh để phát
huy sức mạnh toàn dân tộc tiếp tục đổi mới, đẩy mạnh CNH, HĐH, xây dựng và
bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa.
Nhiệm vụ:
- Phân tích làm rõ những nội dung cơ bản của tư tưởng Hồ Chí Minh về xây
dựng khối ĐĐKTD trong kháng chiến chống Pháp xâm lược 1945-1954.
- Trình bày những hoạt động lãnh đạo, chỉ đạo của Hồ Chí Minh và Đảng ta
xây dựng khối ĐĐKTD trong kháng chiến chống Pháp xâm lược.
- Nêu lên sự vận dụng tư tưởng Hồ Chí Minh về xây dựng khối ĐĐKTD trong
sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc hiện nay.
4. Cơ sở lý luận và phương pháp luận nghiên cứu đề tài
Cơ sở lý luận để thực hiện đề tài là lập trường quan điểm, phương pháp luận
của chủ nghĩa Mác-Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, đường lối chủ trương của Đảng
Cộng sản Việt Nam về vai trò quần chúng trong cách mạng và xây dựng lực lượng
cách mạng.
Đề tài sử dụng phương pháp chuyên ngành, kết hợp phương pháp lịch sử và
phương pháp lôgíc, phương pháp thống kê, so sánh... để thực hiện mục đích,
nhiệm vụ của đề tài.
5. Ý nghĩa của luận văn
Trên cơ sở trình bày có hệ thống và tập trung tư tưởng Hồ Chí Minh với việc
xây dựng khối ĐĐKTD trong kháng chiến chống thực dân Pháp xâm lược, luận
văn làm sáng tỏ hơn vai trò Hồ Chí Minh xây dựng khối ĐĐKTD trong một giai
đoạn lịch sử oanh liệt của đất nước. Qua đó góp phần nghiên cứu toàn diện, đầy
đủ tư tưởng Hồ Chí Minh nhằm bảo vệ phát triển tư tưởng Hồ Chí Minh về
ĐĐKTD hiện nay.
Luận văn nêu lên những vấn đề vận dụng tư tưởng đại đoàn kết Hồ Chí Minh
của Đảng ta vào sự nghiệp đổi mới hiện nay, để phát huy sức mạnh ĐĐKTD tộc
tham gia xây dựng và bảo vệ Tổ quốc trong điều kiệnmới.
Luận văn có thể sử dụng làm tài liệu tham khảo phục vụ cho nghiên cứu và
giảng dạy môn học tư tưởng Hồ Chí Minh ở các nhà trường trong và ngoài quân
đội.
6. Kết cấu của luận văn
Ngoài mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo, luận văn gồm 2 chương 5
tiết.
Chương 1
QUAN ĐIỂM CỦA CHỦ TỊCH HỒ CHÍ MINH VỀ XÂY DỰNG KHỐI
ĐẠI ĐOÀN KẾT TOÀN DÂN TRONG KHÁNG CHIẾN CHỐNG THỰC
DÂN PHÁP XÂM LƯỢC
1.1. Các nhân tố hình thành quan điểm xây dựng khối đại đoàn kết toàn dân
của Chủ tịch Hồ Chí Minh
1.1.1. Chủ tịch Hồ Chí Minh kế thừa, phát triển truyền thống đoàn kết của
dân tộc Việt Nam và những tinh hoa văn hoá thế giới
* Truyền thống đoàn kết dựng nước và giữ nước của dân tộc Việt Nam.
Nằm ở khu vực khí hậu nhiệt đới gió mùa, người dân Việt Nam vừa được
thừa hưởng sự ưu đãi của đất trời về thiên nhiên phong phú, vừa phải đối mặt với
những thử thách khắc nghiệt của thiên tai. Trong điều kiện đó, để tồn tại phát triển
những ưu thế của nền văn minh nông nghiệp, cộng đồng người Việt Nam phải
nương tựa vào nhau, đùm bọc và đoàn kết với nhau. Câu chuyện thần thoại Sơn
Tinh, Thủy Tinh được lưu truyền trong dân gian, phản ánh sức tàn phá ghê gớm
của thiên nhiên đối với cuộc sống con người và sự đoàn kết hợp lực sức người, sức
của để chống thiên tai. Hàng ngàn kilômét đê điều chạy dài theo các dòng sông,
cùng các công trình thủy nông lớn nhỏ khác, đó là sản phẩm cụ thể của trí tuệ, sức
lực mà bao thế hệ người Việt Nam gắn bó chung sức lao động mới tạo nên. Giáo
sư Nhật Bản Yohibata Tsuboi nhận xét: "Cùng một lúc, người Việt Nam phải gồng
mình lên để chống cả ba thiên tai lớn là lũ lụt, hạn hán và đủ loại côn trùng, sâu rầy
tàn phá"[58, tr.48].
Việt Nam ở vị trí địa lý chiến lược trong vùng Đông Nam châu Á, giàu tài
nguyên, khoáng sản. Do đó, từ xưa đến nay, nước ta là nơi thường xuyên bị giặc
ngoại xâm đe dọa thôn tính. Hoàn cảnh lịch sử xã hội đặt ra cho các dân tộc Việt
Nam luôn đương đầu với các thế lực xâm lược hùng mạnh.
Nếu tính từ đầu công nguyên đến nay, dân tộc ta đã trải qua hàng chục cuộc
chiến tranh để chống lại giặc ngoại xâm, giữ vững nền độc lập cho đất nước. Một
đặc điểm dễ nhận thấy là, trong các cuộc chiến tranh đó, kẻ thù đều lớn mạnh hơn
ta gấp bội. Có những thế lực từng đi xâm lược nhiều quốc gia, thống trị nhiều dân
tộc từ Tây sang Đông, đến Việt Nam chúng phải chịu thất bại nhục nhã, bởi vấp
phải sức mạnh của khối đoàn kết toàn dân, trên dưới một lòng, chung sức đánh
giặc giữ nước. Khởi nghĩa hai Bà Trưng (40-43) đã nhanh chóng lôi cuốn, tập hợp
nhiều người dân yêu nước từ khắp mọi nơi kéo về Mê Linh, có cả đồng bào Tày,
Nùng ở Việt Bắc, người Mán, người Ly ở bốn quận Giao Chỉ, Cửu Chân, Nhật
Nam, Hợp Phố. ách thống trị của nhà Hán bị đập tan, do chính sức mạnh đoàn kết
của toàn dân Việt Nam.
Thế kỷ XI, trong cuộc kháng chiến chống quân Tống xâm lược, nhà Lý đã
tranh thủ được các tầng lớp nhân dân các dân tộc phía Bắc và Đông - Bắc, làm thất
bại âm mưu chia rẽ của kẻ thù. Điều nổi bật là nhà Lý đã xây dựng được lực lượng
quốc phòng và củng cố khối đoàn kết dân tộc. Đó là một trong những nguyên nhân
khiến quân Tống phải thất bại.
Dưới đời Trần, thế kỷ thứ XIII, truyền thống đoàn kết chống giặc ngoại xâm
của dân tộc được thể hiện qua ba lần kháng chiến chống quân Nguyên. Sức mạnh,
ý chí đoàn kết toàn dân thể hiện trên dưới đồng lòng, anh em hòa thuận, toàn dân
ra sức đánh giặc cứu nước.
Thế kỷ XV, khởi nghĩa Lam Sơn do Lê Lợi lãnh đạo chống quân Minh kéo dài
suốt 10 năm cuối cùng đã giành được thắng lợi oanh liệt, bởi đã tập hợp được
"bốn phương manh lệ" dưới ngọn cờ cứu nước, cứu dân.
Như vậy, lịch sử dựng nước và giữ nước của dân tộc Việt Nam là sự tiếp nối
hàng ngàn năm những cuộc đấu tranh không mệt mỏi chống bão lụt, hạn hán thiên
tai đe dọa và chống chiến tranh xâm lược của các thế lực ngoại bang. Từ trong
các cuộc đấu tranh trường kỳ đó, không biết từ bao giờ đã nảy sinh và định hình ý
thức tập thể, ý thức cộng đồng, hơn thế nữa là ý thức Việt Nam, được truyền từ thế
hệ này đến thế hệ khác, tạo thành truyền thống đoàn kết nhân nghĩa, trên nền tảng
của chủ nghĩa yêu nước. Ông cha ta đã nhắc nhở mọi thế hệ người Việt Nam phải
luôn thực hiện.
"Bầu ơi thương lấy bí cùng
Tuy rằng khác giống nhưng chung một giàn"
Lòng yêu nước, tinh thần đoàn kết, đạo lý sống nhân nghĩa vẹn toàn đã trở
thành tình cảm tự nhiên, thói quen của mỗi người dân Việt Nam.
" Nhiễu điều phủ lấy giá gương
Người trong một nước phải thương nhau cùng"
Bằng kinh nghiệm xương máu, mồ hôi nước mắt của chính mình, nhân dân ta
đã khái quát thành phương châm sống, một triết lý nhân sinh quan mang đậm tính
khoa học.
" Một cây làm chẳng nên non
Ba cây chụm lại nên hòn núi cao"
Những phép ứng xử Nhà - Làng - Nước, sống với nhau có xóm dưới làng
trên, thái bình cùng nhau hưởng, hoạn nạn cùng nhau gánh vác, đã trở thành lẽ
thường tình trong mỗi người.
Chủ tịch Hồ Chí Minh sinh ra và lớn lên trong gia đình nhà nho nghèo, yêu
nước ở Nghệ An, miền đất giàu truyền thống yêu nước, đoàn kết, nhân nghĩa.
Người sớm có lòng yêu nước truyền thống, trải qua hoạt động thực tiễn phong phú
và tiếp thu chủ nghĩa Mác-Lênin, Người đã kế thừa và nhân lên giá trị nhân bản
của truyền thống yêu nước, Hồ Chí Minh đã khái quát đánh giá về truyền thống
đoàn kết của nhân dân ta là: "Từ xưa đến nay, mỗi khi Tổ quốc bị xâm lăng, thì
tinh thần yêu nước ấy lại sôi nổi, nó kết thành một làn sóng vô cùng mạnh mẽ, to
lớn, nó lướt qua mọi nguy hiểm khó khăn, nó nhấn chìm tất cả lũ bán nước và cướp
nước"[47, tr.171]. Suy nghĩ, nghiên cứu lời tổng kết cô đọng và sâu sắc này, có thể
thấy Hồ Chí Minh đã thấu triệt đến mức nào giá trị của truyền thống đoàn kết dân
tộc. Người không những kế thừa, phát triển truyền thống đoàn kết đó, mà còn
muốn cho mọi người Việt Nam phải hiểu biết lịch sử nước nhà "Dân ta phải biết sử
ta, cho tường gốc tích nước nhà Việt Nam"[26, tr.221]. Hiểu sử để nhân lên giá trị
tốt đẹp truyền thống yêu nước của dân tộc. Qua tìm hiểu lịch sử, Người nhắc nhở:
"Dân ta xin nhớ chữ đồng, đồng tâm, đồng sức, đồng lòng, đồng minh"[26, tr.229].
Truyền thống đoàn kết chống thiên tai và chống ngoại xâm của dân tộc
Việt Nam là do hoàn cảnh khách quan của điều kiện đất nước, xã hội mang lại.
Nắm bắt điều kiện khách quan đó thông qua chủ thể trong mỗi con người, mỗi tập
thể, mỗi dân tộc của đại gia đình các dân tộc Việt Nam, hợp thành sức mạnh
ĐĐKTD. Và thật hiển nhiên, chính truyền thống đoàn kết dân tộc đó là cơ sở đầu
tiên hết sức quan trọng để Chủ tịch Hồ Chí Minh kế thừa, phát triển xây dựng
khối ĐĐKTD. Bởi chính Hồ Chí Minh nghiên cứu lịch sử nước nhà, để nhận thức
từ lịch sử truyền thống đoàn kết về dựng nước và giữ nước đem vận dụng vào
hiện tại, làm sao đoàn kết toàn dân, đánh đuổi đế quốc và thực dân.
* Những giá trị nhân bản trong văn hoá phương Đông, phương Tây.
