Tải bản đầy đủ (.docx) (12 trang)

Bài tiểu luận trình bày và so sánh chức năng lập kế hoạch trong khu vực công với khu vực tư

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (87.73 KB, 12 trang )

Bài tiểu luận trình bày và so sánh chức năng lập kế hoạch trong khu
vực công với khu vực tư
MỞ ĐẦU
Trên phương diện kiến trúc mọi người đều biết rằng con ong xây tổ của mình
là rất tuyệt vời. Tuy nhiên, một người thợ xây dựng tồi nhất cũng hơn con
ong ở chỗ họ biết hình dung ra công trình như thế nào trước khi họ bắt tay
vào xây dựng, còn con ong không làm như vậy, nó làm theo bản năng. Như
vậy, nhìn chung phần lớn các hoạt động của con người để thực hiện một việc
gì đó đều khác con vật ở chỗ con người biết tư duy, suy nghĩ, hình dung, lựa
chọn cách làm trước khi bắt tay vào việc thực hiện nó. Những hoạt động này
không khác gì hơn là các hoạt động có kế hoạch của con người. Hay nói cách
khác kế hoạch hóa là một việc cần thiết và rất đặc trưng cho các hoạt động
của con người. Hoạt động quản lý trong khu vực công và cả khu vực tư đều là
những dạng hoạt động của con người và chính vì vậy nó cũng rất cần được kế
hoạch hóa. Vậy kế hoạch là gì? chức năng lập kế hoạch là gì? Và việc lập kế
hoạch trong khu vực công và khu vực tư khác nhau như thế nào? Bài tiểu
luận này ra đời góp phần nhìn nhận rõ hơn về vấn đề trên. Bố cục nội dung
chính của bài tiểu luận được chia làm 3 phần:I. Lý luận chungII. So sánh kế
hoạch…III. Kiến nghị về công tác lập kế hoạch ở hai khu vực công và tư Trong
quá trình nghiên cứu đã có sự hướng dẫn của giảng viên TS.Bùi Huy Khiên.
Chúng em xin gửi lời cảm ơn tới thầy. Ngoài ra để bài tiểu luận này thành
công còn là sự đóng góp nhiệt tình của các thành viên trong nhóm. Tuy vậy se
không là bài nghiên cứu tốt nếu thiếu sự góp ý của quý bạn đọc . Xin chân
thành cảm ơn !
NỘI DUNG
I:

luận
chung
1. Các
khái


niệm

bản
Kế hoạch là tập hợp các hoạt động được tính toán trước.
Lập kế hoạch là chức năng đầu tiên trong bốn chức năng của quản lý là lập
kế hoạch, tổ chức, lãnh đạo và kiểm tra. Cho đến nay thì có rất nhiều khái
niệm về chức năng lập kế hoạch như quan điểm của STEYNER, của RONNER,
của HENRYPAYH, của TAYLOR… Với mỗi quan điểm, mỗi cách tiếp cận khác
nhau đều có khái niệm riêng nhưng tất cả đều cố gắng biểu hiện đúng bản
chất của phạm trù quản lý này. Lập kế hoạch là quá trình xác định các mục
tiêu và lựa chọn các phương thức để đạt được các mục tiêu đó. Lập kế hoạch
nhằm mục đích xác định mục tiêu cần phải đạt được là cái gì ? và phương
tiện để đạt được các mục tiêu đó như thế nào? Tức là, lập kế hoạch bao gồm
việc xác định rõ các mục tiêu cần đạt được, xây dựng một chiến lược tổng thể
để đạt được các mục tiêu đã đặt ra, và việc triển khai một hệ thống các kế
hoạch để thống nhất và phối hợp các hoạt động. Khu vực công là tổng thể


các hoạt động do nhà nước đầu tư vốn, trực tiếp thực hiện hoặc một phần do
tư nhân đầu tư tiến hành có sự trợ giúp tài chính của nhà nước và được nhà
nước quản lí với những cơ chế đặc biệt nhằm tạo ra những sản phẩm và dịch
vụ công phục vụ nhu cầu đa dạng và cần thiết cho xã hội.Có nhiều cách tiếp
cận . Tuy nhiên có thể hiểu khu vực tư là tổng thể các hoạt động do chủ sử
hữa tư nhân đầu tư vốn, trực tiếp thực hiện nhằm mục tiêu lợi nhuận.
2. Vai
trò
của
việc
lập
kế

