Tải bản đầy đủ (.doc) (113 trang)

LUẬN văn THẠC sĩ tư TƯỞNG hồ CHÍ MINH về TOÀN dân KHÁNG CHIẾN TRONG CUỘC KHÁNG CHIẾN CHỐNG THỰC dân PHÁP xâm lược (1945 1954)

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (515.93 KB, 113 trang )

MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Thắng lợi của nhân dân ta trong cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp xâm lược là
một trong những chiến công vĩ đại nhất trong lịch sử đấu tranh chống ngoại xâm của dân
tộc Việt Nam. 50 năm đã trôi qua, song tầm vóc và giá trị to lớn của nó đối với cách mạng
Việt Nam và cách mạng thế giới cần được tiếp tục khai thác để tìm ra những bài học bổ ích
cho sự nghiệp dựng nước và giữ nước hiện nay.
Thắng lợi của kháng chiến chống Pháp là kết quả tất yếu và tổng hợp của nhiều nhân
tố khách quan và chủ quan, trong đó một nhân tố hết sức quan trọng là cống hiến to lớn
của Chủ tịch Hồ Chí Minh về tư tưởng "toàn dân kháng chiến" hết sức độc đáo và sáng tạo.
Đó là cơ sở, nền tảng để Đảng ta hình thành đường lối kháng chiến toàn dân, toàn diện, yếu
tố quyết định đưa cuộc kháng chiến đến thắng lợi.
Ngày nay, trong bối cảnh tình hình cách mạng thế giới và trong nước diễn biến phức
tạp trước yêu cầu nhiệm vụ mới của cách mạng nước ta vừa có thuận lợi vừa gặp nhiều khó
khăn. Đặc biệt là thủ đoạn thâm hiểm của chủ nghĩa đế quốc và các thế lực thù địch đang tìm
mọi cách chống phá cách mạng Việt Nam. Vì vậy, việc nghiên cứu quán triệt đầy đủ, sâu sắc
vai trò to lớn của Chủ tịch Hồ Chí Minh đối với cách mạng Việt Nam nói chung và cuộc kháng
chiến chống Pháp nói riêng càng có ý nghĩa to lớn, quan trọng, đây là việc làm cần thiết, cấp
bách góp phần khẳng định cống hiến lớn lao của Hồ Chí Minh cả về lý luận và thực tiễn đối
với cách mạng Việt Nam và cách mạng thế giới. Đồng thời, qua đó góp phần tích cực vào
việc nghiên cứu, học tập tư tưởng Hồ Chí Minh, theo tinh thần chỉ thị số 23 (ngày 23 tháng 7
năm 2003) của Ban Bí thư Trung ương Đảng. Mặt khác, việc nghiên cứu những cống hiến của
Hồ Chí Minh trong giai đoạn này còn góp phần làm sáng tỏ một thời kỳ lịch sử oanh liệt của
dân tộc, thời kỳ toàn dân tộc tiến hành cuộc trường kỳ kháng chiến chống thực dân Pháp
xâm lược, dưới sự lãnh đạo đúng đắn của Đảng và Hồ Chủ tịch, từ đó nâng cao niềm tự hào,
lòng kính yêu vô hạn đối với Chủ tịch Hồ Chí Minh- Lãnh tụ vĩ đại của dân tộc. Trên cơ sở đó,
đấu tranh kiên quyết chống lại những quan điểm sai trái, phản động nhằm hạ thấp giá trị, coi
nhẹ và phủ nhận vai trò to lớn của Hồ Chí Minh trong cuộc kháng chiến chống Pháp xâm lược
cũng như trong tiến trình lịch sử cách mạng Việt Nam.



Với những ý nghĩa đó, tác giả chọn đề tài "Tư tưởng Hồ Chí Minh về toàn dân kháng
chiến trong cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp xâm lược (9/1945 - 7/1954)" làm luận văn
tốt nghiệp cao học chuyên ngành Lịch sử Đảng Cộng sản Việt Nam.
2. Tình hình nghiên cứu liên quan đến đề tài
Hồ Chí Minh, vị lãnh tụ thiên tài, nổi tiếng với những cống hiến lớn lao cho cách
mạng Việt Nam và cách mạng thế giới. Vì vậy, cuộc đời và sự nghiệp cách mạng của Người
đã được nhiều đồng chí lãnh đạo Đảng, Nhà nước, quân đội và nhiều nhà nghiên cứu trong
và ngoài nước tìm hiểu, nghiên cứu ở những góc độ khác nhau.
Đã có nhiều công trình nghiên cứu đề cập đến tư tưởng toàn dân kháng chiến của Hồ
Chí Minh được công bố như: Lịch sử Đảng Cộng sản Việt Nam (sơ thảo), tập 1, (1981), Nxb
Sự thật, H. Sự nghiệp tư tưởng quân sự Hồ Chí Minh (2002), Viện Lịch sử quân sự Việt Nam
- Bộ Quốc phòng, Nxb QĐND. Lịch sử cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp xâm lược
1945 - 1954, tập 1, tập 2, (1993), Nxb QĐND, H. Tổng kết cuộc kháng chiến chống thực dân
Pháp, Thắng lợi và bài học (1996), Nxb CTQG, H. Chiến tranh cách mạng Việt Nam 1945 1975, Thắng lợi và bài học, (2000), Nxb CTQG, H. Giáo trình Lịch sử Đảng Cộng sản Việt
Nam (2001), Nxb CTQG, H. Giáo trình tư tưởng quân sự Hồ Chí Minh (2002), Nxb QĐND, H.
Các công trình trêm đã đề cập đến nhiều vấn đề lịch sử quan trọng liên quan đến tư tưởng
Hồ Chí Minh về toàn dân kháng chiến, nhưng không đi sâu vào nghiên cứu tư tưởng toàn
dân kháng chiến của Hồ Chí Minh như một công trình khoa học độc lập.
Nhiều chuyên khảo về cuộc đời và sự nghiệp Hồ Chí Minh, trong đó có đề cập tới tư tưởng
toàn dân kháng chiến như: Hồ Chủ tịch và những vấn đề quân sự của cách mạng Việt Nam của
Trường Chinh, QĐND, H, 1971.Tư tưởng Hồ Chí Minh và con đường cách mạng Việt Nam của Võ
Nguyên Giáp (chủ biên) (1997), Nxb CTQG, H. Về con đường giải phóng dân tộc của Hồ Chí
Minh của Trịnh Nhu- Vũ Dương Ninh (1996), Nxb CTQG, H. Sức mạnh dân tộc của cách mạng
Việt Nam dưới ánh sáng tư tưởng Hồ Chí Minh của Lê Mậu Hãn (2001), Nxb CTQG, H. Hồ Chí
Minh người chiến sĩ trên mặt trận giải phóng dân tộc của Hùng Thắng, Nguyễn Thành (1985), Nxb
Khoa học xã hội, Hà Nội… Đây là những công trình nghiên cứu sâu sắc về cuộc đời, sự nghiệp và
những tư tưởng cơ bản của Chủ tịch Hồ Chí Minh có liên quan đến tư tưởng về toàn dân kháng
chiến.



Ngoài ra, còn nhiều chuyên luận của các nhà khoa học trong và ngoài nước đã được công
bố trên các tạp chí: Cộng sản, Lịch sử Đảng, Nghiên cứu lịch sử, Lịch sử quân sự hoặc trong Kỷ
yếu của các cuộc Hội thảo khoa học về Chủ tịch Hồ Chí Minh; các luận án, luận văn chuyên ngành
Lịch sử Đảng… Tất cả các công trình khoa học trên đều đề cập đến tư tưởng Hồ Chí Minh trên các
lĩnh vực của đời sống xã hội và có nhiều giá trị để tác giả kế thừa vận dụng vào quá trình thực hiện
luận văn.
Như vậy, đến nay đã có nhiều công trình nghiên cứu trực tiếp hoặc gián tiếp liên quan
đến tư tưởng Hồ Chí Minh về toàn dân kháng chiến, tuy nhiên chưa công trình nào đi sâu
nghiên cứu đầy đủ, có hệ thống về tư tưởng toàn dân kháng chiến của Chủ tịch Hồ Chí Minh
trong cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp xâm lược 1945- 1954, với tư cách một đề tài
độc lập như tác giả lựa chọn.
3. Mục đích và nhiệm vụ của luận văn
- Mục đích:
Thông qua nghiên cứu nguồn gốc, nội dung tư tưởng Hồ Chí Minh về toàn dân kháng
chiến và vai trò của Người cùng Trung ương Đảng chỉ đạo toàn dân kháng chiến chống thực
dân Pháp xâm lược 1945-1954, từ đó khẳng định cống hiến vĩ đại của Hồ Chí Minh đối với
cách mạng Việt Nam và giá trị vận dụng to lớn của tư tưởng Hồ Chí Minh về toàn dân kháng
chiến nhằm phát huy sức mạnh toàn dân tộc, thực hiện thắng lợi nhiệm vụ bảo vệ Tổ quốc
hiện nay.
- Nhiệm vụ:
Luận giải nguồn gốc, phân tích nội dung cơ bản và tính đúng đắn sáng tạo của
tư tưởng Hồ Chí Minh về toàn dân kháng chiến chống Pháp xâm lược.
Trình bày chân thực những thành công trong lãnh đạo, chỉ đạo toàn dân kháng chiến của Hồ
Chí Minh và Đảng ta trong cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp (1945 - 1954).
Nêu lên phương hướng sự vận dụng tư tưởng Hồ Chí Minh về toàn dân kháng chiến trong
chiến tranh nhân dân bảo vệ Tổ quốc hiện nay.
4. Đối tượng, phạm vi nghiên cứu
Đề tài tập trung nghiên cứu tư tưởng toàn dân kháng chiến của Chủ tịch Hồ Chí
Minh trong cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp xâm lược (1945-1954).



5. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu đề tài
Cơ sở lý luận:
Cơ sở lý luận để thực hiện đề tài là quan điểm, phương pháp luận của chủ nghĩa MácLênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, đường lối chủ trương của Đảng Cộng sản Việt Nam về vai trò
của quần chúng cách mạng và xây dựng lực lượng cách mạng.
Phương pháp nghiên cứu:
Đề tài chủ yếu sử dụng phương pháp lịch sử kết hợp với phương pháp lô gíc, đồng thời sử
dụng các phương pháp nghiên cứu và trình bày của khoa học lịch sử như: phương pháp đồng đại,
lịch đại, phương pháp so sánh, thống kê, tổng kết lịch sử… để thực hiện mục đích, nhiệm vụ của
đề tài.
6. Ý nghĩa của luận văn
Kết quả nghiên cứu của đề tài góp phần làm sâu sắc thêm vai trò to lớn của Hồ Chí
Minh với sự nghiệp cách mạng Việt Nam nói chung và cuộc kháng chiến chống thực dân
Pháp nói riêng; thấy rõ giá trị vận dụng to lớn của tư tưởng Hồ Chí Minh về toàn dân kháng
chiến trong giai đoạn hiện nay, làm cơ sở chống lại những quan điểm sai trái, phản động
xuyên tạc, hạ thấp vai trò của Hồ Chí Minh và thắng lợi của cuộc kháng chiến chống Pháp;
nâng cao lòng tự hào dân tộc, củng cố niềm tin vào sự lãnh đạo của Đảng và thắng lợi của
cách mạng trong giai đoạn mới.
Luận văn có thể dùng làm tài liệu tham khảo phục vụ cho nghiên cứu, giảng dạy Lịch sử
Đảng Cộng sản Việt Nam và tư tưởng Hồ Chí Minh ở các nhà trường trong và ngoài quân đội.
7. Kết cấu của luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo, luận văn gồm 2 chương 6
tiết.
Chương 1
TƯ TƯỞNG TOÀN DÂN KHÁNG CHIẾN CHỐNG THỰC DÂN PHÁP XÂM LƯỢC CỦA CHỦ
TỊCH HỒ CHÍ MINH

1.1. Nguồn gốc tư tưởng Hồ Chí Minh về toàn dân kháng chiến



1.1.1. Nguồn gốc lý luận, tư tưởng
Hồ Chí Minh tiếp thu những giá trị nhân bản của văn hoá phương Đông và phương
Tây.
Với lòng yêu nước, thương dân nồng nàn, với mục đích cao cả giải phóng đất
nước, giải phóng nhân dân và một trí tuệ thông minh, tinh thần ham học hỏi, Chủ tịch
Hồ Chí Minh đã nghiên cứu, tham khảo nhiều chủ thuyết, các trào lưu tư tưởng về tập
hợp lực lượng cách mạng của các bậc tiền bối trên thế giới và khu vực để làm giàu trí
tuệ cho mình và tìm đường cứu nước. Với Tôn Dật Tiên- lãnh tụ của Quốc dân Đảng ở
Trung Quốc, Người tổ chức lãnh đạo cách mạng Tân Hợi năm 1911, nhờ có chủ trương
tập hợp lực lượng đông đảo, không phân biệt giai cấp, cùng với chính sách: Liên Nga,
hợp tác với Đảng Cộng sản Trung Quốc, ủng hộ công - nông, đã tạo ra một phong trào
cách mạng phát triển mạnh mẽ thời kỳ 1924 - 1926. Do vậy, chủ nghĩa Tôn Dật Tiên được
đánh giá là một học thuyết tiến bộ, đồng thời đã có tác động ảnh hưởng khá lớn đến các
nhà yêu nước Việt Nam, trong đó có Hồ Chí Minh. Với quan điểm tiếp thu và kế thừa có
chọn lọc, Hồ Chí Minh đã có nhận xét: chủ nghĩa Tôn Dật Tiên là một học thuyết tiến bộ
có nhiều điểm phù hợp với Việt Nam.
Đối với nhà ái quốc vĩ đại của ấn Độ- Ma hát ma-Gandhi, đã giương cao ngọn cờ đoàn
kết dân tộc, thức tỉnh, tập hợp lực lượng toàn dân nhằm đấu tranh giành độc lập dân tộc, đó là
tư tưởng có tác động ảnh hưởng không nhỏ tới nhiều nước ở khu vực và châu Á.
Nghiên cứu, tiếp thu văn hoá phương Đông, Hồ Chí Minh đã sớm nhận rõ những giá trị nhân
bản của Nho giáo, Phật giáo. Đó là tinh thần "mưu cầu hạnh phúc cho loài người, mưu cầu phúc lợi
cho xã hội" (Khổng tử), như Hồ Chí Minh đã nhận xét; đó là tư tưởng vị tha, từ bi, bác ái, thương yêu
con người, chống lại phân biệt đẳng cấp của Phật giáo.
Những học thuyết, tư tưởng tiến bộ, những tinh hoa văn hoá phương Đông đã được Hồ Chí
Minh nghiên cứu tiếp thu những mặt tích cực, khắc phục những hạn chế để sớm hình thành quan điểm
tư tưởng hết sức đúng đắn về sức mạnh của toàn dân trong cách mạng giải phóng dân tộc.
Là một người phương Đông yêu nước, ra đi tìm đường cứu nước, cứu dân, Hồ Chí Minh đã có
một thời gian dài nghiên cứu tham gia hoạt động cách mạng ở phương Tây. Ở đó những giá trị nhân
bản của văn hoá phương Tây cũng được Hồ Chí Minh nghiên cứu, tiếp thu có chọn lọc. Những hạt
nhân hợp lý trong tư tưởng "Tự do, bình đẳng, bác ái" của đại cách mạng tư sản Pháp vốn rất hấp dẫn,



nó đã đến với Người qua một số nhà hoạt động chính trị ngay từ khi còn đi học. Từ chủ nghĩa yêu
nước chân chính, qua hoạt động, học tập nghiên cứu tiếp cận văn hoá phương Tây đã giúp Hồ Chí
Minh hiểu rõ tinh thần "nhân dân là sức mạnh không ai chế ngự nổi" (Vonte). Người cũng hiểu sâu sắc
quan điểm của Mông tetskiơ: "với một ngàn cánh tay, nhân dân có thể lật đổ tất cả"…
Là một người vốn giàu lòng yêu nước, thương dân, khi được tiếp thu những tinh hoa văn hoá
thế giới đã có tác dụng to lớn góp phần bổ xung, phát triển tư tưởng Hồ Chí Minh về xây dựng sức
mạnh vô địch của khối đại đoàn kết toàn dân, tổ chức tập hợp lực lượng toàn dân đấu tranh vì sự
nghiệp giải phóng dân tộc, giải phóng nhân dân.
Hồ Chí Minh trung thành và vận dụng sáng tạo lý luận Mác-Lênin về vai trò quần chúng
trong cách mạng.
Những nguyên lý cơ bản của chủ nghĩa Mác-Lênin nói chung, mà cốt lõi là quan
điểm về sức mạnh của quần chúng trong cách mạng vô sản là nhân tố quan trọng nhất
để hình thành tư tưởng toàn dân kháng chiến của Hồ Chí Minh.
Theo lý luận chủ nghĩa Mác-Lênin, quần chúng nhân dân là người sáng tạo ra lịch sử, người
quyết định tiến trình phát triển của lịch sử. Do vậy "Cách mạng là sự nghiệp của quần chúng".
Đề cập đến vai trò của quần chúng nhân dân là vấn đề cơ bản đầu tiên mà Mác đã quan
tâm trong nghiên cứu lý luận và hoạt động cách mạng của mình. Đây là mốc đánh dấu sự chuyển
biến tư tưởng của Mác từ chủ nghĩa duy tâm sang chủ nghĩa duy vật trong lĩnh vực xã hội.
Theo quan điểm chủ nghĩa Mác-Lênin, quần chúng nhân dân bao gồm đông đảo các tầng
lớp nhân dân, họ là những người bị bóc lột khổ cực. Quần chúng nhân dân là lực lượng sản xuất
cơ bản của xã hội ; trực tiếp sáng tạo ra mọi của cải của xã hội. Quần chúng nhân dân có vai trò
chuyển hoá lý luận cách mạng thành hiện thực cách mạng. Lý luận một khi nó xâm nhập vào quần
chúng sẽ trở thành một lực lượng vật chất mạnh mẽ nhằm thực hiện sự cải tạo xã hội, vì theo lý
luận chủ nghĩa Mác: "Lực lượng vật chất chỉ có thể bị đánh đổ bằng lực lượng vật chất" [21, 580].
Lịch sử phát triển của xã hội loài người có lúc quanh co phức tạp, song tất yếu phải theo một trật
tự nhất định nhờ có hoạt động của quần chúng. Bởi vậy ăng ghen khẳng định: quần chúng là
những người đã đưa mọi việc trở lại nền nếp.
Trong cách mạng vô sản, giai cấp vô sản muốn giành thắng lợi, nhất thiết phải có sự ủng hộ

của đông đảo quần chúng nhân dân, đặc biệt là của nông dân. Mác coi sự ủng hộ của lực lượng


nông dân đông đảo đối với phong trào vô sản là một bài đồng ca, nếu không có bài đồng ca đó thì
cách mạng vô sản sẽ trở thành "một bài ai điếu".
Đề cập đến vai trò quan trọng của quần chúng nhân dân trong cách mạng vô sản
cũng như trong chiến tranh bảo vệ Tổ quốc, Lênin đã khẳng định: "Một khi chiến tranh đã
không thể tránh được, thì phải dốc tất cả cho chiến tranh", không một người nào dù ở đâu
và làm nhiệm vụ gì được trốn tránh nghĩa vụ này. Và trong chiến tranh thì khẩu hiện phải là
"Tất cả cho chiến tranh" [19,175]. Bởi vậy, khi ra lời kêu gọi "Tổ quốc xã hội chủ nghĩa lâm
nguy", Lê nin tuyên bố: Tất cả mọi lực lượng, mọi tài nguyên của đất nước đều phải giành
cho công cuộc bảo vệ cách mạng; tất cả lực lượng của nhân dân đều phải được động viên
cho cuộc chiến tranh đó.
Từ chủ nghĩa yêu nước chân chính, lòng yêu thương vô hạn đối với những người dân
lao khổ và niềm tin mãnh liệt vào sức mạnh của lực lượng toàn dân đã thôi thúc Hồ Chí
Minh quyết ra đi tìm đường cứu nước, cứu dân. Nhờ tích cực hoạt động trong phong trào
Cộng sản và công nhân quốc tế, Người đã đến với chủ nghĩa Mác-Lênin khi đọc "Sơ thảo
lần thứ nhất luận cương về vấn đề dân tộc và vấn đề thuộc địa" của Lênin, Hồ Chí Minh đã
tìm thấy ở đó con đường cứu nước đúng đắn cho cách mạng Việt Nam- con đường cách
mạng vô sản. Người đã tin và theo Lênin, vì chủ nghĩa Lênin đã bênh vực quyền lợi của các
dân tộc bị áp bức. Chủ nghĩa Lênin đã chỉ ra con đường tập hợp đoàn kết các lực lượng
quần chúng cách mạng toàn thế giới, lực lượng cách mạng ở thuộc địa, thức tỉnh nhân dân
lao khổ toàn thế giới đứng lên làm cách mạng. Đặc biệt những nguyên lý của chủ nghĩa
Mác-Lênin về vai trò của quần chúng trong cách mạng, về cách thức tổ chức, xây dựng lực
lượng cách mạng là cơ sở khoa học, có ý nghĩa lý luận dẫn đường để Hồ Chí Minh xem xét
đánh giá đúng những yếu tố tích cực, những mặt hạn chế của các di sản truyền thống dân
tộc, văn hoá thế giới, những quan điểm tư tưởng về tập hợp lực lượng cách mạng của các
nhà yêu nước Việt Nam tiền bối và các nhà tư tưởng cách mạng trên thế giới, trên cơ sở đó
hình thành tư tưởng toàn dân kháng chiến của Hồ Chí Minh. Bởi vậy, Hồ Chí Minh khẳng
định chủ nghĩa Mác-Lênin là cái "cẩm nang thần kỳ", là "Kim chỉ nam", là "con đường giải

phóng cho chúng ta". Nhưng theo Người, học tập tiếp thu chủ nghĩa Mác-Lênin không được
"giáo điều", máy móc. Vì chủ nghĩa Mác-Lênin đã giải đáp được yêu cầu thực tiễn cách
mạng Việt Nam, song đó mới chỉ là phương hướng, là con đường tất yếu của cách mạng