Là người ham học hỏi, ham hiểu biết, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã nghiên cứu,
tham khảo các chủ thuyết, các tư tưởng tập hợp lực lượng cách mạng của các nhà
cách mạng trên thế giới và ở khu vực. Đối với Tôn Dật Tiên, Người sáng lập Quốc
dân Đảng Trung Hoa, và tổ chức, lãnh đạo cách mạng Tân Hợi 1911. Trong quan
điểm đoàn kết dân tộc, Tôn Dật Tiên chủ trương thành lập một lực lượng gồm 400
dòng họ ở khắp cả nước, không phân biệt giai cấp, hợp tác với Đảng Cộng sản
Trung Quốc, tạo ra một MTDTTN rộng rãi, ủng hộ công nông, bởi vì đó là một lực
lượng chiếm đại đa số trong nhân dân.
Thời kỳ 1924 - 1926, chủ nghĩa Tôn Dật Tiên được đánh giá là một học
thuyết tiến bộ cùng với ba chính sách lớn: Liên Nga, hiệp Cộng, ủng hộ công nông, một phong trào cách mạng phát triển mạnh mẽ ở đây. Qua đó tư tưởng Tôn
Dật Tiên đã ảnh hưởng lớn tới các nhà yêu nước, Việt Nam, trong đó có Hồ Chí
Minh.
Đối với lãnh tụ của Đảng Quốc đại ấn Độ - Mahatma Gandhi, một nhà ái quốc
tiêu biểu, tư tưởng đoàn kết dân tộc của ông đã tập hợp, thức tỉnh, phát huy sức
mạnh của nhân dân ấn Độ thực hiện cuộc đấu tranh giành độc lập, tư tưởng đó có
ảnh hưởng sâu rộng tới nhiều nước ở châu Á.
Hồ Chí Minh đã tiếp thu những tư tưởng tích cực trong việc tập hợp sức mạnh
các tầng lớp nhân dân của Tôn Trung Sơn, Gandhi và các nhà cách mạng khác
trong khu vực và trên thế giới một cách có chọn lọc, qua đó khắc phục những hạn
chế ở họ, để xây dựng khối đoàn kết toàn dân, thực hiện mục tiêu độc lập dân tộc.
Tiếp thu văn hóa phương Đông, nhất là giá trị nhân bản của Nho giáo, Phật
giáo, Hồ Chí Minh đã chắt lọc các yếu tố tích cực trong tư tưởng "đại đồng", quan
điểm nhân ái và luân lý yêu thương của Nho giáo, được cải biến và cách mạng
hóa trong quá trình xây dựng khối đoàn kết toàn dân. Tư tưởng "Lục hòa" của
Phật giáo, thực chất đó là sáu phương pháp cư xử, nhằm tạo ra sự hòa hợp từ vật
chất đến tinh thần, từ lời nói đến việc làm của chúng sinh, nhằm đạt tới mục đích
cao đẹp, đó là: thân hòa đồng trụ, ngôn hòa đồng hiệp, ý hòa đồng duyệt, giới hòa
đồng tu, kiến hòa đồng giải, lợi hòa đồng quân. Nghiên cứu "lục hòa" của đạo
Phật, Hồ Chí Minh đã hình thành những nguyên tắc, phương pháp đoàn kết hết
sức khoa học và dễ hiểu.
Sinh ra và lớn lên ở phương Đông, nhưng cuộc đời hoạt động của Hồ Chí
Minh có một thời gian dài ở phương Tây. Người đã tiếp thu những giá trị nhân
bản trong nền văn hóa phương Tây, nhất là những hạt nhân hợp lý về tư tưởng tự
do, bình đẳng, bác ái. Ngay từ khi còn ngồi trên ghế nhà trường ở quê hương,
khẩu hiệu "tự do, bình đẳng, bác ái" của đại cách mạng tư sản Pháp đã đến với
Người qua một số nhà hoạt động chính trị lúc đó. Giao lưu, tiếp cận với văn hóa
Phương Tây, có lẽ câu cách ngôn "đoàn kết là sức mạnh" của nước Pháp đã tác
động đến Người rất nhiều. Theo nhiều người "Tây học" cũ, thì đây là một câu cách
ngôn được viết lên bảng đen đầu tuần, tại các trường tiểu học do Pháp mở trong
thời gian thực dân Pháp cai trị Đông Dương. Phương Tây còn có những câu như
"đoàn kết thì sống, chia rẽ thì chết", "nếu cái việc mà mỗi người chúng ta không
làm được, hợp sức lại biết đâu sẽ làm được", "vì đồng lòng mà việc nhỏ thành lớn,
vì bất hòa mà việc lớn thành tan vỡ"... Hồ Chí Minh đã biết đến câu châm ngôn
của nước Anh "quả đấm mạnh hơn bàn tay dù nó chỉ là bàn tay". Đọc Vôn te, Hồ
Chí Minh nắm được tinh thần "nhân dân là sức mạnh không ai chế ngự nổi". Đọc
Môngtetskiơ, trong cuốn "Về tinh thần luật pháp", Người đã bắt gặp câu "với
100.000 cánh tay, nhân dân có thể lật đổ tất cả". Có lẽ chưa có cơ sở khoa học,
lịch sử để khẳng định chắc chắn rằng, những hiểu biết về đoàn kết mà Hồ Chí
Minh rút ra từ nền văn minh, văn hóa Đông, Tây vào thời điểm đó. Nhưng cũng
không thể phủ nhận được, Hồ Chí Minh đã bổ sung cho mình những tinh hoa văn
hoá thế giới trong tư tưởng đại đoàn kết của Người. Một con người "đã coi đoàn
kết - đại đoàn kết, đại hoà hợp là đường lối cách mạng, là một phương pháp cách
mạng hẳn không thể thiếu được từ vốn tinh hoa của loài người"[19, tr.16].
1.1.2. Chủ tịch Hồ Chí Minh thấm nhuần lý luận Mác-Lênin về vai trò
quần chúng trong cách mạng
Nhân tố quan trọng nhất để hình thành tư tưởng xây dựng khối ĐĐKTD Hồ
Chí Minh là những nguyên lý cơ bản của chủ nghĩa Mác-Lênin, mà quan điểm cốt
lõi là vai trò quần chúng trong cách mạng - người sáng tạo ra lịch sử.
Nói tới vai trò quần chúng nhân dân, đây là vấn đề đầu tiên mà Mác quan tâm
trong quá trình nghiên cứu lý luận và hoạt động cách mạng, đây là mốc đánh dấu
sự chuyển biến tư tưởng của Mác từ chủ nghĩa duy tâm sang chủ nghĩa duy vật
trong lĩnh vực xã hội. Lênin khẳng định: Những lý luận trước kia đã không nói đến
chính ngay hành động của quần chúng nhân dân, còn chủ nghĩa duy vật lịch sử, lần
đầu tiên đã giúp ta nghiên cứu một cách chính xác, như khoa học tự nhiên, những
điều kiện xã hội của đời sống quần chúng, và những biến đổi của những điều kiện
ấy.
Quần chúng nhân dân bao gồm rộng rãi các tầng lớp nhân dân, họ là những
người bị bóc lột khổ cực. Học thuyết Mác-Lênin khẳng định vai trò quần chúng
nhân dân là chủ thể sáng tạo của lịch sử, xây dựng một thế giới mới tự do, bình
đẳng, bác ái thực sự, khi được Đảng của giai cấp vô sản lãnh đạo. Quần chúng
nhân dân được tổ chức vùng lên làm cách mạng, lật đổ chế độ tư bản, họ "chẳng
mất gì hết, ngoài những xiềng xích trói buộc họ. Họ sẽ giành được cả thế giới"[25,
tr.646].
Quần chúng nhân dân có vai trò đặt biệt quan trọng, vì đã chuyển hoá lý luận
cách mạng thành hiện thực cách mạng. Bởi lý luận cách mạng có vai trò quan
trọng với phong trào cách mạng, nhưng lý luận cách mạng tự bản thân nó không
thực hiện được sự cải tạo xã hội, lý luận không phải là lực lượng vật chất. "Lực
lượng vật chất chỉ có thể bị đánh đổ bằng lực lượng vật chất; nhưng lý luận cũng
sẽ trở thành lực lượng vật chất, một khi nó xâm nhập vào quần chúng"[24, tr.580].
Quần chúng nhân dân không những là lực lượng sản xuất cơ bản của xã hội, trực
tiếp sáng tạo ra mọi của cải xã hội, mà còn là người quyết định vận mệnh của
lịch sử, có sứ mạng phá cái cũ dựng nên cái mới. Lịch sử xã hội phát triển có
những lúc quanh co phức tạp, nhưng rồi lại ổn định theo một trật tự nhất định.
Sự ổn định đó là nhờ có hoạt động của quần chúng. Ăng ghen nói: Quần chúng
là những người đã đưa mọi việc trở lại nề nếp.
Cách mạng vô sản muốn thắng lợi,phải được sự ủng hộ của đông đảo quần
chúng nhân dân. Mác coi sự ủng hộ của lực lượng nông dân đông đảo đối với
phong trào vô sản là một bài đồng ca, ngược lại nếu không có bài đồng ca đó thì
cách mạng vô sản sẽ trở thành "một bài ai điếu".
Đến với lý luận Mác-Lênin, khi đọc "Sơ thảo lần thứ nhất những luận cương
về vấn đề dân tộc và vấn đề thuộc địa" của Lênin, Hồ Chí Minh đã tìm thấy con
đường cứu nước đúng đắn cho cách mạng Việt Nam - con đường cách mạng vô
sản. Đây là một bước ngoặt trong cuộc đời hoạt động cách mạng của Hồ Chí
Minh, Người đã gặp tư tưởng cách mạng của thời đại đó là chủ nghĩa Mác-Lênin.
Để thực hiện chiến lược "vô sản tất cả các nước và các dân tộc bị áp bức
đoàn kết lại", Quốc tế cộng sản đã lập các tổ chức quốc tế khác nhau với tư cách
là các tổ chức quần chúng, hợp thành một trận tuyến cách mạng rộng lớn như:
Quốc tế thanh niên, Quốc tế nông dân, Quốc tế phụ nữ, Quốc tế cứu tế đỏ, Liên
đoàn chống đế quốc... Mô hình này được Quốc tế cộng sản triển khai và thực hiện
ở các nước do giai cấp vô sản lãnh đạo, nhất là những nơi yếu tố dân tộc còn
chiếm ưu thế. Đây là nơi rất thuận lợi để tập hợp trong Mặt trận thống nhất một
lực lượng cách mạng rộng lớn, tạo điều kiện cho quần chúng nhân dân tham gia
cách mạng.
Tháng 12.1921, Quốc tế cộng sản triệu tập Đại hội các dân tộc Viễn Động tại
Mátxcơva. Đại hội thông qua nghị quyết chỉ rõ: con đường thực sự dẫn tới tự do
và độc lập của các dân tộc bị áp bức ở Viễn Đông là phải trải qua sự liên minh
của quần chúng lao động vùng lên đấu tranh. Đầu năm 1923, Quốc tế cộng sản
bắt tay chỉ đạo việc xây dựng MTDTTN ở nước Trung Hoa cách mạng bằng việc
thúc đẩy hợp tác giữa Đảng Cộng sản và Quốc dân Đảng cùng mục tiêu chống
chủ nghĩa đế quốc.
