Tải bản đầy đủ (.doc) (100 trang)

LUẬN văn THẠC sĩ ĐẢNG bộ HUYỆN CHƯƠNG mỹ, TỈNH hà tây LÃNH đạo CÔNG tác xóa đói GIẢM NGHÈO từ năm 2001 đến năm 2008

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (633.61 KB, 100 trang )

DANH MỤC CHỮ VIẾT TẮT

Chữ viết đầy đủ

Chữ viết tắt

Ban Chấp hành Trung ương
Chính trị quốc gia
Hội đồng nhân dân

BCHTW
CTQG
HĐND

Nhà xuất bản
Ủy ban nhân dân

Nxb
UBND

Trang
Xóa đói, giảm nghèo

tr
XĐ, GN

1


MỤC LỤC


Trang
MỞ ĐẦU

Chương 1

3
CHỦ TRƯƠNG VÀ SỰ CHỈ ĐẠO CỦA ĐẢNG BỘ
HUYỆN CHƯƠNG MỸ VỀ XÓA ĐÓI, GIẢM
10

1.1

NGHÈO TỪ NĂM 2000 ĐẾN NĂM 2008
Những yếu tố tác động và chủ trương của Đảng bộ

10

1.2

huyện Chương Mỹ về xóa đói, giảm nghèo (2000-2008)
Đảng bộ huyện Chương Mỹ chỉ đạo thực hiện xóa đói,
giảm nghèo (2000-2008)
NHẬN XÉT VÀ KINH NGHIỆM

41

Chương 2

58


2.1

Nhận xét quá trình Đảng bộ huyện Chương Mỹ lãnh đạo
58

2.2

xóa đói, giảm nghèo (2000-2008)
Một số kinh nghiệm từ quá trình Đảng bộ huyện Chương
Mỹ lãnh đạo xóa đói, giảm nghèo (2000-2008)

66

KẾT LUẬN
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
PHỤ LỤC

80
82
90

2


MỞ ĐẦU

1. Lý do chọn đề tài
Đói nghèo và chống nghèo đói là mối quan tâm hàng đầu của tất cả các
quốc gia trên thế giới bởi vì, giàu mạnh gắn liền với sự hưng thịnh của một quốc
gia. Có thể nói, đói nghèo diễn ra trên khắp các châu lục với những mức độ khác

nhau. Đặc biệt là ở các nước lạc hậu, chậm phát triển, nghèo đói đang là một vấn
đề nhức nhối, một thách thức đối với sự phát triển, hay tụt hậu của một quốc gia.
Vào những năm cuối của thế kỷ XX, trên thế giới vẫn còn hơn 1,3 tỉ người sống
dưới mức nghèo khổ, trong đó khoảng 800 triệu người sống ở các quốc gia thuộc
khu vực châu Á - Thái Bình Dương. Đây là một thách thức lớn đối với sự phát
triển của các nước trên thế giới.
Chương Mỹ là một Huyện nằm ở phía Tây Nam tỉnh Hà Tây, gồm 30
xã và 2 thị trấn với diện tích tự nhiên là 232,94 km 2, có dân số trên 30,5 vạn
người. Chương Mỹ là một Huyện khá nghèo, có diện tích rộng, người đông,
dân cư phân bố không đều, trình độ dân trí khá, kết cấu hạ tầng thấp, kinh tế
phát triển chưa đồng đều giữa các vùng. Thu nhập bình quân đầu người còn
thấp, tỷ lệ hộ đói nghèo của Huyện khá cao.
Trong nhiều năm liên tục, huyện Chương Mỹ đã tích cực thực hiện
chương trình XĐ, GN và thu được một số kết quả đáng kể, tỷ lệ hộ nghèo và
quá nghèo trong cả giai đoạn 2000-2008 giảm, số hộ nghèo theo tiêu chí cũ
còn 4,8%, giảm 9,7% so với cuối năm 1999. Tuy nhiên, kết quả giảm nghèo
chưa thật vững chắc, nguy cơ tái nghèo khá cao. Còn những hạn chế đó là do
việc thực hiện chương trình XĐ, GN ở các địa bàn không đều, nhận thức ý
nghĩa tầm quan trọng của chương trình XĐ, GN của các cấp lãnh đạo và
người dân còn chưa đầy đủ. Thực tế đó đặt cho huyện Chương Mỹ nhiệm vụ
tiếp tục đẩy mạnh và nâng cao chất lượng thực hiện chương trình XĐ, GN
trong thời gian tới. Hiện nay huyện Chương Mỹ đang trong quá trình phát triển
kinh tế-xã hội theo hướng công nghiệp hóa, hiện đại hóa, do đó sẽ xuất hiện
3


nhiều vấn đề bức thiết cần được giải quyết một cách hiệu quả. Nhằm đạt được
những mục tiêu nhất định trong phát triển kinh tế-xã hội, Huyện nhận thức rõ
việc thực hiện tốt XĐ, GN là một trong những nhiệm vụ trọng tâm, góp phần
bảo đảm cho sự phát triển nhanh và mạnh mẽ của nền kinh tế, thúc đẩy phát triển

đời sống nhân dân, giữ vững ổn định chính trị-xã hội.
Từ quá trình phát triển kinh tế-xã hội gắn với nhiệm vụ XĐ, GN trên địa
bàn huyện Chương Mỹ đã đặt ra vấn đề cần phải tổng kết thực tiễn lãnh đạo, chỉ
đạo để thấy được những thành tựu, hạn chế qua đó vạch ra những nguyên nhân,
rút ra được những kinh nghiệm quý báu trong công tác XĐ, GN nhằm đánh giá
đúng và vận dụng trong những năm tiếp theo để bảo đảm thực hiện phát triển
kinh tế-xã hội nhanh, bền vững, góp phần cải thiện và nâng cao đời sống nhân
dân. Từ những lý do đó, tác giả chọn đề tài “Đảng bộ huyện Chương Mỹ,
tỉnh Hà Tây lãnh đạo xóa đói, giảm nghèo từ năm 2000 đến năm 2008” làm
luận văn thạc sĩ lịch sử, chuyên ngành Lịch sử Đảng Cộng sản Việt Nam.
2. Tình hình nghiên cứu có liên quan đến đề tài
XĐ, GN là một trong những chủ trương, chính sách lớn của Đảng, Nhà
nước trong thời kỳ đổi mới. Vì thế, XĐ, GN đã trở thành đối tượng nghiên
cứu của nhiều nhà khoa học, với nhiều công trình nghiên cứu, đề cập dưới
nhiều góc độ khác nhau.
Nhóm các công trình khoa học nghiên cứu về XĐ, GN trên bình diện
cả nước
Nguyễn Thị Hằng, “Xóa đói, giảm nghèo – từ phong trào cơ sở đến
chương trình quốc gia”, Tạp chí Cộng sản (số 22) năm 1998; Báo cáo phát
triển của Việt Nam: Tấn công nghèo đói, Báo cáo chung của nhóm công tác
chuyên gia Chính phủ - Nhà tài trợ - Tổ chức phi Chính phủ, Hội nghị nhóm
tư vấn các nhà tài trợ Việt Nam, 14-15/12-1999; Lê Xuân Bá, Chu Tiến
Quang, Nguyễn Hữu Tiến, Lê Xuân Đình, Nghèo đói và xóa đói, giảm nghèo
ở Việt Nam, Nxb Nông nghiệp, Hà Nội, 2001; Nguyễn Trọng Xuân, Quân đội
4


tham gia xóa đói, giảm nghèo ở Việt Nam trong giai đoạn hiện nay, Luận án
Tiến sĩ Kinh tế chính trị, Học viện Chính trị quân sự, Hà Nội, 2003; Hoàng
Xuân Thuận, Quản lý Nhà nước về khoa học công nghệ ở vùng dân tộc miền