Việt Nam. Muốn giành thắng lợi, những người cách mạng và nhân dân Việt Nam phải biết
vận dụng sáng tạo lý luận Mác-Lênin để đề ra chủ trương, đường lối, phương pháp cách
mạng phù hợp thực tiễn Việt Nam. Theo Hồ Chí Minh, đó mới là hiểu và thấm nhuần lý luận
Mác-Lênin, thể hiện sự trung thành và vận dụng sáng tạo chủ nghĩa Mác-Lênin ở Việt Nam.
1.1.2. Nguồn gốc thực tiễn
Hồ Chí Minh kế thừa, phát triển truyền thống toàn dân đánh giặc của dân tộc Việt Nam
trong lịch sử dựng và giữ nước.
Dân tộc Việt Nam nằm ở khu vực khí hậu nhiệt đới gió mùa nên có nhiều điều kiện tự nhiên
thuận lợi cho phát triển của nền văn minh nông nghiệp trồng lúa nước, đồng thời phải thường
xuyên đối phó với sự khắc nghiệt của thiên tai. Đó là những yếu tố khách quan tác động đến việc
hình thành ý thức cộng đồng của con người Việt Nam từ rất sớm. Sức mạnh của cộng đồng dân
tộc chống thiên tai được phản ánh sinh động qua truyền thuyết sơn tinh, thuỷ tinh. Hệ thống đê
điều đồ sộ cùng biết bao nhiêu công trình thuỷ nông lớn nhỏ thể hiện sức mạnh của nhân dân và
toàn thể dân tộc Việt Nam tạo dựng nên. Mặt khác, do nằm ở vị trí chiến lược quan trọng của
Đông nam châu Á và thế giới, lại tương đối giàu tài nguyên khoáng sản; nằm cạnh một đế chế
phong kiến to lớn luôn có tư tưởng bành trướng, nên từ xưa đến nay nước ta luôn bị các thế lực
ngoại bang đe doạ thôn tính, xâm lược. Hoàn cảnh lịch sử và địa lý đặt ra cho dân tộc ta luôn phải
chống ngoại xâm trong điều kiện hết sức khắc nghiệt, trong điều kiện so sánh lực lượng quá chênh
lệch. Kẻ thù dân tộc thường là những thế lực hùng mạnh với đạo quân xâm lược đông gấp nhiều
lần quân ta, như : nhà Tống xâm lược nước ta (1075 - 1077) có 30 vạn quân, khi đó Đại Việt dân
số chỉ hơn 4 triệu người với 5 đến 7 vạn quân thường trực. Quân Nguyên khi tiến hành xâm lược
Đại Việt (thế kỷ XIII) đã huy động gần 1 triệu lượt quân, trong khi nước ta chỉ có khoảng 5 đến 6
triệu dân và quân thường trực nhà Trần lúc cao nhất chỉ khoảng 30 vạn… Song thực tế, các đạo
quân xâm lược hùng mạnh đó (kể cả những đạo quân từng tung hoành vó ngựa đi xâm lược và
thống trị nhiều dân tộc từ Tây sang Đông), nhưng khi đến Việt Nam đều phải chịu thất bại bởi sức

mạnh đoàn kết của toàn dân tộc Việt Nam, sức mạnh của truyền thống yêu nước, toàn dân đánh
giặc giữ nước. Ví như khởi nghĩa của Hai Bà Trưng (40-43) giành thắng lợi, đập tan ách thống trị
của nhà Hán, do đã lôi kéo tập hợp được đông đảo người dân yêu nước tham gia. Nhà Lý (thế kỷ
thứ XI) thực hiện kháng chiến chống quân xâm lược Tống thành công lẫy lừng bởi biết dựa vào
đông đảo các tầng lớp nhân dân, các dân tộc phía Bắc để xây dựng lực lượng quốc phòng hùng
mạnh, đánh bại kẻ thù.


Đặc biệt, thời nhà Trần (thế kỷ thứ XIII), nhờ nhận rõ vai trò sức mạnh của nhân dân, với
chủ trương đúng đắn "khoan thư sức dân làm kế sâu rễ bền gốc". Cùng với chính sách phù hợp
"ngụ binh ư nông ", "bách tính giai binh". Trăm họ đều là lính, cả nước ra quân, thể hiện sự đoàn
kết trên dưới đồng lòng, anh em hoà thuận, cả nước chung sức, toàn dân đánh giặc. Đó là những
yếu tố quyết định tạo nên sức mạnh tổng hợp của toàn dân, thực hiện ba lần đánh bại quân
Nguyên Mông hung bạo, giữ yên bờ cõi nước nhà.
Vào thế kỷ XV, khởi nghĩa Lam Sơn do Lê Lợi và Nguyễn Trãi lãnh đạo, nhờ nhận rõ
sức mạnh của nhân dân "đẩy thuyền là dân" và "lật thuyền là dân", "việc nhân nghĩa cốt ở
yên dân", chủ trương tập hợp "bốn phương manh lệ" dưới ngọn cờ cứu dân cứu nước để
tiến hành khởi nghĩa. Vì thế qua 10 năm kháng chiến trường kỳ nghĩa quân Lam Sơn đã
đánh bại giặc Minh, giành lại giang sơn gấm vóc.
Từ thế hệ này qua thế hệ khác, qua thực tiễn đấu tranh dựng nước và giữ nước ông cha ta
đã tôi luyện nên tinh thần yêu nước, ý chí độc lập tự chủ. Trước hoạ xâm lăng, thái độ duy nhất
của toàn dân tộc là quyết đứng lên chiến đấu "quét sạch nó đi". Điều đó được thể hiện sâu sắc ở
lời tuyên bố đanh thép của Trần Thủ Độ vào lúc gay go nhất của cuộc kháng chiến chống quân
Nguyên: "Đầu tôi chưa rơi xuống đất, xin bệ hạ đừng lo" (1258); những tiếng hô "quyết đánh" của
các bô lão vang lên trong Hội nghị Diên Hồng, mùa đông năm 1284; tinh thần quyết chiến của Trần
Quốc Tuấn: "Bệ hạ muốn hàng trước hết hãy chém đầu tôi đi đã"; tinh thần chiến đấu dũng cảm
của Trần Bình Trọng, Trần Quốc Toản.v.v.. Đó chính là tinh thần xả thân vì nước, quyết tâm bảo vệ
Tổ quốc, giống nòi đã trở thành truyền thống quý báu của dân tộc ta. Trong cuộc chiến gay go
phức tạp, gian khổ hy sinh, có khi thất bại tạm thời, nhưng trong bất cứ hoàn cảnh nào lòng yêu
nước, chí căm thù giặc luôn rực sáng trong tâm can mỗi người Việt Nam. Cuộc sống tủi nhục trong

cảnh nước mất nhà tan cùng với cuộc đấu tranh trường kỳ chống ngoại xâm càng làm cho mỗi
người Việt Nam thấy rõ bản chất tàn bạo dã man của quân xâm lược, nhận thức sâu sắc hơn về
giá trị cuộc sống độc lập, tự do mà càng hăng hái trong cuộc đấu tranh chống kẻ thù chung.
Như vậy, thực tiễn đấu tranh không mệt mỏi của nhân dân ta trong chống thiên tai đe doạ và
chống ngoại xâm bảo vệ bờ cõi qua hàng ngàn năm lịch sử, đã hun đúc tạo dựng nên chủ nghĩa
yêu nước Việt Nam và đã trở thành một truyền thống bền vững từ đời này sang đời khác. Đó là
"sợi chỉ đỏ" xuyên suốt toàn bộ lịch sử dân tộc, là tư tưởng tình cảm thiêng liêng nhất của nhân
dân ta. Yêu nước, sẵn sàng hy sinh vì sự nghiệp dựng nước và giữ nước trở thành một lẽ sống tự


nhiên, ý thức cộng đồng người Việt Nam, thành phép ứng xử và tư duy chính trị của mỗi người:
"Tình làng, nghĩa nước, nước mất thì nhà tan. Giặc đến nhà, đàn bà cũng đánh"[6, 83].
Vì vậy, chăm lo bồi dưỡng sức dân, phát huy sức mạnh của toàn dân trong dựng
nước và giữ nước là một yêu cầu tất yếu khách quan, là việc làm thường xuyên của mọi
triều đại Nhà nước Việt Nam từ xưa đến nay, đó là nhân tố quyết định thắng lợi của sự
nghiệp dựng nước và giữ nước. Ngược lại, nếu không chăm lo bồi dưỡng sức dân, phát
huy sức mạnh toàn dân đánh giặc như dưới thời An Dương Vương, Hồ Quý Ly và Tự Đức
tất yếu phải gánh chịu thất bại cay đắng. Điều đó được thể hiện trong câu nói của Hồ
Nguyên Trừng như một sự tổng kết kinh nghiệm trong dựng nước và giữ nước "không sợ
giặc mạnh mà chỉ sợ lòng dân không theo".
Truyền thống yêu nước nông nàn, ý chí kiên cường bất khuất trong chống thiên tai và chống
giặc ngoại xâm của dân tộc Việt Nam từ ngàn xưa truyền lại đã thấm sâu và trở thành nếp nghĩ, việc
làm hàng ngày của mỗi con người, mỗi gia đình, mỗi tập thể, mỗi dân tộc trong đại gia đình các dân
tộc Việt Nam và trở thành thứ tài sản vô giá của dân tộc ta. Hồ Chí Minh là người ý thức sâu sắc giá trị
truyền thống quý báu đó, Người đã tổng kết: "Dân ta có một lòng nồng nàn yêu nước. Đó là truyền
thống quý báu của ta. Từ xưa đến nay, mỗi khi Tổ quốc bị xâm lăng, thì tinh thần yêu nước ấy lại sôi
nổi, nó kết thành một làn sóng vô cùng mạnh mẽ, to lớn, nó lướt qua mọi nguy hiểm khó khăn, nó nhấn
chìm tất cả lũ bán nước và cướp nước"[64, 171].
Sự tổng kết hết sức cô dọng, sâu sắc của Chủ tịch Hồ Chí Minh đã thể hiện sự thấu triệt đầy đủ
giá trị to lớn của truyền thống yêu nước, tinh thần đoàn kết dân tộc. Theo Người, kế thừa, phát huy