hoạch
-Việc lập kế hoạch là nhịp cầu nối cần thiết giữa hiện tại và tương lai. Kế
hoạch cũng làm cho chúng ta luôn sẵn sàng đối phó với mọi tình huống thay
đổi có thể xảy ra. Nhờ lập kế hoạch chúng ta se làm tăng khả năng đạt được
các mục tiêu và kết quả mong muốn của tổ chứ.- Nhờ có kế hoạch từ trước
mà một tổ chức có thể nhận ra và tận dụng được các cơ hội và giúp các nhà
quản lý chủ động ứng phó với sự bất trắc và rủi ro. Từ các sự kiện trong quá
khứ và hiện tại, người ta se dự đoán và lập ra các kế hoạch cho tương lai.
Thông qua kế hoạch người ta đề ra các nhiệm vụ, thiết lập các mục tiêu, xây
dựng các định mức, tiêu chuẩn, chỉ tiêu, dự đoán các biến cố cùng xu hướng
trong tương lai và lựa chọn các chiến lược để thực hiện các mục tiêu đã được
xác định. - Hướng dẫn các nhà quản lý làm cách nào để đạt mục tiêu và kết
quả mong đợi cuối cùng. Mặt khác, nhờ có kế hoạch các nhà quản lý có thể
biết tập trung chú ý vào việc thực hiện các mục tiêu trọng điểm trong những
khoảng thời gian khác nhau.- Nhờ có kế hoạch một tổ chức có thể phát triển
tinh thần làm việc tập thể. Khi mỗi người trong tập thể cùng hành động và
đều biết rằng mình muốn đạt cái gì, thì kết quả đạt được se cao hơn. Và điều
quan trọng là ở chỗ, khi thực hiện những công việc đã được kế hoạch cẩn
thận, khoa học, chu đáo từ trước người ta cảm thấy suôn sẻ, tinh thần làm
việc thoải mái, hăng hái và mọi người gắn bó với nhau. Chính nhờ đó mà
năng suất lao động cao hơn, tập thể đoàn kết gắn bó hơn. - Kế hoạch giúp tổ
chức có thể thích nghi được với sự thay đổi của môi trường bên ngoài, do đó
có thể định hướng được số phận của nó. Các tổ chức thành công thường cố
gắng kiểm soát tương lai của họ hơn là chỉ phản ứng với những ảnh hưởng
và biến cố bên ngoài khi chúng xảy ra. - Kế hoạch se giúp các nhà quản lý thực
hiện việc kiểm tra tình hình thực hiện các mục tiêu thuận lợi và dễ dàng.II. So
sánh chức năng lập kế hoạch trong khu vực công và khu vực tư
1. Giống
nhau
Với vai trò quan trọng của mình, lập kế hoạch đã trở thành một công cụ

không thể thiếu trong mọi hoạt động của cả khu vực công và khu vực tư.Chức
năng lập kế hoạch có được sự quan tâm của cả khu vực công và khu vực tư,
nó định hướng cho các hoạt động của nhà quản lí, vạch ra những mục tiêu
của tổ chức, đưa ra các chỉ tiêu, phương pháp để đạt được mục tiêu đó. Cả
khu vực công và khu vực tư đều nhận thấy rằng, việc lập kế hoạch se giúp tổ
chức ứng phó tốt hơn với những tình huống bất định, giảm thiểu được những


trùng lặp và lãng phí của tổ chức, thiết lập được những tiêu chuẩn, tạo điều
kiện cho công tác kiểm tra hiệu quả.Như vậy, lập kế hoạch là một chức năng
quan trọng đối với mỗi doanh nghiệp, tổ chức và các nhà quản lí. Nếu không
có kế hoạch, thì nhà quản lí không thể quản lí công việc một cách có hiệu quả,
thậm chí se không thể có được một ý tưởng rõ ràng về cái họ cần tổ chức và
khai thác. Không có kế hoạch nhà quản lí và nhân viên se rất khó đạt được
mục tiêu của mình, họ không biết khi nào và ở đâu cần phải là gì?
2. Khác
nhau
Cả khu vực công và khu vực tư đều thực hiện việc lập kế hoạch trước khi bắt
tay thực hiện một hoạt động nào đó. Tuy nhiên, do đặc điểm và điều kiện của
khu vực công và khu vực tư khác nhau cho nên chức năng lập kế hoạch ở 2
khu vực này có những điểm khác nhau. Thể hiện ở các tiêu chí cơ bản
sau:a. Chủ
thể
lập
kế
hoạch.
Đối với khu vực công:Khu vực công khác với khu vực tư đó là cán bộ ,công
chức làm việc trong khu vực này có quyền lực xã hội. Bằng luật và các văn
bản dưới luật, rốt cuộc họ có thể thực hiện phần lớn các chiến lược về trật tự
xã hội, quan hệ xã hội, thái độ của các cá nhân. Với đặc trưng này, thì chủ thể

lập kế hoạch trong khu vực công phải là các cá nhân tổ chức có thẩm quyền,
được nhà nước trao quyền như những nhà lãnh đạo, nhà quản lí... trong cơ
quan nhà nước.VD: Lập kế hoạch cho hoạt động xóa đói giảm nghèo của tỉnh
Hưng Yên. Chủ thể lập kế hoạch cho vấn đề này phải được giao cho cán bộ,
công chức có thẩm quyền trong cơ quan nhà nước, chứ không thể giao cho
các cá nhân thuộc khu vực tư được. Vì vấn đề này liên quan đến lợi ích của
nhân dân, và thuộc lĩnh vực quản lí của nhà nước.Trong khu vực công, Bộ kế
hoạch và đầu tư là cơ quan của chính phủ Việt Nam, thực hiện chức năng
quản lí nhà nước về kế hoạch, đầu tư, phát triển và thống kê.
Kế
hoach
cấp địa
phương
Xã, Phường
Tỉnh ,Thành phố
Các đơn vị kinh tế
Kế
hoạch
ngành
Kế