núi, Nxb Văn hoá Dân tộc, Hà Nội, 2004; Nguyễn Thị Vi, “Thành công và
thách thức trong công cuộc xóa đói, giảm nghèo ở nước ta hiện nay”, Tạp chí
Cộng sản (số 21) năm 2005; Phạm Văn Khôi, “Nhận diện đói nghèo theo tiêu
chí mới ở Việt Nam”, Tạp chí Kinh tế & phát triển, (số 111) năm 2006; Phan
Đức Kiên, “Kết hợp tăng trưởng kinh tế với tiến bộ và công bằng xã hội trong
20 năm đổi mới”, Tạp chí Lịch sử Đảng (số 12) năm 2007; Lê Quang Phi,
Đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa nông nghiệp nông thôn trong thời
kỳ mới, Nxb CTQG, Hà Nội 2007; Nguyễn Tiệp, “Giải pháp thúc đẩy thực
hiện chính sách xóa đói, giảm nghèo”, Tạp chí Nghiên cứu kinh tế (số 357)
năm 2008; Trần Nguyễn Tuyên, “ Nông nghiệp, nông thôn và nông dân
Việt Nam trong bối cảnh hội nhập kinh tế quốc tế”, Tạp chí Lịch sử Đảng
(số 7) năm 2008; Nhữ Quang Thịnh, Đảng Cộng sản Việt Nam lãnh đạo
giải quyết việc làm ở nông thôn từ năm 1996 đến năm 2006, Luận văn
thạc sĩ lịch sử, Học viện Chính trị quân sự, Hà Nội, 2008; Nguyễn Các
“Chính sách đối với nông dân, thực trạng và một số vấn đề đặt ra”, Tạp chí Lý
luận chính trị (số 4) năm 2009; Trịnh Thị Hiền, Đảng Cộng sản Việt Nam
lãnh đạo xóa đói, giảm nghèo ở khu vực nông thôn từ năm 1996 đến năm
2006, Luận văn thạc sĩ Lịch sử, Học viện Chính trị quân sự, Hà Nội, 2009;
Nguyễn Thị Kim Ngân, “Bước ngoặt mới trong nỗ lực xóa đói, giảm
nghèo” Tạp chí Cộng sản (số 821) năm 2011; Nguyễn Trọng Đàm, “An
sinh xã hội ở Việt Nam: những quan điểm và cách tiếp cận thống nhất”,
Tạp chí Cộng sản (số 834) năm 2012.
Nội dung các công trình khoa học trên khẳng định chủ trương XĐ, GN
đúng đắn, hợp lòng dân của Đảng, Nhà nước đã tạo nên phong trào XĐ, GN
lan rộng trong cả nước, đạt được những kết quả đáng khích lệ. Quá trình XĐ,
5


GN đã phản ánh sự quan tâm lãnh đạo, chỉ đạo sâu sát của Đảng bộ và chính
quyền địa phương trong chuyển đổi cơ cấu kinh tế, cơ cấu lao động, giải

quyết việc làm, phát triển làng nghề. Các ban chỉ đạo XĐ, GN và cán bộ làm
công tác XĐ, GN ở các địa phương đã nêu cao tinh thần trách nhiệm, phát
huy tốt vai trò tham mưu cho các cấp ủy chính quyền địa phương trong việc
đề ra những chủ trương, biện pháp XĐ, GN phù hợp với lợi thế từng địa
bàn ...Tuy nhiên, các bài viết cũng đã chỉ ra những khuyết điểm trong công
tác XĐ, GN như việc chạy theo thành tích mà không chú ý đến tính bền vững
của công cuộc XĐ, GN, vì vậy hộ cận nghèo còn nhiều nên chỉ gặp phải
những rủi ro nhỏ là lại rớt xuống hộ nghèo. Đặc biệt trong nhận thức của
người nghèo và cán bộ làm công tác XĐ, GN ở cấp cơ sở (xã, phường, thị
trấn) chưa có sự chuyển biến rõ nét. Biểu hiện là thiếu dân chủ trong bình xét
hộ nghèo hay còn trông chờ, dựa dẫm vào sự trợ cấp của chính quyền Nhà
nước mà không có nội lực vươn lên để thoát nghèo. Từ những thành tựu và
hạn chế được rút ra trong quá trình nghiên cứu, các công trình khoa học cũng
đã đưa ra những kinh nghiệm trong XĐ, GN, tuy nhiên, kinh nghiệm đó
không phải là mẫu số chung cho các địa phương áp dụng mà chỉ có tính chất
tham khảo để vận dụng phù hợp. Đây cũng là nguồn tư liệu quý cho tác giả kế
thừa trong quá trình nghiên cứu.
Nhóm các công trình khoa học nghiên cứu về quá trình XĐ, GN của
các địa phương
Hoàng Thị Hiền, Xóa đói, giảm nghèo với đồng bào dân tộc ít người
tỉnh Hoà Bình - Thực trạng và giải pháp, Luận văn thạc sĩ kinh tế, Học viện
Chính trị Quốc gia Hồ Chí Minh, Hà Nội; Nguyễn Hoàng Lý, Xóa đói, giảm
nghèo ở tỉnh Gia Lai - Thực trạng và giải pháp, Luận văn thạc sĩ kinh tế, Học
viện Chính trị Quốc gia, Hà Nội; Thanh Hùng, “Xóa đói, giảm nghèo ở vùng
Bắc Trung Bộ ”, Tạp chí Cộng sản (số 5) năm 2006; Nguyễn Thị Thanh Vân,
“Đảng bộ tỉnh Bình Dương lãnh đạo phát triển kinh tế bền vững gắn với bảo
6


đảm an sinh xã hội”, Tạp chí Lịch sử Đảng (số 1) năm 2008 ; Võ Văn Dũng,

“Bạc Liêu với những giải pháp vượt khó, giảm nghèo”, Tạp chí Cộng sản (số
824) năm 2011; Lê Vĩnh Tân, “Những giải pháp chủ yếu thúc đẩy mô hình
nông thôn mới trên địa bàn tỉnh Đồng Tháp”, Tạp chí Cộng sản (số 824) năm
2011; Thảo Linh, “Chính sách phát triển nông thôn trên thế giới và kinh
nghiệm cho xây dựng nông thôn mới ở Việt Nam”, Tạp chí Cộng sản chuyên
đề cơ sở (số 57) năm 2011; Vũ Bình Tuyển, Đảng bộ tỉnh Thái Bình lãnh đạo
xóa đói, giảm nghèo từ năm 2001 đến năm 2010, Luận văn thạc sĩ Lịch sử,
Học viện Chính trị, Hà Nội, 2014.
Hầu hết các công trình khoa học này đã nghiên cứu rất sâu sắc những
đặc điểm của từng địa phương, từ vị trí địa lý, lợi thế trong phát triển kinh tế,
những vấn đề do lịch sử để lại liên quan trực tiếp và gián tiếp đến XĐ, GN.
Nhìn chung các công trình nghiên cứu đã đề cập đến nhiều khía cạnh của vấn
đề XĐ, GN. Thực trạng nghèo đói trên thế giới và Việt Nam cũng như nguyên
nhân của nghèo đói, sự nghiệp XĐ, GN trên toàn quốc, ở cấp tỉnh và một số
huyện, kinh nghiệm XĐ, GN thành công cũng như chưa thành công. Đây là
những tư liệu khoa học quý sẽ được tiếp thu có chọn lọc trong quá trình viết
luận văn của tác giả.
Những công trình khoa học nêu trên đã đề cập nhiều khía cạnh khác
nhau về cả lý luận và thực tiễn trong quá trình lãnh đạo và thực hiện XĐ, GN
ở Việt Nam. Nhưng hiện nay chưa có công trình khoa học nào nghiên cứu một
cách độc lập, có tính hệ thống về quá trình Đảng bộ huyện Chương Mỹ lãnh
đạo XĐ, GN từ năm 2000 đến năm 2008. Vì vậy đề tài của tác giả là hoàn
toàn mới, không trùng lặp với các công trình đã công bố.
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
* Mục đích nghiên cứu:
Làm rõ quá trình Đảng bộ huyện Chương Mỹ lãnh đạo XĐ, GN từ năm
2000 đến năm 2008; trên cơ sở đó nêu lên nhận xét và rút ra một số kinh
7