truyền thống yêu nước của toàn dân tộc nhằm làm cho "Cuộc kháng chiến của ta tập trung tất cả cái
tinh thần quật cường yêu nước của giống nòi Hồng Lạc lưu truyền từ mấy ngàn năm…" [51,440].
Như vậy, truyền thống yêu nước, đoàn kết dân tộc là cơ sở đặc biệt quan trọng để Hồ Chí Minh
kế thừa, phát triển trong điều kiện mới, hình thành nên tư tưởng toàn dân kháng chiến chống thực dân
Pháp xâm lược.
Thực tiễn cách mạng thế giới và cách mạng Việt Nam kiểm nghiệm vai trò to lớn của
quần chúng.
Thực tiễn thế giới:
Lịch sử chiến tranh xảy ra trên thế giới từ xưa đến nay cho thấy (trừ dưới thời
trung cổ, chiến tranh là sự đọ sức, đọ tài chủ yếu giữa các "tướng quân" thủ lĩnh của các


bên tham chiến), nhân tố quyết định thắng lợi trong các cuộc chiến tranh là sức mạnh của
đông đảo quần chúng nhân dân tham gia. Cuộc đại cách mạng tư sản ở Pháp, cách mạng
tư sản Anh, Mỹ, tuy là những cuộc "cách mạng không đến nơi" nhưng đã giành thắng lợi,
nhờ giai cấp tư sản đã lôi kéo được đông đảo dân chúng tham gia. Công xã Pari thất bại
do giai cấp vô sản chưa tập hợp được đông đảo nông dân và các tầng lớp lao khổ khác
cùng chiến đấu. Cách mạng Tháng Mười Nga thành công vì biết tập hợp đông đảo quần
chúng công- nông- binh, dưới sự lãnh đạo của giai cấp công nhân.
Từ chủ nghĩa yêu nước ra đi tìm đường cứu nước, đó là quá trình Hồ Chí Minh nghiên cứu,
khảo sát tỷ mỉ, toàn diện tình hình các nước tư bản chủ nghĩa và thuộc địa phụ thuộc trên thế giới.
Bằng vốn tri thức uyên thâm, phong phú, Hồ Chí Minh đã nhanh chóng rút ra những tổng kết quan
trọng. Theo Người, trên thế giới chỉ có hai hạng người: bóc lột và bị bóc lột. Muốn xoá bỏ áp bức
bóc lột, chỉ có một cách là tập hợp toàn thể nhân dân lao động, những người bị áp bức bóc lột để
đánh đổ toàn bộ giai cấp bóc lột. Nhờ nghiên cứu sâu sắc, nhìn rõ bộ mặt tàn ác của chủ nghĩa
thực dân- Đế quốc và nỗi thống khổ của nhân dân lao động, Người khẳng định tiềm năng cách
mạng to lớn, sức mạnh vô địch của nhân dân các dân tộc thuộc địa nếu họ được thức tỉnh, được
giáo dục, tổ chức và lãnh đạo. Theo Hồ Chí Minh: ngày mà hàng trăm triệu nhân dân châu Á bị tàn
sát và áp bức thức tỉnh để gạt bỏ sự bóc lột đê tiện của bọn thực dân lòng tham không đáy, họ sẽ
hình thành một lực lượng khổng lồ… Với Đông Dương, Người chỉ rõ: Đằng sau sự phục tùng tiêu

cực, người Đông Dương đang che dấu điều gì đó, sôi sục ghê gớm và nó sẽ bùng nổ dữ dội khi
thời cơ đến.
Thực tiễn lịch sử cách mạng thế giới đã giúp Hồ Chí Minh tổng kết đúc rút thành bài
học lớn về phát huy vai trò của quần chúng nhân dân, tổ chức tập hợp lực lượng toàn dân
có ý nghĩa quyết định thành bại của cách mạng. Đây là một trong các nhân tố quan trọng để
hình thành tư tưởng toàn dân kháng chiến của Hồ Chí Minh.

Thực tiễn phong trào cách mạng Việt Nam từ khi Pháp xâm lược
Không cam chịu kiếp sống trâu ngựa dưới ách đô hộ của thực dân Pháp, với truyền
thống yêu nước, kiên cường bất khuất chống ngoại xâm của dân tộc, các phong trào yêu
nước chống Pháp của nhân dân ta diễn ra cuối thể kỷ XIX đầu thế kỷ XX hết sức sôi nổi,
bền bỉ với tinh thần :"Bao giờ nước Nam hết cỏ thì mới hết người Nam đánh Tây". Ngay khi
Pháp nổ súng đánh chiếm Đà Nẵng (1858) nhiều đội quân nông dân khắp mọi nơi kéo về


phối hợp với quân Triều đình đánh giặc, gây cho địch nhiều khó khăn tổn thất. Khi Pháp
đánh chiếm Nam bộ lại gặp nhiều cuộc khởi nghĩa bùng nổ mạnh mẽ như khởi nghĩa của
Trương Định, Nguyễn Trung Trực, Nguyễn Hữu Huân… Đến khi Pháp thực hiện song việc
xâm lược cả nước ta thì một phong trào chống Pháp với danh nghĩa cần vương lại nổ ra sôi
nổi trên phạm vi khắp cả nước với nhiều cuộc khởi nghĩa tiêu biểu như: Khởi nghĩa Hương
Khê (1885- 1896), khởi nghĩa Ba Đình (1886 - 1887) và khởi nghĩa Hùng Lĩnh (1886 - 1892),
khởi nghĩa Bãi Sậy (1885 - 1889)…
Sang đầu thế kỷ XX, phong trào chống Pháp phát triển lên một bước mới theo tư
tưởng dân chủ tư sản với nhiều hình thức hoạt động phong phú và sôi nổi: phong trào
Đông Du do Phan Bộ Châu lãnh đạo (1904 - 1909) với chủ trương bạo động vũ trang và
"xuất dương cầu viện"; phong trào Đông Kinh nghĩa thục của Lương Văn Can và Nguyễn
Quyền lãnh đạo, hoạt động nhằm thúc đẩy tinh thần dân tộc, phát triển văn hoá…; phong
trào Duy Tân (1906-1908) do Phan Châu Trinh, Trần Quý Cáp, Huỳnh Thúc Kháng lãnh đạo
nhằm vận động cải cách văn hoá, xã hội, động viên lòng yêu nước, đấu tranh cho dân tộc
thoát khỏi ách ngoại bang. Tiêu biểu trong phong trào đấu tranh vũ trang đầu thế kỷ XX, là

cuộc khởi nghĩa nông dân Yên Thế do Hoàng Hoa Thám đứng đầu đã gây cho Pháp nhiều
tổn thất.
Các phong trào yêu nước, chống Pháp kể trên phản ánh thực tế tinh thần yêu nước và
lòng quả cảm của các sĩ phu yêu nước là hết sức đáng khâm phục, nhưng các phong trào
đều chung kết cục thất bại. Đó là thất bại của ý thức hệ phong kiến, thất bại của một chế độ
xã hội đã suy tàn và sự bế tắc của con đường cách mạng dân chủ tư sản "cách mạng không
triệt để". Do hạn chế của lịch sử khiến các nhà yêu nước Việt Nam lúc đó không giải thích
được nguyên nhân thất bại trong sự nghiệp cứu nước của mình, như Phan Bội Châu không
hiểu nổi tại sao cuộc đời cách mạng của mình lại bị "một trăm thất bại mà không một thành
công". Cách mạng Việt Nam cuối thế kỷ XIX đầu thế kỷ XX rơi vào thời kỳ khủng hoảng, bế tắc
về đường lối cứu nước giải phóng dân tộc. Thực chất là thiếu một giai cấp tiên tiến lãnh đạo
với một đường lối cách mạng đúng đắn để có thể tập hợp, huy động lực lượng toàn dân đông
đảo, tạo sức mạnh tổng hợp đánh đuổi đế quốc thực dân, giành độc lập dân tộc. Đây là một
cơ sở thực tiễn quan trọng, góp phần hình thành tư tưởng Hồ Chí Minh về toàn dân kháng
chiến.


Thực tiễn cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp xâm lược đặt ra yêu cầu phát huy
sức mạnh toàn dân.
Đặc điểm, tính chất cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp xâm lược của nhân dân
ta là yếu tố hết sức quan trọng, nó đặt ra những điều kiện và yêu cầu cấp thiết cho việc tập
hợp, xây dựng lực lượng kháng chiến.
Trước hết, cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp xâm lược của nhân dân ta là một cuộc
chiến tranh chính nghĩa. Tính chất chính nghĩa là yếu tố thuận lợi cơ bản của chúng ta trong tiến
hành tập hợp lực lượng kháng chiến. Ngược lại, tính chất xâm lược phi nghĩa là điểm yếu cơ bản
không thể khắc phục được đối với thực dân Pháp.
Cách mạng tháng 8/1945 thành công không được bao lâu, thực dân Pháp với bản chất
hiếu chiến đã lập tức quay trở lại xâm lược nước ta một lần nữa. Dân tộc Việt Nam bị đặt
trước hai con đường: "Một là khoanh tay, cúi đầu trở lại nô lệ; hai là đấu tranh đến cùng để
giành lấy tự do và độc lập"[33,483].

