DANH MỤC CHỮ VIẾT TẮT
Chữ viết đầy đủ
Chữ viết tắt
Ban Chấp hành Trung ương
BCHTW
Công nghệ thông tin
CNTT
Công nghiệp hóa, hiện đại hóa
CNH, HĐH
Trung học cơ sở
THCS
Trung học phổ thông
THPT
Ủy ban nhân dân
UBND
MỤC LỤC
Trang
MỞ ĐẦU
Chương 1
3
CHỦ TRƯƠNG VÀ SỰ CHỈ ĐẠO CỦA ĐẢNG BỘ
HUYỆN TIÊN LÃNG VỀ PHÁT TRIỂN GIÁO DỤC
10
1.1.
PHỔ THÔNG TỪ NĂM 2001 ĐẾN NĂM 2010
Những yếu tố tác động đến phát triển giáo dục phổ thông
10
1.2.
của Đảng bộ huyện Tiên Lãng (2001-2010)
Chủ trương của Đảng bộ huyện Tiên Lãng về phát triển
27
1.3.
giáo dục phổ thông (2001-2010)
Đảng bộ huyện Tiên Lãng chỉ đạo phát triển giáo dục
Chương 2
2.1.
phổ thông (2001-2010)
NHẬN XÉT VÀ KINH NGHIỆM
Nhận xét về quá trình Đảng bộ huyện Tiên Lãng, Hải
36
49
Phòng lãnh đạo phát triển giáo dục phổ thông (20012.2.
2010)
Kinh nghiệm đúc rút ra từ quá trình Đảng bộ huyện
49
Tiên Lãng, Hải Phòng lãnh đạo phát triển giáo dục phổ
thông
KẾT LUẬN
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
PHỤ LỤC
62
77
79
86
2
MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Giáo dục là một khoa học về thiết kế xây dựng con người phục vụ chế
độ xã hội. Giáo dục đặc biệt cần thiết đối với sự phát triển của từng cá nhân
con người và của cả xã hội. Vì vậy, vị trí của giáo dục ngày càng có ý nghĩa
quyết định đối với sự phát triển của mỗi quốc gia, dân tộc nhất là trong thời kì
kinh tế tri thức hiện nay. Đại hội lần thứ IX (2001) của Đảng đã xác định:
“Phát triển giáo dục và đào tạo là một trong những động lực quan trọng thúc
đẩy sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa, là điều kiện để phát huy nguồn
lực con người-yếu tố cơ bản để phát triển xã hội, tăng trưởng kinh tế nhanh và bền
vững” [29, tr.108-109]. Đến Đại hội lần thứ X (2006), Đảng tiếp tục nhấn mạnh:
“Giáo dục và đào tạo cùng với khoa học và công nghệ là quốc sách hàng đầu, là nền
tảng và động lực thúc đẩy công nghiệp hóa, hiện đại hóa” [31, tr.94-95]. Đại hội
lần thứ XI của Đảng (2011), tiếp tục khẳng định: “Phát triển giáo dục và đào tạo
cùng với phát triển khoa học và công nghệ là quốc sách hàng đầu” [33, tr.77].
Đây là quan điểm đúng đắn của Đảng xuất phát từ lợi ích của nhân dân ta, đồng
thời phù hợp với xu thế phát triển của thế giới.
Giáo dục phổ thông có vị trí trọng yếu hàng đầu trong chiến lược phát
triển giáo dục, phát triển con người và đất nước nên ngay từ khi ra đời, Đảng
luôn quan tâm tới sự nghiệp giáo dục phổ thông của nước nhà. Thực hiện chủ
trương của Đảng và Nhà nước về giáo dục phổ thông, dưới sự lãnh đạo của
Đảng bộ Hải Phòng và kế tục truyền thống hiếu học của quê hương, Đảng bộ
huyện Tiên Lãng đã quán triệt và thực hiện có hiệu quả các chủ trương của
Đảng để đáp ứng yêu cầu chất lượng nguồn nhân lực của địa phương trong
mọi giai đoạn cách mạng.
Tuy nhiên, giáo dục phổ thông của Tiên Lãng hiện nay vẫn còn nhiều
khó khăn, thách thức như: việc đầu tư cho giáo dục phổ thông còn hạn chế; sự
ảnh hưởng tiêu cực của kinh tế thị trường đã tác động tới lối sống của một bộ
phận học sinh; chất lượng công tác quản lí, đội ngũ giáo viên còn hạn chế;
3
Cùng với đó, tình hình mới đặt ra yêu cầu Đảng bộ huyện Tiên Lãng phải chú
trọng phát triển giáo dục phổ thông để “khai thác có hiệu quả những tiềm
năng, thế mạnh của địa phương, tạo bước đột phá trong thực hiện CNH, HĐH
nông nghiệp, nông thôn, xây dựng huyện phát triển nhanh, bền vững” [18,
tr.11].