Quá trình hoạt động trong phong trào cộng sản và công nhân quốc tế, Hồ
Chí Minh tin theo Quốc tế cộng sản (quốc tế III), tin theo Lênin, vì chủ nghĩa
Lênin đã bênh vực quyền lợi của các dân tộc bị áp bức. Lênin là "hiện thân của
tình anh em bốn bể". Chủ nghĩa Lênin đã chỉ ra con đường tập hợp đoàn kết các
lực lượng quần chúng cách mạng toàn thế giới, lực lượng cách mạng ở các nước
thuộc địa, đoàn kết cách mạng thuộc địa với cách mạng chính quốc. Điều cần
nhấn mạnh ở đây là, chính những nguyên lý của chủ nghĩa Mác-Lênin về vai trò
quần chúng trong cách mạng, về cách thức tổ chức xây dựng lực lượng cách
mạng, để Chủ tịch Hồ Chí Minh có cơ sở khoa học đánh giá chính xác những yếu
tố tích cực, những hạn chế của các di sản truyền thống dân tộc,văn hoá nhân loại,
tư tưởng đoàn kết tập hợp lực lượng của các nhà yêu nước Việt Nam tiền bối,
những mặt hợp lý, chưa hợp lý của các nhà cách mạng lớn trên thế giới. Lý luận
Mác-Lênin về vai trò quần chúng cách mạng được Hồ Chí Minh tiếp thu đó là cơ
sở, điều kiện về mặt nhận thức luận để xây dựng khối ĐĐKTD của Người. Nhưng
mặt khác, tuy Người xác định chủ nghĩa Mác-Lênin là cái "cẩm nang thần kỳ" là
"kim chỉ nam" cho hành động cách mạng, là "con đường cần thiết cho chúng ta"
nhưng không quan niệm giáo điều. Chủ nghĩa Mác-Lênin đã giải đáp được yêu
cầu thực tiễn cách mạng Việt Nam. Đó mới chỉ là phương hướng, là con đường tất
yếu của cách mạng Việt Nam. Phương hướng đó muốn đi đến thắng lợi, những
người cách mạng và nhân dân Việt Nam phải vận dụng sáng tạo lý luận, vạch ra
chủ trương đường lối, biện pháp cách mạng phù hợp với từng thời kỳ, từng giai
đoạn lịch sử để giành thắng lợi từng bước, tiến tới giành thắng lợi hoàn toàn. Và
theo Hồ Chí Minh như thế mới là hiểu và thấm nhuần lý luận Mác-Lênin.
Hồ Chí Minh nắm vững bản chất nguyên lý mácxít về đoàn kết giai cấp vô
sản, về vai trò của quần chúng nhân dân trong cách mạng, về phương pháp tập
hợp lực lượng cách mạng để đánh đuổi đế quốc thực dân, về liên minh công nông
với các tầng lớp nhân dân lao động khác... Đồng thời để qui tụ muôn người về một
hướng, đòi hỏi phải giải quyết tốt mối quan hệ giữa dân tộc và giai cấp, cách
mạng chính quốc với cách mạng thuộc địa, vai trò của cách mạng thuộc địa nói
chung và cách mạng thuộc địa ở Đông Dương nói riêng. Hồ Chí Minh có rất nhiều
sáng tạo, vận dụng lý luận vào thực tiễn rất thiết thực và hiệu quả, phù hợp với xã
hội thuộc địa nửa phong kiến. Có thể nói rằng, quan điểm về xây dựng khối đoàn
kết toàn dân Hồ Chí Minh mang một sắc thái riêng nhưng nằm trong nguyên lý
chung và rất Việt Nam.
1.1.3. Thực tiễn cách mạng thế giới, cách mạng Việt Nam
* Thực tiễn cách mạng thế giới:
Quá trình đi tìm đường cứu nước, Hồ Chí Minh đã hành trình khảo sát tỷ mỉ,
toàn diện tình hình của nhiều nước tư bản chủ nghĩa và thuộc địa ở khắp các châu
lục. Những nhận thức quan trọng rút ra của Người từ vốn hiểu biết thực tiễn phong
phú về đời sống chính trị - xã hội quốc tế được biểu hiện: Thế giới dù hết sức đa
dạng, nhân loại dù vô cùng phong phú về các mặt, song suy cho đến cùng chỉ có
hai hạng người: bóc lột và bị bóc lột. Những người bị bóc lột, muốn thoát khỏi nô
lệ lầm than, chỉ còn cách duy nhất là đoàn kết, liên hiệp lại đánh đổ giai cấp bóc lột
mình.
Từ thực tiễn hoạt động của mình, Người nhận định tiềm năng cách mạng của
nhân dân các dân tộc bị áp bức là rất to lớn, nó sẽ bùng lên mạnh mẽ, hình thành
một lực lượng khổng lồ khi được giáo dục, giác ngộ, tổ chức lãnh đạo. Hồ Chí
Minh dự báo: Ngày mà hàng trăm triệu nhân dân châu Á bị tàn sát và áp bức thức
tỉnh để gạt bỏ sự bóc lột đê tiện của một bọn thực dân lòng tham không đáy, họ sẽ
hình thành một lực lượng khổng lồ, và trong khi thủ tiêu một trong những điều
kiện tồn tại của chủ nghĩa tư bản là chủ nghĩa đế quốc, họ có thể giúp đỡ những
người anh em mình ở phương Tây trong nhiệm vụ giải phóng hoàn toàn. Sự tổng
kết này đã tạo ra niềm tin vô tận vào sức mạnh trong các tầng lớp nhân dân bị áp
bức bóc lột. Những người cách mạng phải làm gì để tổ chức khối quần chúng này
lại nhằm thực hiện mục đích của giai cấp vô sản.
Kinh nghiệm của cách mạng thế giới cho thấy, Công xã Pa ri thất bại vì giai
cấp vô sản ở đó không liên minh được với giai cấp nông dân, một lực lượng đông
đảo giúp họ giành thắng lợi. Cách mạng tháng Mười Nga thành công, vì dựa vào
khối công - nông – binh, đây thực chất là liên minh công nông do giai cấp công
nhân lãnh đạo. Qua thực tiễn hoạt động cách mạng của mình, đúc rút từ hiện thực
phong trào cách mạng thế giới, đó là một nhân tố quan trọng để Hồ Chí Minh hình
thành chiến lược ĐĐKTD.
* Thực tiễn cách mạng Việt Nam:
Để xâm lược và thống trị Việt Nam, một trong những chính sách thâm độc
xảo quyệt của thực dân Pháp là chia để trị. Theo sắc lệnh của Tổng thống Pháp
ngày 17.10.1887, Liên bang Đông Dương ra đời, nước Việt Nambị xóa tên trên
bản đồ thế giới, cơ cấu hành chính được chia làm ba xứ với những chế độ cai trị
khác nhau. Một xã hội thuộc địa đang hình thành với cơ cấu xã hội mới, đan xen
chồng chéo các tôn giáo, đẳng cấp, tập tục, lề thói đa dạng trên một nền xã hội
truyền thống đang phân rã. Ngược lại với chính sách chia rẽ các dân tộc của thực
dân Pháp, chỉ có thể là sự đồng tâm, hiệp lực, chung sức, chung lòng, không phân
biệt giai cấp, tôn giáo, dân tộc, giàu nghèo, đoàn kết lại cùng nhau đứng lên đánh
đuổi bọn ngoại xâm giành độc lập cho dân tộc. Thực tiễn quá trình xâm lược
Việt Nam, thực dân Pháp đã vấp phải phong trào kháng Pháp diễn ra sôi nổi, rộng
khắp trên mọi miền đất nước. Điều đó chứng tỏ tinh thần yêu nước kiên cường của
cả một dân tộc quyết không chịu khuất phục, không chịu làm nô lệ.
Khảo nghiệm từ thực tiễn lịch sử, phong trào Cần Vương thuộc hệ tư tưởng
phong kiến cuối thế kỷ XIX, đến phong trào Đông Du, Duy Tân theo xu hướng tư
sản đầu thế kỷ XX, các bậc anh hùng nghĩa hiệp, với lòng quả cảm yêu nước có
thừa, nhưng đều thất bại chua xót. Chính Phan Bội Châu đã tự tổng kết cuộc đời
"một trăm thất bại không một thành công". Cụ Phan Chu Trinh tự ví mình như con
ngựa đã già, như hoa sắp tàn, nhưng vẫn còn "hiềm vì quốc phá gia vong".
Thực tiễn hào hùng bi thương của các phong trào yêu nước chống thực dân
Pháp xâm lược cuối thế kỷ XIX đầu thế kỷ XX cho ta thấy rằng: lòng yêu nước,
chí căm thù quân xâm lược của nhân dân ta đời nào cũng có. Sức mạnh đoàn kết
đánh giặc luôn thường trực tiềm ẩn trong mỗi gia đình, mỗi con người, mỗi dòng
họ, mỗi xóm làng Việt Nam. Nhưng không phải khả năng tiềm ẩn đó lúc nào cũng
được nhân lên và phát huy tác dụng. Những thất bại của các phong trào đó cho
thấy: trong thời đại ngày nay, chỉ có thể đánh bại được các thế lực thực dân đế
quốc xâm lược, khi cả một dân tộc biết đoàn kết chặt chẽ, tự giác, có tổ chức muôn
người như một. Bi kịch của xã hội Việt Nam lúc đó là thiếu một đường lối cách
mạng đúng đắn, mà nguyên nhân chính là thiếu một giai cấp tiên tiến lãnh đạo, một
lãnh tụ kiệt xuất đủ sức quy tụ mọi tầng lớp nhân dân, xây dựng khối ĐĐKTD,
đánh đuổi kẻ thù giành độc lập dân tộc.Thực tiễn này là một cơ sở quan trọng để
Hồ Chí Minh có quan điểm xây dựng khối ĐĐKTD một cách đúng đắn.
Trong các nhân tố hình thành quan điểm xây dựng khối đại đoàn kết của Hồ
Chí Minh, sẽ là không đủ nếu không đề cập tới nhân tố chủ quan, chủ nghĩa nhân
văn và đạo đức trong sáng Hồ Chí Minh. Chính nhân tố này đã góp phần quan
trọng vào việc tập hợp, lôi cuốn hàng triệu con người đoàn kết xung quanh Người.
Xét dưới góc độ đạo đức, nhân cách, quan điểm đại đoàn kết Hồ Chí Minh
mang đậm lòng nhân ái, bao dung, đức tin mãnh liệt. Người không chỉ kêu gọi, vận
động nhân dân đoàn kết, mà còn cảm hoá, cuốn hút nhân dân bằng tấm lòng "trung
với nước, hiếu với dân" bằng việc: tôi hy sinh cả đời tôi cho dân tộc tôi, bằng cuộc
đời "cần, kiệm, liêm, chính, chí công, vô tư". Nhân cách và đạo đức trong sáng Hồ
Chí Minh đã làm cho quan điểm đại đoàn kết của Người không chỉ là khẩu hiệu
chính trị, mà trở thành hành động thực tế quy tụ toàn dân tộc hướng vào sự nghiệp
cách mạng.
Thực tiễn có nhiều người không biết, chưa hiểu, thậm chí không ưa gì chủ
nghĩa cộng sản, nhưng họ biết rất rõ Hồ Chí Minh là người cộng sản, lãnh tụ của
cộng sản và tin theo Hồ Chí Minh, vì người cộng sản Hồ Chí Minh thấm đượm
những giá trị cao quý của nhân loại, những phẩm chất tốt đẹp của con người Việt
Nam. Khâm phục nhân cách đó họ tin và làm theo không ai ngăn cản được họ. Chủ
nghĩa nhân văn, đạo đức trong sáng Hồ Chí Minh không những cảm hoá, thu hút
được các tầng lớp người trong xã hội, các đảng phái, giai cấp, tôn giáo, dân tộc dù
họ có những chính kiến khác nhau, mà còn giác ngộ trong hàng ngũ địch những
người lầm đường lạc lối để trở về với cách mạng.
Khi đánh giá về việc đoàn kết các tầng lớp nhân dân, tập hợp các dân tộc
trong đại gia đình Việt Nam, giáo sư Wilfried Lulei, người Đức viết: "Ở đây tôi
thấy lý do chính trị là sự định hướng trọn đời của ông (Hồ Chí Minh) cho độc lập,
dân chủ, hoà bình và thống nhất. Sự định hướng đó không bao giờ là sách lược tạm
thời, mà là sự biểu hiện của một tư tưởng nhân văn sâu sắc. Đó là lý do giải thích
vì sao đối với ông, thống nhất không chỉ có ý nghĩa lãnh thổ. Mục đích của ông là
sự chung lưng đấu cật của mọi người tự đáy lòng yêu thiết tha quê hương mình,
không giành riêng hay thiên vị sắc tộc, hay vùng quê, không phân biệt địa vị xã
hội, tín ngưỡng xu hướng chính trị, gạt sang bên những gì họ đã vấp phải trong quá
khứ"[52, tr.39]. Như vậy, cơ sở hình thành tư tưởng đại đoàn kết Hồ Chí minh là
sự hòa quyện các nhân tố khách quan với nhân tố chủ quan trong Hồ Chí Minh. Đó
là xuất phát điểm để hình thành những quan điểm cơ bản về xây dựng khối
ĐĐKTD của Người.