Trải qua hơn 80 năm sống dưới ách nô lệ của thực dân Pháp, hơn ai hết nhân dân Việt Nam
hiểu sâu sắc giá trị thiêng liêng cao cả của "độc lập tự do" và nỗi nhục của người dân mất nước. Vì
vậy, mục đích cao cả, thiêng liêng của cuộc kháng chiến là giành độc lập, thống nhất thực sự cho
Tổ quốc, thực hiện tinh thần "thà chết chứ không chịu mất độc lập và tự do". Mục tiêu đặt ra của
kháng chiến nhằm bảo vệ nền độc lập của dân tộc, bảo vệ cuộc sống tự do, dân chủ cho toàn thể
nhân dân, đây là điều kiện tiên quyết cho phép huy động, tập hợp toàn dân kháng chiến đến thắng
lợi cuối cùng. Như Lênin đã chỉ rõ: "Việc quần chúng nhận thức mục đích và nguyên nhân của
chiến tranh có một tầm quan trọng to lớn và đó là sự bảo đảm cho thắng lợi"[ 20, 147].
Tư tường toàn dân kháng chiến đáp ứng nguyện vọng ý chí của toàn thể dân tộc Việt Nam,
quyết hy sinh vì độc lập Tổ quốc bởi mỗi người Việt Nam đều nhận rõ: "Tổ quốc là Tổ quốc chung.
Tổ quốc độc lập thì ai cũng được tự do. Nếu mất nước thì ai cũng phải làm nô lệ… Vì vậy ai cũng
phải kháng chiến"[34, 485] . Tính chất chính nghĩa giúp cho toàn dân tuyệt đối tin tưởng và đi theo
Đảng, Bác Hồ tiến hành kháng chiến đến thắng lợi cuối cùng như lời Chủ tịch Hồ Chí Minh khẳng
định với đồng bào Nam Bộ và cả nước: "Chúng ta nhất định thắng lợi vì chúng ta có lực lượng
đoàn kết của cả quốc dân. Chúng ta nhất định thắng lợi vì cuộc chiến đấu của chúng ta là chính
đáng"[25,27].


Thực tiễn khi bước vào cuộc kháng chiến, tương quan so sánh lực lượng giữa ta và
địch, có sự chênh lệch cơ bản, trước mắt bất lợi cho ta. Khi mở đầu cuộc xâm lược nước ta
lần thứ hai, thực dân Pháp là một tên đế quốc hùng mạnh, có tiềm lực kinh tế mạnh hơn ta
bội lần, có đội quân xâm lược nhà nghề với trang bị vũ khí hiện đại (phụ lục 1,2). Dựa vào
sức mạnh kinh tế, quân sự, chúng thực hiện chiến lược "đánh nhanh thắng nhanh" hòng
nhanh chóng đè bẹp lực lượng và ý chí chiến đấu của nhân dân ta.
Về phía ta, trong buổi dầu kháng chiến, lực lượng vũ trang còn non trẻ, trình độ, kinh
nghiệm tác chiến còn hạn chế, trang bị vũ khí kỹ thuật thô sơ. Cùng với những khó khăn về kinh tế,
tài chính do hậu quả nặng nề của chế độ thực dân phong kiến gây nên. Mặt khác, ta phải tự lực
kháng chiến trong sự bao vây phong toả của địch, chưa thể nhận được sự giúp đỡ của bên ngoài.
Bởi vậy, sức mạnh để chúng ta có thể đánh thắng kẻ thù không thể chỉ đơn thuần dựa vào lực
lượng vũ trang mà trước hết và quan trọng hơn cả là phải dựa vào lực lượng của toàn dân, phát

huy sức mạnh của toàn dân, tổ chức tập hợp và phát động toàn dân đánh giặc để tạo nên sức
mạnh tổng hợp đánh thắng kẻ thù. Đúng như Ăng ghen nhà quân sự thiên tài của giai cấp vô sản
đã viết: Một dân tộc muốn giành độc lập cho mình không được tự giới hạn trong những hình thức
tiến hành chiến tranh thông thường. Khởi nghĩa quần chúng, chiến tranh cách mạng, các đội du
kích ở khắp mọi nơi, đó là phương thức duy nhất, nhờ đó mà một dân tộc nhỏ có thể chiến thắng
một dân tộc lớn, mà một quân đội ít mạnh hơn có thể đương đầu với một quân đội mạnh hơn và
có tổ chức tốt hơn.
Nhờ nắm vững tính chất và đặc điểm cuộc kháng chiến của nhân dân ta, đã giúp Hồ
Chí Minh có thêm cơ sở thực tiễn quan trọng góp phần hình thành tư tưởng toàn dân kháng
chiến đúng đắn của Người.
Nghiên cứu nguồn gốc tư tưởng Hồ Chí Minh về toàn dân kháng chiến, đòi hỏi chúng
ta không thể không đề cập đến nhân tố chủ quan của bản thân con người Hồ Chí Minh.
Người có một tư chất thông minh, tư duy sáng tạo nhạy bén, tính độc lập tự chủ cao, thấm
nhuần chủ nghĩa nhân văn cao cả, đạo đức trong sáng, đức hy sinh trọn đời vì một mục
đích làm cho : "Nước ta được hoàn toàn độc lập, dân ta được hoàn toàn tự do, đồng bào ai
cũng có cơm ăn, áo mặc, ai cũng được học hành"[35,161]. Cùng với lòng yêu nước thương


dân sâu sắc, niềm tin tưởng tuyệt đối vào con người, vào nhân dân,đó là yếu tố góp phần
quan trọng vào việc hình thành tư tưởng toàn dân kháng chiến của Chủ tịch Hồ Chí Minh.
Như vậy, bằng tư duy sáng tạo, trí tuệ thiên tài Chủ tịch Hồ Chí Minh đã đi từ chủ nghĩa yêu
nước chân chính, chủ nghĩa nhân văn cao cả đến với chủ nghĩa Mác-Lênin, kết hợp với việc tiếp
thu có chọn lọc tinh hoa văn hoá thế giới, kế thừa và phát triển truyền thống tốt đẹp của dân tộc,
hiểu sâu sắc yêu cầu thực tiễn cuộc kháng chiến chống Pháp xâm lược của nhân dân ta, đó là
nguồn gốc cơ bản của tư tưởng toàn dân kháng chiến của Chủ tịch Hồ Chí Minh. Thực chất là sự
kết hợp nhuần nhuyễn giữa nhân tố khách quan và nhân tố chủ quan để hình thành tư tưởng Hồ
Chí Minh về toàn dân kháng chiến chống thực dân Pháp xâm lược.
1.2. Nội dung chủ yếu của tư tưởng Hồ Chí Minh về toàn dân kháng chiến
1.2.1. Động viên, tổ chức lực lượng toàn dân kháng chiến chống Pháp xâm lược
Theo lý luận chủ nghĩa Mác-Lênin, phạm trù nhân dân thường được giới hạn trong

phạm vi mối quan hệ giai cấp, giữa giai cấp vô sản với giai cấp nông dân và các tầng lớp
lao động bị áp bức bóc lột trên toàn thế giới. Đề cập phạm trù nhân dân, Lênin nói: Khi
dùng danh từ nhân dân, Mác không thông qua danh từ ấy xoá mờ mất sự khác biệt về giai
cấp; Mác đã gộp danh từ ấy những thành phần nhất định có khả năng làm cách mạng đến
cùng.
Vận dụng lý luận chủ nghĩa Mác-Lênin về quan điểm nhân dân vào thực tiễn Việt
Nam, một nước thuộc địa nửa phong kiến, đồng thời kế thừa và phát triển truyền thống
tốt đẹp của ông cha ta quan niệm về nhân dân, Chủ tịch Hồ Chí Minh cho rằng toàn dân
là toàn thể dân tộc, mọi người Việt Nam yêu nước, mọi con dân nước Việt Nam, mọi "
con Lạc cháu Hồng", không phân biệt già trẻ, gái trai, giàu nghèo, đẳng cấp, tôn giáo,
dân tộc, sống ở mọi miền của Tổ quốc, cả trong nước và kiều bào ở nước ngoài (trừ
bọn việt gian tay sai), họ có chung lòng yêu nước, chống đế quốc và tay sai phản động,
trong đó công-nông chiếm tuyệt đại đa số.
Vai trò to lớn của nhân dân đối với cách mạng sớm được Hồ Chí Minh khẳng định
trong tác phẩm "Đường cách mệnh". Theo Người, cách mạng là sự nghiệp của toàn dân,
sức mạnh của cách mạng nằm trong nhân dân, cách mạng chỉ thành công khi biết phát huy
vai trò sức mạnh của nhân dân. Cách mạng là "xoá cái cũ, đổi ra cái mới" và vì vậy là rất


khó, phải biết cách làm mới thành công. Cách làm đó là phải đoàn kết toàn thể dân chúng bị
áp bức để đánh đổ cả cái giai cấp áp bức mình, chứ không phải chỉ nhờ năm, bảy người
giết hai, ba anh vua, chín mười anh quan mà được. Do vậy, cách mạng không phải chỉ là
việc của những vị anh hùng xuất chúng, những người học rộng, tài cao như quan niệm của
các nhà cách mạng trước đây. Trái lại, theo Hồ Chí Minh, cách mạng là sự nghiệp của quần
chúng nhân dân đông đảo được thức tỉnh, tổ chức đấu tranh, mà trước hết là của những
tầng lớp nghèo khổ, bị áp bức bóc lột nặng nề nhất trong xã hội là công nhân và nông dân.
Từ nhận thức đúng đắn đó Hồ Chí Minh khẳng định: "Trong bầu trời, không có gì quý bằng
nhân dân. Trong thế giới không có gì mạnh bằng lực lượng đoàn kết của nhân dân". Đó là
sức mạnh mà "không có súng ống nào, binh lính nào chống nổi"[23,274]. Nhân dân là lực
lượng đông đảo hùng mạnh, rất thông minh sáng tạo. Mọi việc làm tốt, mọi cách làm hay

hầu hết đều từ dân mà ra, tổng kết kinh nghiệm trí tuệ của dân mà có. Muôn sự thành bại
đều ở nơi dân. Hồ Chí Minh đã từng nói: Việc lớn ở đời muốn thành công phải có ba yếu tố:
Thiên thời, địa lợi, nhân hoà. Trong ba yếu tố đó theo Người thì: Thiên thời không quan
trọng bằng địa lợi, địa lợi không quan trọng bằng nhân hoà. Nhân hoà tức là lòng người
quy thuận, là toàn dân đoàn kết, trên dưới đồng lòng thì sẽ khắc phục được mọi khó khăn
trở lực. Theo Hồ Chí Minh: "Trong hai phe giao chiến, phe nào có đầy đủ điều kiện nhân hoà
là phe ấy thắng. Chỉ phe nào có chính nghĩa mà chiến đấu thì phe ấy mới có điều kiện nhân
hoà. [36, 463]. Khẳng định vai trò của nhân dân đối với cách mạng, Hồ Chí Minh rất tâm đắc
câu ca dao của nhân dân Quảng Bình:
"Dễ mười lần không dân cũng chịu
Khó trăm lần dân liệu cũng xong".
Như vậy, quan niệm về nhân dân và vai trò của nhân dân theo Hồ Chí Minh là hết sức
đúng đắn và sâu sắc. Quan niệm đó thể hiện hết sức sinh động và phong phú trong cuộc
kháng chiến chống thực dân Pháp xâm lược. Từ yêu cầu của cuộc kháng chiến chống Pháp
của nhân dân ta, Hồ Chí Minh đã phát triển những quan điểm rất cơ bản về vai trò của nhân
dân đối với kháng chiến: Dân là chủ, kháng chiến, kiến quốc là sự nghiệp của dân; có dân
là có tất cả; khởi nghĩa toàn dân để giành lại nền độc lập cho dân tộc, kháng chiến toàn dân
để giữ vững nền độc lập ấy. Trong lời kêu gọi toàn quốc kháng chiến ngày 20/12/1946,
Người chỉ rõ: "Bất kỳ đàn ông, đàn bà, bất kỳ người già, người trẻ, không chia tôn giáo,