Để khắc phục những bất cập, hạn chế trên, cũng như đáp những ứng
yêu cầu của tình hình mới, đòi hỏi Đảng bộ Tiên Lãng phải xác định những
chủ trương, biện pháp thích hợp để phát triển và nâng cao hơn nữa chất lượng
công tác giáo dục phổ thông của huyện. Do đó, việc nghiên cứu, làm rõ về
quá trình lãnh đạo phát triển giáo dục phổ thông, góp phần đổi mới, tăng
cường sự lãnh đạo của Đảng bộ huyện Tiên Lãng đối với công tác giáo dục
phổ thông đang đặt ra hết sức cần thiết.
Với những lý do trên, tác giả chọn đề tài “Đảng bộ huyện Tiên Lãng, thành
phố Hải Phòng lãnh đạo phát triển giáo dục phổ thông từ năm 2001 đến năm
2010” làm đề tài luận văn thạc sĩ, chuyên ngành Lịch sử Đảng Cộng sản Việt Nam.
2. Tình hình nghiên cứu có liên quan đến đề tài
Đảng lãnh đạo sự nghiệp giáo dục nói chung và giáo dục phổ thông nói
riêng là nội dung quan trọng được nhiều nhà khoa học, nhiều tác giả nghiên
cứu qua các công trình khoa học các cấp, các bộ sách chuyên khảo, bài viết
trên các tạp chí nghiên cứu. Có thể kể đến một số nhóm nghiên cứu tiêu biểu
sau:
Nhóm các công trình nghiên cứu chung về giáo dục trên toàn quốc
Một số công trình nghiên cứu của các tổ chức quốc tế và các nhà nghiên
cứu nước ngoài nghiên cứu về giáo dục và đào tạo Việt Nam: Tổ chức văn hóaKhoa học-Giáo dục của Liên Hiệp Quốc (UNESCO) có dự án: Nghiên cứu tổng
thể về giáo dục-đào tạo. Phân tích nguồn lực VIE 89/022 và dự án Báo cáo
đánh giá tình hình giáo dục-đào tạo Việt Nam hiện nay, được tiến hành trong 2
năm 1991-1992. Ngân hàng thế giới (WB) cùng với Bộ Giáo dục và Đào tạo
4
Việt Nam tổ chức hội thảo với chủ đề Lựa chọn chính sách cải cách giáo dục
đào tạo tại Hà Nội (8/1993)…
Các tác phẩm và bài viết của các đồng chí lãnh đạo Đảng và Nhà nước:
Hồ Chí Minh, Bàn về công tác giáo dục, Nxb Sự thật, Hà Nội, 1975; Trường
Chinh, “Kháng chiến về mặt văn hóa”, Cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân
Việt Nam, Nxb Sự thật, Hà Nội, 1976, tr.54-60; Phạm Văn Đồng, Về vấn đề
giáo dục-đào tạo, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 1999; Đỗ Mười, Phát triển
mạnh mẽ giáo dục-đào tạo phục vụ đắc lực sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện
đại hoá đất nước, Nxb Giáo dục, Hà Nội, 1996; Võ Nguyên Giáp, Mấy vấn
đề về khoa học và giáo dục, Nxb Sự thật, Hà Nội, 1986; Lê Duẩn, Trường
Chinh, Phạm Văn Đồng, Về đường lối giáo dục xã hội chủ nghĩa, Nxb Sự thật,
Hà Nội, 1979…
Các công trình của tập thể và cá nhân đã công bố có liên quan: Bộ Giáo
dục và Đào tạo, Giáo dục cho mọi người Việt Nam-Các thách thức hiện nay và
tương lai, Nxb Giáo dục, Hà Nội, 1994; Phạm Minh Hạc, Giáo dục Việt Nam
trước ngưỡng cửa của thế kỷ XXI, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 1999; Lê
Văn Giang, Lịch sử giản lược hơn 1000 năm nền giáo dục Việt Nam, Nxb Chính
trị quốc gia, Hà Nội, 2003; Đinh Văn Ân - Hoàng Thu Hòa, Giáo dục và đào tạo
chìa khóa của sự phát triển, Nxb Tài chính, Hà Nội, 2008; Phan Ngọc Liên,
Đảng Cộng sản Việt Nam với sự nghiệp giáo dục và đào tạo, Nxb Đại học Sư
phạm, Hà Nội, 2010; Phạm Tất Dong, Giáo dục Việt Nam 1945-2010, Nxb Giáo
dục Việt Nam, Hà Nội, 2010; Đặng Bá Lãm, Giáo dục Việt Nam những thập
niên đầu thế kỷ XXI: Chiến lược phát triển, Nxb Giáo dục, Hà Nội, 2003…
Một số công trình nghiên cứu về giáo dục trên bình diện chung có liên
quan đến đề tài như: Viện Khoa học giáo dục, Nhà trường phổ thông Việt
Nam qua các thời kỳ lịch sử, Nxb Đại học Quốc gia, Hà Nội, 2001; Võ Thuần
Nho chủ biên, 35 năm phát triển sự nghiệp giáo dục phổ thông, Nxb Giáo
dục, Hà Nội, 1980; Tác phẩm của nhiều tác giả Đổi mới nâng cao vai trò,
trách nhiệm, đạo đức của đội ngũ giáo viên và cán bộ quản lý giáo dục trong
xu thế Việt Nam hội nhập quốc tế, Nxb Lao động, Hà Nội, 2006.