hoạch
Cấp
TW
Quốc hội
Chính phủ
Huyện , Quận
Bộ quản lý ngành
Bộ KH&ĐT

( Sơ đồ bộ máy kế hoạch nhà nước )Đối với khu vực tưKhu vực tư do các cá
nhân, tổ chức ngoài nhà nước thành lập và vì lợi ích cá nhân. Chủ thể lập kế
hoạch trong khu vực tư là những cá nhân, nhóm người có khả năng, có nhiệm
vụ lập kế hoạch. Cụ thể là trong các công ty tư nhân, người lập kế hoạck là
những người lãnh đạo đứng đầu công ty như tổng giám đốc, giám đốc,
trưởng phòng kế hoạch…Người lập kế hoạch trong khu vực tư là những
người có trình độ, hiểu biết sâu sắc về pháp luật và thị trường. Khi lập kế
hoạch họ chịu sự tác động chi phối của pháp luật sở tại và các quy luật khách
quan của thị trường, chịu sự định hướng của các kế hoạch, chiến lược vĩ mô
của các cơ quan nhà nước có thẩm quyền ban hành.Người lập kế hoạch trong
khu vực tư khi lập kế hoạch thường chỉ tính đến, tập trung đến hiệu quả kinh
tế, tập trung vào lợi nhuận.b. Đối tượng của lập kế hoạch.Trong khu vực
côngĐối tượng trong kế hoạch của khu vực công là những vấn đề lớn, bao
quát trong tất cả các lĩnh vực kinh tế, xã hội… đối tượng chịu tác động của kế
hoạch là toàn bộ người dân, doanh nghiệp, doanh nhân…Sở dĩ, các đối tượng
trong khu vục công mang tính bao quát là vì nhà nước không thể đi sâu quản
lí từng ngành, từng lĩnh vực một cách chi tiết cụ thể cho nên se đề ra những
kế hoạch mang tính bao quát, định hướng sự vận động của các đối tượng
trong các ngành, các lĩnh vực theo hướng thúc đẩy hay kiềm chế sự phát triển
của các đối tượng trong ngành, lĩnh vực đó.VD: Kế hoạch chiến lược ổn định
và phát triển kinh tế – xã hội 10 năm 1991-2000 và chiến lược đẩy mạnh
công nghiệp hóa, hiện đại hóa theo hướng XHCN năm 2001-2010. Đây là hế
hoạch mà nhà nước đặt ra, nó có định hướng dài hạn cho các vấn đề quan
trọng nhất của phát triển kinh tế – xã hội đất nước. Kế hoạch này trực tiếp
tác động đến các hoạt động của ngời dân, của các doanh nghiệp… theo các
định hướng mà nhà nước đã định.Trong khu vực tư:Đối tượng trong kế hoạch
là những vấn đề cụ thể thuộc một ngành, một lĩnh vực… mà doanh nghiệp
kinh doanh, đối tượng chịu tác động là các cá nhân, nhân viên trong doanh
nghiệp.Trong khu vực tư hoặc do điều kiện kinh tế, hoặc do quy định của



pháp luật không thể với tay bao quát hết mọi đối tượng thuộc một ngành hay
lĩnh vực nào đó. Vì vậy, họ phải tập chung lập kế hoạch chi tiết, cụ thể cho đối
tượng của mình nhằm tập trung phát triển có hiệu quả đối tượng mà mình
quản lí, kinh doanh. Mặt khác, khu vực công cũng tạo điều kiện để khu vực tư
quản lí một cách tốt nhất, sâu sát và có hiệu quả nhất các đối tượng cụ thể
giúp mình.VD: Trong công ty sản xuất bánh kẹo, chỉ chuyên kinh doanh các
loại bánh kẹo mà không chuyên sâu vào các mặt hàng khác. Khi trưởng
phòng lập kế hoạch kinh doanh các loại bánh kẹo nào trong năm nay để đạt
được hiệu quả kinh tế cao. Sau khi bản kế hoạch được thông qua thì toàn bộ
các bộ phận, các tổ trong công ty và toàn bộ nhân viên phải làm theo những
định hướng mà bản kế hoạch đã vạch ra nhằm đạt được mục tiêu của công ty
đó.c.Phạm vi lập kế hoạch.Đối với khu vực công :Phạm vi về không
gian:Trong khu vực công các kế hoạch được xây dựng thường là các kế hoạch
có phạm vi ảnh hưởng rộng, trong một không gian lớn, mang tầm vĩ mô.
Thường là cá phạm vi trong một tổ chức, huyện, tỉnh hay có tầm chiến lược
của một quốc gia.Các kế hoạch xây dựng dựa trên các chủ trương, chính sách
quan điểm đường lối của Đảng và Nhà nước. Với các kế hoạch áp dụng cụ thể
cho từng giai đoạn phát triển của đất nước. Cùng với các kế hoạch cho từng
lĩnh vực của đời sống xã hội như : chính trị, kinh tế, văn hóa, y tế, giáo
dục….Các kế hoạch đưa ra thường là bao trùm lên một phạm vi rộng, thuộc
nhiều lĩnh vực.VD: Kế hoạch mang tầm quốc gia đó là kế hoạch phát triển
kinh tế xã hội 5 năm 2011 – 2015.Có nhiều kế hoạch mang tính chất bao quát,
rộng lớn. Nhưng cũng có nhiều kế hoạch được cụ thể hóa cho từng địa
phương, vùng, miền. Đưa ra các kế hoạch nhỏ cho từng xã, huyện, tỉnh cụ thể
để đạt được mục tiêu đã đề ra. Cho một cộng đồng dân cư ở một phạm vi nhất
định đó phải được thực hiện và làm theo. Các kế hoạch của nhà nướckhông
phải chịu sự áp đặt hay ảnh hưởng của tổ chức cá nhân nào. Nhưng nó phải
phù hợp và hợp lý với điều kiện kinh tế xã hội và lòng dân. Vì mọi kế hoạch
của nhà nước là đều vì sự phát triển của đất nước và cộng đồng. Tất cả vì lợi