1.2. Những quan điểm cơ bản về xây dựng khối đại đoàn kết toàn dân của
Chủ tịch Hồ Chí Minh
1.2.1. Sức mạnh cuộc kháng chiến là sức mạnh của toàn dân
Khi bàn về phạm trù nhân dân, Lênin nói: "Khi dùng danh từ nhân dân, Mác
không thông qua danh từ ấy xóa mờ mất sự khác biệt về giai cấp; Mác đã gộp danh
từ ấy những thành phần nhất định có khả năng làm cách mạng đến cùng"[23,
tr.159].
Phạm trù nhân dân thường được giới hạn trong phạm vi mối quan hệ giai cấp,
giữa giai cấp vô sản với giai cấp nông dân và các tầng lớp bị áp bức bóc lột trên
toàn thế giới. Vận dụng quan niệm nhân dân của chủ nghĩa Mác-Lênin vào thực
tiễn xã hội Việt Nam, một nước thuộc địa nửa phong kiến, kế thừa giá trị truyền
thống tốt đẹp của cha ông ta quan niệm về nhân dân, Chủ tịch Hồ Chí Minh quan
niệm nhân dân, toàn dân là mọi người Việt Nam yêu nước, không phân biệt già trẻ,
gái trai, giàu nghèo, đẳng cấp, tôn giáo, dân tộc... trong đó công nông chiếm tuyệt
đại đa số.
Quan niệm về nhân dân của Chủ tịch Hồ Chí Minh được biểu hiện:
Trước hết, Hồ Chí Minh quan niệm nhân dân là những người yêu nước, nếu
họ được tổ chức, giáo dục, rèn luyện tốt thì sẽ tạo thành sức mạnh to lớn mà không
thực dân đế quốc nào thắng nổi.
Hai là, họ gồm lực lượng đông đảo của cách mạng thuộc tất cả các tầng lớp,
các thế hệ già, trẻ, gái, trai, các tổ chức đoàn thể xã hội, các dân tộc, các tôn giáo,
giai cấp, miền xuôi hay miền ngược, trong Nam hay ngoài Bắc, kiều bào ta ở nước
ngoài.
Ba là, họ có chung một cộng đồng, quốc gia lãnh thổ, có cùng cội nguồn tổ
tiên là "con Lạc cháu Hồng", sinh ra "cùng một bọc", là anh em ruột thịt đều là
người Việt Nam từ ngàn đời nay, sống chết có nhau, sướng khổ có nhau, "no đói
giúp nhau".
Như vậy, quan niệm nhân dân của Chủ tịch Hồ Chí Minh bao gồm toàn dân,
các giai cấp, các dân tộc, mọi tầng lớp xã hội (trừ bọn việt gian tay sai) họ có lòng
yêu nước chống đế quốc phản động "Bất kỳ đàn ông, đàn bà, bất kỳ người già,
người trẻ, không chia tôn giáo, đảng phái dân tộc".
Vai trò của nhân dân đối với cách mạng được Hồ Chí Minh chỉ ra ngay từ tác
phẩm "Đường cách mệnh". Người giải thích: do tính chất và nội dung của cách
mạng là rất phức tạp, vì phải thay thế toàn bộ chế độ cũ bằng một chế độ mới, đó là
một việc lớn và rất khó, nhưng khó đến đâu, biết cách làm thì nhất định sẽ làm
được và thành công. Cách làm đó là "phải đoàn kết dân chúng bị áp bức để đánh
đổ cả cái giai cấp áp bức mình, chứ không phải chỉ nhờ 5, 7 người, giết 2, 3 anh
vua, 9, 10 anh quan mà được". Sức mạnh của cách mạng phải nằm trong nhân dân,
quần chúng nhân dân là người sáng tạo ra lịch sử. Đồng chí Trường Chinh nhận
xét: "Trước Hồ Chủ tịch các nhà cách mạng Việt Nam thường cho rằng cách mạng
nước ta phải do những vị anh hùng xuất chúng những người tài cao học rộng làm,
những người đó chỉ cần hô một tiếng là quần chúng nhân dân nổi dậy răm rắp và
thực hiện ý muốn chủ quan của họ. Hồ Chủ tịch trái lại đã nhận rõ sự nghiệp cách
mạng là của quần chúng nhân dân đông đảo, trước hết là của những tầng lớp nghèo
khổ nhất, bị áp bức bóc lột nhiều nhất, của công nhân và nông dân"[6, tr.45]. Đánh
giá vai trò, sức mạnh của nhân dân, Hồ Chí Minh đã tổng kết rút ra: "Trong bầu
trời không có gì quý bằng nhân dân. Trong thế giới không có gì mạnh bằng lực
lượng đoàn kết của nhân dân". Nhân dân tham gia kháng chiến và tung ra sức
mạnh vô tận thể hiện trí tuệ lớn lao, sáng tạo, dũng cảm, hy sinh vô bờ bến vì độc
lập tự do của Tổ quốc. Có dân là có tất cả, thật đúng là: khi dân đã đứng cả lên, thì
sức tranh đấu đã bền lại to. Nhân dân không chỉ là lực lượng đông đảo, mà còn rất
cần cù, thông minh và khéo léo. Mọi việc làm tốt, mọi cách làm hay của người
cán bộ đảng viên phần lớn đều từ trong nhân dân mà ra, tổng kết kinh nghiệm của
dân mà có: Dân chúng biết phải giải quyết nhiều vấn đề một cách giản đơn, mau
chóng, đầy đủ mà những người tài giỏi, những đoàn thể to lớn nghĩ mãi không ra.
Hồ Chí Minh rất tâm đắc với câu ca dao của nhân dân Quảng Bình:
Dễ mười lần không dân cũng chịu
Khó trăm lần dân liệu cũng xong
Người thường nhắc nhở muôn việc dễ, khó đều phải dựa vào dân. Nhắc lại ý
tổng kết của tổ tiên ta trước đây, Người nói, việc lớn ở đời muốn làm thành công
thì phải có ba yếu tố: thiên thời, địa lợi, nhân hòa, trong mối quan hệ của ba yếu tố
đó, xếp thứ tự, thiên thời không quan trọng bằng địa lợi, địa lợi không quan trọng
bằng nhân hòa. Theo Hồ Chí Minh, nhân hòa tức là thu phục lòng người, tất cả mọi
người đều đồng tâm hiệp lực, nghĩa là đoàn kết thống nhất. Vậy trong cuộc kháng
chiến chống thực dân Pháp xâm lược, Đảng phải tuyên truyền, giáo dục trong toàn
dân vì sao phải kháng chiến, kháng chiến như thế nào... để thu phục lòng dân đoàn
kết lại, và sức mạnh của khối đoàn kết toàn dân đó là sức mạnh của cuộc kháng
chiến đánh đuổi đế quốc thực dân giành độc lập cho dân tộc.
Như vậy, từ thực tiễn hoạt động cách mạng của mình, qua tổng kết kinh
nghiệm của cha ông, kinh nghiệm cách mạng thế giới về vai trò sức mạnh của nhân
dân, thấm nhuần lý luận Mác-Lênin về vai trò của quần chúng nhân dân, Hồ Chí
Minh đã có một quan niệm về nhân dân, vai trò của nhân dân một cách đầy đủ, sâu
sắc. Từ thực tiễn cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp xâm lược của nhân dân ta,
Hồ Chí Minh chỉ rõ: Sức mạnh của cuộc kháng chiến là sức mạnh của toàn dân,
nhân dân phải là cội nguồn, động lực sức mạnh của cuộc kháng chiến.
Lý luận mác xít khi bàn về chiến tranh và quân đội cũng chỉ ra rằng: chiến
tranh là sự kế tục chính trị bằng thủ đoạn bạo lực. Nhưng kết cục của chiến tranh
sẽ tuân theo quy luật mạnh được yếu thua (quan niệm mạnh - yếu xét theo nghĩa
rộng). Cách mạng Tháng Tám năm 1945 ở Việt Nam giành thắng lợi không được
bao lâu, theo sự thỏa thuận, nhân nhượng của chủ nghĩa đế quốc, thực dân Pháp trở
lại xâm lược nước ta một lần nữa. Chúng dùng thủ đoạn bạo lực tấn công quân sự,
thông qua quân đội nhà nghề có vũ khí trang bị hiện đại để tạo ra sức mạnh, thực
hiện quy luật mạnh được yếu thua, đánh nhanh thắng nhanh, xâm lược toàn bộ Việt
Nam bắt nhân dân ta phải đầu hàng khuất phục. Nhưng thực dân Pháp đã nhầm!
Lòng yêu nước của toàn dân Việt Nam hợp lại, kết thành khối đại đoàn kết dưới sự
lãnh đạo của Đảng và Hồ Chủ tịch sẽ tạo ra sức mạnh không gì chống lại nổi.
Ngay đêm 22 rạng sáng ngày 23 tháng 9 năm 1945, dưới sự giúp sức của
quân Anh, thực dân Pháp đã nổ súng mở đầu cuộc chiến tranh xâm lược nước ta
lần thứ hai. Trước tình hình đó, Chủ tịch Hồ Chí Minh và Đảng ta đã có những
chủ trương, biện pháp kịp thời để lãnh đạo toàn dân kháng chiến. Ngày 25 tháng
9 năm 1945 Hồ Chí Minh đã viết lời hiệu triệu gửi đồng bào Nam Bộ kêu gọi nhân
dân "thà chết tự do còn hơn sống nô lệ" và tin tưởng "chúng ta nhất định thắng lợi
vì chúng ta có lực lượng đoàn kết của cả quốc dân". Để động viên được toàn dân
tham gia kháng chiến trong lúc đất nước vẫn còn nhiều loại kẻ thù, Đảng ra chỉ thị
"Kháng chiến kiến quốc" ngày 25 tháng 11 năm 1945 xác định rõ:
Kẻ thù chính nguy hiểm nhất lúc này là thực dân Pháp xâm lược, cả dân tộc
phải tập trung ngọn lửa đấu tranh vào chúng.
Nhiệm vụ chiến lược của cách mạng đặt ra là: Cách mạng Đông Dương lúc
này vẫn là cuộc cách mạng giải phóng dân tộc, cuộc cách mạng ấy đang diễn ra,
chưa hoàn thành, vì nước ta chưa hoàn toàn độc lập.
Chỉ thị "Kháng chiến kiến quốc" của Đảng đã tạo ra sự thống nhất trong toàn
Đảng, toàn dân nhận rõ kẻ thù nguy hiểm của cách mạng, hướng khối đoàn kết
toàn dân tập trung sức mạnh đấu tranh vào chúng. Đảng ta nhận thấy trong nhân
dân vẫn còn một số ít người băn khoăn về tính chất của cuộc kháng chiến lần này.
Nắm bắt được tình hình đó, Đảng nêu khẩu hiệu cách mạng lúc này là "dân tộc trên
hết, Tổ quốc trên hết" cuộc kháng chiến là để giải phóng dân tộc, vì nước ta chưa
độc lập hoàn toàn.
Ngày 18 tháng 12 năm 1946, Ban thường vụ Trung ương Đảng đã họp hội
nghị mở rộng ở Vạn Phúc (Hà Đông) dưới sự chủ trì của Hồ Chí Minh. Đứng trước
tình hình thực dân Pháp đánh chiếm Hải Phòng, Lạng Sơn, khiêu khích ở Hà Nội,
Hội nghị chỉ rõ: thực dân Pháp đã cố tình cắt đứt mọi con đường đàm phán và gây
ra cuộc chiến tranh xâm lược cả nước. Thời kỳ hòa hoãn đã qua. Hòa bình không
thể giữ được nữa thì cuộc kháng chiến sẽ bắt đầu. Đêm ngày 19 tháng 12 năm
1946 "Lời kêu gọi toàn quốc kháng chiến" của Chủ tịch Hồ Chí Minh được phát đi
tới toàn quốc đồng bào.
"Hỡi đồng bào!
Chúng ta phải đứng lên!
Bất kỳ đàn ông, đàn bà, bất kỳ người già, người trẻ không chia tôn giáo, đảng
phái dân tộc. Hễ là người Việt Nam thì phải đứng lên đánh thực dân Pháp để cứu
Tổ quốc. Ai có súng dùng súng. Ai có gươm dùng gươm. Không có gươm thì
dùng cuốc, thuổng, gậy gộc. Ai cũng phải ra sức chống thực dân Pháp cứu
nước"[35, tr.480].