đảng phái, dân tộc. Hễ là người Việt Nam thì phải đứng lên đánh thực dân Pháp để cứu Tổ
quốc. Ai có súng dùng súng, ai có gươm dùng gươm, không có gươm thì dùng cuốc,
thuổng, gậy gộc. Ai cũng phải ra sức chống thực dân cứu nước" [37, 480].
Toàn dân kháng chiến là dùng toàn lực của nhân dân, thu gom tất cả lực lượng của
toàn quốc, với tinh thần như Hồ Chí Minh đã khẳng định: "Người có sức giúp sức, có tiền
giúp tiền, có của giúp của… Tóm lại chúng ta phải tập trung hết thảy nhân lực, vật lực, tài
lực vào công cuộc kháng chiến thì thực lực kháng chiến của ta mới được đầy đủ, mạnh mẽ
để đạt tới thắng lợi cuối cùng" [38, 477]. Do vậy, nhân dân ai cũng có thể góp sức mình để
tham gia kháng chiến như: cậu bé chăm chỉ học hành trong nhà trường cũng là kháng

chiến. Anh dân cày cày cuốc ngoài đồng ruộng, anh thợ cặm cụi trong nhà máy… các công
chức, các nhà văn, nhà báo mải miết trên bàn giấy… các y sinh lăn lộn bên giường bệnh…
các nhà giàu có đem hết tài lực mở mang xưởng thợ, khai thác ruộng đất cũng là kháng
chiến. Thực hiện tinh thần "mỗi công dân là một chiến sĩ, mỗi làng là một chiến hào" để
thực hiện trường kỳ kháng chiến.
Toàn dân kháng chiến là thể hiện ý chí quyết tâm sắt đá của toàn thể dân tộc Việt
Nam, của "Hai mươi triệu đồng bào Việt Nam quyết đánh tan mấy vạn thực dân phản động".
Toàn dân kháng chiến là thể hiện tinh thần "Toàn dân Việt Nam chỉ có một lòng: quyết
không làm nô lệ. Chỉ có một ý chí: quyết không chịu mất nước. Chỉ có một mục đích: quyết
kháng chiến để tranh thủ thống nhất và độc lập cho Tổ quốc. Sự đồng tâm của đồng bào ta
đúc thành một bức tường đồng xung quanh Tổ quốc. Dù địch hung tàn xảo quyệt đến mức
nào, đụng đầu vào bức tường đó, chúng cũng phải thất bại" [43,151].
Tiềm năng sức mạnh của lực lượng toàn dân là hết sức to lớn. Để có thể huy động
được sức mạnh vô địch của toàn dân cho kháng chiến, theo Hồ Chí Minh không chỉ có cổ
vũ, động viên mà phải đặc biệt chú trọng công tác tổ chức, xây dựng lực lượng toàn dân.
Thường xuyên chăm lo xây dựng khối đại đoàn kết dân tộc trong mặt trận dân tộc thống
nhất rộng rãi. Phát huy vai trò của mặt trận - một hình thức tổ chức phù hợp nhất nhằm thu
hút, tập hợp mọi lực lượng, mọi tầng lớp, mọi người Việt Nam, không phân biệt đối xử "dù
trước đây họ là ai, quá khứ họ thế nào"…, nay vì mục tiêu chung là: Độc lập dân tộc, hoà
bình thống nhất Tổ quốc, ai có lòng yêu nước đều có thể tham gia vào mặt trận, đóng góp
sức mình cho kháng chiến. Để xây dựng mặt trận thực sự là một tổ chức rộng rãi, vững
chắc, thu hút lực lượng toàn dân đông đảo nhất theo Đảng làm kháng chiến thì nhất thiết


phải tuân thủ nguyên tắc lấy liên minh công nông làm nòng cốt, đặt dưới sự lãnh đạo của
Đảng Cộng sản.
Nhận rõ vai trò quan trọng của công nhân và nông dân trong kháng chiến, Chủ tịch
Hồ Chí Minh khẳng định: "Trong công cuộc kháng chiến, kiến quốc, công nhân Việt Nam đã
và đang gánh vác một phần rất quan trọng" [57,593]. Đồng thời theo Người: "Muốn kháng
chiến kiến quốc thành công, muốn độc lập thống nhất thật sự ắt phải dựa vào lực lượng

của nông dân.
Đồng bào nông dân đã sẵn có lực lượng to lớn, sẵn có lòng nồng nàn yêu nước, sẵn
có chí khí kiên quyết đấu tranh và hy sinh…" [58,710]. Do vậy, trong báo cáo tại Hội nghị
Trung ương Đảng lần thứ 3, khoá II (tháng 4/1952), Chủ tịch Hồ Chí Minh nhấn mạnh: "Chỉ
có giai cấp công nhân lãnh đạo, thì nông dân mới được giải phóng. Cũng chỉ có thắt chặt
liên minh với nông dân thì giai cấp công nhân mới lãnh đạo cách mạng đến thắng lợi. Cho
nên giai cấp công nhân ắt phải chăm chú đến vấn đề nông dân, phải củng cố công nông
liên minh" [68,459].
Đi đôi với công tác tuyên truyền, động viên, tổ chức tập hợp lực lượng toàn dân, Hồ
Chí Minh yêu cầu phải hết sức quan tâm việc chăm lo, bồi dưỡng sức dân. Tháng 3 năm 1952
trước yêu cầu phát triển của cuộc kháng chiến, trong lời kêu gọi nhân dịp phát động phong
trào sản xuất và tiết kiệm, Người chỉ rõ: "Lâu nay chúng ta đòi hỏi nhân dân đóng góp. Từ
đây, chúng ta phải ra sức hướng dẫn và giúp đỡ nhân dân hơn nữa trong việc sản xuất và tiết
kiệm, để cải thiện đời sống bộ đội và nhân dân, để làm cho dân giàu, nước mạnh"[69,441]. Đó
là sự thể hiện nhất quán tư tưởng: muốn kháng chiến thắng lợi, phải dựa vào lực lượng toàn
dân. Muốn dựa vào lực lượng toàn dân ắt phải thường xuyên chăm lo bồi dưỡng sức dân,
hướng về dân, lấy dân làm gốc.
1.2.2. Toàn dân kháng chiến đi đôi với kháng chiến toàn diện tạo sức mạnh tổng hợp
Tư tưởng toàn dân kháng chiến của Hồ Chí Minh luôn gắn liền với kháng chiến toàn
diện. Theo Người, muốn huy động được đông đảo các tầng lớp nhân dân tham gia kháng
chiến thì phải thực hiện kháng chiến toàn diện. Phải thực hiện kháng chiến trên tất cả các
lĩnh vực: chính trị, quân sự, kinh tế, văn hoá, tư tưởng, ngoại giao…


Đúng như chủ nghĩa Mác-Lênin đã đề cập: "chiến tranh là sự thử thách toàn diện
giữa các bên tham chiến". Trong chiến tranh, sự đối đầu khốc liệt giữa các bên không chỉ
về mặt quân sự mà bao giờ cũng diễn ra sự kết hợp, đan xen giữa các yếu tố quân sự,
chính trị, kinh tế, văn hoá, ngoại giao… Vì vậy, bên nào không nhận thức rõ điều đó sẽ bị
hạn chế sức mạnh tổng hợp và dẫn đến thất bại.
Kháng chiến toàn dân đi đôi với kháng chiến toàn diện là kết quả của sự kế thừa, phát

triển kinh nghiệm chống giặc ngoại xâm của ông cha ta được Hồ Chí Minh đúc rút, vận
dụng trong điều kiện mới. Người khẳng định: "… Muốn thắng quân địch, chỉ trông vào sức
chiến đấu ở tiền phương chưa đủ. Tạo sao? vì ngày nay, một khi chiến tranh đã bùng nổ ở
nơi nào, ảnh hưởng của nó sẽ lan tràn khắp các nơi khác. Chẳng những thế, nó còn ảnh
hưởng sâu sắc đến tất cả các ngành hoạt động kinh tế, chính trị, văn hoá… chiến tranh
không những chỉ phát động trong địa hạt quân sự ở tiền phương mà còn phát động cả
trong các địa hạt khác ở hậu phương, vì vậy, muốn kháng chiến lâu dài, để tới thắng lợi
cuối cùng cần phải động viên hết thảy mọi lực lượng mới mong đi tới thắng lợi cuối cùng…
Nói tóm lại, muốn thực hiện toàn dân kháng chiến, ngoài việc động viên quân sự, chính trị,
ngoại giao, còn phải động viên cả tinh thần lẫn kinh tế"[26,85]. Mặt khác, Chủ tịch Hồ Chí
Minh còn đề cập đến hình thức cuộc chiến tranh để qua đó thống nhất nhận thức, chuẩn bị
hành động cho toàn quân, toàn dân: "Chiến tranh ngày nay phức tạp và hết sức khó khăn,
không dùng toàn lực của nhân dân về đủ mọi mặt để ứng phó, không thể nào thắng được"
[39, 298].
Hơn nữa, kháng chiến toàn diện cũng là để đáp ứng yêu cầu thực tiễn khách quan
của cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp đặt ra. Thực tế khi tiến hành chiến tranh xâm
lược Việt Nam, đế quốc Pháp không chỉ tiến công ta đơn thuần về quân sự hay kinh tế,
chính trị… mà chúng tiến hành một cuộc chiến tranh tổng lực, phá hoại chúng ta trên tất cả
các mặt. Chúng không chỉ tiến công về mặt quân sự hòng tiêu diệt chủ lực và các lực
lượng vũ trang của ta mà còn nhằm làm ta suy yếu kinh tế; phân hoá, chia rẽ khối đại đoàn
kết dân tộc, làm sói mòn lòng tin của nhân dân vào thắng lợi cuối cùng của cuộc kháng
chiến, làm lung lạc ý chí quyết tâm chiến đấu của nhân dân ta; xoá bỏ truyền thống văn hoá
của dân tộc; bao vây cô lập ta về ngoại giao, hòng "bóp nghẹt" sự nghiệp kháng chiến của
chúng ta… Tóm lại, kẻ thù không từ một thủ đoạn nào, nhằm mục đích cuối cùng là làm suy
yếu, tiến tới nhanh chóng xâm lược nước ta. Thực tế đó đòi hỏi chúng ta phải phát huy cao


