Tải bản đầy đủ (.pdf) (83 trang)

Giáo dục chính trị cho cán bộ làm công tác dân tộc từ thực tiễn trường cán bộ dân tộc

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1005.43 KB, 83 trang )

VIỆN HÀN LÂM
KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM
HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI

VŨ QUỐC VƯỢNG

GIÁO DỤC CHÍNH TRỊ CHO CÁN BỘ LÀM CÔNG TÁC DÂN TỘC
TỪ THỰC TIỄN TRƯỜNG CÁN BỘ DÂN TỘC

Chuyên ngành

: Chính trị học

Mã số

: 60 31 02 01

LUẬN VĂN THẠC SĨ CHÍNH TRỊ HỌC

NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC: GS.TS. VÕ KHÁNH VINH

HÀ NỘI, 2016


LỜI CAM ĐOAN

Tôi cam đoan đây là công trình nghiên cứu khoa học của riêng tôi. Các số
liệu, ví dụ và trích dẫn trong luận văn đảm bảo độ tin cậy, chính xác và trung
thực. Những kết luận khoa học của luận văn chưa từng được công bố trong
bất kỳ công trình khoa học nào khác.
Tác giả luận văn



VŨ QUỐC VƯỢNG


MỤC LỤC
MỞ ĐẦU ............................................................................................................ 1
Chương 1: NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ GIÁO DỤC CHÍNH TRỊ
CHO CÁN BỘ LÀM CÔNG TÁC DÂN TỘC ............................................... 9
1.1. Khái niệm, vị trí, vai trò của giáo dục chính trị .......................................... 9
1.2. Nội dung giáo dục chính trị ......................................................................... 13
1.3. Phương pháp giáo dục chính trị .................................................................. 17
Kết luận chương 1 ............................................................................................. 23
Chương 2: THỰC TRẠNG GIÁO DỤC CHÍNH TRỊ CHO CÁN BỘ
LÀM CÔNG TÁC DÂN TỘC TẠI TRƯỜNG CÁN BỘ DÂN TỘC ......... 24
2.1. Khái quát về Trường Cán bộ dân tộc ........................................................... 24
2.2. Thực trạng thực hiện nội dung giáo dục cho cán bộ làm Công tác dân tộc
tại Trường Cán bộ dân tộc................................................................................... 31
2.3. Thực trạng áp dụng các phương pháp giáo dục chính trị cho cán bộ làm
Công tác dân tộc tại Trường Cán bộ dân tộc ...................................................... 37
Kết luận chương 2 ............................................................................................. 45
Chương 3: NÂNG CAO CHẤT LƯỢNG GIÁO DỤC CHÍNH TRỊ CHO
CÁN BỘ LÀM CÔNG TÁC DÂN TỘC Ở VIỆT NAM HIỆN NAY .......... 47
3.1. Yêu cầu và nhiệm vụ mới của việc nâng cao chất lượng giáo dục chính trị
cho cán bộ làm Công tác dân tộc ở nước ta hiện nay ......................................... 47
3.2. Các giải pháp nâng cao chất lượng giáo dục chính trị cho cán bộ làm
Công tác dân tộc ở Việt Nam hiện nay ............................................................... 55
Kết luận chương 3 ............................................................................................... 73
KẾT LUẬN ........................................................................................................ 74
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO ......................................................... 76



MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Sinh thời, chủ tịch Hồ Chí Minh rất coi trọng công tác giáo dục chính trị
tư tưởng, đặc biệt là giáo dục chính trị tư tưởng cho cán bộ, đảng viên. Người
nêu rõ “Mỗi đảng viên và cán bộ phải thực sự thấm nhuần đạo đức cách mạng,
thật sự cần, kiệm, liêm, chính, chí công, vô tư. Phải giữ gìn Đảng ta thật trong
sạch phải xứng đáng là người lãnh đạo, là người đầy tớ thật trung thành của
nhân dân”, để đáp ứng và được như vậy thì phải được học tập, nghiên cứu về lý
luận chính trị, được giáo dục, định hướng về tư tưởng.
Công tác giáo dục chính trị của Đảng là thực hiện thường xuyên bồi
dưỡng cho cán bộ, đảng viên những vấn đề cơ bản về chủ nghĩa Mác - Lênin,
tư tưởng Hồ Chí Minh; quan điểm, đường lối, chủ trương của Đảng, chính
sách, pháp luật của Nhà nước; những truyền thống tốt đẹp của dân tộc, truyền
thống cách mạng của Đảng; những kiến thức mới về khoa học công nghệ,
kinh tế, văn hóa, xã hội, quốc phòng, an ninh ...
Việt Nam là quốc gia thống nhất gồm 54 dân tộc (53 dân tộc thiểu số
chiếm 14% dân số cả nước, cư trú chủ yếu ở miền núi, vùng sâu vùng xa,
vùng biên giới), cùng cư trú, tồn tại và phát triển trên lãnh thổ Việt Nam. Địa
bàn cư trú của các dân tộc thiểu số có vị trí chiến lược đặc biệt quan trọng về
chính trị, kinh tế, văn hóa, an ninh, quốc phòng và bảo vệ bền vững môi
trường sinh thái. Tuy nhiên đây lại là những nơi có nhiều các điều kiện khó
khăn nhất. Kinh tế ở miền núi, các dân tộc thiểu số còn chậm phát triển, tình
trạng du canh, du cư, di dân tự do vẫn còn diễn biến phức tạp. Hệ thống chính
trị cơ sở ở vùng đồng bào dân tộc thiểu số và miền núi còn yếu, tỉ lệ cán bộ có
trình độ cao đẳng, đại học thấp… Chính vì vậy Công tác dân tộc và thực hiện
Công tác dân tộc có vị trí chiến lược quan trọng của cách mạng Việt Nam.

1



Đại hội Đảng lần thứ X khẳng định: “Vấn đề dân tộc và đoàn kết các dân tộc là
vấn đề chiến lược, cơ bản, lâu dài của sự nghiệp cách mạng nước ta”.
Trường Cán bộ dân tộc trực thuộc Ủy ban Dân tộc là một đơn vị thực
hiện chức năng, nhiệm vụ chính trị là đào tạo, bồi dưỡng đội ngũ cán bộ làm
Công tác dân tộc cho Ủy ban Dân tộc từ trung ương đến địa phương. Hiện
nay, so với yêu cầu và nhiệm vụ trong thời kỳ mới, thời kỳ CNH, HĐH đất
nước thì đội ngũ cán bộ làm Công tác dân tộc còn bộc lộ nhiều hạn chế, số
lượng và chất lượng chưa cao, trình độ chính trị và năng lực chuyên môn,
nghiệp vụ còn cần bổ sung thêm nhiều.
Thực tiễn đặt ra là phải nâng cao chất lượng đào tạo, bồi dưỡng cán bộ
làm Công tác dân tộc, đặc biệt là nâng cao chất lượng giáo dục lý luận chính
trị, nghĩa là tăng cường giáo dục chủ nghĩa Mác – Lênin, tư tưởng Hồ Chí
Minh, đường lối, quan điểm của Đảng, nâng cao phẩm chất đạo đức cách
mạng và năng lực hoạt động thực tiễn, hướng dẫn họ vận dụng những hiểu
biết đó vào cuộc sống, phục vụ cho nhiệm vụ CTDT. Vì thế, việc học tập,
nghiên cứu và vận dụng những kiến thức đã được học để nâng cao chất lượng
giáo dục chính trị cho cán bộ làm CTDT nói chung và ở Trường Cán bộ dân
tộc nói riêng là vấn đề có ý nghĩa thiết thực về lý luận và thực tiễn đối với
công tác đào tạo, bồi dưỡng cán bộ làm Công tác dân tộc hiện nay. Đặc biệt,
xuất phát từ yêu cầu thực tế, từ nhiệm vụ, chức năng của Trường Cán bộ dân
tộc, nghiên cứu, quán triệt, vận dụng sáng tạo những quan điểm chủ nghĩa
Mác – Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, chủ trương, chính sách của Đảng và
Nhà nước vào việc nâng cao chất lượng giáo dục chính trị ở Trường Cán bộ
dân tộc là một vấn đề có ý nghĩa thiết thực cả về lý luận và thực tiễn. Trên
tinh thần đó, học viên lựa chọn đề tài: "Giáo dục chính trị cho cán bộ làm
Công tác dân tộc từ thực tiễn Trường Cán bộ dân tộc" làm luận văn thạc sĩ
khoa học chính trị, chuyên ngành Chính trị học.