nghiệm từ sự lãnh đạo XĐ, GN của Đảng bộ huyện Chương Mỹ từ năm 2000
đến năm 2008 để tham khảo, vận dụng trong thời kỳ tiếp theo.
* Nhiệm vụ nghiên cứu:
- Làm rõ yêu cầu khách quan XĐ, GN ở huyện Chương Mỹ trong
những năm 2000-2008.
- Phân tích, luận giải chủ trương, sự chỉ đạo XĐ, GN của Đảng bộ
huyện Chương Mỹ từ năm 2000 đến năm 2008.
- Nhận xét và rút ra một số kinh nghiệm chủ yếu từ quá trình Đảng bộ
huyện Chương Mỹ lãnh đạo XĐ, GN trong những năm 2000-2008.
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
* Đối tượng nghiên cứu:
Nghiên cứu hoạt động lãnh đạo của Đảng bộ huyện Chương Mỹ về
XĐ, GN.
* Phạm vi nghiên cứu:
- Về nội dung: Đề tài nghiên cứu chủ trương và sự chỉ đạo của Đảng bộ
huyện Chương Mỹ về XĐ, GN.
- Về thời gian: Từ năm 2000 đến năm 2008. Tuy nhiên, đề tài có đề cập
đến trước và sau khoảng thời gian trên để làm rõ các vấn đề nghiên cứu.
- Về không gian: Trên địa bàn huyện Chương Mỹ. Tuy nhiên, đề tài có
đề cập đến các địa phương khác để so sánh nhằm làm nổi bật những vấn đề
nghiên cứu.
5. Phương pháp luận và phương pháp nghiên cứu của đề tài
* Phương pháp luận:
Đề tài dựa trên cơ sở phương pháp luận duy vật biện chứng và duy vật
lịch sử của chủ nghĩa Mác – Lênin, đồng thời dựa trên phương pháp luận sử
học Mácxít.
* Phương pháp nghiên cứu:
Luận văn chủ yếu sử dụng phương pháp lịch sử, phương pháp lôgic.
Ngoài ra, luận văn còn sử dụng các phương pháp khác như: phương pháp lịch
8



đại, đồng đại, so sánh, thống kê, phân tích, tổng hợp để làm sáng tỏ nội dung
của luận văn.
6. Ý nghĩa của đề tài
- Luận văn góp phần làm sáng tỏ chủ trương, sự chỉ đạo của Đảng bộ
huyện Chương Mỹ về XĐ, GN từ năm 2000 đến năm 2008.
- Góp phần tổng kết những thành công, hạn chế trong thực hiện XĐ,
GN của Đảng bộ huyện Chương Mỹ những năm 2000-2008 .
- Luận văn có thể sử dụng làm tài liệu tham khảo trong nghiên cứu,
giảng dạy ở các Học viện, nhà trường trong và ngoài Quân đội.
7. Kết cấu của đề tài
Ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo và phụ lục,
nội dung của luận văn gồm 2 chương, 4 tiết.

9


Chương 1
CHỦ TRƯƠNG VÀ SỰ CHỈ ĐẠO CỦA ĐẢNG BỘ HUYỆN CHƯƠNG MỸ
VỀ XÓA ĐÓI, GIẢM NGHÈO TỪ NĂM 2000 ĐẾN NĂM 2008

1.1. Những yếu tố tác động và chủ trương của Đảng bộ huyện
Chương Mỹ về xóa đói, giảm nghèo (2000-2008)
1.1.1. Những yếu tố tác động đến hoạt động lãnh đạo xóa đói, giảm
nghèo của Đảng bộ huyện Chương Mỹ (2000-2008)
* Điều kiện tự nhiên, kinh tế - xã hội
Về tự nhiên:
Vị trí địa lý: Chương Mỹ là một Huyện nằm ở phía Tây Nam tỉnh Hà
Tây. Phía Bắc giáp huyện Quốc Oai; phía Đông giáp với quận Hà Đông,

huyện Thanh Oai; phía Nam giáp huyện Ứng Hòa, Mỹ Đức; phía Tây giáp
với huyện Lương Sơn (tỉnh Hoà Bình). Tổng diện tích tự nhiên của Huyện là
232,94 km2, là Huyện có diện tích lớn thứ 2 của tỉnh Hà Tây. Dân số trên
278.000 người. Toàn Huyện có 32 đơn vị hành chính cấp xã gồm 30 xã và 2
thị trấn (trước năm 2003 huyện Chương Mỹ có 33 xã, thị trấn). Mật độ dân số
trung bình 1.211 người/km2. Toàn Huyện có trên 60.000 hộ dân; người dân
tộc Kinh chiếm đại đa số, dân tộc Mường có 01 thôn Đồng Ké (thuộc xã Trần
Phú) với 123 hộ dân, 471 nhân khẩu; ngoài ra còn có một số dân tộc thiểu số
khác ở rải rác tại các xã, thị trấn...
Địa hình: được chia làm 3 vùng rõ rệt: vùng Đồi gò, vùng “Núi sót” và
vùng đồng bằng với hệ thống sông Bùi - sông Tích phía Tây, sông Đáy bao
bọc phía Đông Huyện đã tạo tiền đề cho sự phát triển nông nghiệp trồng lúa
nước ở vùng này từ rất sớm. Đồng thời kết hợp với hệ thống đồi núi, sông hồ,
đồng ruộng tạo nên những cảnh quan thiên nhiên kỳ thú, thơ mộng và đầy ắp
những huyền thoại: Quần thể di tích lịch sử văn hóa, danh lam thắng cảnh
thuộc các xã Phụng Châu, Tiên Phương, Ngọc Hoà, Hoàng Văn Thụ, Thủy
Xuân Tiên… dải núi rừng và hồ phía Tây của Huyện vừa là cảnh quan đẹp
vừa là tuyến phòng thủ tự nhiên vững chắc về phía Tây Nam của Tỉnh.

10


Khí hậu: Chương Mỹ nằm trong vùng khí hậu khí hậu cận nhiệt đới ẩm,
mùa hè nóng, mưa nhiều và mùa đông lạnh, ít mưa về đầu mùa và có mưa
phùn về nửa cuối mùa. Mùa nóng kéo dài từ tháng 5 tới tháng 9, kèm theo
mưa nhiều, nhiệt độ trung bình 28,1 °C. Từ tháng 11 tới tháng 3 năm sau là
mùa đông với nhiệt độ trung bình 18,6 °C.
Về kinh tế:
Cơ cấu kinh tế: nông, lâm, thủy sản, công nghiệp - xây dựng, thương
mại - dịch vụ năm 2005 là 36,4%, 30,3%, 33,3% nhịp độ tăng trưởng giai