nhất sức mạnh toàn dân để đánh địch trên tất cả các mặt trận; phải kết hợp đấu tranh quân
sự với đấu tranh chính trị, đấu tranh kinh tế, văn hoá, ngoại giao. Vì thế Chủ tịch Hồ Chí
Minh luôn nhắc nhở "Mỗi người dân Việt Nam, bất kỳ già, trẻ, trai, gái; bất kỳ giàu, nghèo,

lớn, nhỏ đều cần phải trở thành một chiến sĩ đấu tranh trên mặt trận: quân sự, kinh tế,
chính trị, văn hoá" [ 52,444].
Đấu tranh quân sự là một hình thức đấu tranh cơ bản có ý nghĩa quyết định trực tiếp
tiêu hao, tiêu diệt lực lượng quân sự của địch. Theo Hồ Chí Minh "Quân sự là việc chủ chốt
trong kháng chiến" [80, 148] để thực hiện những mục tiêu, nhiệm vụ chính trị của cuộc
kháng chiến. Đấu tranh quân sự phải gắn liền với đấu tranh chính trị, tạo điều kiện cho đấu
tranh chính trị phát triển, "Thắng lợi quân sự đem lại thắng lợi cho chính trị, thắng lợi chính
trị sẽ làm cho thắng lợi quân sự to lớn hơn"[80, 148].
Cùng với đấu tranh quân sự, đấu tranh trên mặt trận chính trị giữ vị trí hết sức quan
trọng nhằm phát huy cao độ thế mạnh chính nghĩa của nhân dân ta, vạch trần bản chất phi
nghĩa, xâm lược của thực dân Pháp. Phát huy yếu tố chính trị- tinh thần trong chiến tranh
nhân dân nhằm "… Tập trung hết thảy lực lượng tinh thần, ý chí, tư tưởng của từng cá
nhân và của toàn quốc dân đều hướng về một chiều để cùng đi tới mục đích kháng
chiến"[26, 85], nhằm " một mặt làm chấn khởi tinh thần kháng chiến và một mặt là làm cho
họ tin tưởng ở chỗ thế nào cũng thắng lợi". Mặt khác, đẩy mạnh đấu tranh chính trị nhằm
thực hiện đoàn kết toàn dân, đoàn kết các lực lượng tiến bộ trên thế giới, đánh bại âm mưu
thủ đoạn của địch hòng chia rẽ khối đại đoàn kết dân tộc; phân hoá cô lập kẻ thù, đẩy thực
dân Pháp đến chỗ ngày càng suy yếu về chính trị, tạo điều kiện cho ta kết hợp có hiệu quả
đấu tranh quân sự với đấu tranh chính trị, từng bước đánh bại kẻ thù.
Đấu tranh ngoại giao cũng là một mặt trận quan trọng trong kháng chiến, có địa vị
chiến lược quan trọng, nhằm cô lập kẻ thù, động viên cao độ mọi lực lượng hoà bình, độc
lập dân tộc, dân chủ tiến bộ trên thế giới ủng hộ, giúp đỡ cuộc kháng chiến thần thánh của
ta; phối hợp chặt chẽ và nhịp nhàng với mặt trận quân sự và chính trị, làm chuyển biến cục
diện chiến tranh, ngày càng đưa cuộc kháng chiến của ta vào lợi thế thêm bạn, bớt thù,
phân hoá kẻ thù để tập trung mũi nhọn vào kẻ thù chính. Đấu tranh ngoại giao đòi hỏi phải
thực hiện đan xen, kết hợp chặt chẽ giữa "vừa đánh vừa đàm phán", đánh là chủ yếu, đàm
phán là hỗ trợ quan trọng. Đấu tranh chính trị phối hợp với đấu tranh ngoại giao nhằm thực
hiện lời kêu gọi của Hồ Chủ tịch "Làm cho thế giới văn minh và nhất là dân tộc Pháp nghe



thấy tiếng nói của Tổ quốc" và nhằm "phá tan những sự điêu toa của thực dân Pháp đang
tuyên truyền một cách bỉ ổi" [27, 88]. Sự kết hợp giữa ba mặt trận đấu tranh quân sự, chính
trị và ngoại giao sẽ tạo nên sức mạnh tổng hợp tiến công địch toàn diện, liên tục đánh
thắng kẻ thù xâm lược, kết thúc chiến tranh đúng thời cơ.
Kháng chiến về mặt kinh tế là phá hoại kinh tế của địch, ra sức ổn định, phát triển và
bảo vệ nền kinh tế của ta, bảo đảm sức sống của nền kinh tế đáp ứng nhu cầu kháng chiến
kiến quốc, tăng cường bồi dưỡng sức dân; phối hợp chặt chẽ với các mặt trận khác, thực
hiện đánh bại âm mưu "lấy chiến tranh nuôi chiến tranh" của thực dân Pháp.
Đề cập vai trò đấu tranh trên mặt trận kinh tế, Hồ Chí Minh chỉ rõ: "Chúng ta kháng
chiến về mọi mặt, kinh tế là một mặt trận rất quan trọng. Chúng ta vừa kháng chiến vừa
kiến quốc. Kinh tế lại là một ngành hoạt động tối quan trọng"[53, 455]. Thực hiện kháng
chiến về kinh tế, Người kêu gọi toàn dân ra sức tăng gia sản xuất, thực hành tiết kiệm, phục
vụ kháng chiến. Người coi "Ruộng rẫy là chiến trường, cuốc cày là vũ khí, nhà nông là
chiến sĩ. Hậu phương thi đua với tiền phương"[65, 178]. Theo Chủ tịch Hồ Chí Minh: "Chiến
sĩ đánh trước mặt trận… chiến sĩ hy sinh xương máu để giữ đất nước. Bụng có no, thân có
ấm mới đánh được giặc. Làm ra gạo thóc cho chiến sĩ ăn, làm ra vải vóc cho chiến sĩ mặc
đều nhờ nơi đồng bào ở hậu phương.
…Tiền phương chiến sĩ hy sinh,
Đem xương máu mình giữ nước non ta.
Hậu phương sản xuất tăng gia,
Cũng là kháng chiến, cũng là vẻ vang" [34, 486].
Để đẩy mạnh kháng chiến về kinh tế, Hồ Chí Minh rất quan tâm vấn đề động viên kinh
tế, tức là xây dựng một nền kinh tế kháng chiến đủ mạnh sao cho có thể đánh lâu dài và đi
đến thắng lợi cuối cùng. Người khẳng định: "Chúng ta không thể không chú ý đến vấn đề
động viên kinh tế", để thu góp lực lượng của toàn quốc cho kháng chiến. Động viên kinh tế
cũng có nghĩa là phải nhằm không ngừng bồi dưỡng sức dân, góp phần làm cho dân giàu,
nước mạnh. Người còn chỉ ra sáu phương pháp cụ thể để động viên kinh tế, bao gồm: đông
viên lao động, động viên giao thông, động viên công nghệ, động viên nông nghiệp, động
viên tài chính và tiết kiệm.
Trên mặt trận văn hoá, cuộc đấu tranh cũng diễn ra hết sức quyết liệt nhằm xoá bỏ nền

văn hoá nô dịch của địch, xây dựng nền văn hoá mới xã hội chủ nghĩa. Vì vậy, theo quan niệm


của Hồ Chí Minh: "Trong sự nghiệp vĩ đại kháng chiến kiến quốc của dân tộc ta, văn hoá gánh
một phần quan trọng"[54, 464]. Đấu tranh về văn hoá không chỉ nhằm chống lại chính sách
"ngu dân" của giặc Pháp, mà còn nhằm chống lại kẻ thù trong chính chúng ta là sự dốt nát. Bởi
theo Hồ Chí Minh: "Dốt nát cũng là kẻ địch". Từ đó Người khẳng định:"Văn hoá nghệ thuật
cũng là một mặt trận" và " anh chị em văn nghệ sĩ là chiến sĩ trên mặt trận ấy". Người yêu cầu
phải "xúc tiến công tác văn hoá để đào tạo con người mới và cán bộ mới cho công cuộc kháng
chiến kiến quốc. Phải triệt để tẩy trừ mọi di tích thuộc địa và ảnh hưởng nô dịch của văn hoá đế
quốc… Để xây dựng một nền văn hoá Việt Nam có tính chất dân tộc, khoa học và đại
chúng"[64,173].
Kháng chiến trên lĩnh vực tư tưởng, theo Hồ Chí Minh là một lĩnh vực không kém
phần quan trọng, nó không chỉ xây dựng ý chí quyết tâm, tinh thần yêu nước, căm thù giặc
của nhân dân ta, mà còn nhằm mục đích "làm ly gián quân địch, làm nhụt chí chiến đấu của
bên địch". Theo Người, đấu tranh tư tưởng với địch phải hết sức coi trọng phương pháp
tuyên truyền, bởi vì "ngày nay về quân sự người ta coi phương pháp tuyên truyền làm một
lợi khí sắc bén nhất", cho nên "phải vận dụng phương pháp tuyên truyền cho địch quân
trước sau không đồng lòng, trên dưới không bảo được nhau, không muốn tập trung, không
cứu giúp nhau trong khi nguy hiểm" (chiến tranh tư tưởng) [40, 319].
Với ta, đẩy mạnh công tác tư tưởng nhằm tăng cường tuyên truyền, phổ biến giáo
dục đường lối, nhiệm vụ kháng chiến; nâng cao lòng yêu nước, tinh thần cách mạng, ý chí
chiến đấu kiên cường, bền bỉ. Đấu tranh khắc phục những biểu hiện lệch lạc, bi quan, nóng
vội, thiếu tin tưởng vào thắng lợi, ngại lâu dài gian khổ hy sinh… làm cho mọi tầng lớp cán
bộ và nhân dân ta luôn nhận rõ khó khăn, thuận lợi, kiên định ý chí quyết tâm kháng chiến
đến thắng lợi cuối cùng.
Như vậy, thực hiện kháng chiến toàn diện, mỗi mặt trận đều có vai trò quan trọng,
song điều cần thiết là phải kết hợp chặt chẽ các mặt trận đấu tranh với nhau để tạo nên thế
trận chiến tranh nhân dân rộng khắp, hoàn chỉnh. Theo Chủ tịch Hồ Chí Minh: "Trong kháng
chiến, quân sự là việc chủ chốt", song nếu chỉ có đánh địch trên chiến trường thôi thì chưa

đủ mà còn phải biết kết hợp với các mặt đấu tranh khác nữa.
Theo tư tưởng Hồ Chí Minh, toàn dân kháng chiến và toàn diện kháng chiến có mối
quan hệ hết sức chặt chẽ, không thể tách rời. Có thực hiện toàn dân kháng chiến mới có