2



2. Tình hình nghiên cứu đề tài
Trước lúc đi xa, trong Di chúc để lại cho toàn Đảng, toàn dân. Người
căn dặn: “Đảng ta là một Đảng cầm quyền, mỗi đảng viên và cán bộ phải thật
sự thấm nhuần đạo đức cách mạng, thật sự cần kiệm liêm chính, chí công vô
tư. Phải giữ gìn Đảng ta trong sạch, phải xứng đáng là người lãnh đạo, người
đầy tớ thật trung thành của nhân dân”. Câu nói đó, Bác đưa ra yêu cầu cơ bản
về đạo đức của cán bộ, đảng viên và yêu cầu xuất phát từ bản chất của Đảng
ta, từ mối quan hệ máu thịt giữa Đảng với nhân dân trong sự nghiệp cách
mạng. Đất nước đã đạt được nhiều thành tựu to lớn nhưng đồng thời cũng
phải đối mặt với nhiều khó khăn, thách thức. Tình trạng suy thoái về chính trị,
tư tưởng, đạo đức, lối sống của một bộ phận không nhỏ cán bộ, đảng viên gắn
với tệ quan liêu, tham nhũng, lãng phí trong Đảng, bộ máy Nhà nước vẫn
đang diễn ra nghiêm trọng chưa được ngăn chặn có hiệu quả. Đây là một vấn
đề gây nhức nhối trong dư luận, là một trong những nguy cơ tiềm ẩn đe dọa sự
thắng lợi của sự nghiệp đổi mới dưới sự lãnh đạo của Đảng và Nhà nước ta.
Công tác giáo dục chính trị đã cung cấp những kiến thức về lý luận và
thực tiễn có hệ thống, giúp cho người học xây dựng tư duy mới, giúp họ thay
đổi phương thức hoạt động, nâng cao chất lượng và hiệu quả công tác. Đồng
thời, giúp cán bộ làm Công tác dân tộc nắm vững quan điểm, chủ trương của
Đảng, pháp luật của Nhà nước để họ đổi mới suy nghĩ và hành động trong cơ
chế mới, thực hiện tốt những chủ trương, chính sách dân tộc ở địa bàn, giúp
cho đồng bào dân tộc thiểu số ở vùng sâu, vùng xa, vùng đặc biệt khó khăn
phát triển về nhiều mặt, hòa chung với sự phát triển của đất nước. Do ý nghĩa
đặc biệt quan trọng của việc giáo dục chính trị, nên trong suốt thời gian qua
có nhiều văn bản của Đảng, Nhà nước, công trình khoa học nghiên cứu về vấn
đề này và đưa ra nhiều giải pháp tích cực đóng góp vào sự nghiệp giáo dục
chính trị, cụ thể là:


3


- Vũ Ngọc Am (2003), Đổi mới công tác giáo dục chính trị tư tưởng
cho cán bộ, đảng viên ở cơ sở của trong giai đoạn hiện nay, Nxb Chính trị
quốc gia, Hà Nội. Cuốn sách trình bày công tác giáo dục chính trị tư tưởng
với việc nâng cao tính tự giác cách mạng cho cán bộ, đảng viên. Quá trình đổi
mới nâng cao chất lượng công tác giáo dục chính trị tư tưởng cho cán bộ,
đảng viên nhằm chống "diễn biến hoà bình".
- Hồ Chí Minh với công tác giáo dục lý luận chính trị (2007), Nxb
CTQG, Hà Nội. Cuốn sách giới thiệu các tác phẩm của Chủ tịch Hồ Chí Minh
về chủ nghĩa Mác – Lênin soi sáng con đường cách mạng Việt Nam; đặc biệt,
các tác phẩm của Người nhấn mạnh đến nhiệm vụ xây dựng Đảng vững mạnh
về chính trị, tư tưởng, tổ chức, đến việc rèn luyện phẩm chất đạo đức của
người đảng viên. Chủ tịch Hồ Chí Minh xác định rõ về mặt nội dung và
nhiệm vụ học tập lý luận chính trị; vấn đề để nâng cao chất lượng, hiệu quả
công tác giáo dục lý luận chính trị.
- Ngô Văn Thạo (Chủ biên), (2008), Phương pháp giảng dạy lý luận
chính trị (Chương trình bồi dưỡng chuyên đề dành cho giảng viên giảng dạy
các chương trình lý luận chính trị tại Trung tâm bồi dưỡng chính trị cấp
huyện), Nxb Lao động Xã hội, Hà Nội. Trong cuốn sách các tác giả đã khái
quát chung về lý luận chính trị và giáo dục lý luận chính trị; một số vấn đề
tâm lí và giáo dục học, phẩm chất nghề nghiệp, nghệ thuật diễn giảng, kiểm
tra, đánh giá trong dạy học lý luận chính trị.
- Phạm Huy Kỳ (2010), Lý luận và phương pháp nghiên cứu, giáo dục
lý luận chính trị, Nxb Chính trị - Hành chính quốc gia, Hà Nội. Nội dung
cuốn sách trình bày một số vấn đề lý luận và phương pháp của công tác
nghiên cứu, giáo dục lý luận chính trị và công tác nghiên cứu, biên soạn, giáo
trình lịch sử đảng bộ địa phương. Riêng phần lý luận và phương pháp giáo
giáo dục lý luận chính trị, cuốn sách chủ yếu tập trung trình bày lý luận và