đoạn 2000-2005 bình quân 11,2%. Là Huyện có tốc độ tăng trưởng khá.
Nông nghiệp: là ngành kinh tế trọng yếu của Huyện gồm trồng trọt,
chăn nuôi, nuôi trồng đánh bắt thủy sản. Cơ cấu kinh tế trong nông nghiệp có
bước chuyển biến tích cực, tỷ lệ trồng trọt 52,2%, chăn nuôi 47,8%.
Công nghiệp: tốc độ tăng trưởng khá, bình quân 21,1% năm. Các thành
phần kinh tế có bước chuyển dịch mạnh cả về số lượng, chất lượng và quy
mô. Đã có 138 doanh nghiệp, công ty trách nhiệm hữu hạn, công ty cổ phần
và tổ hợp sản xuất hoạt động sản xuất kinh doanh góp phần tăng thu cho ngân
sách Nhà nước hàng chục tỷ đồng và giải quyết việc làm cho trên 9.000 lao
động. Từ năm 2001 đến năm 2005 đã mở được 95 lớp cho 4.580 lượt lao
động ở 30 xã, thị trấn, với tổng kinh phí đầu tư trên 1 tỷ đồng, tạo điều kiện
chuyển trên 10.000 hộ sang sản xuất công nghiệp, tiểu thủ công nghiệp, thu
hút giải quyết việc làm cho trên 50.000 lao động [65, tr.3]. Toàn Huyện có 02
xã có 100% số làng được công nhận làng nghề, 32/32 xã, thị trấn có ngành
nghề, 70% số làng có nghề, trong đó 20 làng được công nhận làng nghề.
Dịch vụ: đã hình thành một số khu du lịch nghỉ cuối tuần ở cụm núi
Ninh, chùa Trầm, chùa Trăm gian, chùa Hỏa Tinh. Phát triển và nâng cấp các

11


trung tâm dịch vụ thương mại ở: Xuân Mai, Chúc Sơn, Miếu Môn, Quảng Bị,
Đông Phương Yên. Đã xây dựng cho mỗi xã có ít nhất 01 điểm dịch vụ
thương mại, hoặc 01 chợ nông thôn. Các hoạt động của ngành vận tải, điện,
bưu điện, tài chính, ngân hàng, kho bạc có nhiều cố gắng, từng bước đáp ứng
được nhu cầu của nhân dân.
Về xã hội:
Dân số: tính đến năm 2005, toàn Huyện có 278.300 người, mật độ dân
số trung bình 1.211 người/km 2. Tuổi thọ trung bình người dân đạt 70 tuổi. Tỉ
lệ trẻ em suy dinh dưỡng giảm từ 32% năm 2000 xuống còn 18% năm 2005

[65, tr.6]. Dân cư phân bố không đều. Dân tộc Kinh chiếm hơn 90% dân số.
Giáo dục đào tạo: quy mô giáo dục và đào tạo tiếp tục được mở rộng,
chất lượng giáo dục toàn diện được nâng lên, cơ sở vật chất được tăng cường.
Năm 2005, toàn Huyện có 87/117 trường (74%) trong tổng số các trường mầm
non, tiểu học, trung học cơ sở, trung học phổ thông được xây dựng kiên cố và
cao tầng, coi trọng xã hội hóa giáo dục, khuyến học nhằm nâng cao chất lượng
dạy và học, chăm lo bồi dưỡng đội ngũ giáo viên và cán bộ quản lý. Đến năm
2005 có 98,8% số giáo viên tiểu học và 99,2% số giáo viên trung học cơ sơ đạt
chuẩn, 69% số giáo viên vượt chuẩn [65]. Số trường đạt chuẩn quốc gia là 14
trường, chiếm 17,7% tổng số trường trong Huyện.
Chăm sóc sức khỏe nhân dân: công tác y tế và chăm sóc sức khỏe nhân
dân được chú trọng. Hệ thống y tế không ngừng được củng cố và phát triển,
cơ sở vật chất, trang thiết bị y tế, nhân lực được tăng cường. Thực hiện đạt và
vượt các chỉ tiêu về các chương trình y tế quốc gia, y tế dự phòng; 100% trạm
y tế xã, thị trấn có bác sĩ; 227/229 thôn, xóm (99%) có nhân viên y tế hoạt
động; tỷ lệ sinh là 1,5%. Tỷ lệ trẻ em suy dinh dưỡng năm 2005 còn 18%
(giảm 14% so với năm 2000), 6/32 trạm y tế đạt chuẩn quốc gia (chiếm 19%) [65].

12


Với những tiềm năng, lợi thế về tự nhiên, kinh tế, xã hội đã tạo điều
kiện cho huyện Chương Mỹ phát huy thế mạnh, khắc phục những khó khăn,
nỗ lực vươn lên để phát triển kinh tế, văn hóa, xã hội góp phần thực hiện
thắng lợi công cuộc XĐ, GN.
Truyền thống đoàn kết, tương thân, tương ái: Huyện Chương Mỹ là
đơn vị giàu truyền thống cách mạng, toàn Đảng bộ luôn đoàn kết, thống nhất
khắc phục mọi khó khăn, thử thách hoàn thành tốt mọi kế hoạch đề ra.
* Thực trạng đói nghèo ở huyện Chương Mỹ trước năm 2000
- Một số khái niệm về đói nghèo và xóa đói, giảm nghèo

Nghèo, là tình trạng một bộ phận dân cư có mức sống tối thiểu không
thỏa mãn nhu cầu về ăn, mặc, ở, y tế, giáo dục, đi lại, giao tiếp...Đó là một bộ
phận dân cư có mức sống thấp hơn mức sống tối thiểu, không đảm bảo nhu
cầu vật chất để duy trì cuộc sống.
+ Nghèo đói, là tình trạng một bộ phận không được hưởng và thỏa mãn
những nhu cầu con người đã được xã hội thừa nhận tùy theo trình độ phát
triển kinh tế - xã hội và phong tục, tập quán của địa phương.
+ Chuẩn đói nghèo: ở các quốc gia khác nhau đã có các chỉ tiêu khác
nhau đánh giá mức độ giàu nghèo. Việt Nam đưa ra chuẩn đói nghèo, nhưng
ở mỗi giai đoạn có chuẩn khác nhau:
Chuẩn nghèo giai đoạn 1993-1995: Hộ nghèo là hộ có thu nhập bình
quân đầu người quy theo gạo/tháng: dưới 20 kg đối với thành thị, dưới 15 kg
đối với khu vực nông thôn.
Chuẩn nghèo giai đoạn 1996-1997: Vùng nông thôn miền núi, hải đảo:
dưới 15 kg; Vùng nông thôn, đồng bằng, trung du: dưới 20 kg; Vùng thành
thị: dưới 25 kg.
Chuẩn nghèo giai đoạn 1998-2000: Vùng nông thôn miền núi, hải đảo:
dưới 15 kg (tương đương 55 ngàn đồng); Vùng nông thôn, đồng bằng, trung

13


du: dưới 20 kg (tương đương 70 ngàn đồng); Vùng thành thị: dưới 25 kg
(tương đương 90 ngàn đồng).
Chuẩn nghèo giai đoạn 2001-2005: Vùng nông thôn miền núi, hảo đảo:
80.000 đồng/người/tháng; Vùng nông thôn đồng bằng: 100.000
đồng/người/tháng; Vùng thành thị: 150.000 đồng/người/tháng.
Giai đoạn 2006-2010 chuẩn đói nghèo được chia làm hai khu vực thành
thị và nông thôn. Ở nông thôn hộ có thu nhập thấp hơn 200.000 đồng/ người/
tháng; ở thành thị hộ có thu nhập thấp hơn 260.000 đồng/người/tháng.