Lời kêu gọi "toàn quốc kháng chiến" của Chủ tịch Hồ Chí Minh là bước phát
triển mới về kháng chiến toàn dân, toàn dân đánh giặc. Từ phát huy sức mạnh của
toàn dân để tranh thủ hòa bình, củng cố nền độc lập, kháng chiến cục bộ toàn dân
đánh giặc ở miền Nam, đến kháng chiến toàn dân đánh giặc trên cả nước. Vững tin
vào sức mạnh cuộc kháng chiến là sức mạnh của toàn dân tham gia không trừ một
ai, hễ là người Việt Nam yêu nước thì phải đứng lên đánh kẻ thù giành độc lập cho
dân tộc. Chủ tịch Hồ Chí Minh đã dự báo trước cho toàn dân biết cuộc kháng chiến
sẽ khó khăn về mọi mặt, nhất là vũ khí. Nhưng muốn nước có độc lập, nhân dân
thoát khỏi cảnh nô lệ, thì phải đánh giặc bằng mọi thứ vũ khí có trong tay: súng,
gươm, cuốc, thuổng... trong khi ta chưa có sự giúp đỡ trực tiếp từ bên ngoài. Lời
kêu gọi của Chủ tịch Hồ Chí Minh nghe như âm vang của Hội nghị Bình Than,
Diên Hồng, Bình Ngô Đại cáo từ ngàn xưa của cha ông vọng lại. Đó cũng là lời
hiệu triệu, là mệnh lệnh thiêng liêng, là tiếng kèn xung trận khi "Tổ quốc lâm
nguy" thúc giục cả cộng đồng Lạc-Việt đứng lên kết thành một khối cùng chung
một ý chí thống nhất, bản lĩnh, tự tin bước vào cuộc kháng chiến với một quyết tâm:
thà hy sinh tất cả, chứ nhất định không chịu mất nước, nhất định không chịu làm
nô lệ.
Để cụ thể hóa "Lời kêu gọi toàn quốc kháng chiến" của Chủ tịch Hồ Chí
Minh, ngày 22 tháng 12 năm 1946 Trung ương Đảng ra chỉ thị "Toàn dân kháng
chiến". Chỉ thị nêu rõ: Mục đích của kháng chiến là để đánh phản động thực dân
Pháp xâm lược giành thống nhất và độc lập.
Tính chất: Trường kỳ kháng chiến, toàn diện kháng chiến.
Chính sách: Đoàn kết chặt chẽ, toàn diện, thực hiện toàn dân kháng chiến.
Đoàn kết với Miên, Lào và các dân tộc yêu chuộng tự do, hòa bình, nêu tên "Hội
liên hiệp quốc dân" mà cổ động kháng chiến, phải tự cấp, tự túc về mọi mặt.
Như vậy, ngay trong hàng ngũ kẻ thù là thực dân Pháp nói chung, Đảng ta
cũng chỉ ra là đánh phản động thực dân Pháp xâm lược chứ không phải toàn bộ
thực dân pháp. Chỉ thị "toàn dân kháng chiến" có giá trị như một cương lĩnh kháng
chiến của Đảng. Những vấn đề chiến lược của kháng chiến để thống nhất toàn dân
thành một khối sớm được thể hiện như: mục đích, tính chất... của kháng chiến. Chỉ
thị không những đã kịp thời định hướng cho cách mạng, mà còn tỏ rõ bản lĩnh sáng
tạo, linh hoạt của Đảng ta và Chủ tịch Hồ Chí Minh biết tranh thủ những lực lượng
cần tranh thủ, lôi kéo mọi giai tầng trong xã hội, các dân tộc trong đại gia đình Việt
Nam cùng chung sức cứu nước.
Luận điểm toàn dân kháng chiến của Chủ tịch Hồ Chí Minh và Đảng ta đã có
một quá trình phát triển, bổ sung, hoàn thiện từ chỉ thị "Kháng chiến kiến quốc"
ngày 25 tháng 11 năm 1945, đến "Lời kêu gọi toàn quốc kháng chiến" ngày 19
tháng 12 năm 1946 rồi đến chỉ thị "Toàn dân kháng chiến" ngày 22 tháng 12 năm
1946. Qua thực tiễn những ngày đầu của cuộc chiến đấu, từ tháng 3 năm 1947,
đồng chí Trường Chinh, Tổng bí thư của Đảng đã viết một loạt bài làm sáng tỏ
thêm đường lối kháng chiến; những bài này sau được xuất bản thành tác phẩm
"kháng chiến nhất định thắng lợi". Đường lối kháng chiến toàn dân đã thể hiện rõ
quan điểm cơ bản: sự nghiệp cách mạng là của toàn dân, bao nhiêu lực lượng, sức
mạnh là ở nơi dân; kháng chiến muốn đi đến thắng lợi phải phát động toàn dân
tham gia, lấy sức dân, của dân đánh đuổi đế quốc thực dân, giành độc lập thống
nhất đất nước, mang lại hạnh phúc cho dân.
Sức mạnh cuộc kháng chiến là sức mạnh của toàn dân được thể hiện ngay từ
những ngày đầu toàn quốc kháng chiến, qua cuộc chiến đấu của nhân dân ta nổ ra
ở Thủ đô Hà Nội, các thành phố, thị xã: Nam Định, Hải Dương, Vinh, Huế, Đà
Nẵng... Toàn dân đoàn kết đánh lại thực dân Pháp xâm lược dưới sự lãnh đạo của
Đảng và Hồ Chủ tịch; với nhiều cách đánh sáng tạo và linh hoạt, đã làm cho địch
thiệt hại nhiều về người và phương tiện chiến tranh. Tại Hội nghị Trung ương
Đảng từ ngày 3 đến ngày 6 tháng 4 năm 1947 đã nhận định: Qua bốn tháng kháng
chiến chứng tỏ địch không thể khuất phục được nhân dân ta, toàn dân hăng hái
kháng chiến làm cho địch chỉ chiếm được một số ít thành phố. Toàn dân đoàn kết
kháng chiến đã đưa đất nước kịp thời chuyển sang thời kỳ kháng chiến và bước
đầu chuyển sang thế trận chiến tranh nhân dân. Các cơ quan Đảng, Chính phủ, Mặt
trận... chuyển lên căn cứ địa Việt Bắc. Các cơ quan dân, chính Đảng địa phương
cũng về đóng nơi tạm thời an toàn. Bộ máy chính quyền các cấp được kiện toàn.
Thực hiện lời kêu gọi của Hồ Chủ tịch và chỉ thị của Trung ương Đảng, quân và
dân ta đã phá tan cuộc tấn công mùa đông của giặc Pháp, thực hiện chiến dịch
phản công lớn, đánh bại cuộc tiến công chiến lược của hơn 20.000 quân viễn chinh
Pháp. Phối hợp với quân dân Việt Bắc, nhân dân cả nước đã anh dũng chiến đấu
đạp tan âm mưu của địch, chiến tranh du kích ở vùng sau lưng địch được đẩy
mạnh. Nhân kỷ niệm một năm ngày toàn quốc kháng chiến, ngày 19 tháng 12 năm
1947, Hồ Chí Minh đánh giá kẻ thù: "Từ ngày đầu, bọn quân phiệt thực dân khoe
miệng rằng: chóng thì dăm tuần, chậm thì 3 tháng, chúng sẽ chinh phục ta, nhưng
nay đã trải qua mấy lần dăm tuần, mấy lần 3 tháng chúng đã được kết quả gì?
Chúng mất hơn 20.000 lính Pháp chết và bị thương. Chúng tốn hơn 3.000
triệu bạc. Chúng chiếm mấy thành thị đã hóa ra đống tro tàn. Chúng đã mua chuộc
được một lũ bất trung, bất hiếu làm bù nhìn, nhưng lũ đó đều bị toàn dân phỉ nhổ".
"Lực lượng của chúng cũng như mặt trời vào lúc hoàng hôn, hống hách lắm nhưng
đã gần tắt nghỉ". Đánh giá về lực lượng của ta, Người khẳng định: "Lực lượng
của ta ngày càng mạnh thêm, như suối mới chảy, như lửa mới nhóm, chỉ có tiến
không có thoái"[42, tr.313, 314]. Thực dân Pháp đã phải đối đầu với cả dân tộc
Việt Nam đoàn kết đánh lại chúng, chiến lược "đánh nhanh thắng nhanh" của
chúng hoàn toàn thất bại. Vì "Toàn dân Việt Nam chỉ có một lòng: quyết không
chịu làm nô lệ, chỉ có một ý chí: quyết không chịu mất nước. Chỉ có một mục đích:
quyết kháng chiến để tranh thủ thống nhất và độc lập cho Tổ quốc. Sự đồng tâm của
đồng bào ta đúc thành một bức tường xung quanh Tổ quốc. Dù địch hung tàn, xảo
quyệt đến mức nào, đụng đầu nhằm bức tường đó, chúng cũng phải thất bại"[41,
tr.150, 151].
Toàn dân đoàn kết kháng chiến chống thực dân Pháp dưới sự lãnh đạo, chỉ
đạo của Đảng và Hồ Chủ tịch, chúng ta đã giành được những thắng lợi to lớn, toàn
diện trên tất cả các mặt, các lĩnh vực: chính trị, kinh tế, văn hóa... nâng cao đời
sống cho nhân dân, củng cố hậu phương chiến tranh. Những thắng lợi trên các mặt
trận đó làm điều kiện cho mặt trận quân sự giành thắng lợi. Từ chiến thắng Việt
Bắc, Thu Đông 1947 đến chiến dịch Biên giới năm 1950, đến chiến cục Đông Xuân 1953-1954 mà đỉnh cao là chiến dịch Điện Biên Phủ, buộc thực dân Pháp
phải chấm dứt chiến tranh, lập lại hòa bình ở Việt Nam. "Từ ngày 23.9.1945 đến
ngày 21.7.1954 nhân dân ta dưới sự lãnh đạo của Đảng, trải qua hơn 3.200 ngày
đêm kháng chiến đầy hy sinh, gian khổ nhưng vô cùng anh dũng tự hào. Gần nửa
triệu quân xâm lược nhà nghề của thực dân Pháp bị loại khỏi vòng chiến đấu;
khoảng 3.000 tỷ phơrăng Pháp và 2.600 triệu đô la Mỹ viện trợ tiêu phí vì chiến
tranh; 20 lần Chính phủ Pháp bị đổ; 7 lần toàn quyền Pháp bị triệu hồi; 8 tổng chỉ
huy quân đội Pháp kế tiếp nhau thua trận"[20, tr.186].
Thắng lợi đó chứng tỏ thực dân Pháp không những phải đương đầu với một
quân đội, ở đó có cả sức mạnh của bộ đội chủ lực, bộ đội địa phương, dân quân du
kích mà còn với cả một dân tộc có tổ chức chặt chẽ, họ chiến đấu vì chính nghĩa,
vì độc lập tự do cho Tổ quốc có cả người lãnh đạo dạn dày kinh nghiệm là Chủ
tịch Hồ Chí Minh và Trung ương Đảng ta.
Không có toàn dân tham gia kháng chiến thì không thể đánh đuổi được đế
quốc thực dân. Đoàn kết toàn dân là lực lượng mạnh nhất của chúng ta. Với quan
điểm này Chủ tịch Hồ Chí Minh và Đảng ta đã động viên được toàn dân, đưa lực
lượng của 25 triệu đồng bào từ Nam ra Bắc, từ miền ngược đến miền xuôi vào
cuộc đọ sức gay go ác liệt nhưng cuối cùng thắng lợi thuộc về ta.
Với tư tưởng ĐĐKTD của Hồ Chí Minh, đường lối toàn dân kháng chiến của
Đảng ta, nhân dân ta đã nhất tề đứng lên dưới sự lãnh đạo, tổ chức chặt chẽ của
Đảng và Hồ Chủ tịch tạo thành sức mạnh to lớn đánh thắng đế quốc Pháp xâm
lược, giành độc lập cho Tổ quốc.