4


phương pháp dạy học lý luận chính trị - nội dung hoạt động chủ yếu trong hệ
thống giáo dục lý luận chính trị của Đảng ta hiện nay.
Ngoài ra còn một số cuốn sách, đề tài cũng đề cập đến một số nội dung
của luận văn như: TS. Đỗ Minh Cương và PGS.TS Nguyễn Thi Doan
(2001), Phát triển nguồn nhân lực giáo dục đại học Việt Nam, Nxb Chính trị
quốc gia, HN; Lê Xuân Nam, Lê Thanh Sinh, Nguyễn Thanh, Lương Minh
Cừ, Hoàng Trung (2002), (đồng chủ biên) Một số ý kiến trao đổi về phương
pháp giảng dạy các môn khoa học Mác - Lênin ở đại học và cao đẳng, Nxb
Thành phố Hồ Chí Minh, TP HCM; TS. Nguyễn Văn Sơn (2002), Trí thức
giáo dục đại học Việt Nam thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa,
Nxb Chính trị quốc gia, HN; PGS.TS Vũ Hiền và ThS. Đinh Xuân Lý
(2002), Quán triệt vận dụng nghị quyết Đại hội IX, nâng cao chất lượng
giảng dạy lý luận Mác – Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, Nxb Chính trị quốc
gia, HN; PGS.TS Nguyễn Hữu Đổng (2002), Học tập phương pháp tuyên
truyền, giáo dục tư tưởng chính trị của Hồ Chí Minh, Nxb Chính trị quốc gia,
HN. Đề tài cấp Bộ mã B.08 – 23 do PGS.TS Ngô Ngọc Thắng (Chủ nhiệm đề
tài), (2008), Vận dụng tư tưởng Hồ Chí Minh về giáo dục vào giáo dục lý luận
chính trị trong giai đoạn hiện nay. PGS.TS. Trần Thị Anh Đào (2010), Công
tác giáo dục lý luận chính trị cho sinh viên Việt Nam hiện nay, NXB Chính trị
Quốc gia Việt Nam, Hà Nội. Lương Ngọc Vĩnh (2011), Hiệu quả công tác
giáo dục chính trị - tư tưởng trong học viên các học viện
quân sự ở nước ta hiện nay, Luận án tiến sĩ khoa học chính trị, Hà Nội.
Những kết quả nghiên cứu trong những công trình nghiên cứu nêu trên
là nguồn tư liệu quý. Các công trình trên đã tập trung nghiên cứu các vấn lý
luận về: Lý luận, Lý luận chính trị, giáo dục lý luận chính trị nói chung và
giáo dục lý luận chính trị cho cán bộ, đảng viên, thanh niên, sinh viên… và từ


5


đó đã đưa ra các giải pháp nhằm đổi mới, nâng cao chất lượng giáo dục lý
luận chính trị hiện nay.
Tuy nhiên, chúng tôi chưa thấy có công trình nào trực tiếp nghiên cứu
dưới góc độ Công tác tư tưởng về tăng cường giáo dục chính trị cho cán bộ
làm Công tác dân tộc ở Trường Cán bộ dân tộc, Ủy ban Dân tộc. Một vấn đề
lưu ý đó là công tác giáo dục chính trị cho cán bộ làm Công tác dân tộc ở
Trường Cán bộ dân tộc còn nhiều điều phải bàn, cần được tăng cường và cần
chú trọng đến hiệu quả thiết thực của công tác giáo dục chính trị của Nhà
trường trong giai đoạn hiện nay.
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
3.1. Mục đích nghiên cứu
Trên cơ sở nghiên cứu làm rõ cơ sở lý luận về công tác giáo dục chính
trị cho cán bộ, đảng viên, đề tài đi sâu khảo sát thực trạng và đề xuất quan
điểm và giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả giáo dục chính trị cho cán bộ làm
Công tác dân tộc ở Trường Cán bộ dân tộc hiện nay.
3.2. Nhiệm vụ nghiên cứu
- Nghiên cứu một số vấn đề lý luận chung về công tác giáo dục chính
trị cho cán bộ, đảng viên, sự cần thiết phải giáo dục chính trị cho cán bộ làm
Công tác dân tộc hiện nay.
- Phân tích, đánh giá thực trạng giáo dục lý luận chính trị ở Trường Cán
bộ dân tộc, Ủy ban Dân tộc trong những năm qua.
- Đề xuất một số giải pháp chủ yếu nhằm nâng cao chất lượng giáo dục
lý luận chính trị ở Trường Cán bộ dân tộc, Ủy ban Dân tộc trong thời gian tới.
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
4.1. Đối tượng nghiên cứu
Công tác giáo dục chính trị cho cán bộ làm Công tác dân tộc của Trường

Cán bộ dân tộc, Ủy ban Dân tộc.

6


4.2. Phạm vi nghiên cứu
Đề tài tập trung nghiên cứu công tác giáo dục chính trị cho cán bộ làm
Công tác dân tộc của Trường Cán bộ dân tộc, Ủy ban Dân tộc và đề xuất quan
điểm, giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả, chất lượng giáo dục chính trị cho cán
bộ làm Công tác dân tộc của Trường Cán bộ dân tộc, Ủy ban Dân tộc
5. Phương pháp lý luận và phương pháp nghiên cứu
5.1. Phương pháp luận nghiên cứu
- Luận văn dựa trên cơ sở lý luận chủ nghĩa Mác – Lê nin, tư tưởng Hồ
Chí Minh, quan điểm, đường lối của Đảng về công tác giáo dục lý luận chính
trị để làm cơ sở lý luận nghiên cứu.
- Luận văn khai thác nguồn tư liệu chủ yếu từ các văn kiện, nghị quyết
Đại hội Đảng, Hội nghị Ban Chấp hành Trung ương, Hội nghị Bộ Chính trị và
các tác phẩm, các bài nói, bài viết của các đồng chí lãnh đạo Đảng, Nhà nước;
kế thừa có chọn lọc công trình nghiên cứu của các nhà khoa học có liên quan
đến công tác chính trị tư tưởng lý luận và công tác giáo dục chính trị; những
tài liệu báo cáo tổng kết thực tiễn công tác lý luận và công tác giáo dục chính trị
tư tưởng của Ban Tư tưởng văn hoá Trung ương và các cơ quan có liên quan.
5.2. Phương pháp nghiên cứu
Trong quá trình nghiên cứu, tác giả sử dụng phương pháp nghiên cứu
của chủ nghĩa duy vật biện chứng, chủ nghĩa duy vật lịch sử, phương pháp
logic – lịch sử, phân tích tổng hợp, so sánh và phương pháp tổng kết thực tiễn
để thực hiện mục đích của đề tài đặt ra.
6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của luận văn
6.1. Ý nghĩa lý luận
- Làm rõ và sâu sắc hơn các khái niệm cơ bản có liên quan đến đề tài:

Giáo dục, giáo dục chính trị, công tác giáo dục chính trị tư tưởng cho cán bộ

7


làm Công tác dân tộc, các yếu tố cấu thành công tác giáo dục chính trị tư
tưởng cho cán bộ làm Công tác dân tộc
- Đánh giá đúng thực trạng giáo dục lý luận chính trị ở Trường Cán bộ
dân tộc những năm qua.
6.1. Ý nghĩa thực tiễn
- Đưa ra một số giải pháp chủ yếu nhằm nâng cao chất lượng giáo dục
lý luận chính trị ở Trường Cán bộ dân tộc trong thời kỳ mới.
- Luận văn có thể làm tư liệu tham khảo phục vụ công tác nghiên cứu,
giảng dạy, học tập và tuyên truyền tư tưởng Hồ Chí Minh.
- Cung cấp những luận chứng về thực tiễn cho Trường Cán bộ dân tộc
nhằm nâng cao chất lượng giáo dục lý luận chính trị của Nhà trường.
7. Cơ cấu của luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo và phần phụ
lục, luận văn được kết cấu làm 3 chương.
Chương 1. Những vấn đề lý luận về giáo dục lý luận chính trị cho cán
bộ làm Công tác dân tộc
Chương 2. Thực trạng giáo dục chính trị cho cán bộ làm Công tác dân
tộc tại Trường Cán bộ dân tộc
Chương 3. Nâng cao chất lượng giáo dục chính trị cho cán bộ làm
Công tác dân tộc ở Việt Nam hiện nay