- Ưu điểm
Thứ nhất, Đảng bộ Huyện đã nhận thức đúng về tình trạng thực tiễn của
địa phương và sớm có chủ trương XĐ, GN
XĐ, GN là một trong những chủ trương lớn của Đảng và Nhà nước ta
nhằm cải thiện đời sống vật chất và tinh thần cho người nghèo, thu hẹp
khoảng cách về trình độ phát triển giữa các vùng, địa bàn và giữa các dân tộc,
nhóm dân cư. Với huyện Chương Mỹ, nhận thức rõ thực trạng đời sống xã hội
còn ở mức khá thấp, kinh tế chưa phát triển, còn có tới 22/33 xã khó khăn nên
chương trình XĐ, GN đã được Huyện xây dựng, triển khai từ năm 1996. Đến
năm 2000 toàn Huyện còn gần 3.000 hộ đói, nghèo chiếm 5% so với tổng số
hộ toàn Huyện (năm 1995 là 12%), trong đó, số hộ đói chiếm 1%, giảm 80%
so với năm 1995 [62, tr.8]. Người dân đã có nhận thức bước đầu về chuyển
dịch cơ cấu cây trồng vật nuôi, về sản xuất hàng hóa. Đồng thời qua thực hiện
chương trình XĐ, GN, sự lãnh đạo của các cấp ủy Đảng, điều hành của chính
quyền và vai trò của các tổ chức đoàn thể có sự đổi mới, gắn bó hơn với cơ
sở, với nhân dân.
Thứ hai, triển khai thực hiện các chương trình XĐ, GN đã thu được một
số kết quả khích lệ
Về giải quyết việc làm, trong 5 năm (1996-2000) đã giải quyết cho trên
40% lao động có thêm việc làm. Cho vay giải quyết việc làm 112 dự án với

14


8,44 tỷ đồng thu hút trên 6.000 lao động [62, tr.8]. Những kết quả đó đã góp
phần vào tăng trưởng kinh tế bền vững và thực hiện công bằng xã hội trên địa
bàn của Huyện.
Trong 5 năm (1995-1999) đã thanh toán 100% nhà dột nát của các đối
tượng chính sách, các đối tượng chính sách đã có mức sống bằng hoặc cao
hơn mức sống trung bình ở địa phương. Xây dựng được 97 nhà tình nghĩa;

tặng 1.400 sổ tiết kiệm trị giá 231,4 triệu đồng, lập Quỹ đền ơn đáp nghĩa
được 420 triệu đồng [62, tr.8].
Thứ ba, có nhiều giải pháp nhằm phát triển sản xuất nông nghiệp, từng
bước nâng giá trị sản xuất nông nghiệp.
Chương Mỹ là Huyện thuần nông, công nghiệp và dịch vụ còn chưa
phát triển đúng với tiềm năng do vậy Huyện ủy và Ủy ban nhân dân luôn
quan tâm đến công tác phát triển sản xuất nông nghiệp, trong đó chú trọng
việc giao đất cho nông dân, nông hộ. Huyện Chương Mỹ đã thực hiện có hiệu
quả Kết luận số 41 của Tỉnh ủy, Nghị định số 64 ngày 27 tháng 9 năm 1993
của Chính phủ, 87% diện tích đất nông nghiệp đã được giao đến hộ nông dân,
đất đai đã có chủ sử dụng đích thực. Đồng thời quan tâm chuyển đổi cơ cấu
cây trồng, vật nuôi, ứng dụng tiến bộ khoa học kỹ thuật vào sản xuất, coi
trọng công tác khuyến nông, quan tâm đầu tư công tác thủy lợi, đã đầu tư xây
dựng, nâng cấp 10 trạm bơm tiêu: An Vọng, Nhân Lý, Phụng Châu, Mỹ
Thượng, Mỹ Hạ, Hồng Phong, Đồng Lạc, Văn Võ, Phú Nam An, Đông Sơn.
Huyện luôn chú trọng đầu tư hàng tỷ đồng để cải tạo đất, tăng nguồn
phân bón, do vậy tổng sản lượng lương thực đã vượt 9,2% so với mục tiêu
Đại hội lần thứ XVII (1991-1996) xác định. Bình quân lương thực đầu người
năm 1990 là 265kg, thì đến năm 1995 là 322kg. Giá trị sản xuất 1 ha canh tác
bình quân đạt trên 12 triệu đồng, tăng 63% so với năm 1990 [59].
Thứ tư, chú trọng phát triển cơ sở hạ tầng kinh tế - xã hội, không ngừng
nâng cao đời sống vật chất, tinh thần và chăm sóc sức khỏe nhân dân
15


Đời sống kinh tế phát triển là một cơ sở quan trọng để củng cố và phát
triển hệ thống cơ sở vật chất hạ tầng và ngược lại cơ sở vật chất là điều kiện
thúc đẩy nhanh hơn quá trình phát triển của xã hội. Bên cạnh nguồn lực của
Nhà nước và nhân dân, huyện Chương Mỹ chủ động trong tranh thủ mọi
nguồn vốn hỗ trợ trong và ngoài tỉnh để xây dựng cơ sở vật chất. Công tác

chăm sóc, nâng cao sức khỏe cho nhân dân luôn được quan tâm. Hằng năm,
đều tăng cường củng cố, ổn định tổ chức, chăm lo đào tạo đội ngũ cán bộ,
chuyên môn. Phát triển công tác bảo hiểm y tế. Cơ sở vật chất y tế được củng
cố, tăng cường về nhiều mặt, 95% số xã có trang thiết bị y cụ, đủ điều kiện
bảo đảm cho nhiệm vụ phòng và chữa bệnh. Công trình nước sạch và vệ sinh
môi trường được triển khai và được nhân dân nhiệt tình hưởng ứng.
Công tác kế hoạch hóa gia đình được coi trọng, vì đây là một nhiệm vụ
thường xuyên liên tục đảm bảo cho việc XĐ, GN đạt được những kết quả tốt.
Gia đình đông con, thiếu việc làm, đồng thời tỷ lệ sinh tăng lên là một khó
khăn rất lớn đối với người dân, chính quyền và xã hội. Đến năm 1999 tỷ lệ
tăng dân số tự nhiên là 1,2% (năm 1995 là 1,85%). Tỷ lệ sinh con thứ ba là
13,8%, giảm gần 14% so với năm 1994 [57, tr.299].
Quan tâm xây dựng gia đình, làng xã văn hóa, gắn xây dựng nếp sống
văn hóa mới với xây dựng nông thôn mới. Nhiều địa phương đã xây dựng
quy ước làng văn hóa (có 75 làng), trên 22.000 gia đình được công nhận là
gia đình văn hóa, chiếm 44,8% số hộ. Có 34 di tích lịch sử, văn hóa được
xếp hạng [62, tr.9].
Nguyên nhân đạt được những thành tựu bước đầu về xóa đói, giảm
nghèo của Huyện là do Đảng có chủ trương, Đảng bộ tỉnh Hà Tây chỉ đạo
quyết liệt công tác xóa đói, giảm nghèo... Về chủ quan, Đảng bộ Huyện quán
triệt thực hiện nghiêm túc, đề ra chủ trương, giải pháp phù hợp với điều kiện
cụ thể của địa phương; nhân dân trong Huyện có quyết tâm vươn lên thoát
khỏi nghèo, đói bằng những phong trào cụ thể, thiết thực.
16