ích của nhân dân.- Phạm vi thời gian.Các kế hoạch của khu vực công chủ yếu
là các kế hoạch dài hạn và trung hạn. Các kế hoạch thường là từ năm năm
trở lên đến mười năm. Nhưng cũng có kế hoạch kéo dài đến 15 năm. Bởi vì
các kế hoạch trong khu vực công có phạm vi ảnh hưởng rộng, cần huy động
nhiều nguồn lực và ngân sách nên phải có thời gian dài để thực hiện. Tuy
nhiên, trong khu vực công vẫn có những kế hoạch ngắn hạn, và hầu hết
những kế hoạch hàng năm là những kế hoạch diều hành và là cơ sở để thực
hiện những kế hoạch dài hạn.Đối với khu vực tư:-Phạm vi không gian:Trong
khu vực tư, phạm vi lập kế hoạch thường nằm trong một bộ phận, một công
ty, hay trong một doanh nghiệp. Các kế hoạch được xây dựng có phạm vi ảnh
hưởng hẹp, mà không hoặc ít ảnh hưởng đến các tổ chức doanh nghiệp
khác.Các kế hoạch của khu vực tư được xây dựng trên các chiến lược của tổ
chức, doanh nghiệp. Cho nên việc xây dựng kế hoạch phải mang tính cụ thể


cho từng bộ phận của tổ chức, doanh nghiệp đó. Nhưng kế hoạch đưa ra phải
dựa trên chính sách, cơ sở pháp luật của nhà nước, không vi phạm pháp luật,
kế hoạch được xây dựng trong phạm vi nội bộ. Và các kế hoạch này không
được trái với những kế hoạch mang tính chiến lược mà nhà nước đề ra.Phạm vi thời gian:Trong khu vực tư, đa số các kế hoạch có thời gian thực hiện
là ngắn hạn và trung hạn. Rất ít các kế hoạch dài hạn. Các kế hoạch thường
được thực hiện trong khoảng từ 3 đến 5 năm.Do phạm vi ảnh hưởng của
doanh nghiệp hẹp và mang tính nội bộ. Ngoài ra, trong khu vực tư khi xây
dựng các kế hoạch nhà quản lí thường đặt ra lợi nhuận là trên hết. Cho nên
thời gian thực hiện càng ngắn càng tốt, để lại có thể quay vòng vốn.Trong
một số doanh nghiệp cũng có sử dụng kế hoạch dài hạn, nhưng chủ yếu đó là
những doanh nghiệp lớn, có quy mô lớn, phạm vi ảnh hưởng rộng, có nhiều
chi nhánh các công ty xuyên quốc gia.d. Quy trình lập kế hoạch
Lập kế hoạch trong khu vực công và khu vực tư nhìn chung đều diễn ra theo
các quy trình, các giai đoạn chính cơ bản như : Phân tích, đánh giá hiện trạng
tổ chức; xác định mục tiêu mà tổ chức muốn đến; xây dựng kế hoạch hành

động nhằm thực hiện mục tiêu; đánh giá mức độ hoàn thành kế hoạch.
Phân tích hiện trạng tổ chức
Xác định các mục tiêu
Xây dựng kế hoạch hành động
Đánh giá kế hoạch