8


Chương 1

NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ GIÁO DỤC CHÍNH TRỊ CHO
CÁN BỘ LÀM CÔNG TÁC DÂN TỘC

1.1. Khái niệm, vị trí, vai trò của giáo dục chính trị
1.1.1. Giáo dục và giáo dục chính trị cho cán bộ làm Công tác dân tộc
1.1.1.1. Giáo dục
Giáo dục (Education) có nghĩa là chỉ bảo, dạy dỗ, chăm sóc. Nó bao
gồm không chỉ việc dạy học (giáo), mà có cả sự thương yêu quan tâm chăm
sóc (dục) trong đó.
Thuật từ “Giáo dục” dịch sang tiếng Anh được viết là “Education” –
vốn có gốc từ tiếng Latinh “Eduacare” có nghĩa là “làm bộc lộ ra” và cũng có
nghĩa là “nuôi nấng dạy dỗ”. Từ nghĩa đó, có thể hiểu “giáo dục là quá trình,
cách thức làm bộc lộ ra những khả năng tiềm ẩn của người được giáo dục”
Theo Bách khoa toàn thư Wikipedia: “Giáo dục, theo nghĩa tổng quát,
là một hình thức học tập, trong đó kiến thức, kỹ năng và thói quen của một
nhóm người từ thế hệ này (người truyền đạt) được chuyển giao sang thế hệ kế
tiếp (người thụ huấn) thông qua giảng dạy, huấn luyện, nghiên cứu. Giáo dục
thường diễn ra dưới sự hướng dẫn của người khác, nhưng cũng có thể tự học.
Bất kỳ sự trải nghiệm nào mà có tác dụng trên cách suy nghĩ, cảm nhận hay
hành vi của một người đều có thể được coi là giáo dục”. Nói cách khác:
“Giáo dục là quá trình được tổ chức có ý thức hướng tới mục đích khơi gợi
hoặc biến đổi nhận thức, năng lực, tình cảm, thái độ của người học theo
hướng tích cực. Nghĩa là góp phần hoàn thiện nhân cách người học bằng
những tác động có ý thức từ bên ngoài, góp phần đáp ứng các nhu cầu tồn tại
và phát triển của con người trong xã hội đương đại”

9


Giáo dục bao gồm việc dạy và học, đôi khi cũng mang ý nghĩa như là

quá trình phổ biến tri thức, truyền thụ sự hiểu biết và cách suy luận đúng đắn.
Sự giáo dục của mỗi cá nhân bắt đầu từ khi sinh ra và tiếp tục trong suốt cuộc
đời. Mặc dù gia đình chỉ có chức năng giáo dục rất thông thường, không
mang tính chính thức, nhưng đối với rất nhiều người, gia đình có ảnh hưởng
rất lớn đến hiệu quả giáo dục. Với một số người khác, quá trình mưu sinh hay
những va chạm trong xã hội, đem lại cho họ kiến thức nhiều hơn cả sự lãnh
hội kiến thức trong các trường học.
Giáo dục theo quan điểm của chủ nghĩa Mác – Lê nin là nhằm tạo ra
những con người phát triển toàn diện và biết thấm nhuần tổng số những kiến
thức của nhân loại mà chủ nghĩa Cộng sản là kết quả bởi vì tương lai của loài
người hoàn toàn phụ thuộc vào việc giáo dục thế hệ công dân đang lớn lên.
1.1.1.2. Cán bộ làm Công tác dân tộc
Theo Nghị định chính phủ số 05/2011/NĐ-CP ngày 14/01/2011 về
Công tác dân tộc thì “Công tác dân tộc” là những hoạt động quản lý nhà nước
về lĩnh vực dân tộc nhằm tác động và tạo điều kiện để đồng bào các dân tộc
thiểu số cùng phát triển, đảm bảo sự tôn trọng, bảo vệ quyền và lợi ích hợp
pháp của công dân.
Theo Nghị quyết hội nghị lần thứ 7 Ban Chấp hành Trung ương Đảng
(khoá IX) thì Công tác dân tộc là hoạch định chính sách dân tộc và tổ chức
thực hiện các chính sách dân tộc; đưa đường lối, chủ trương của Đảng và Nhà
nước, mang chính sách dân tộc đến với cuộc sống, đi vào cuộc sống; từ tổng
kết thực tiễn cuộc sống để bổ sung, xây dựng các chính sách dân tộc phù hợp
với yêu cầu, nhiệm vụ cách mạng trong từng thời kỳ.
Chủ thể của công tác dân tộc (hay đối tượng triển khai thực hiện nhiệm
vụ công tác dân tộc) là toàn Đảng, toàn dân, toàn quân, là các cấp, các ngành
và toàn bộ hệ thống chính trị bao gồm: hệ thống các cơ quan Đảng, cơ quan

10



chính quyền, các đoàn thể và các cơ quan quân đội. Nghị quyết hội nghị lần
thứ 7 Ban Chấp hành Trung ương Đảng (khoá IX) đã khẳng định: “Công tác
dân tộc và thực hiện chính sách dân tộc là nhiệm vụ của toàn Đảng, toàn dân,
toàn quân, của các cấp, các ngành, của toàn bộ hệ thống chính trị”
1.1.1.3. Giáo dục chính trị cho cán bộ làm Công tác dân tộc
Giáo dục chính trị là bộ phận của khoa học chính trị, bộ phận công tác
tư tưởng của Đảng, có nội dung chủ yếu là giáo dục chủ nghĩa Mác - Lênin,
tư tưởng Hồ Chí Minh, Cương lĩnh, đường lối của Đảng nhằm hình thành thế
giới quan, phương pháp luận khoa học, bản lĩnh chính trị, niềm tin và năng
lực hoạt động thực tiễn cho cán bộ, đảng viên và nhân dân, đáp ứng yêu cầu
xây dựng và phát triển của đất nước.
Giáo dục chính trị đem đến cho cán bộ làm Công tác dân tộc thêm
những hiểu biết về quy luật phát triển xã hội, về thế giới quan, nhân sinh
quan, đường lối, chủ trương, quan điểm, chính sách dân tộc của Đảng và Nhà
nước, để từ đó vạch ra cho mình tư tưởng, lối sống, hoài bão, ý chí, nguyện
vọng, những nguyên tắc chuẩn mực đạo đức để gạt bỏ cái cũ, tiếp thu có chọn
lọc cái mới ...
Giáo dục chính trị cho cán bộ làm Công tác dân tộc nhằm nâng cao
trình độ giác ngộ chính trị, là một trong những nội dung quan trọng trong giáo
dục, bồi dưỡng cán bộ của Ủy ban Dân tộc. Giáo dục chính trị có ý nghĩa to
lớn trong việc truyền bá chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh; góp
phần bồi dưỡng phẩm chất chính trị, niềm tin vào Đảng và con đường xã hội
chủ nghĩa mà Đảng và nhân dân ta đã lựa chọn.
Trong bối cảnh đất nước ta đang đẩy mạnh CNH-HĐH, sự nghiệp đổi
mới đi vào chiều sâu và hội nhập quốc tế ngày càng mạnh mẽ thì nhiệm vụ
của công tác nghiên cứu, giáo dục chính trị ngày càng chú trọng, nâng cao.
Theo đó, nội dung nghiên cứu, giáo dục cũng ngày càng phong phú, đa dạng