5
Ngoài ra, còn có rất nhiều các bài viết đã đăng tải trên các tạp chí như:
Ngô văn Hiển, “Các giải pháp nâng cao hiệu quả đầu tư cho giáo dục - đào tạo
thời kỳ công nghiệp hóa, hiện đại hoá đất nước”, Tạp chí Giáo dục, số 112 năm
2005, tr.8-10; Phạm Thị Kim Anh, “Những thay đổi của giáo dục-đào tạo Việt
Nam từ sau công cuộc đổi mới (1986) đến nay”, Tạp chí Dạy và Học ngày nay, số
7 năm 2008, tr.58-62; Nguyễn Hữu Chí, “Những quan điểm cơ bản của Đảng về
giáo dục-đào tạo qua các chặng đường lịch sử”, Tạp chí Lịch sử Đảng, số 10 năm
2010, tr.20-24; Dương Văn Khoa, “Phát triển mạnh mẽ giáo dục-đào tạo theo
hướng hiện đại, thiết thực, nhanh chóng nâng cao dân trí, tạo nguồn nhân lực dồi
dào và đội ngũ nhân tài cho đất nước”, Tạp chí Dạy và Học ngày nay, số 8 năm
2005, tr.4-7; Vũ Ngọc Hải, “Đổi mới giáo dục và đào tạo nước ta trong những
năm đầu thế kỷ XXI”, Tạp chí Phát triển giáo dục, số 4 năm 2003, tr.3-4; Vũ
Thiện Vương, “Tiếp tục đổi mới sự nghiệp giáo dục-đào tạo đáp ứng yêu cầu
công nghiệp hoá, hiện đại hoá”, Tạp chí Kinh tế và phát triển, số 47 năm
2001, tr.36-39; Mai Hương Giang, "Chìa khoá mở hướng nâng cao chất lượng
giáo dục phổ thông ở nước ta hiện nay", Tạp chí Cộng sản, năm 2008; …
Những công trình nghiên cứu tiêu biểu trên đã đề cập đến nhiều vấn đề lý
luận về giáo dục và đào tạo nói chung, giáo dục phổ thông nói riêng của Việt Nam
trên nhiều phương diện khác nhau; đã phân tích vai trò của giáo dục và đào tạo,
giáo dục phổ thông trong sự nghiệp phát triển kinh tế - xã hội; làm rõ mối quan hệ
giữa phát triển giáo dục và đào tạo, giáo dục phổ thông với phát triển kinh tế, văn
hóa, xã hội trong thời kỳ đổi mới… Tuy nhiên, các công trình này chỉ dừng lại ở
những vấn đề lớn, phạm vi rộng của giáo dục và đào tạo, giáo dục phổ thông Việt
Nam, chưa đi sâu vào từng địa phương cụ thể. Song, đây là cơ sở và là nguồn tư
liệu quý giúp tác giả định hướng nội dung trong quá trình nghiên cứu đề tài.
Nhóm các công trình nghiên cứu về giáo dục ở địa phương
Một số luận văn đã bảo vệ tại Học viện Chính trị-Hành chính Quốc gia
Hồ Chí Minh gồm có: Hà Văn Định (2000), Đảng bộ thị xã Vĩnh Yên-tỉnh
Vĩnh Phúc lãnh đạo sự nghiệp giáo dục-đào tạo 1986-1999; Lê Văn Nê
6
(2002), Đảng bộ tỉnh Bến Tre lãnh đạo sự nghiệp phát triển giáo dục-đào tạo
trong thời kỳ đổi mới 1986-2000; Chu Bích Thảo (2005), Đảng bộ tỉnh Lạng
Sơn lãnh đạo thực hiện chiến lược phát triển giáo dục-đào tạo 1991-2001; Lê
Tiến Dũng (2005), Đảng bộ tỉnh Quảng Ngãi lãnh đạo phát triển giáo dụcđào tạo từ 1991 đến 2001…
Một số luận văn đã bảo vệ tại Học viện Chính trị gồm có: Nguyễn Viết
Cường (2006), Đảng bộ tỉnh Khánh Hoà lãnh đạo phát triển giáo dục và đào
tạo từ 1989 đến 2005; Trần Đình Cường (2007), Đảng bộ tỉnh Hà Tây lãnh
đạo phát triển giáo dục và đào tạo từ năm 1996 đến năm 2006; Vũ Thành
Trung (2012), Đảng bộ tỉnh Bắc Ninh lãnh đạo phát triển giáo dục và đào tạo
từ 2001 đến 2010, Lã Văn Nhẫn (2013), Đảng bộ Học viện Hậu cần lãnh đạo
thực hiện nhiệm vụ giáo dục và đào tạo từ năm 2001 đến năm 2010.