Tuy nhiên, xuất phát từ đặc trưng của từng khu vực nên quy trình lập kế
hoạch của khu vực công và khu vực tư cũng có những nét khác nhau .Tính
ràng buộc pháp lý trong khu vực công xuất phát từ đặc trưng công tác của
khu vực này là tính thống nhất của cả hệ thống(thứ bậc), tính chỉ tiêu, tính lệ
thuộc vào cơ cấu tổ chức...Vì thế mà quy trình lập kế hoạch chịu sự chi phối
của các văn bản pháp lý điều này đã giảm phát huy các chủ thể tham gia lập
kế hoạch.
Tiềm năng, thị trường trong nước, thế giới
Đường lối , chủ trương chính sách của đảng
Pháp luật, chính sách điều chỉnh vĩ mô của nhà nước


Chiến lược
Kế hoạch dài hạn,truuuung
Kế hoạch năm
Quy hoạch tổng thể
Quy hoạch chi tiết
-Điều hành thực hiện KH
- Kế hoạch tác nghiệp (DN)
- Điều chỉnh KH
Đánh giá thực hiện kế hoạch

Căn


cứ

LKH

Quy

trình

KHH

Dự báo bối cảnh các tình huống phát triển ,khả năng huy động nguồn lực
Cập nhật đánh giá tình hình PTKTXH của đất nước qua từng thời kì KH
Xác định thực trạng xã hội môi trường của đất nước
Xây dựng hệ thống các giải pháp thực hiện kế hoạch
Định hướng phát triển các nghành ,lĩnh vực ,trong thời kì KH
Dự báo ,tính toán nhu cầu và khả năng nguồn lực pt
Xác định mục tiêu, các phương án PTKTXH của đất nước
Kế hoạch phát triển KT_XH có sự tham gia của cộng đồng
( Quy trình chung xây kế hoạch phát triển kinh tế có sự tham gia của cộng
đồng
)

e. Mục tiêu lập kế hoạch.Trong khu vực công Như chúng ta đã biết, bản
chất của nhà nước có hai thuộc tính: tính giai cấp và tính xã hội cùng tồn tại
trong một thể thống nhất không thể tách dời và có mối quan hệ biện chứng


với nhau. Hai thuộc tính này đã chi phối mục tiêu của việc lập kế hoạch trong
khu vực công. Việc lập kế hoạch trong khu vực công trước hết thể hiện mục
tiêu thống trị của nhà nước, thể hiện quyền lực của nhà nước đối với các hoạt

động trong xã hội. Tính xã hội của nhà nước thể hiện ở chỗ nhà nước là đại
diện chính thức của toàn xã hội và trong việc lập kế hoạch phát triển, nhà
nước đều phải chú trọng tới bảo vệ lợi ích cơ bản, lâu dài của quốc gia, dân
tộc, công dân mình. Mục tiêu lập kế hoạch trong khu vực công: phấn đấu trở
thành nước công nghiệp theo hướng công nghiệp hóa, hiện đại hóa. Chính trị
xã hội ổn định, dân chủ, kỉ cương, đồng thuận. Đời sống vật chất và tinh thần
của người dân được nâng cao. Độc lập chủ quyền, thống nhất và toàn vẹn
lãnh thổ. Vị trí của Việt Nam trên trường quốc tế được nâng lên.Tóm lại, lập
kế hoạch trong khu vực công nhằm mục tiêu chung của toàn xã hội, chứ
không phải mục tiêu tư lợi. Tất cả đều nhằm mục đích phục vụ nhân dân, vì
nhân dân, xây dựng xã hội công bằng dân chủ văn minh.Trong khu vực
tư:Khu vực tư gồm các tổ chức các doanh nghiệp do các cá nhân hay nhóm
lập lên, vì vậy khi lập kế hoạch mục tiêu cuối cùng của các doanh nghiệp
dường như luôn được nói tới đó là “tối đa hóa lợi nhuận”. Nhìn chung, các cổ
đông trong doanh nghiệp đều mong muốn thu nhập của họ càng tăng nhiều
càng tốt, hay nói cách khác họ luôn muốn gia tăng giá trị tài sản của họ và
đây là một nguyện vọng chính đáng.Khi lập kế hoạch, khu vực tư thường
quan tâm tới mục tiêu khả năng sinh lời, mục tiêu năng suất, mục tiêu vật
chất tài chính, các mục tiêu maketing…Ngoài ra, sự khác nhau của kế hoạch
trong khu vực công va tư còn có thể so sánh trên các tiêu chí như: Nội dung kế
hoạch, tính bảo mật của thông tin trong khu vực tư…
( Bảng so sánh tóm tắt các tiêu chí so sánh )
Tiêu chí

Khu vực công

Khu vực tư

Chủ thể


Các cơ quan nhà nước,
các nhân, tổ chức được
nhà nước trao quyền…

Các cá nhân, tổ chức,
doanh nghiệp công ty…
ngoài nhà nước.

Đối tượng

Các vấn đề lớn bao
quát toàn bộ các lĩnh
vực kinh tế, xã hội…

Các vấn đề cụ thể
thuộc một ngành, một
lĩnh vực mà doanh
nghiệp quan tâm.