11



hơn. Thực tế đó đòi hỏi công tác nghiên cứu, giáo dục chính trị của Đảng phải
không ngừng đổi mới để nâng cao chất lượng, hiệu quả, góp phần đưa đất
nước phát triển bền vững theo định hướng xã hội chủ nghĩa.
1.1.2. Sự cần thiết của giáo dục chính trị
Giáo dục chính trị nhằm quán triệt và vận dụng đúng đắn chủ nghĩa
Mác - Lênin vào điều kiện hoàn cảnh cụ thể của đất nước, đồng thời phải
phản ánh hiện thực lịch sử xã hội trong từng thời kỳ. Người giải thích: "Nắm
vững đường lối cách mạng mới thấy rõ phương hướng tiến lên của cách
mạng, mới hiểu rõ mình phải làm gì và đi theo phương hướng nào để thực
hiện mục đích của Đảng trong giai đoạn cách mạng hiện nay" [47, tr.94].
Đồng thời với việc quán triệt chủ nghĩa Mác - Lênin các chủ trương chính
sách của Đảng của Nhà nước, Người đòi hỏi cán bộ, đảng viên phải học kinh
nghiệm của nhân dân, phải tổng kết phong trào của quần chúng để phát triển
thành lý luận.
Trong quan điểm giáo dục chính trị, Người luôn yêu cầu phải tuân thủ
phương châm lý luận phải gắn liền với thực tiễn. Phương châm này đã trở
thành thói quen, nếp sống trong hoạt động cách mạng. Ở đâu nói về vấn đề gì,
làm việc gì, lời nói và việc làm của Người cũng hoà làm một, gắn kết với
nhau chặt chẽ. Bởi, Người đã tiếp thu sâu sắc mối quan hệ biện chứng giữa lý
luận và thực tiễn - một nguyên tắc cơ bản của chủ nghĩa Mác - Lênin. Đối với
Người những vấn đề lý luận trừu tượng được diễn đạt rất giản dị, dễ hiểu.
Chẳng hạn khi nói về sở hữu tập thể, Người chỉ rõ: "Chủ nghĩa xã hội là nhà
máy, trường học là của chung". Hay khi định nghĩa về chủ nghĩa xã hội "là
mọi người được ăn no, mặc ấm, sung sướng, tự do" [43, tr.396]. Có thể nói lý
luận không gắn với thực tiễn là lý luận suông, thực tiễn không có lý luận soi
đường là thực tiễn mù quáng. Mỗi cán bộ, đảng viên phải tự cải tạo mình, đấu
tranh chống thói hư, tật xấu, đấu tranh tự khắc phục chủ nghĩa cá nhân, rèn

12



luyện chủ nghĩa tập thể, gắn bó chặt chẽ với quần chúng, phát huy đầy đủ tính
sáng tạo của quần chúng thì phải học giáo dục chính trị, nâng cao trình độ lý
luận chính trị, phát huy tốt con người chủ nghĩa xã hội.
1.2. Nội dung giáo dục chính trị
1.2.1. Giáo dục chủ nghĩa Mác – Lênin
Để thực hiện mục đích giáo dục chính trị, nội dung giáo dục chính trị
cho cán bộ là mối quan tâm hàng đầu của Hồ Chí Minh. Trong nhiều bài nói,
bài viết Người đã đề cập khá nhiều vấn đề xác định nội dung giáo dục chính
trị cho cán bộ, như giáo dục những nguyên lý của chủ nghĩa Mác – Lênin,
công tác xây dựng Đảng, đường lối, quan điểm của Đảng, chủ trương chính
sách pháp luật của Nhà nước, đạo đức cách mạng… Tư tưởng cơ bản xuyên
suốt của Người về nội dung giáo dục chính trị cho cán bộ ở 3 nội dung lớn và
nội dung đầu tiên là giáo dục những nguyên lý chủ nghĩa Mác – Lênin.
Người đã xác định được vai trò quan trọng của chủ nghĩa Mác – Lênin
đối với cách mạng Việt Nam. Ngay từ những năm đầu thế kỷ XX, đánh giá về
vị trí của chủ nghĩa Mác – Lênin trong số các lý luận, các chủ nghĩa đang lan
truyền ở đầu thế kỷ, Hồ Chí Minh viết “Bây giờ học thuyết nhiều, chủ nghĩa
nhiều nhưng chủ nghĩa chân chính nhất, chắc chắn nhất, cách mệnh nhất là
chủ nghĩa Lênin” [37, tr.268]. Là chủ nghĩa chân chính nhất, vì chủ nghĩa
Mác – Lênin là thế giới quan và phương pháp luận khoa học của giai cấp công
nhân và các lực lượng cách mạng trong thời đại. Là chủ nghĩa chắc chắn nhất,
vì chủ nghĩa Mác – Lênin là cẩm nang thần kỳ của tất cả các dân tộc bị áp bức
và bóc lột, áp bức, có cuộc sống ấm no, hạnh phúc. Do đó chủ nghĩa Mác –
Lênin có vai trò to lớn và quan trọng, Hồ Chí Minh chỉ rõ: “Không có lý luận
cách mệnh, thì không có cách mệnh vận động …. Chỉ có theo lý luận cách
mệnh tiền phong, Đảng cách mệnh mới làm nổi trách nhiệm cách mệnh tiền
phong” [37, tr.258].


13


Giáo dục chủ nghĩa Mác – Lênin, Hồ Chí Minh kết luận: “Chủ nghĩa
Mác – Lênin rất cao, rất rộng. Những người cách mạng phải học tập chủ
nghĩa Mác – Lênin. Nhưng có thể nói một cách tóm tắt là chủ nghĩa Mác dạy
chúng ta phải tuyệt đối trung thành với Đảng, phải hết lòng hết sức phục vụ
giai cấp công nhân. Mác dạy chúng ta: vô sản tất cả các nước đoàn kết lại,
Lênin người học trò thiên tài của Mác bổ sung thêm: Vô sản tất cả các nước
và các dân tộc bị áp bức đoàn kết lại. Hai khẩu hiệu đó là những ngọn cờ vĩ
đại dẫn giai cấp vô sản và dân tộc bị áp bức đến thắng lợi hoàn toàn. Chủ
nghĩa Lênin đối với chúng ta những người cách mạng và nhân dân Việt Nam,
không những là cái “cẩm nang” thần kỳ, không những là cái kim chỉ nam mà
còn là mặt trời soi sáng con đường chúng ta đi đến thắng lợi cuối cùng, đi tới
chủ nghĩa xã hội và chủ nghĩa cộng sản. [45, tr.128].
1.2.2. Giáo dục phẩm chất đạo đức cách mạng
Trong công tác giáo dục chính trị, Hồ Chí Minh quan tâm đến giáo dục
phẩm chất đạo đức cách mạng cho cán bộ, đảng viên. Người quan niệm
“người cán bộ cách mạng phải có đạo đức cách mạng, phải giữ vững đạo đức
cách mạng mới là người cán bộ cách mạng chân chính” [42, tr.480].
Trong lĩnh vực đạo đức của Hồ Chí Minh mà Người đề cập đến về thực
chất đó là đạo đức mới: đạo đức cách mạng. Đạo đức cũ xuất phát từ những
chuẩn mực đạo đức phong kiến trói buộc con người vào lễ giáo, phục vụ cho
chế độ đẳng cấp, tôn ti hà khắc của xã hội phong kiến. Sự khác biệt giữa đạo
đức cũ và đạo đức mới đã được Hồ Chí Minh chỉ rõ: “Có người cho đạo đức
cũ và đọa đức mới không có gì khác nhau. Nói như vậy là lầm to. Đạo đức cũ
và đạo đức mới khác nhau nhiều. Đạo đức cũ như người đầu ngược xuống đất
chân chổng lên trời. Đạo đức mới như người hai chân đứng vững được dưới
đất, đầu ngửng lên trời” [41, tr.321]. Đạo đức mới không phải là đạo đức thủ