1.2.2. Mở rộng khối đại đoàn kết toàn dân lấy liên minh công nông làm
nòng cốt
Để huy động sức mạnh của khối ĐĐKTD vào việc đánh đuổi đế quốc thực
dân, Chủ tịch Hồ Chí Minh nhận thấy cần phải phát triển nội dung của khối đại
đoàn kết lên một bước mới bằng việc mở rộng các thành phần tham gia MTVM
trong tất cả các tầng lớp nhân dân, cả tư sản, địa chủ, quan lại cũ, những người
đứng đầu các dân tộc thiểu số, tôn giáo, những người lầm đường theo giặc trước
đây... nhằm hình thành được mặt trận dân tộc rộng rãi, huy động vật lực và trí lực
của 25 triệu con Lạc cháu Hồng vào kháng chiến giành độc lập cho dân tộc.
Quan điểm trên của Chủ tịch Hồ Chí Minh là phương hướng chỉ đạo, mở
rộng và phát triển khối ĐĐKTD, trong cả quá trình kháng chiến chống thực dân
Pháp xâm lược và can thiệp của đế quốc Mỹ, được cụ thể hóa trong đường lối của
Đảng, phù hợp với từng giai đoạn cách mạng.
Ngay sau khi trung ương Đảng và chính phủ lâm thời về thủ đô Hà Nội, ngày
3 tháng 9 năm 1945 Chủ tịch Hồ Chí Minh triệu tập phiên họp đầu tiên của Hội
đồng Chính phủ nêu rõ 6 việc cấp bách cần làm ngay để xây dựng chế độ mới đối
phó với các lực lượng phản động đế quốc, trong đó công việc thứ sáu chỉ ra: Thực
dân và phong kiến thi hành chính sách chia rẽ đồng bào giáo và đồng bào lương
để dễ thống trị. Tôi đề nghị Chính phủ ta tuyên bố: tín ngưỡng tự do và LươngGiáo đoàn kết. Quan điểm này đã xóa đi nỗi nghi ngờ thành kiến giữa đồng bào
giáo với đồng bào lương, chứng tỏ đồng bào tôn giáo với đồng bào các dân tộc
khác cùng bình đẳng đoàn kết trong đại gia đình các dân tộc Việt Nam.
Thực hiện chỉ thị "Kháng chiến kiến quốc" về tăng cường khối ĐĐKTD
chống thực dân pháp xâm lược và xây dựng đất nước, MTDTTN không ngừng
được củng cố mở rộng và phát triển. MTVM cũng được mở rộng và phát triển để
thực sự là trung tâm của khối ĐĐKTD tộc: "Như phát triển các tổ chức cứu quốc,
sửa chữa lại điều lệ cho các đoàn thể cứu quốc thích hợp với hoàn cảnh mới, tổ
chức thêm những đoàn thể cứu quốc mới vào MTVM. Ví dụ "Việt Nam công giáo
cứu quốc hội", "Việt nam hướng đạo cứu quốc đoàn". Giúp cho "Việt nam dân chủ
đảng" thống nhất và phát triển để thu hút vào mặt trận những tầng lớp tư sản, địa
chủ yêu nước và tiến bộ. Giúp cho "Việt Nam nông gia cứu quốc hội" phát triển và
bành trướng thế lực. San phẳng những xung đột và xích mích giữa các đoàn thể
trong mặt trận, xóa đi mâu thuẫn giữa ủy ban nhân dân và ủy ban Việt Minh, diệt
trừ hiện tượng hai chính quyền cạnh tranh...."[8, tr.29, 30]. Mở rộng MTVM bằng
việc thông qua các hình thức tổ chức chính trị xã hội khác nhau, giúp đỡ các tổ
chức đó hoạt động sao cho có hiệu quả. Đó là một chủ trương lớn và sáng tạo của
Chủ tịch Hồ Chí Minh nhằm đoàn kết, tập hợp bất cứ ai dù họ là thành phần gì,
thuộc giai cấp nào, miễn sao họ có lòng yêu nước, tham gia gánh vác công việc
chung mang lại độc lập cho đất nước, hạnh phúc cho nhân dân.
Thực tiễn hoạt động của MTVM đã thu hút được nhiều người tham gia, uy tín
của mặt trận, trung tâm của khối ĐĐKTD ngày càng được nâng cao trong đời sống
chính trị của đất nước. Trước yêu cầu mới của cách mạng, việc phát triển mở rộng
MTVM còn bộc lộ những hạn chế nhất định: thành phần xã hội của MTVM mặc
dù trong tôn chỉ mục đích nêu rõ không phân biệt các giai tầng xã hội, nhưng trên
thực tế mặt trận chỉ bao gồm phần lớn là công nhân, nông dân, một bộ phận tiểu tư
sản thành thị, có rất ít tư sản, địa chủ nhỏ yêu nước.
Mặt khác, kẻ thù cũng biết rất rõ vai trò của khối đoàn kết quanh MTVM. Do
đó, chúng tìm mọi cách chia rẽ các thành viên trong mặt trận, đối lập nhân dân
với mặt trận, khuếch đại những sai lầm ấu trĩ mà Việt minh ở một số địa phương
mắc phải sau khi nắm chính quyền. Trong quần chúng nhân dân đã xuất hiện tình
trạng một số người không muốn tham gia vào tổ chức mặt trận, số ít thì hoang
mang lo sợ. Trước thực trạng này đồng chí Trường Chinh chỉ ra: "Những phần tử
ùa theo Việt Minh hay ủng hộ Việt Minh trong giờ phút quyết liệt không phải đều
hoá thành chiến sĩ Việt Minh hết. Một phần họ tiếp tục tranh đấu trong hàng ngũ
Việt Minh, nhưng cũng có một phần lảng xa Việt Minh vì lẽ khác. Mà những người
lảng xa không phải là không yêu nước, cũng không phải họ không có năng
lực"[5]. Một bộ phận tầng lớp trí thức, các quan lại cũ có lòng yêu nước, các tổ
chức phi vô sản, những người có thái độ bàng quan với cách mạng, đã có lúc họ
hoang mang mất phương hướng, họ chưa hiểu hết MTVM như thế nào, nhưng "họ
rất muốn tham gia công việc cứu nước, những phần tử ấy coi Việt Minh như một
"bà mẹ chồng". Quá khứ của họ khiến họ gờm Việt Minh"[5].
Đứng trước sự thật đó, việc thống nhất các lợi ích chung, nằm trong lợi ích
riêng của mỗi giai cấp, mỗi dân tộc, mỗi cá nhân, tầng lớp xã hội thật không đơn
giản chút nào. Thực hiện triệt để vấn đề này là cả một khoa học, nghệ thuật ứng
xử, linh hoạt, mềm dẻo nhưng vẫn đảm bảo được tính nguyên tắc Đảng lãnh đạo,
MTVM là lực lượng trung kiên của cách mạng. Với tầm nhìn xa trông rộng như
thấu hiểu được tâm tư, nguyện vọng của tất cả mọi người thuộc các thành phần xã
hội khác nhau, bằng thực tiễn kinh nghiệm đoàn kết thu phục lòng người của mình,
Chủ tịch Hồ Chí Minh đề xuất với Đảng và mặt trận: Kiên quyết không bỏ rơi một
bộ phận nào, chủ trương tập hợp họ trong một tổ chức mặt trận mới phù hợp để
mở rộng khối ĐĐKTD kháng chiến chống Pháp. Đúng như nhà nghiên cứu Trần
Bạch Đằng đã nhận xét “Hồ Chí Minh cố tìm mẫu số chung của toàn dân tộc thay
vì khoét sâu sự cách biệt, đặt tiến trình đi lên xoáy trôn ốc của lịch sử trên căn bản
quy tụ thay vì loại trừ”[14, tr.59].
Đầu năm 1946, Chủ tịch Hồ Chí Minh đề nghị thành lập tổ chức mặt trận
mới, phong phú và rộng rãi các thành phần hơn MTVM. Một ban vận động thành
lập HLHQDVN gồm 25 người được bầu ra, họ là đại diện của các tổ chức chính
trị, đảng phái, tôn giáo. MTVM gồm có đại biểu là Chủ tịch Hồ Chí Minh, Phạm
Văn Đồng, Võ Nguyên Giáp, Nguyễn Lương Bằng, Dương Đức Hiền, Cù Huy
Cận....Đại biểu ngoài MTVM gồm có Huỳnh Thúc Kháng, nhà tư sản theo đạo
thiên chúa Ngô Tử Hạ, đại diện phái quan lại yêu nước Bùi Bằng Đoàn, nhà tri
thức Phan Anh, Nguyễn Văn Tố; đại biểu Việt Nam quốc dân Đảng có Chu Bá
Phượng, Vũ Hồng Khanh, Nguyễn Tường Tam, Nguyễn Tường Long. Trong thời
gian này để không bị chia rẽ giữa các đảng phái, Chủ tịch Hồ Chí Minh cùng trung
ương Đảng ta còn ký một số biên bản thoả ước hợp tác đoàn kết. Chủ yếu với hai
đảng Vệt Quốc, Việt Cách, cùng hàng loạt các biện pháp linh hoạt và mềm dẻo
khác, kể cả biện pháp tuyên bố tự giải tán Đảng (thực chất là Đảng rút vào hoạt
động bí mật) và mở rộng Quốc hội, Chính phủ cho bọn phản động tay sai quân
Tưởng tham gia nhằm phá âm mưu chia rẽ khối đại đoàn kết dân tộc, giáo dục cảm
hoá những người lầm đường theo địch... Quan điểm mở rộng khối ĐĐKTD của Hồ
Chí Minh đã được thực hiện triệt để, đáp ứng đòi hỏi thực tiễn đặt ra, qua đó đập
tan được âm mưu chia rẽ dân tộc của kẻ thù, hạn chế đến mức tối đa kế hoạch đòi
giải tán Chính phủ của bọn tay sai phản cách mạng.
Sự phát triển và mở rộng khối ĐĐKTD một lần nữa được đánh dấu với mốc
HLHQDVN ra đời ngày 29.5.1946 gọi tắt là HLV. Sự ra đời của HLV đã kịp thời
bổ sung những tồn tại của MTVM. Sáng kiến này của Chủ tịch Hồ Chí Minh đã
làm cho khối ĐĐKTD ngày càng được mở rộng, thu hút mọi tầng lớp xã hội, nhất
là những bộ phận mà trước đây họ luôn có "thành kiến" với MTVM. HLV ra đời,
đây là một sự kiện quan trọng của khối ĐĐKTD mở rộng MTDTTN của Chủ tịch
Hồ Chí Minh. Hội trưởng là nhà yêu nước Huỳnh Thúc Kháng, hội phó là nhà cách
mạng nổi tiếng Tôn Đức Thắng, Chủ Tịch Hồ Chí Minh được cử làm Hội trưởng
danh dự. Hội ra đời có mục đích là: Đoàn kết tất cả các đảng phái yêu nước, các
đồng bào yêu nước vô đảng, vô phái, không phân biệt giai cấp tôn giáo, xu hướng
chính trị, chủng tộc để làm cho nước Việt Nam: Độc lập - thống nhất - dân chủ phú cường. Trong chương trình của HLV ghi rõ: “Trước hết HLV quốc dân Việt
Nam không phải là mặt trận riêng của các đảng phái yêu nước, chẳng hạn như Việt
Minh. Nó là một khối đoàn kết các đảng phái và các tầng lớp nhân dân không
thuộc đảng phái nào nhưng cùng chung một mục đích cứu nước. Là mặt trận
của toàn dân, HLV quốc dân Việt Nam không những chủ trương làm cho dân tộc Việt
Nam được tự do giải phóng, mà còn tranh đấu cho lãnh thổ Việt Nam được toàn vẹn,
nước Việt Nam mau chiếm được địa vị phú cường"[11, tr.69, 70].
Trước yêu cầu cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp xâm lược đòi hỏi tiếp
tục củng cố, mở rộng khối ĐĐKTD. MTVM sát nhập với HLV thành MTLV ra đời
là một nấc thang mới đánh dấu sự phát triển, mở rộng có hiệu quả của khối
ĐĐKTD. Như vậy, quan điểm mở rộng khối ĐĐKTD của Chủ tịch Hồ Chí Minh
được thực hiện từng bước vững chắc, phù hợp với thực tiễn của cách mạng.