Phạm vi

Vĩ mô

Vi mô


Quy trình

Quy trình,tiêu chuẩn
,thể thức …bị ràng

buộc bởi tính pháp lý

Không cần ràng buộc

Mục tiêu

Lợi ích số đông

Lợi nhuận

Nội dung

Theo chương trình
công việc nhà nước đề
ra

Theo nhu cầu

Thông tin

Công khai

Tính bí mật, nội bộ

III. MỘT SỐ KHÓ KHĂN VÀ KIẾN NGHỊ KHI LẬP KẾ HOẠCH
1.
Một
số
khó
khăn

Trong khu vực côngCác tổ chức công tồn tại nhân danh khung pháp lí (luật và
các văn bản dưới luật) định ra quyền hạn và trách nhiệm của họ, vì vậy khi
lập kế hoạch họ phải tuân theo và chịu sự kiểm tra gay gắt của cấp trên.
Khung bó buộc này hạn chế nhiều phạm vi vận hành của các cơ quan công
làm cho việc kế hoạch hóa cũng có nhiều hạn chế.Sự lãnh đạo chính trị của
các cơ quan công có tác động mạnh tới quy trình kế hoạch hóa trong khu vực
công. Khi lập kế hoạch, người ta cũng phải tính đến tác động của bộ chủ quản
và mong muốn của cấp trên.Sự lãnh đạo chính trị làm cho việc khi lập kế
hoạch trong khu vực công các mục tiêu thường nhiều lên, mập mờ và khó
định lượng hơn. Các mục tiêu chính trị thường thế chỗ hay chồng chéo lên các
mục tiêu kinh tế hợp lí.Khi xây dựng kế hoạch thì thường sử dụng phương
pháp theo sự áp đặt ý chí của các cơ quan công quyền, làm cho kế hoạch
không thiết thực và kém hiệu quả.Khi xây dựng kế hoạch, khó khăn cho công
tác phân tích những tích cực và tiêu cực mà kế hoạch đó mang lại.Khó khăn
cho việc thu thập thông tin, huy động nguồn nhân lực vào những thời điểm
quyết định. Phải có một thái độ linh hoạt về nội dung của kế hoạch và những
dự kiến thực tế liên quan tới sự tiếp tục quy trình.Một kế hoạch trong khu vực
công khi được xây dựng và thực hiện thì chi phí cho việc này se được lấy từ
ngân sách nhà nước. Điều này gây áp lực cho những người lập kế hoạch và
đòi hỏi bản kế hoạch phải có cách chi tiêu đúng đắn, tính toán năng lực thực
hiện cho phù hợp, nếu không kế hoạch đưa ra mà thất bại thì se gây lãng phí
của nhân dân.Trong khu vực tư :Đối với khu vực tư, các doanh nghiệp thường
gặp phải khó khăn khi xây dựng kế hoạch như : mất nhiều thời gian để lập kế
hoạch nhưng vẫn không có một kế hoạch kinh doanh hoàn hảo, gặp khó khăn
trong việc phân tích thị trường, định vị sản phẩm, phân tích đối thủ cạnh
tranh và đánh giá năng lực cạnh tranh của mình. Gặp khó khăn trong việc
xây dựng chiến lược maketting (chiến lược cho sản phẩm, định giá. Xây dựng
hệ thống phân phối sản phẩm, quảng cáo…) khó khăn trong việc phân tích tài



chính (dự báo doanh thu, chi phí..) khó khăn trong việc trình bày kế hoạch xây
dựng theo một khuôn mẫu chuẩn và chuyên nghiệp.Khó khăn khi xây dựng
chính xác mục tiêu trong kế hoạch. Mục tiêu của doanh nghiệp phải rõ ràng
và không được trái lệch với mục tiêu của nhà nước. Nếu không xác định mục
tiêu chính xác se có thể dẫn tới sự hiểu sai mục tiêu và việc áp dụng kế hoạch
đó se không đem lại hiệu quả cho doanh nghiệp.Trong khu vực tư, kế hoạch
cũng là một công cụ quản lý, nó chứa đựng những kĩ năng và bí quyết kinh
doanh để đem đến thành công cho doanh nghiệp, vì vậy việc lập kế hoạch
trong khu vực tư phải đảm bảo sự bí mật trong nội bộ.Các doanh nghiêp
thường thiếu thông tin khi lập kế hoạch . không có đủ nhân viên để theo dõi
tình hình cạnh tranh trên thị trường trong nước và quốc tế.Việc lập kế hoạch
trong khu vực tư thường gặp khó khăn khi dự báo, đặc biệt là những dự báo
vô lí. Những dự báo thu được lợi nhuận cao ngất ngưỡng và nhanh chóng
đồng nghĩa với việc bạn không có hiểu biết về chi phí thực tế. Phần lớn các kế
hoạch thường dự tính lợi nhuận cao hơn 10% - 20% so với thực tế. 2. Kiến
nghị Đối với khu vực công Thứ nhất : Phải đặt lợi ích của cộng đồng và người
dân lên trên hết.Mục tiêu cuối cùng của mọi kế hoạch của Nhà Nước là vì lợi
ích của nhân dân. Điều này đã được thể hiện tại điều 2 Hiến Pháp năm 1992 :
“ Nhà Nước cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam là nhà nước pháp quyền xã
hôi chủ nghĩa của nhân dân, do nhân dân và vì nhân dân” cho nên không thể
có một kế hoạch phát triển kinh tế xã hội nào lại không vì lợi ích của nhân
dân. Xây dựng một kế hoạch mà không tính đên lợi ích của nhân dân thì việc
xây dựng kế hoạch đó chỉ có thể là duy ý chí hoặc vì mục đích tư lợi. Khi thấy
kế hoạch, lợi ích đó không mang lại lợi ích chọ nhân dân thì phải dừng ngay
lại. Có như vậy mới mang lại cho nhân nhiều lợi ích thiết thực, xứng đáng với
vị trí nhà nước của nhân dân, do nhân dân và vì nhân dân.Thứ hai : Các chỉ
tiêu khi lập kế hoạch phải phù hợp với năng lực thực hiện.Năng lực thực hiện
kế hoạch là vấn đề quyết định sự thành công của một kế hoạch. Nếu không
tính đến năng lực thực hiện kế hoạch thì chắc chắn kế hoạch se thất bại.
Trong khu vực công, một kế hoạch đưa ra mà không làm được thì se gây lãng