14


cựu “nó là đạo đức mới, đạo đức vĩ đại, nó không phải vì danh vọng cá nhân,
mà vì lợi ích chung của Đảng, của dân tộc, của loài người” [40, tr.252].
Một trong những nội dung giáo dục chính trị của Hồ Chí Minh là giáo
dục chủ nghĩa Mác – Lênin, hiểu chủ nghĩa Mác – Lênin, học chủ nghĩa Mác
– Lênin tức là củng cố đạo đức cách mạng, giữ vững lập trường, nâng cao sự
hiểu biết của mình và trình đọ chính trị, phải tu dưỡng đạo đức cách mạng
suốt đời mới làm tốt được công tác Đảng giao phó cho mình. Đạo đức cách
mạng – Đạo đức mới mà Hồ Chí Minh đề cập đã được Người giải thích dễ
hiểu, rõ ràng và súc tích, không những bổ sung thêm cho chuẩn mực đạo đức
mới ở Việt Nam mà đồng thời có ý nghĩa to lớn trong công tác giáo dục, đặc
biệt giáo dục chính trị cho cán bộ, đảng viên.
1.2.3. Giáo dục chủ trương, đường lối của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước
Quan điểm, đường lối của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước
thể hiện ý chí, nguyện vọng của giai cấp công nhân và nhân dân lao động
nước ta. Qua mỗi kỳ đại hội, bằng trí tuệ của toàn Đảng, toàn quân, toàn dân,
Đảng ta đã xác định phương hướng, nhiệm vụ phát triển đất nước một cách
phù hợp từng thời kỳ. Do vậy, văn kiện, nghị quyết được đại hội thông qua là
cương lĩnh chính trị của Đảng, là chương trình hành động dẫn dắt nhân dân ta
xây dựng và bảo vệ Tổ quốc một cách cụ thể, phù hợp.
Đường lối, nghị quyết đó được Nhà nước, các cơ quan chức năng và
các cấp có thẩm quyền thể chế hóa thành chính sách, pháp luật và ban hành
những quy định, cơ chế tương ứng để bảo đảm cho nó đi vào cuộc sống.
Giáo dục cương lĩnh, đường lối, chủ trương của Đảng, chính sách, pháp
luật của Nhà nước cho cán bộ, đảng viên là một trong những nội dung quan
trọng trong nội dung giáo dục chính trị vì cương lĩnh, đường lối, chủ trương
của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước giúp cán bộ, đảng viên hiểu rõ,
tin tưởng và quyết tâm thực hiện tốt đường lối, chủ trương, chính sách pháp


15


luật đó. Khi đã hiểu và tin tưởng thì “khó khăn mấy học cũng làm được, hy
sinh mấy họ cũng không sợ” vì những chính sách và nghị quyết của Đảng đều
vì lợi ích của nhân dân. Chính vì vậy đạo đức cách mạng của người đảng viên
là kiên quyết làm đúng chính sách và nghị quyết của Đảng.
Cán bộ, đảng viên vừa là người lãnh đạo nhân dân, vừa tổ chức nhân
dân, cùng nhân dân thực hiện các đường lối, nghị quyết, chính sách, pháp luật
của Đảng và Nhà nước. Do vậy, nhất thiết phải bồi dưỡng, nâng cao nhận
thức về đường lối, chính sách cho cán bộ, đảng viên. Cán bộ, đảng viên phải
là người thông suốt quan điểm, đường lối của Đảng, chính sách, pháp luật của
Nhà nước, phải không ngừng giác ngộ để thực hiện mà còn tuyên truyền, vận
động nhân dân thông suốt đường lối, chính sách, cùng với Đảng thực hiện các
đường lối, chính sách đó một cách chủ động, tự giác, sáng tạo.
Việc tuyên truyền, học tập và triển khai thực hiện nghị quyết, chính
sách, pháp luật của Đảng và Nhà nước cũng phải được nghiên cứu kỹ, đi sâu
phân tích, làm rõ những quan điểm của Đảng về vấn đề đó; những nội dung
công việc phải tập trung làm; những mục tiêu phải đạt được; các biện pháp và
cách tiến hành. Tùy theo cấp, ngành, đơn vị mà có sự vận dụng những quan
điểm, nội dung của nghị quyết, chính sách một cách sáng tạo để xây dựng được
một chương trình, kế hoạch hành động thiết thực cho đơn vị, cá nhân mình.
Những vấn đề lý luận Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh được Đảng
ta vận dụng và thể hiện ở trong đường lối, chính sách, pháp luật nhằm thực
hiện thành công sự nghiệp đổi mới về xây dựng đất nước và bảo vệ Tổ quốc
trong điều kiện hiện nay. Cho nên các cấp bộ Đảng, các cấp chính quyền, các
cơ quan, các đoàn thể trong hệ thống chính trị, các tổ chức xã hội từ Trung
ương đến cơ sở đều hết sức coi trọng công tác bồi dưỡng, nâng cao trình độ
hiểu biết cho cán bộ, đảng viên về đường lối, chính sách, pháp luật của Đảng

và Nhà nước.

16


1.3. Phương pháp giáo dục chính trị
1.3.1. Kết hợp giữa đào tạo và tự đào tạo
- Về đào tạo
Muốn trở thành người cán bộ tốt thì phải được đào tạo, không phải
người cán bộ nào cũng có thể tự học, tự đọc sách vở mà hiểu được, đặc biệt là
những kiến thức về lý luận. Đào tạo ở đây được hiểu là trải qua trường lớp,
qua tổ chức. Trường lớp huấn luyện, đào tạo ấy phải có cơ sở vật chất cho dù
đơn giản nhất có đội ngũ giáo viên có đủ năng lực giảng dạy, được trang bị
những kiến thức chung về chủ nghĩa Mác – Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, về
đạo đức cách mạng, về quan điểm, đường lối, chủ trương, chính sách của
Đảng, pháp luật của Nhà nước. Tất cả những nội dung trên đòi hỏi mỗi bài
giảng phải có nội dung súc tích, tính lý luận và tính khoa học chặt chẽ đồng
thời có phương pháp dạy tốt, phải tùy từng đối tượng, từng loại chương trình
mà vận dụng phương pháp cho phù hợp.
Ở trường, ngoài dạy về lý luận chủ nghĩa Mác – Lênin, tư tưởng Hồ
Chí Minh, các đường lối, chính sách của Đảng và Nhà nước, tình hình thời sự
các nước trên thế giới, còn trang bị cho người cán bộ những kiến thức khoa học
tự nhiên, về chuyên môn … Vì vậy, trường học chính là nơi tốt nhất để trang bị
cho người cán bộ những kiến thức cơ bản, những lý luận chung để giúp cho
người học có những tri thức phổ thông, tri thức nền tảng, có phương hướng.
- Về tự đào tạo
Vận dụng quan điểm của Lênin “học, học nữa, học mãi”, Hồ Chí Minh
cho rằng “người huấn luyện phải học thêm mãi mới làm được công việc huấn
luyện của mình … Người huấn luyện nào tự cho mình là đã biết đủ cả rồi, thì
người đó dốt nhất” [41, tr.46]. Vì vậy theo yêu cầu của Người, đội ngũ cán bộ