Mở rộng khối ĐĐKTD phải trên cở sở liên minh công nông dưới sự lãnh đạo
của Đảng. Đó là nguyên tắc để khối ĐĐKTD đi tới đích chung, tạo ra sức mạnh
đánh đuổi đế quốc thực dân, giành độc lập cho dân tộc. Rời bỏ nguyên tắc này, khối
đoàn kết sẽ mất phương hướng và không tạo ra sức mạnh để kháng chiến cứu nước.
Lý luận Mác-Lênin khẳng định trong cách mạng vô sản, giai cấp công nhân
là người có sứ mệnh thủ tiêu chế độ áp bức bóc lột tư bản chủ nghĩa, xây dựng chế
độ mới xã hội chủ nghĩa. Nhưng cách mạng vô sản muốn thắng lợi phải được sự
ủng hộ của đông đảo các tầng lớp nhân dân, nhất là của giai cấp nông dân. Liên
minh công nông là nguyên tắc cốt tử, có tính chiến lược của cách mạng vô sản.
Nắm vững quan điểm mác xít về vai trò của liên minh công nông, từ thực tiễn
thành công, thất bại của cách mạng thế giới, trong nước về liên minh công nông,
ngay từ năm 1923, tại Đại hội quốc tế Nông dân, Hồ Chí Minh khẳng định: "Nông
dân Việt Nam rất cách mạng, là một lực lượng rất to lớn nếu được tuyên truyền tổ
chức"[14, tr.88]. Và trong thời đại ngày nay giai cấp công nhân là giai cấp duy
nhất có sứ mệnh lịch sử là lãnh đạo cách mạng đến thắng lợi cuối cùng bằng cách
liên minh với giai cấp nông dân. Rõ ràng trong các lực lượng tham gia cách
mạng, giai cấp nông nhân và giai cấp công nhân là bộ phận đông nhất, chiếm số
lượng lớn trong dân cư, họ có tinh thần cách mạng triệt để nhất, vì họ bị áp bức
bót lột nặng nề nhất. Trong tác phẩm "Đường cách mệnh" Hồ Chí Minh phân tích:
Vì bị áp bức mà sinh ra cách mệnh, áp bức càng nặng thì cách mệnh càng bền, chí
cách mệnh càng cao. Công nhân, nông dân họ sẽ hăng hái tham gia cách mạng
bởi công nông là tay không chân rỗi, nếu thua thì chỉ mất một cái kiếp khổ, nếu
được thì được cả thế giới, cho nên họ gan góc. Vì những cớ ấy mà công nông là
gốc cách mạng.
Quan điểm này lại được thể hiện rõ hơn trong "Sách lược vắn tắt của Đảng".
Hồ Chí Minh viết: Đảng phải hết sức liên liên lạc với tiểu tư sản, trí thức, trung
nông, thanh niên, Tân Việt, v..v.. để kéo họ đi theo phe vô sản giai cấp ... Trong
khi liên lạc với giai cấp, phải rất cận thận, không khi nào nhượng một chút lợi ích
gì của giai cấp công nông mà đi vào thỏa hiệp.
Để tập trung vào nhiệm vụ chống đế quốc, giải phóng dân tộc, Chủ tịch Hồ
Chí Minh cùng Trung ương Đảng ta xác định phải tập hợp đoàn kết toàn dân vững
chắc, trong khối đoàn kết đó lấy liên minh công nông làm nòng cốt, do giai cấp
công nhân lãnh đạo. Thực tiễn cách mạng cho thấy nếu xa rời quan điểm này thì
khối đoàn kết toàn dân chỉ là một tổ chức, liên kết chia sẻ lợi quyền lẫn nhau,
không thống nhất trên dưới, và sớm muộn sẽ bị kẻ thù lợi dụng phái hoại dẫn đến
tan vỡ. Ngược lại khối liên minh công nông được củng cố vững chắc càng làm cở
sở, điều kiện để mở rộng khối đoàn kết toàn dân, quy tụ được nhiều người, nhiều tổ
chức, cá nhân tham gia ủng hộ cáchmạng.
Trong thư gửi Hội nghị nông dân cứu quốc tháng 3.1951 Hồ Chí Minh viết:
Đa số dân ta là nông dân. Nông dân giác ngộ hăng hái thì kháng chiến mới mau
thắng lợi. Nông dân đoàn kết liên minh với công nhân, và các tầng lớp nhân dân
khác, do giai cấp công nhân lãnh đạo, vì chỉ có giai cấp công nhân lãnh đạo, thì
nông dân mới được giải phóng, thắt chặt liên minh với nông dân thì giai cấp công
nhân mới lãnh đạo cách mạng đến thắng lợi. Cho nên giai cấp công nhân ắt phải
chăm chú đến vấn đề nông dân, phải củng cố công nông liên minh. Mở rộng khối
ĐĐKTD trên nền tảng liên minh công nông làm nòng cốt bởi ngoài tính chất cách
mạng triệt để, hai giai cấp này còn có lực lượng đông đảo bổ sung vào khối đoàn
kết toàn dân ngày càng vững mạnh. Thực tế trong kháng chiến quân đội nhân dân
được xây dựng toàn diện, rộng khắp và ngày càng lớn mạnh với ba thứ quân: bộ
đội chủ lực, bộ đội địa phương, dân quân tự vệ là do quân đội từ nhân dân mà ra,
những người nông dân mặc áo lính, những người công nhân mặc áo lính. Nông
dân và công nhân họ là lực lượng chủ yếu trong sản xuất kiến quốc phục vụ kháng
chiến. Họ là nguồn bổ sung vô tận vào khối đoàn kết toàn dân, vào cuộc chiến
tranh nhân dân ở khắp mọi nơi, cả tiền tuyến lẫn hậu phương, cả vùng sau lưng
địch lẫn vùng tự do. Liên minh giai cấp công nhân với giai cấp nông dân, và đông
đảo các tầng lớp nhân dân lao động khác, đó là cơ sở để xây dựng chính quyền
các cấp vững mạnh. Nông dân vừa là người tham gia bảo vệ chính quyền, che dấu,
nuôi dưỡng cho cán bộ hoạt động cách mạng vừa là người bổ sung cán bộ cho đội
ngũ chính quyền các cấp. Họ làm nòng cốt cho xây dựng mặt trận và công tác mặt
trận.
Kết quả là khối đại đoàn kết được mở rộng nhưng vẫn giữ được tính chất giai
cấp công nhân do Đảng lãnh đạo. Nhờ có liên minh công nông bền chặt mà
MTDTTN không ngừng được mở rộng. Đó thực sự là lực lượng hùng hậu, là sức
mạnh của toàn dân để đưa kháng chiến đến thắng lợi.
1.2.3. Xây dựng khối đại đoàn kết toàn dân hướng vào nhiệm vụ kháng chiến
kiến quốc
Kháng chiến muốn nhanh chóng đi tới thắng lợi thì phải có lực lượng đoàn
kết toàn dân tham gia, mà nhân dân nói chung, thuộc nhiều tầng lớp khác nhau, cần
phải được giác ngộ, giáo dục, tổ chức chặt chẽ thì mới tạo thành sức mạnh. Chủ
tịch Hồ Chí Minh quan tâm nhiều đến thái độ chính trị và hành động cách mạng
của các tầng lớp nhân dân. Người đã nhiều lần nói về phẩm chất cao đẹp của nhân
dân ta: Dân ta có một lòng nồng nàn yêu nước, rất khéo léo, rất cần cù và thông
minh, có nhiều kinh nghiệm quý trong dựng nước và giữ nước. Đảng lãnh đạo phải
thấu hiểu điều này. Nhưng dân chúng không thuần nhất, có nhiều thành phần, tầng
lớp, bộ phận, trình độ khác nhau, có nhu cầu nguyện vọng, lợi ích khác nhau. Đảng
muốn quy tụ họ lại, hướng họ vào sự nghiệp kháng chiến kiến quốc, thì điều tối
quan trọng là phải tìm ra điểm tương đồng giữa họ. Dân ta xin nhớ chữ đồng: đồng
tình, đồng sức, đồng lòng, đồng minh. Đảng biết khơi dậy đánh thức các tiềm năng
cách mạng trong dân, lôi kéo bộ phận còn đang lừng chừng ngả nghiêng dao động
hướng theo cách mạng. Đảng tuyên truyền giáo dục lịch sử oai hùng của dân tộc,
truyền thống chống ngoại xâm của cha ông, nguồn gốc tổ tiên của con Lạc cháu
Hồng, để trong muôn vàn cái khác biệt đó tìm ra cái chung: đánh đuổi đế quốc
thực dân, giành độc lập cho dân tộc, hạnh phúc cho nhân dân.
Thấm nhuần phương hướng quan điểm trên, Chủ tịch Hồ Chí Minh chỉ ra
phải xây dựng khối ĐĐKTD hướng vào nhiệm vụ kháng chiến kiến quốc.
Kháng chiến toàn quốc nổ ra, Đảng muốn xây dựng khối ĐĐKTD hướng vào
nhiệm vụ kháng chiến kiến quốc, thì vấn đề trước tiên quyết định thắng lợi của
cuộc kháng chiến là Đảng phải có đường lối kháng chiến đúng. Toàn bộ đường lối
kháng chiến được tập trung trong các văn kiện: Lời kêu gọi toàn quốc kháng chiến
ngày 19.12.1946 của Chủ tịch Hồ Chí Minh, chỉ thị "toàn dân kháng chiến" ngày
22.12.1946 của Thường vụ Trung ương Đảng, tác phẩm "Kháng chiến nhất định
thắng lợi" được xuất bản vào tháng 9.1947 của đồng chí Trường Chinh.
Đường lối đó thể hiện: mục đích của kháng chiến là chống thực dân Pháp xâm
lược, giành độc lập và thống nhất cho đất nước.
Phương châm là: Kháng chiến toàn dân, kháng chiến toàn diện, kháng chiến
trường kỳ và tự lực cánh sinh.
Khối ĐĐKTD hướng vào nhiệm vụ kháng chiến kiến quốc được thể hiện rõ
nhất trong lời kêu gọi toàn quốc kháng chiến của Hồ Chủ tịch là: “Bất kỳ đàn ông,
đàn bà, bất kỳ người già, người trẻ, không chia tôn giáo, đảng phái, dân tộc. Hễ là
người Việt Nam thì phải đứng lên đánh thực dân Pháp để cứu Tổ quốc. Ai có súng
dùng súng. Ai có gươm dùng gươm, không có gươm thì dùng cuốc thuổng gậy
gộc. Ai cũng phải ra sức chống thực dân Pháp cứu nước".[35, tr.480]
Lời kêu gọi này đã thể hiện thấm đượm tư tưởng chiến tranh nhân dân, toàn
dân đánh giặc bằng mọi phương tiện sẵn có của mỗi người dân, làm thấu động
đến tâm can sâu xa, ý thức cao đẹp nhất của mỗi con người Việt Nam, kiên cường
đứng lên cùng đồng tâm hiệp lực muôn người như một, đoàn kết chiến đấu với một
ý chí quyết tử cho Tổ quốc quyết sinh, kiên quyết đưa kháng chiến kiến quốc đến
đích cuối cùng giành độc lập cho dân tộc.
Thực hiện đường lối kháng chiến toàn dân, chiến tranh nhân dân, do đó tính
chất sáng tạo của nhân dân rất đa dạng, phong phú, kẻ thù đi đến đâu cũng gặp
phải thế trận chiến tranh nhân dân. Sáng kiến đánh giặc của nhân dân ta muôn
màu muôn vẻ: đánh du kích, đánh chính quy, đánh bằng súng đạn có trong tay, có
khi tay không cũng lấy đồn diệt giặc; đánh bằng ý chí, bằng mưu mẹo của mình,
huy động cả những vật vô tri vô giác như cỏ cây, ong, kiến, tiến công kẻ thù,
những hầm chông, bẫy chông tự tạo, những cánh cửa, góc nhà gài sẵn mìn gây nỗi
kinh hoàng khiếp vía cho kẻ thù, vô hiệu hoá mọi chiến thuật của chúng, làm cho
chúng "có mắt cũng như mù", "có tai như điếc" ăn không ngon, ngủ không yên,
chia cắt, bao vây, phân tán, tiêu hao tiêu diệt làm tan rã quân xâm lược, biến hậu
phương của địch thành tiền phương của ta.