phí tiền của của nhân dân. Cho nên phải tính toán cho thật kĩ càng năng lực
thực hiện kế hoạch trước khi xây dựng kế hoạch đó. Phải làm phép so sánh để
chi tiêu của kế hoạch không vượt quá khả năng thực hiện. Chỉ tiêu của kế
hoạch mà vượt quá khả năng thực hiện thì phải giảm chỉ tiêu. Năng lực thực
hiện có thể vượt chỉ tiêu thì phải tăng chỉ tiêu lên. Có như vậy thì nhà nước
mới kiểm soát được sự phát triển và chủ động trong việc đề ra kế hoạch phát
triển phù hợp với thực tế của Việt Nam. Thứ 3 : Kế hoạch phải mang tính
chiến lược dài hạnMột kế hoạch muốn thành công và mang lại lợi ích cho
người dân thì phải mang tính chiến lược dài hạn. Trong khu vực công, bất cứ
kế hoạch nào cũng phải có mục đích của nó đó là lợi ích của nhân dân, vì thế
nó không thể không mang tính chiến lược dài hạnKhi xây dựng kế hoạch, để
đảm bảo lợi ích cho nhân dân các cơ quan nhà nước cần phải xem xét hiệu


quả của kế hoạch tức là phải xem xét tính chiến lược dài hạn của kế hoạch, để
tránh sao cho đến khi hoàn thành thì kết quả của kế hoạch không bị lỗi thời
và còn phù hợp với điều kiện thực tế.Thứ tư : Muốn lập kế hoạch tốt thì phải
dự báo tốt.Những thông tin dự báo là cơ sơ quan trọng cho việc đặt ra mục
tiêu của kế hoạch. Một kế hoạch hoàn thiện là một kế hoạch được xây dựng
trên cơ sở những thông tin dự báo chuẩn xác, khoa học. Trong khu vực công
nếu thông tin dự báo không chính xác có thể dẫn đến những hậu quả ảnh
hưởng nghiêm trọng, ảnh hưởng trực tiếp đến sự phát triển của đất nước và
đời sống của nhân dân…Thứ năm : Phải xây dựng rõ cơ sở tư duy và cơ sở
thực tế trong việc xây dựng kế hoạch.Cơ sở tư duy và cơ sở thực tế là nội
dung quan trọng nhất của việc xây dựng kế hoạch. Tư duy của việc xây dựng
kế hoạch là tư tưởng bao trùm lên toàn bộ kế hoạch. Ngoài cơ sở tư duy
xuyên suốt kế hoạch, các cơ quan nhà nước cần phải xem xét cơ sở thực tế
của việc xây dựng kế hoạch đó. Bất cứ kế hoạch nào trong khu vực công cũng
đòi hỏi phải xây dựng trên cơ sở thực tế đòi hỏi của cuộc sống thì mới đem lại
lợi ích cho người dân. Thứ sáu : Xây dựng kế hoạch nên hạn chế sự áp đặt ý