lý luận phải không ngừng làm giàu tri thức, trình độ lý luận của mình bằng
“những hiểu biết quí báu của đời trước để lại” và học tập một cách sáng tạo,

17


linh hoạt kinh nghiệm của các nước anh em để làm tốt công tác Đảng giao
phó cho mình. Không thể để những người làm công tác lý luận thiếu hụt
nghiệp vụ, không theo kịp sự phát triển và yêu cầu của cách mạng. Học tập
chủ nghĩa Mác – Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh cũng chính là khuyến khích
tính độc lập, tự chủ, sáng tạo của người học, phát huy sự chủ động của người học
trong lĩnh hội kiến thức. Trong giảng dạy phải chú trọng “lấy tự học làm cốt”,
giáo dục chính trị là một quá trình, đòi hỏi tính kiên trì của người học. Từ đó
người học chủ động biến quá trình đào tạo thành tự đào tạo.
Phương pháp kết hợp đào tạo – tự đào tạo là một phương pháp giáo dục
hiện đại, giúp cho quá trình giáo dục đạt kết quả cao, phương pháp này không
chỉ giúp người học hiểu thấu vấn đề, kích thích độc lập suy nghĩ, tìm tòi giải
pháp để cuối cùng người học đạt tới tri thức, khắc phục những điểm yếu trong
quá trình học tập lý luận mà còn đòi hỏi sự kết hợp khéo léo giữa người
truyền thụ kiến thức và người tiếp thu kiến thức trong quá trình giáo dục,
không phải là cách truyền thụ kiến thức một chiều mà phải là “biết mười dạy
một”, phải gợi mở hướng dẫn cho người học tự động học tập nâng cao hiểu
biết, đồng thời người thầy giỏi không phải là người có bao nhiêu hiểu biết
nhồi nhét cho học viên tất cả và chấm hết, không phải “đem lý luận khô khan
nhét cho đầy óc người học. Rồi bày cho họ viết những chương trình, những
hiệu triệu rất kêu. Nhưng đối với thực tế, tuyên truyền, vận động, tổ chức,
kinh nghiệm chỉ nói qua loa mà thôi” [40, tr.272].
1.3.2. Gắn lý luận với thực tế, học đi đôi với hành
Trong giáo dục chính trị cho cán bộ làm Công tác dân tộc thì cần gắn
liền giữa phương pháp lý luận và công tác thực tế, học đi đôi với hành. Chủ

nghĩa Mác – Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh đều khẳng định: sự thống nhất
giữa lý luận và thực tiễn trở thành một phương pháp trong hoạt động giáo
dục, đào tạo, bồi dưỡng cán bộ, lý luận đi đôi với thực tiễn, lý luận kết hợp

18


với thực hành … Lý luận chỉ có thể biến thành hành động cách mạng khi nó
bám sát vào thực tiễn, phản ánh nhu cầu của thực tiễn.
Coi trọng thực tiễn không có nghĩa là xem thường lý luận, hạ thấp vai
trò của lý luận. Không nên đề cao cái này, hạ thấp cái kia và ngược lại. Không
thể dừng lại ở những kinh nghiệm thu nhận lại trực tiếp từ thực tiễn mà phải
nâng lên thành lý luận bởi lý luận là một trình độ cao hơn về chất so với kinh
nghiệm. Lý luận có vai trò rất lớn đối với thực tiễn, tác động trở lại thực tiễn,
góp phần làm biến đổi thực tiễn thông qua hoạt động của con người. Lý luận
là “kim chỉ nam” cho hành động, soi đường, dẫn dắt, chỉ đạo thực tiễn. Đánh
giá vai trò và ý nghĩa lớn lao của lý luận, Lênin viết: “Không có lý luận cách
mạng thì cũng không thể có phong trào cách mạng” [30, tr.30].
Đại hội Đảng lần thứ IX, một lần nữa Đảng ta khẳng định: “Tiếp tục
nâng cao chất lượng giáo dục toàn diện, đổi mới nội dung, phương pháp dạy
và học, hệ thống trường lớp và hệ thống quản lý giáo dục, thực hiện chuẩn
hóa, hiện đại hóa, xã hội hóa. Phát huy tinh thần độc lập suy nghĩ và sáng tạo
của học sinh, sinh viên, đề cao năng lực tự học, tự hoàn thiện học vấn và tay
nghề; đẩy mạnh phong trào học tập trong nhân dân bằng những hình thức giáo
dục chính quy và không chính quy, thực hiện “giáo dục cho mọi người”, “cả
nước trở thành một xã hội học tập”, thực hiện phương châm “học đi đôi với
hành”, giáo dục kết hợp với lao động sản xuất, Nhà trường gắn với xã hội.
1.3.3. Giáo dục phải thiết thực, phù hợp, đúng nhu cầu
Bằng cuộc sống sinh động cũng như thực tiễn học tập và tiến hành công
tác huấn luyện cán bộ của mình, Hồ Chí Minh rất quan tâm đến công tác giáo

dục lý luận chính trị, Người thường quan tâm tới tính phù hợp, lý luận phải
thiết thực, huấn luyện phải nhằm đúng nhu cầu. Chính vì vậy, Người nói
“huấn luyện cốt thiết thực, chu đáo”. “Cốt thiết thực” là một nguyên tắc
không chỉ trong giáo dục lý luận chính trị mà trong công việc cách mạng nữa.