Kháng chiến, kiến quốc cần nhiều nhân tài. Chủ tịch Hồ Chí Minh kêu gọi
nhân dân phát hiện cho Chính phủ những người có đức, có tài, và đem tài, đức đó
ra phục vụ đất nước. Với chính sách đại đoàn kết dân tộc, Hồ Chí Minh trọng dụng
tất cả các bậc hiền tài có lòng yêu nước, không kể họ xuất thân từ thành phần giai
cấp nào, đảng phái gì. Trong phiên họp đầu tiên của ủy ban Nghiên cứu kế hoạch
kiến quốc ngày 10.1.1946, Hồ Chí Minh chỉ ra: Lúc này chúng ta có hai nhiệm vụ
là kháng chiến và kiến quốc. Các chiến sĩ đã hy sinh cho cách mạng thành công và
đang hy sinh để giữ vững đất nước. Còn các ngài đã đem tài năng trí thức lo bồi bổ
về mặt kinh tế và xã hội. Các ngài xứng đáng là những chiến sĩ xung phong. Tôi
mong rằng các ngài cũng sẽ đem hết tài năng và trí thức giúp cho Chính phủ về
mặt kiến thiết. Các ngài sẽ là những cố vấn có kinh nghiệm, có tài năng của Chính
phủ... kháng chiến kiến quốc để thực hiện: có sức giúp sức, có tài năng giúp tài
năng. Thực tiễn khi bước vào kháng chiến, một số người có nhận thức chưa đúng
về kháng chiến, kiến quốc, họ cho rằng mình không có tài, sức lại yếu, không có
súng, chưa bắn bao giờ, như thế thì tham gia kháng chiến thế nào được. Với cách
giải thích cụ thể, thiết thực, bằng phương pháp so sánh để dễ liên tưởng, Hồ Chí
Minh nói rằng: "Các chị em cô đầu có súng đâu, biết bắn đâu. Thế mà khi bộ đội lo
đánh giặc thì chị em người lo nấu cơm, nấu nước, người giúp chuyên chở đạn
dược, người thì băng bó săn sóc cho anh em bị thương. Thế là chị em cô đầu
cũng tham gia kháng chiến, cũng làm tròn nghĩa vụ quốc dân"[34, tr .485, 486].
Như vậy, mọi người dân đều phải tham gia kháng chiến, và ai cũng có thể thực
hiện kháng chiến kiến quốc được. Toàn dân kháng chiến là lực lượng rộng lớn,
không kể già, trẻ, trai, gái, dân tộc, tôn giáo, người trong nước, ngoài nước. Họ có
nguồn gốc vững chắc là sự cố kết của toàn dân tộc trên nền tảng liên minh công
nông. Đó là các lực lượng vũ trang nhân dân trực tiếp chiến đấu bảo vệ quê hương,
xóm làng. Đó là các đội thanh niên xung phong, dân công phục vụ kháng chiến,
các đội biệt động, đội binh vận, đội công tác, đội phá hoại, đội tuyên truyền xung
phong... các tổ chức "hũ gạo kháng chiến", "tham gia quỹ kháng chiến" hội "mùa
đông chiến sĩ" và hội "mẹ chiến sĩ". Lực lượng đoàn kết toàn dân đó ở khắp mọi
nơi, từ tuyền tuyến về hậu phương, từ nhà máy đến công trường, từ thành thị về
nông thôn, tới trung du miền núi trong các bệnh viện, trường học, ngoài đồng
ruộng. Dưới sự lãnh đạo của Đảng và Hồ Chủ tịch, cả dân tộc Việt Nam vào trận
thà chết tự do còn hơn sống nô lệ. Nhân dân đi tản cư cũng là kháng chiến, đi học
bình dân để biết chữ cũng là kháng chiến, làm công tác phá hoại ngăn cản quân
địch cũng là kháng chiến. Hồ Chí Minh nói: Một nhát cuốc của đồng bào cũng
như một viên đạn của chiến sĩ bắn vào quân địch, và ruộng rẫy là chiến trường,
cuốc cày là vũ khí, nhà nông là chiến sĩ, hậu phương thi đua với tiền phương.
Đảng xây dựng khối ĐĐKTD hướng vào nhiệm vụ kháng chiến kiến quốc
bằng cách tổ chức phong trào thi đua ái quốc một cách toàn diện, rộng khắp, người
người thi đua, ngành ngành thi đua, ngày ngày thi đua để ta nhất định thắng, địch
nhất định thua. sĩ, nông, công, thương, binh, gái, trai, già, trẻ, toàn thể quốc dân ta,
vô luận ở địa vị nào, làm công việc gì phải ra sức tham gia cuộc thi đua yêu nước.
Mỗi người dân Việt Nam bất kỳ già, trẻ, trai, gái; bất kỳ giàu, nghèo; lớn, nhỏ đều
cần phải trở nên một chiến sĩ đấu tranh trên mặt trận: quân sự, kinh tế, chính trị,
văn hoá và làm sao để: ai cũng thi đua, ai cũng tham gia kháng chiến và kiến quốc.
Nếu làm được như vậy thì phong trào sôi nổi, thi đua ái quốc sẽ ăn sâu, lan rộng
khắp mọi tầng lớp nhân dân, và sẽ giúp ta dẹp tan mọi nỗi khó khăn và mọi âm
mưu phá hoại của địch để đi đến thắng lợi cuối cùng. Vì thi đua giúp cho đoàn kết
chặt chẽ thêm và đoàn kết chặt chẽ để thi đua mãi. Giới trí thức cũng phải thi đua
với mọi người chiến sĩ trên mặt trận đánh quân thù, người trí thức cũng phải đem
tài lực của mình hiến kế cho đất nước, phục vụ kiến quốc. Ngòi bút của các
bạn cũng là những vũ khí sắc bén trong sự nghiệp phò chính trừ tà, mà anh em
văn hóa và trí thức phải làm cũng như những chiến sĩ anh dũng trong cuộc kháng
chiến để tranh lại quyền thống nhất và độc lập cho Tổ quốc. Nhân dịp triển lãm
hội họa 1951, Hồ Chí Minh gửi thư cho các họa sĩ, trong thư Người viết: "Văn
hoá nghệ thuật cũng là một mặt trận, anh chị em là chiến sĩ mặt trận ấy"[48,
tr.368]. Qua phong trào thi đua chẳng những sức người, sức của trong toàn dân
được huy động vào kháng chiến, tạo ra sức mạnh tổng hợp để đánh quân thù, mà
ngay chính qua phong trào thi đua đó để biết được ai là người yêu nước thực lòng,
và không thực lòng, để tiếp tục động viên giáo dục họ, từ đó nhận mặt Việt gian
bán nước dễ hơn. Thực hiện quan điểm mỗi người dân trở thành một chiến sĩ giết
giặc, mỗi xóm làng, đường phố, mỗi nhà máy, công trường thành một chiến luỹ
chống quân thù, Đảng xây dựng toàn dân đoàn kết hướng vào nhiệm vụ kháng
chiến kiến quốc đã giành được những thắng lợi to lớn. Những chiến công hiển
hách như chiến thắng Việt Bắc thu đông năm 1947, chiến thắng biên giới năm
1950 trong điều kiện ngay khi đất nước bị bao vây bốn phía, bằng sự nỗ lực của
chính dân tộc Việt Nam, con người Việt nam, chúng ta đã tạo ra thế và lực mới cho
cuộc kháng chiến, chủ động mở những chiến dịch lớn, những đòn đánh quyết định
như chiến dịch Hòa Bình, chiến dịch Tây Bắc, chiến dịch Điện Biên Phủ, đã giáng
xuống đầu kẻ thù khi chúng mở rộng đẩy mạnh chiến tranh. Càng đánh, quyết tâm
giành thắng lợi của quân và dân ta càng cao. Kháng chiến gắn liền với kiến quốc,
xây dựng hậu phương chiến tranh vững mạnh, đó là yếu tố quan trọng góp phần
quyết định thắng lợi của cuộc kháng chiến. Đảng lãnh đạo toàn dân tham gia xây
dựng kinh tế, kiến thiết nước nhà, ưu tiên hàng đầu là đẩy mạnh sản xuất nông
nghiệp nhằm đáp ứng nhu cầu về lương thực, thực phẩm cho bộ đội và nhân dân.
Ruộng đất đã được chia cho nông dân theo nguyên tắc dân chủ cho cả nam lẫn nữ.
Trong kháng chiến khoảng 2/3 nông dân cả nước đã có ruộng cày. Hồ Chí Minh
nói: Đồng bào nông dân đã hy sinh cho Tổ quốc, đóng góp cho kháng chiến rất
nhiều, nhưng họ vẫn là lớp người nghèo khổ vì thiếu ruộng hoặc không có ruộng
cày. Đó là một điều rất không hợp lý và muốn kháng chiến hoàn toàn thắng lợi...
phải chia ruộng đất cho nông dân. Có ruộng đất, đời sống nông dân từng bước
được cải thiện. Kết quả đó đã cổ vũ mạnh mẽ giai cấp nông dân phát huy vai trò
chủ lực của mình trong việc phát triển nông nghiệp bảo vệ hậu phương tích cực
tăng gia sản xuất. Họ sẵn sàng động viên, tiễn đưa hàng vạn con em của mình ra
tiền tuyến, bỏ ra hàng trăm nghìn ngày công để đào mương tát nước chống hạn,
đắp đê phòng lụt, tích cực cải tiến kỹ thuật canh tác, khai hoang phục hóa thâm
canh gối vụ. Họ vừa sản xuất vừa trực tiếp đánh lại địch. Dưới sự lãnh đạo của
Đảng, chính quyền các cấp, mặc dù bị chiến tranh tàn phá, nhưng những cánh đồng
lúa vẫn trải dài màu xanh, vụ ngô, sắn, khoai, đậu, đỗ, giành bội thu, diện tích canh
tác luôn được mở rộng. Nhờ đó bộ đội ta mới có lương thực, thực phẩm để "ăn no
đánh thắng". Những chiến sĩ ở ngoài mặt trận khi được tin quê hương, làng xóm
thay đổi, đời sống ấm no, đó là nguồn động viên cổ vũ họ rất lớn, tích cực hăng hái
chiến đấu, nắm chắc tay súng tiêu diệt quân thù.
Thực hiện khẩu hiệu "kháng chiến hóa văn hóa, văn hóa hóa kháng chiến"
Đảng lãnh đạo toàn dân chống nạn dốt, đó là một thứ giặc cũng quan trọng không
kém gì giặc ngoại xâm. Bởi "một dân tộc dốt là một dân tộc yếu". Xóa bỏ nền văn
hóa ngu dân, văn hóa xâm lược thống trị của thực dân Pháp, xây dựng một nền
giáo dục dân chủ nhân dân, nền văn hóa dân tộc, khoa học, đại chúng. Đến đầu
năm 1952, nạn mù chữ ở vùng hậu phương kháng chiến đã cơ bản được thanh
toán, với hơn 10 triệu người biết đọc biết viết. Phát triển hệ thống giáo dục, đưa
tiếng mẹ đẻ vào giảng dạy, học tập ở tất cả các trường, phương châm học mới là:
thiết thực và kịp thời phục vụ kháng chiến, phục vụ nhân dân, phục vụ sản xuất. Và
làm sao thực hiện "vừa làm vừa học, học ngay trong sản xuất, công tác". Từ đó
nền giáo dục đã đáp ứng được về cơ bản nhu cầu nâng cao dân trí cho toàn dân
trong kháng chiến kiến quốc. Chiến dịch biên giới 1950 thắng lợi, ta có điều kiện
quan hệ với các nước, và hàng nghìn cán bộ, học sinh tốt nghiệp phổ thông trung
học, hoặc có trình độ cao hơn, được Đảng và Chính phủ gửi đi học ở nước ngoài,
chủ yếu về khoa học kỹ thuật để chuẩn bị cho việc kiến thiết đất nước sau chiến
tranh.
Thực hiện văn hóa nghệ thuật phải phục vụ kháng chiến, phục vụ con người.
Hàng loạt các văn nghệ sĩ vào quân đội đi chiến trường vừa chiến đấu, vừa bám
sát thực tiễn để sáng tác, phục vụ kháng chiến, phục vụ bộ đội. Có thể nói, thực