chí của các cơ quan công quyền.Trong thời kì kế hoạch hóa tập trung phương
pháp xây dựng kế hoạch theo sự áp đặt ý chí của các cơ quan công quyền là
phương pháp phổ biến được áp dụng ở nước ta. Phương pháp này thể hiện ý
chí đơn phương của các cơ quan công quyền và thể hiện tư duy ôm đồm
quyền lực của các cơ quan xây dựng dự thảo. Trong điều kiện mới hiện nay,
phương pháp này tỏ ra kém hiệu quả và không còn phù hợp. Nó làm cho kế
hoạch luôn thể hiện ý chí đơn phương của các cơ quan công quyền mà không
tính đến hiệu quả thiết thực mà kế hoạch mang lại cho người dân và cộng
đồng. Chính vì vậy nên hạn chế việc áp dụng phương pháp xây dựng kế hoạch
theo sự áp đặt ý chí của các cơ quan công quyền.Trên đây là một số kiến nghị
đối với khu vực công.Đối với khu vực tư : Thứ nhất : Cần phải có một ý tưởng
kinh doanh tốt.Trong khu vực tư, một sai lầm phổ biến nhất mà các doanh
nghiệp thường mắc phải là không chọn đúng ngành kinh doanh để bắt đầu.
Cách tốt nhất để biết về tương lai của loại hình kinh doanh mà các doanh
nghiệp chọn là làm việc cho ai đó trong lĩnh vực này trước khi bắt đầu việc
kinh doanh của mình.Thứ hai : Để lập một bản kế hoạch có hiệu quả, doanh
nghiệp phải am hiểu về thị trường của mình. Tức là những kiến thức về sản
phẩm và dịch vụ đối với thị trường trước khi bắt đầu kinh doanh.Thứ ba :
Chủ thể lập kế hoạch cần phải có năng lực quản lý.Điều này rất quan trọng
trong khu vực tư bởi vì có năng lực quản lý tốt mới có thể tuyển những người
có kĩ năng mà doanh nghiệp đang còn thiếu, tìm những người có khả năng
biến những điểm yếu của doanh nghiệp thành những điểm mạnh. Thứ
tư : Khả năng kiểm soát về tài chính.Trong khu vực tư, việc nắm vững những
chuyên môn về kế toán phần mềm máy tính và kiểm soát lưu chuyển có tầm
quan trọng đặc biệt. Hầu hết các chủ doanh nghiệp không có kiến thức
chuyên môn về kế toán phải đi học để trang bị những kĩ năng này.Thứ năm :


Việc lập kế hoạch đảm bảo sự tập trung kiên định vào việc kinh doanh. Nếu
doanh nghiệp lấy những sản phẩm hay dịch vụ đặc thù chúng ta se thấy rằng

những người có chuyên môn se làm tốt hơn những người không có chuyên
môn. Chính vì vậy, việc lập kế hoạch phải đảm bảo tập trung vào một việc mà
doanh nghiệp làm rất tốt, như vậy se giúp doanh nghiệp không phải cạnh
tranh với người khác bằng chiến lược hạ giá thấp.
KẾT LUẬN
Lập kế hoạch là một chức năng rất quan trọng, là một công cụ cho mọi nhà
quản lý kế cả khu vực công và khu vực tư. Chúng ta không thể phủ nhận rằng
các kế hoạch hóa phát triển kinh tế- xã hội đúng đắn đã mang lại cho đất
nước ta nói chung có những bước phát triển vượt bậc trong hơn 25 năm đổi
mới cơ chế kinh tế .Tuy nhiên, việt nam muốn nâng cao vị thế trên trường
quốc tế đòi hỏi đặt ra những kế hoạch phát triển phù hợp để phát triển mạnh
hơn nữa, đồng đều hơn nữa, thần tốc hơn nữa .Trong cuộc chơi sẻ không có
sự khoan nhượng nào cho kẻ yếu. Vì vậy,nâng cao kỉ năng, kiến thức về lập kế
hoạch cũng như một quá trình dự báo, phân tích, đánh giá cho các nhà quản
lý là điều hết sức cần thiết và cấp bách hiện nay. Chúng tôi xin kết thúc bài
tiểu luận trên. Cảm ơn quý thầy cô và toàn thể các bạn đã quan tâm. Do kinh
nghiệm và vốn hiểu biết còn hạn chế nên khó tránh khỏi những thiếu sót,
mong quý thầy cô và các bạn đóng góp để bài tiểu luận của chúng tôi được
hoàn thiện hơn.
Danh mục tài liệu tham khảo
1. GTr.Lý luận hành chính nhà nước; học viện hành chính, 2010.
2. GS Mai Hữu Khê, Lý luận Quản lý nhà nước,nhà xuất bản Hà Nội, 2003.
3. G.T Allison, so sánh quản lý công và quản lý tư, xuất bản năm 1980
4. PGS.TS Nguyễn Hữu Hải( chủ biên) hành chính nhà nước trong xu thế toàn
cầu
hóa
.
5. Cẩm nang hướng dẫn lập kế hoạch thực hiện và quản lý chương trình tài
chính
vi

mô.
Nhà
xuất
bản
lao
động-xã
hội
6. Công tác hành chính – văn phòng trong cơ quan nhà nước. Nhà xuất bản
chính
trị
quốc
gia.
7. Quản trị học Ts Phan Thăng và TS Nguyễn Thanh Hội. Nhà xuất bản thống
kê.
8. GTr Tổ chức và quản lý nhân sự. Học viện Hành Chính
9. GTr Tổ chức và điều hành công sở. Học viện Hành Chính
10.
GTr
quản
lý
công.
Học
Viện
hành
chính
11.
www.
Google.com




×