được lực lượng đông đảo để làm kháng chiến toàn diện; toàn dân kháng chiến là điều kiện
để kháng chiến toàn diện. Mặt khác, có kháng chiến toàn diện mới phát huy cao độ sức
mạnh to lớn của lực lượng toàn dân tiến tới giành thắng lợi hoàn toàn.
1.2.3. Xây dựng lực lượng vũ trang ba thứ quân làm nòng cốt cho toàn dân kháng chiến
Nắm vững lý luận chủ nghĩa Mác-Lênin về xây dựng lực lượng vũ trang cách mạng, đi
sâu nghiên cứu bản chất của kẻ thù và thực tiễn cách mạng Việt Nam, Chủ tịch Hồ Chí Minh
có quan điểm mới về xây dựng lực lượng vũ trang cách mạng, lực lượng vũ trang của công
nông gồm nhiều thứ quân, nhiều loại hình lực lượng. Đồng thời, Người khẳng định quy luật
về xây dựng, phát triển lực lượng vũ trang cách mạng ở Việt Nam là từ lực lượng chính trị
của quần chúng đông đảo, chủ yếu là công nông mà xây dựng, phát triển lực lượng vũ
trang nhân dân và quân đội nhân dân.
Trên cơ sở nhận thức đúng đắn đó, để đảm bảo thực hiện toàn dân kháng chiến chống
Pháp thắng lợi, Hồ Chí Minh khẳng định: lực lượng vũ trang nhân dân được xây dựng, tổ chức
thành ba thứ quân (bộ đội chủ lực, bộ đội địa phương và dân quân du kích, tự vệ); bộ đội chủ
lực cùng với bộ đội địa phương hợp thành Quân đội nhân dân Việt Nam. Lực lượng vũ trang ba
thứ quân phải được xây dựng vững mạnh, đóng vai trò nòng cốt cho toàn dân đánh giặc. Do
tính chất cuộc kháng chiến của ta là kháng chiến toàn dân, chiến tranh nhân dân, nên kết hợp
chặt chẽ giữa xây dựng quân đội nhân dân với xây dựng lực lượng vũ trang quần chúng (dân
quân du kích và tự vệ) là hình thức thích hợp nhất để phát huy sức mạnh của toàn dân đánh
giặc. Theo Hồ Chí Minh, lực lượng vũ trang ba thứ quân mang bản chất giai cấp công nhân, với
nhiệm vụ, chức năng, cơ cấu tổ chức mang tính quần chúng rộng rãi, tính nhân dân sâu sắc.
Bộ đội chủ lực, bộ đội địa phương và dân quân, tự vệ có quan hệ chặt chẽ với nhau.
Trong xây dựng lực lượng phải biết kết hợp chặt chẽ để phát huy vai trò của từng bộ phận
với nhau và vai trò nòng cốt cho toàn dân kháng chiến.
Bộ đội chủ lực (quân chủ lực) giữ vị trí chiến lược chủ yếu trong đấu tranh vũ trang,

là lực lượng cơ động đánh địch trên chiến trường cả nước, phát triển thế trận chiến tranh
nhân dân. Chức năng và nhiệm vụ cơ bản của quân chủ lực là thực hiện những đòn đánh
tiêu diệt lớn lực lượng chủ lực, lực lượng chiến lược chủ yếu của quân địch bằng tác chiến
tập trung, tác chiến hiệp đồng các binh chủng, giải phóng và bảo vệ các vùng lãnh thổ quan
trọng; phối hợp, hiệp đồng với bộ đội địa phương và dân quân du kích, phối hợp với lực
lượng chính trị của quần chúng, thực hiện những đòn đánh quyết định trên hướng chiến


lược chủ yếu, chiến trường chủ yếu, làm chuyển biến so sánh lực lượng và cục diện chiến
tranh có lợi cho ta và kết thúc thắng lợi cuộc kháng chiến. Bộ đội chủ lực cùng với bộ đội
địa phương, dân quân, tự vệ hình thành, phát triển thế trận chiến tranh nhân dân nhằm chủ
động, tiến công, bao vây, chia cắt, phân tán lực lượng địch, đẩy địch vào thế bị động, suy
yếu; đồng thời phải kết hợp chặt chẽ với đấu tranh chính trị, khởi nghĩa của quần chúng.
Trong quá trình kháng chiến, bộ đội chủ lực được xây dựng, phát triển từ nhỏ đến
lớn theo đường lối kháng chiến kiến quốc của Đảng. Từ những đơn vị nhỏ mang nhiều
tính chất du kích, từng bước phát triển lên quy mô lớn, đáp ứng yêu cầu của kháng
chiến. Từ những đơn vị đại đội, tiểu đoàn, phát triển lên thành những trung đoàn, đại
đoàn cơ động tác chiến trên chiến trường cả nước. Đây là lực lượng tinh nhuệ nhất của
ba thứ quân được trang bị, huấn luyện tốt, có sức chiến đấu cao. Theo Hồ Chí Minh bộ
đội chủ lực còn có nhiệm vụ "… Dìu dắt cán bộ vũ trang của các địa phương, giúp đỡ
huấn luyện, giúp đỡ vũ khí nếu có thể được, làm cho các đội này trưởng thành mãi
lên"[24, 507].
Bộ đội địa phương là lực lượng nòng cốt của đấu tranh vũ trang và chiến tranh nhân
dân ở địa phương; là lực lượng tác chiến tại chỗ tiêu diệt , tiêu hao quân địch, bảo vệ địa
phương. Cùng với bộ đội chủ lực và dân quân du kích, tự vệ hình thành phát triển thế trận
chiến tranh nhân dân ở địa phương và thế trận chiến tranh nhân dân trên cả nước, nhằm
chủ động tiến công bao vây, chia cắt, phân tán lực lượng địch; phối hợp với dân quân du
kích, tự vệ, phát triển chiến tranh du kích, chiến tranh nhân dân địa phương, tiến công địch
trên địa bàn địa phương; hiệp đồng với bộ đội chủ lực trong các trận đánh, các chiến dịch,
giúp sức cho đấu tranh chính trị, khởi nghĩa của quần chúng; là lực lượng "hậu bị trực tiếp"

để bổ sung, phát triển bộ đội chủ lực. Trong quá trình kháng chiến, bộ đội địa phương
được hình thành phát triển từ những đội du kích tập trung, các đội vũ trang tuyên truyền ở
các địa phương, được huấn luyện phù hợp với nhiệm vụ của mình, trang bị vũ khí chủ yếu
là lấy của địch.
Dân quân du kich, tự vệ, theo Chủ tịch Hồ Chí Minh "Là lực lượng của toàn dân tộc, là
một lực lượng vô địch, là bức tường sắt của Tổ quốc. Vô luận kẻ địch hung bạo thế nào, hễ
đụng vào lực lượng đó, bức tường đó thì địch nào cũng phải tan rã"[44, 132]. Phát triển lực
lượng dân quân du kích trong cuộc kháng chiến là phát triển lực lượng nền tảng cho toàn
dân đánh giặc, cả nước đánh giặc, với tinh thần "mỗi quốc dân là một chiến sĩ, mỗi làng


xóm là một pháo đài". Dân quân, du kích và tự vệ là lực lượng rộng khắp để đánh địch tại
chỗ bảo vệ xóm làng, đường phố, góp phần tiêu hao, tiêu diệt quân địch, giam chân, phân
tán, chia cắt, bao vây quân địch, làm cho chúng mệt mỏi, đui mù, đói khát và suy yếu. Lực
lượng dân quân, du kích, tự vệ với cách đánh du kích tài giỏi "lúc ẩn lúc hiện", với tính chất
cơ động cao nhất (vì không có lực lượng cơ động nào nhanh bằng lực lượng tại chỗ), làm
cho kẻ thù không thể phát huy được ưu thế về vũ khí kỹ thuật hiện đại, làm cho chúng phải
bị động đối phó với nhân dân ta trong cuộc kháng chiến không phân rõ đâu là tiền tuyến,
đâu là hậu phương, một cuộc chiến tranh xen kẽ triệt để giữa ta và địch. Đây là kiểu chiến
tranh mà thực dân Pháp và sau này là Mỹ đều xem là "xa lạ" với chiến tranh quy ước, đẩy
chúng bị sa vào "thiên la địa võng" của chiến tranh nhân dân Việt Nam, càng đánh càng
thua đau, tổn thất. Bởi vậy chính cựu tổng thống Mỹ Kennơđi phải khẳng định: "Sự giúp đỡ
quân sự của Mỹ ở Đông Dương dù đến đâu cũng không thể chinh phục được một kẻ thù
vừa ở khắp nơi, vừa không thấy ở đâu cả, một kẻ thù là con đẻ của nhân dân, được nhân
dân đồng tình che dấu và giúp đỡ" [22,12].
Dân quân du kích, tự vệ cũng là một lực lượng chiến lược rất quan trọng, góp phần
xây dựng, phát triển thế trận chiến tranh nhân dân, phát triển chiến tranh du kích và chiến
tranh chính quy, phát triển lực lượng vũ trang nhân dân. Nó còn là công cụ bạo lực vũ trang
bảo vệ Đảng, chính quyền cách mạng, bảo vệ tính mạng, tài sản của nhân dân ở cơ sở; là
lực lượng xung kích trong lao động sản xuất và bảo vệ an ninh xóm làng, đường phố.

Tổ chức dân quân tự vệ rất phong phú, đa dạng theo nguyên lý đặt dưới sự lãnh đạo
của tổ chức Đảng, phù hợp điều kiện của mỗi địa phương, cơ sở và gắn bó máu thịt với dân
cư, làng bản, đường phố. Dân quân, du kích được tổ chức ở vùng nông thôn; tự vệ được tổ
chức ở thành phố, thị xã. Trong kháng chiến, dân quân, tự vệ được tổ chức với quy mô nhỏ
(tiểu đội, trung đội, đại đội) là phổ biến. Có tổ chức công khai, tổ chức bí mật, hợp pháp và
không hợp pháp; có khi tập trung thoát ly sản xuất hoặc không thoát ly sản xuất… Vũ khí
trang bị chủ yếu là thô sơ tự tạo và vũ khí lấy được của giặc. Trong kháng chiến, việc xây
dựng và phát triển lực lượng dân quân du kích, tự vệ là biểu hiện tập trung của xây dựng,
phát triển bạo lực cách mạng của quần chúng, xây dựng lực lượng làm chủ ở cơ sở, đánh
địch ở mọi nơi, mọi lúc, kết hợp và giúp sức quần chúng đấu tranh chống giặc trên mọi lĩnh
vực, góp phần đưa cuộc chiến tranh nhân dân, kháng chiến toàn dân phát triển đến trình độ
cao và phong phú, sâu rộng, đa dạng. Nguyên tắc của tác chiến du kích đã được Chủ tịch


×