- Hạn chế, khuyết điểm
Tuy nhiên, bên cạnh những kết quả đạt được trong nhiệm vụ XĐ, GN của
toàn Huyện trong những năm 1995-1999 cũng còn những mặt chưa đạt yêu cầu.
Thứ nhất, tăng trưởng kinh tế thiếu bền vững, chuyển dịch cơ cấu kinh

tế chậm, chất lượng của các đề án quy hoạch phát triển, phân bố lực lượng sản
xuất, bố trí lại dân cư, xây dựng cơ sở hạ tầng của Huyện không cao (không
cụ thế, thiếu căn cứ khoa học và giải pháp thực hiện) cùng với việc điều hành
thực hiện quy hoạch chưa tốt, lãng phí trong đầu tư, hiệu quả đầu tư không
cao. Chuyển dịch cơ cấu kinh tế và cơ cấu sản xuất tuy có nhiều chuyển biến
song vẫn còn chậm, năng lực cạnh tranh của nền kinh tế còn yếu... Do vậy,
khả năng giải quyết các mục tiêu tăng trưởng bền vững và huy động các
nguồn lực cho XĐ, GN còn hạn chế.
Thứ hai, công tác tuyên truyền, giáo dục, vận động về XĐ, GN thực
hiện chưa quyết liệt và thường xuyên, nhiều thông tin chưa đến được với
người dân. Nhận thức về trách nhiệm của các cấp chính quyền ở cơ sở chưa
đầy đủ nên nhiều vấn đề nảy sinh trong quá trình thực hiện các chính sách của
Đảng và Nhà nước đối với các đối tượng nghèo.
Thứ ba, đội ngũ cán bộ làm công tác xóa đói, giảm nghèo chưa được
xem trọng, bố trí cán bộ không đủ tầm, trình độ năng lực yếu, phần lớn cán bộ
xã - thị trấn được phân công kiêm nhiệm nhiều việc trong khi chủ yếu các
hoạt động của chương trình XĐ, GN được triển khai tại đây.
Thứ tư, đại đa số hộ nghèo có trình độ học vấn thấp, ý thức học nghề
chưa cao, do đó việc tổ chức dạy nghề và chuyển giao các công nghệ, hướng
dẫn cách làm ăn gặp rất nhiều khó khăn. Còn một bộ phận người nghèo chưa
có ý thức tiết kiệm, ỷ lại hoặc mặc cho số phận, thiếu ý chí tự lực vươn lên
Nhiều hộ nghèo thiếu kiến thức và kinh nghiệm làm ăn, khi được hỗ trợ vay
vốn thì không biết phát huy hiệu quả của đồng vốn, dẫn đến không hoàn được
nợ. Một bộ phận hộ nghèo khác không dám vay vốn, vì không biết sử dụng
đồng vốn vào mục tiêu sản xuất, kinh doanh để XĐ, GN.
17


Thứ năm, kết quả giảm tỷ lệ hộ đói, nghèo còn chưa đạt mục tiêu đề ra.
Tính đến đầu năm 2000 huyện Chương Mỹ còn khoảng 5% số hộ đói nghèo

(gần 3000 hộ), trong đó số hộ đói chiếm 1%. Trong khi đó, Nghị quyết Đại
hội Đảng bộ huyện Chương Mỹ lần thứ XIX (1996-2000) xác định là phấn
đấu đến năm 1997 không còn hộ đói [59, tr.45].
Nguyên nhân là do: trong quá trình lãnh đạo, chỉ đạo thiếu sâu sát,
buông lỏng quản lý trong kinh tế, quản lý đất đai của một số địa phương; hạn
chế trong nhận thức của tổ chức cơ sở đảng, chính quyền các cấp và người
dân về chương trình XĐ, GN; có nhiều chính sách hỗ trợ trực tiếp đối với hộ
nghèo nên chưa tạo được ý thức chủ động của các cấp và người dân; các hoạt
động truyền thông XĐ, GN còn hạn chế nên người dân chưa có nhận thức
đúng nhu cầu trong việc thực hiện mục tiêu giảm nghèo; một bộ phận không
nhỏ người nghèo, xã nghèo vẫn còn tư tưởng ỷ lại, trông chờ vào sự hỗ trợ
của Nhà nước, chưa chủ động vươn lên thoát nghèo. Mặt khác, bệnh thành
tích đã khiến một số địa phương khống chế tỷ lệ nghèo thấp hơn so với thực
tế, dẫn đến một số người nghèo chưa tiếp cận được các chính sách, gây ra
những hiểu biết sai lệch về chính sách của Nhà nước.
Đánh giá đúng thực tế tình hình đói, nghèo trên địa bàn Huyện để từ đó
Huyện ủy, HĐND, UBND huyện Chương Mỹ có những đánh giá đúng đắn về
thực trạng và nguyên nhân dẫn đến đói, nghèo đề ra những chủ trương, giải
pháp hiệu quả để nhiệm vụ XĐ, GN của Huyện đạt được mục tiêu, yêu cầu
của các kỳ Đại hội Đảng bộ của huyện Chương Mỹ đã xác định.
* Những yếu tố mới tác động đến hoạt động lãnh đạo XĐ, GN của
Đảng bộ huyện Chương Mỹ (2000-2008)
Tác động của tình hình trong nước: Xóa đói, giảm nghèo là chủ trương
lớn của Đảng và Nhà nước ta nhằm cải thiện đời sống vật chất và tinh thần
cho người nghèo, thu hẹp khoảng cách về trình độ phát triển giữa các vùng,

18


địa bàn và giữa các dân tộc, nhóm dân cư. Thành tựu xóa đói, giảm nghèo

trong những năm qua đã góp phần tăng trưởng kinh tế bền vững và thực hiện
công bằng xã hội, được cộng đồng quốc tế đánh giá cao. Theo Báo cáo Phát
triển Việt Nam 2008, số liệu điều tra hộ gia đình năm 2006 khẳng định xu
hướng giảm nghèo ở Việt Nam đang tiếp tục diễn ra, với tỷ lệ hộ gia đình
sống dưới ngưỡng nghèo chỉ còn 16%, so với 28,9% năm 2002, và 58,1%
năm 1993; trong hơn một thập kỷ qua, Việt Nam đã giảm nghèo cho hơn 42%
dân số, tương đương với 35 triệu người. Tuy nhiên, kết quả giảm nghèo chưa
vững chắc, chênh lệch giàu - nghèo giữa các vùng, nhóm dân cư chưa được
thu hẹp, đặc biệt là ở những huyện có tỷ lệ hộ nghèo cao. Trong thời gian này
Chính phủ đã có những chính sách ưu tiên như Chương trình 135, ổn định dân
di cư tự do, chính sách trợ giá, trợ cước, Chương trình 173, Chương trình
186... Những chính sách đó đã giúp người nghèo, người dân tộc xóa đói, giảm
nghèo, lĩnh hội được các thành quả của quá trình phát triển kinh tế, thu hẹp
khoảng cách phát triển giữa các vùng.
Tác động của tình hình trong Tỉnh: Các chương trình giải quyết việc
làm, xóa đói, giảm nghèo, dạy nghề hoạt động hiệu quả, đạt và vượt các chỉ
tiêu đề ra. Tính đến năm 2005 tạo thêm việc làm cho gần 135.500 lao động,
bình quân mỗi năm 27.100 lao động; lao động qua đào tạo nghề đạt 25,4% số
lao động trong độ tuổi; xuất khẩu lao động đi nước ngoài có thời hạn 7.200
người; giảm dần tỷ lệ lao động nông nghiệp đến nay còn 61,7%; tỷ lệ hộ
nghèo giảm bình quân 1,5%/năm, đến năm 2005 còn 2,92% [85, tr.11]. Quan
tâm giải quyết các chính sách xã hội, hầu hết các gia đình chính sách có mức
sống bằng hoặc cao hơn mức sống trung bình ở địa phương. Xóa toàn bộ nhà
ở dột nát cho người nghèo. Cơ bản hoàn thành giải quyết chính sách tồn đọng
sau chiến tranh. Kinh tế của tỉnh Hà Tây từ năm 2000 đến năm 2005 tuy tăng
trưởng khá nhưng còn ở mức thấp so với một số tỉnh trong khu vực. Thu nhập