19


Như việc xuất bản sách, báo, công tác tuyên truyền, ngay từ những ngày đầu
cách mạng khi viết cuốn sách Đường Cách mệnh, Người đã khuyên những
người làm công tác tuyên truyền lý luận là chống những lời nói chung chung
mà phải “nói thiết thực”, nói đúng lúc, đúng chỗ mới là hiểu chủ nghĩa Mác –
Lênin, cách tuyên truyền thiết thực còn làm cho cách mạng tiến bộ nữa, “chỉ
ước sao đồng bào xem rồi nghĩ lại, nghĩ rồi thì tỉnh dậy, tỉnh rồi thì đứng lến
đoàn kết nhau mà làm cách mạng” [37, tr.262].
Từ mục đích, nội dung giáo dục lại phải có phương pháp phù hợp thì
giáp dục chính trị mới đạt hiệu quả. Hồ Chủ tịch từng nói “huấn luyện lý luận
có hai cách: một cách chỉ đem lý luận khô khan nhét cho đầy óc họ. Rồi bày
cho họ viết những chương trình, những hiệu triệu rất kêu. Nhưng đối với việc
thực tế, tuyên truyền vận động, tổ chức, kinh nghiệm chỉ nói qua loa mà thôi.
Thế là lý luận suông, vô ích. Một cách là trong lúc học lý luận, phải nghiên
cứu công việc thực tế, kinh nghiệm thực tế. Lúc học rồi, họ có thể tự mình tìm
ra phương hướng chính trị có thể làm những công việc thực tế, có thể trở nên
người tổ chức và lãnh đạo. Thế là lý luận thiết thực, có ích” [40, tr.272].
Về nội dung, yêu cầu cũng phải hết sức thiết thực, ngoài lý luận phải
dạy về công tác “hoặc riêng về cán bộ, ai lãnh đạo trong ngành hoạt động nào
thì phải biết chuyên môn về ngành ấy” và “phải chú ý dạy văn hóa cho những
đồng chí kém văn hóa để giúp họ tiến bộ về lý luận, công tác” [41, tr.47]. Như
vậy trong nội dung giảng dạy, học tập vừa quan tâm đến lý luận vừa phải
quan tâm đến văn hóa để học viên vận dụng được vào công việc cụ thể của

mình và cũng cần phải có sự cân đối giữa lý luận và thực tế.
Về chương trình dạy, hình thức tổ chức lớp học cũng phải nhằm đúng
nhu cầu cần gì học lấy, hình thức mở lớp nhiều mà không phù hợp thì rốt
cuộc chỉ tốn gạo mà học thì táp nhoang. Phải hợp lý hóa nghĩa là: Mở lớp nào
cho ra lớp ấy. Lựa chọn người dạy và người học đến cho cẩn thận; Đừng mở

20


lớp lung tung” [41, tr.52]. Hồ Chí Minh cho rằng cán bộ có nhiều loại: cán bộ
Đảng, cán bộ Nhà nước, cán bộ Đoàn thể … mỗi loại cán bộ ở mỗi thời kỳ
cách mạng không giống nhau. Bởi vậy để đáp ứng yêu cầu thực tiễn của cách
mạng, trong công tác đào tạo, huấn luyện cán bộ cần phải có chương trình, kế
hoạch phù hợp với từng loại cán bộ.
Về phương diện học tập, cũng phải trình bày ngắn gọn, rõ ràng, phù
hợp với điều kiện con người Việt Nam, vì học lý luận không đơn giản, đây là
môn học trìu tượng, khô khan, khó tạo được sự hấp dẫn cho người học. Chính
vì vậy, tài liệu phải được lựa chọn kỹ càng, biên tập sắp xếp hợp lý, cách thể
hiện phải ngắn gọn, dễ hiểu, dễ nhớ. Trong cuốn giáo khoa về lý luận đầu tiên
của cách mạng Việt Nam, Hồ Chí Minh đã viết: Đường Cách mệnh viết ra chỉ
với mục đích “đồng bào xem rồi thì nghĩ lại, nghĩ rồi thì tỉnh dậy, tỉnh rồi thì
đứng lên đoàn kết nhau làm cách mệnh”. Để đạt được mục đích đó cách viết
phải “vắn tắt, dễ hiểu, dễ nhớ … Nói rất giản tiện, mau mắn, chắc chắn như
hai lần hai là bốn, không tô vẽ, trang hoàng gì cả … Hy vọng sách này chỉ ở
trong hai chữ: Cách mệnh! Cách mệnh!! Cách mệnh !!! [37, tr.262].
1.3.4. Xây dựng đội ngũ cán bộ và tổ chức, quản lý tốt
Xây dựng đội ngũ cán bộ giảng viên và cán bộ quản lý
Để công tác giáo dục lý luận chính trị đạt kết quả cao, Hồ Chí Minh
cho rằng trước hết phải quan tâm xây dựng đội ngũ cán bộ làm công tác huấn
luyện chính trị. Người đi huấn luyện chính trị phải được lựa chọn cẩn thận,

phải là người thực sự mẫu mực về mọi mặt. Vì vậy Hồ Chí Minh đòi hỏi
người đi huấn luyện phải học thêm mãi mãi thì mới làm được công việc huấn
luyện của mình. Người khẳng định: “Không phải ai cũng huấn luyện được.
Muốn huấn luyện thợ rèn, thợ nguội thì người huấn luyện phải thạo nghề thợ
rèn, thợ nguội. Người huấn luyện Đoàn thể phải làm kiểu mẫu về mọi mặt: tư
tưởng, đạo đức, lề lối làm việc” [41, tr.46]. Mỗi cử chỉ, hành vi, lời nói, việc

21


làm của người đi giáo dục đều có tác động trực tiếp đến đối tượng được giáo
dục về nhiều mặt, mỗi nội dung giáo dục chính trị đều thấm đượm quan điểm,
tư tưởng, đường lối, chủ trương, chính sách của Đảng, nếu những vấn đề đó
thể hiện ở người đi giáo dục mơ hồ, hời hợt thì chất lượng giáo dục không
cao. Do đó, mỗi cán bộ, đảng viên nói chung, cán bộ làm CTDT nói riêng
phải thường xuyên học nữa, học mãi và những người đi giáo dục lại càng phải
ghi nhớ và thực hành điều đó hơn ai hết.
Về tiêu chuẩn của đội ngũ cán bộ làm công tác giáo dục chính trị, Hồ
Chí Minh cho rằng trước hết họ phải là những người có kiến thức lý luận tốt,
có phẩm chất chính trị, vững vàng về tư tưởng, lập trường, phải trung thành
tuyệt đối với chủ nghĩa Mác – Lênin, với lý tưởng giải phóng dân tộc và giải
phóng giai cấp của Đảng. Bên cạnh đó, đội ngũ cán bộ làm công tác giáo dục
chính trị phải luôn giữ phẩm chất chính trị làm nòng cốt, xác định rõ mục
đích, ý nghĩa công tác giáo dục chính trị với cách mạng, xây dựng ý thức
trách nhiệm của mình với sự nghiệp. “Người huấn luyện phải học thêm mãi
thì mới làm được công việc của mình ... Người huấn luyện nào tự cho mình
đã biết đủ cả rồi thì người đó dốt nhất” [41, tr.46].
Để người học hiểu vấn đề thì vai trò của người dạy phải tích cực sáng
tạo trong truyền thụ kiến thức, khắc phục những sai lầm về việc “học mà
không hiểu”, “lý thuyết suông”, “thầy đọc, trò chép”. Không nên có phương

pháp dạy và học một cách giáo điều, công thức mà nên đặt vấn đề có tính định
hướng cho việc dạy và học như dạy ai (đối tượng học), dạy để làm gì (mục
tiêu), dạy cái gì (nội dung), dạy như thế nào (phương pháp).
Tổ chức, quản lý giáo dục chính trị
Tổ chức, quản lý giáo dục chính trị phải chặt chẽ, sâu sát, tỉ mỉ và chu
đáo, phải phù hợp, đáp ứng đúng yêu cầu và hoàn cảnh, nhiệm vụ đặt ra. Các
hình thức tổ chức, quản lý giáo dục phải dựa trên nguyên tắc tinh thần, thái độ

22


×