19



bình quân đầu người còn ở mức thấp hơn so với bình quân chung của cả nước
và bình quân các tỉnh trong vùng kinh tế Bắc Bộ. Cơ cấu kinh tế chuyển dịch
theo hướng công nghiệp hóa, hiện đại hóa diễn ra còn chậm. Hiệu quả hoạt
động của các hợp tác xã nông nghiệp còn thấp, một số hợp tác xã yếu kém
chậm được khắc phục. Quy hoạch, quản lý, sử dụng đất đai còn nhiều mặt yếu
kém, khuyết điểm. Đầu tư cho phát triển ở một số lĩnh vực hiệu quả chưa cao.
Đầu tư xây dựng cơ bản còn dàn trải. Huy động các nguồn vốn cho đầu tư
phát triển các lĩnh vực còn hạn chế. Kết cấu hạ tầng, nhất là giao thông chưa
đáp ứng yêu cầu phục vụ phát triển nhanh và bền vững nền kinh tế; chưa tạo
được nền tảng vững chắc về kinh tế để thúc đẩy nhanh quá trình phát triển ở
giai đoạn tiếp theo. Thực hiện chủ trương xã hội hóa một số lĩnh vực về văn
hóa, giáo dục – đào tạo, y tế, thể dục – thể thao… còn lúng túng và kém hiệu
quả. Tỷ lệ sinh con thứ 3 trở lên tăng.
1.1.2. Chủ trương của Đảng bộ huyện Chương Mỹ về xóa đói, giảm
nghèo (2000-2008)
* Chủ trương, chính sách của Đảng, Nhà nước và Đảng bộ tỉnh Hà
Tây về XĐ, GN
- Chủ trương, chính sách của Đảng và Nhà nước về XĐ, GN
Đảng ta luôn luôn coi trọng nhiệm vụ xóa đói, giảm nghèo trong suốt
quá trình lãnh đạo của mình. Tại Hội nghị Trung ương Đảng lần thứ 5 (khóa
VII) Đảng ta xác định rõ: trợ giúp người nghèo bằng cách cho vay vốn, hướng
dẫn cách cho vay vốn, hướng dẫn cách làm ăn, hình thành quỹ xóa đói giảm
nghèo ở các địa phương trên cơ sở dân giúp dân, Nhà nước giúp dân và tranh
thủ các nguồn tài trợ quốc tế, phấn đấu tăng hộ giàu đi đôi với xóa đói, giảm
nghèo. Hội nghị đã đưa ra tiếp tục đổi mới và phát triển mạnh mẽ kinh tế xã
hội nông thôn. Đối mặt với tình trạng đói nghèo, lạc hậu nhất là ở vùng nông
thôn, do đó phải khuyến khích mọi người làm giàu hợp pháp, đi đôi với xóa
đói giảm nghèo, phấn đấu để mọi gia đình đều khá giả, đủ ăn, thu hẹp diện
20



nghèo, vùng nghèo. Hưởng ứng phong trào xóa đói giảm nghèo từ đó đề ra
những giải pháp phù hợp để xóa đói giảm nghèo, chuyển từ trợ giúp bằng bao
cấp sang giáo dục, thuyết phục, kèm cặp, hỗ trợ để người nghèo cùng cộng
đồng tự chủ vươn lên làm ăn khá giỏi, thực hiện một bước công bằng xã hội.
Để cụ thể hóa Nghị quyết Đại hội Đại biểu toàn quốc lần thứ VIII của
Đảng, Bộ Chính trị đã ra Chỉ thị số 23-CT/TW ngày 29 tháng 11 năm 1997 về
lãnh đạo thực hiện công tác xóa đói, giảm nghèo.
Để triển khai Nghị quyết Đại hội Đại biểu toàn quốc lần thứ VIII của
Đảng, Chính phủ đã đưa ra chương trình mục tiêu quốc gia xóa đói, giảm
nghèo được xác định rõ trong Quyết định số 133/1998/QĐ-TTg, ngày 22
tháng 7 năm 1998 của Thủ tướng Chính phủ. Và sau đó là Quyết định số
135/1998/QĐ-TTg, ngày 3 tháng 7 năm 1998 của Thủ tướng Chính phủ, phê
duyệt chương trình phát triển kinh tế - xã hội của xã đặc biệt khó khăn miền
núi, trong đó có 1000 xã đặc biệt khó khăn; 1715 xã được tập trung giải quyết
trong năm 1999.
Tại Đại hội Đại biểu toàn quốc lần thứ IX của Đảng (2001), Đảng ta
tiếp tục khẳng định XĐ, GN là một nhiệm vụ chính trị quan trọng, bên cạnh
việc phát triển kinh tế. Chủ trương của Đảng ta về XĐ, GN được xác định
trong những năm 2001 đến năm 2005 cụ thể như sau:
Về phương hướng, mục tiêu XĐ, GN:
Thực hiện chương trình xoá đói, giảm nghèo thông qua những biện
pháp cụ thể, sát với tình hình từng địa phương, sớm đạt mục tiêu
không còn hộ đói, giảm mạnh các hộ nghèo. Tiếp tục tăng tổng
nguồn vốn xoá đói, giảm nghèo, mở rộng các hình thức tín dụng trợ
giúp người nghèo sản xuất, kinh doanh. Có chính sách trợ giá nông
sản, phát triển việc làm và nghề phụ nhằm tăng thu nhập của các hộ
nông dân.”[36, tr.106]

21



Nhằm đạt được mục tiêu: “Tạo việc làm, giải quyết thêm việc làm cho
khoảng 7,5 triệu lao động, bình quân 1,5 triệu lao động/năm; nâng tỷ lệ lao
động qua đào tạo lên 30% vào năm 2005. Cơ bản xoá hộ đói, giảm tỷ lệ hộ
nghèo xuống còn 10% vào năm 2005” [36, tr. 265].
Đại hội Đại biểu toàn quốc lần thứ X (2006) của Đảng đã đánh giá về
những kết quả đạt được về XĐ, GN đồng thời chủ trương trong giai đoạn
2006-2010 “Đa dạng hóa các nguồn lực và phương thức thực hiện xóa đói,
giảm nghèo theo hướng phát huy cao độ nội lực và kết hợp sử dụng có hiệu
quả sự giúp đỡ của quốc tế... nâng cao kiến thức để người nghèo, hộ nghèo,
vùng nghèo tự vươn lên thoát nghèo và cải thiện mức sống” [39, tr.217].
“Phấn đấu tỉ lệ hộ nghèo (theo chuẩn mới) giảm xuống còn 10-11% vào năm
2010” [39, tr.189].
Đại hội X đã xác định trong phương hướng, mục tiêu XĐ, GN là bảo
đảm cho người nghèo, hộ nghèo, vùng nghèo tự vươn lên thoát nghèo và cải
thiện mức sống một cách bền vững, đây là một điểm nhấn so với Đại hội IX.
Để thực hiện Nghị quyết Đại hội lần thứ X của Đảng, Chính phủ đã ban
hành Nghị quyết số 30a/2008/NQ-CP ngày 27 tháng 12 năm 2008 về Chương
trình hỗ trợ giảm nghèo nhanh và bền vững đối với 61 huyện nghèo và một
loạt các chính sách khác nhằm tạo sự chuyển biến nhanh hơn về đời sống vật
chất tinh thần của người dân của huyện nghèo. Quan điểm chỉ đạo của Chính
phủ là xóa đói giảm nghèo là sự nghiệp của toàn dân, kết quả thành công phụ
thuộc trước hết vào nỗ lực vươn lên của người nghèo. Nhà nước giành nguồn
lực ưu tiên đầu tư tạo điều kiện để các huyện nghèo phát triển nhanh hơn, cải
thiện và nâng cao nhanh đời sống vật chất và tinh thần cho người nghèo.
Những giải pháp XĐ,GN: Để thực hiện phương hướng, mục tiêu, nhiệm
vụ xóa đói, giảm nghèo ở Việt Nam giai đoạn (2000-2010), Đảng đã đề ra
một số giải pháp chủ yếu sau:


22


Một là, xoá đói, giảm nghèo vừa là nhiệm vụ cơ bản lâu dài, vừa là
nhiệm vụ trọng tâm trước mắt. Xoá đói, giảm nghèo vừa có tính cơ bản và cần
thực hiện liên tục, lâu dài, lại là một công việc cần kíp, trước mắt, bởi vì sự
nghiệp cách mạng và công cuộc đổi mới luôn đặt ra nhiệm vụ: mỗi bước phát
triển kinh tế - xã hội là một bước cải thiện đời sống của nhân dân; bởi vì đây
không chỉ là việc thực hiện truyền thống, đạo lý của dân tộc “thương người
như thể thương thân”, mà còn là nhiệm vụ để bảo đảm ổn định xã hội, củng
cố khối đại đoàn kết toàn dân tộc.
Hai là, tăng trưởng kinh tế là điều kiện giúp cho việc xoá đói, giảm
nghèo, nhưng đây là hai nhiệm vụ có tính độc lập tương đối và không phải là
một giải pháp duy nhất.
Ba là, xoá đói, giảm nghèo và thực hiện công bằng xã hội không có
nghĩa là kìm hãm sự phát triển kinh tế, không có nghĩa là cào bằng.
Bốn là, xoá đói, giảm nghèo là công việc của toàn xã hội: Cần khẳng
định một cách mạnh mẽ rằng, xoá đói, giảm nghèo không dừng lại ở việc thực
hiện chính sách xã hội, không phải việc riêng của ngành lao động - thương
binh và xã hội, hay một số ngành khác, mà là nhiệm vụ chính trị, kinh tế, văn
hoá, là nhiệm vụ chung của toàn Đảng, toàn dân.
Với những quan điểm toàn diện, sâu sắc về nhiệm vụ xóa đói, giảm
nghèo đây là cơ sở vững chắc để xây dựng và hoàn thiện chủ trương về xóa
đói, giảm nghèo của các địa phương trên địa bàn cả nước.
- Chủ trương của Đảng bộ tỉnh Hà Tây về XĐ, GN (2000-2008)
Đại hội Đảng bộ tỉnh Hà Tây lần thứ XIII (2000-2005) đã xác định
xóa đói, giảm nghèo là nhiệm vụ mang tầm vóc chiến lược và là vấn đề kinh
tế - xã hội cần giải quyết, để tiếp tục đổi mới và phát triển nền kinh tế của tỉnh
23



theo hướng công nghiệp hóa, hiện đại hóa. Do đó, Đại hội đã đề ra những vấn
đề nổi bật như sau: đói nghèo đi liền với lạc hậu, chậm phát triển và là trở
ngại lớn đối với sự phát triển toàn diện của Tỉnh. Xóa đói, giảm nghèo không
phải là vấn đề kinh tế thuần túy mà là vấn đề kinh tế xã hội, do đó phải thống
nhất chính sách kinh tế với chính sách xã hội.
Xuất phát từ thực tế của tỉnh Hà Tây, xóa đói, giảm nghèo về kinh tế là
điều kiện tiên quyết để xóa đói, giảm nghèo về văn hóa, xã hội. Muốn xóa
đói, giảm nghèo có kết quả thiết thực, tích cực và vững chắc cần thực hiện tốt
phương châm chủ động, tích cực vượt lên giải quyết tại chỗ, cộng đồng phải
có trách nhiệm và kết hợp với sự hỗ trợ phát triển. Tăng cường sự lãnh đạo
của Đảng và chỉ đạo tiến hành, quản lý thống nhất các cấp chính quyền trên
phạm vi cả tỉnh bằng chương trình quốc gia về xóa đói, giảm nghèo.
Trong Báo cáo kết quả thực hiện Nghị quyết Đại hội Đảng bộ tỉnh Hà
Tây lần thứ XII; phương hướng, nhiệm vụ 5 năm (2000-2005) đã xác định rõ:
Mục tiêu, phương hướng về xóa đói, giảm nghèo: Tốc độ tăng trưởng
(GDP) hàng năm 8%, bình quân đầu người đạt 450 USD; tổng sản lượng
lương thực 1 triệu tấn trở lên, phấn đấu 1ha canh tác thu trên 28 triệu
đồng/năm; tỷ lệ hộ nghèo bình quân mỗi năm giảm 1%, không còn hộ đói kinh
niên; 25% lao động qua đào tạo nghề; tỷ lệ sinh hằng năm giảm 0,6%, tỷ lệ
tăng dân số tự nhiên đến năm 2005 là 1,1%. Giảm tỷ lệ trẻ em suy dinh dưỡng
còn 25%. 100% các trạm y tế xã có bác sĩ; giữ vững phổ cập tiểu học và hoàn
thành phổ cập trung học cơ sở, nâng cao chất lượng dạy và học [84, tr.38].
Về phương hướng: Trong quá trình tổ chức thực hiện phải lựa chọn ưu
tiêu đầu tư cho các huyện khó khăn, những vùng điểm. Tiếp tục thực hiện tốt
hơn chính sách kinh tế - xã hội đối với các vùng, các địa phương còn gặp
nhiều khó khăn. Từ đó khai thác phát huy tiềm năng, nguồn lực tại chỗ, tự lực
tại cộng đồng là chính, cộng với sự hỗ trợ của Nhà nước và các nguồn lực

24



khác.Tăng cường sự lãnh đạo của cấp ủy đảng, chính quyền các cấp với công
tác xóa đói, giảm nghèo. Củng cố, kiện toàn nâng cao năng lực công tác của
chính quyền các cấp để thực hiện tốt nhiệm vụ. Tuyên truyền giáo dục để hộ
nghèo tự vươn lên, chống tư tưởng cam chịu hoặc ỷ lại.
Mục tiêu về xóa đói, giảm nghèo: Phấn đấu giảm tỷ lệ hộ nghèo hàng
năm từ 1,5-2% (theo tiêu chí mới) [85, tr.27]. Quan tâm cải thiện điều kiện
làm việc cho người lao động; giải quyết việc làm, tạo nhiều việc làm mới theo
hướng chuyển dịch mạnh cơ cấu lao động, nhất là trong nông nghiệp và nông
thôn, đến năm 2008 tỷ lệ lao động nông nghiệp còn 44%. Phát triển ngành
nghề và dịch vụ ở nông thôn; nhân cấy phát triển nghề mới ở các làng nghề và
những làng chưa có nghề. Mở rộng và từng bước hiện đại hóa các cơ sở dạy
nghề, phát triển rộng khắp quy mô đào tạo nghề để tăng tỷ lệ đào tạo nghề từ
34% trở lên. Đẩy mạnh xã hội hóa thu hút đầu tư đào tạo nguồn nhân lực có
trình độ và chất lượng cao.
Những nhiệm vụ và giải pháp XĐ, GN mà Đảng bộ tỉnh Hà Tây xác
định từ năm 2000 đến năm 2008:
Một là, tăng cường công tác giáo dục tư tưởng chính trị, làm cho cán
bộ, đảng viên và nhân dân nâng cao nhận thức xoá đói, giảm nghèo là một
nhiệm vụ quan trọng trong chiến lược ổn định, phát triển kinh tế - xã hội của
các cấp, các ngành, đồng thời phải làm cho người nghèo có nhận thức sâu sắc
không cam chịu đói nghèo, có ý thức tự vươn lên, không trông chờ, ỷ lại.
Hai là, tiếp tục rà soát lại thực trạng đói nghèo để bổ sung, hoàn thiện
chương trình mục tiêu xóa đói, giảm nghèo của địa phương, đồng thời nghiên
cứu, bổ sung hoàn thiện cơ chế chính sách về xóa đói, giảm nghèo phù hợp
với điều kiệu thực tế của tỉnh.
Ba là, đẩy mạnh chuyển dịch cơ cấu kinh tế, phát triển các ngành kinh
tế theo hướng đã xác định.
Bốn là, tổ chức dạy nghề gắn với tạo việc làm cho người nghèo.


25


×