Một số luận văn đã bảo vệ tại Trường đại học Khoa học xã hội và nhân
văn- Đại học Quốc gia Hà Nội có: Nguyễn Thị Hồng Hạnh (2009), Đảng bộ
thành phố Hà Nội lãnh đạo phát triển giáo dục phổ thông giai đoạn 1996-2006;
Phạm Thị Giang (2009), Đảng bộ tỉnh Hà Tĩnh lãnh đạo phát triển giáo dục phổ
thông từ năm 1965 đến năm 1975; Đỗ Đăng Quý, Một số vấn đề về giáo dục ở
Mão Điền (huyện Thuận Thành, tỉnh Bắc Ninh) trong những năm đổi mới 19862006; Ngô Thị Thu Hà (2009), Đảng bộ tỉnh Quảng Ninh lãnh đạo phát triển
GDPT từ năm 1996 đến năm 2006; Nguyễn Thị Quế Liên: Đảng bộ Thái Bình
lãnh đạo sự nghiệp GDPT từ năm 1986 đến năm 2005; Nguyễn Thị Hường
(2009), Đảng bộ Thanh Hóa lãnh đạo sự nghiệp GDPT từ 1954 đến 1975…
Tại Hải Phòng đã có công trình: Đảng bộ thành phố Hải Phòng lãnh
đạo phát triển GDPT thời kỳ 1986-2003 (2005) của Vũ Thị Kim Yến, Luận
văn Thạc sĩ Lịch sử, ĐHQGHN. Tuy nhiên, đề tài này mới chỉ tập trung vào
hệ thống giáo dục phổ chung cho cả thành phố Hải Phòng từ năm 1986 đến
năm 2003.
Nhìn một cách tổng quan, những công trình trên đi sâu vào nghiên cứu,
phân tích, đánh giá các mặt tích cực, hạn chế, chỉ ra nguyên nhân của
7
những mặt đạt được và những tồn tại khi lãnh đạo tiến hành công tác giáo
dục và đào tạo, giáo dục phổ thông ở các địa phương khác nhau trong cả
nước. Các công trình đã làm rõ sự quán triệt và vận dụng sáng tạo của
Đảng bộ, chính quyền địa phương về quan điểm, chủ trương của Đảng
trong phát triển giáo dục và đào tạo, giáo dục phổ thông vào điều kiện,
hoàn cảnh cụ thể địa phương để nâng cao chất lượng giáo dục và đào tạo,
giáo dục phổ thông trên địa bàn.
Có thể khẳng định, những công trình đề cập đến giáo dục và đào tạo,
giáo dục phổ thông là rất đa dạng và phong phú. Nhưng thực tế cũng cho
thấy, vẫn chưa có một công trình nào nghiên cứu một cách chuyên sâu về vấn
đề phát triển giáo dục phổ thông ở huyện Tiên Lãng và sự lãnh đạo của Đảng
bộ huyện đối với công tác giáo dục phổ thông giai đoạn 2001-2010. Tuy
nhiên, những công trình đã nêu trên thực sự là những nguồn tư liệu có giá trị
giúp tác giả nghiên cứu, kế thừa và phát triển để có hướng tiếp cận đúng đắn
trong quá trình thực hiện đề tài.
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu của đề tài
* Mục đích nghiên cứu
Nghiên cứu làm sáng tỏ chủ trương và sự chỉ đạo của Đảng bộ huyện
Tiên Lãng về phát triển giáo dục phổ thông từ năm 2001 đến năm 2010. Trên cơ
sở đó, rút ra những kinh nghiệm để vận dụng trong thời gian tới.
* Nhiệm vụ:
- Làm rõ yêu cầu khách quan phát triển giáo dục phổ thông của huyện
Tiên Lãng trong những năm 2001-2010.
- Phân tích làm rõ chủ trương và sự chỉ đạo của Đảng bộ huyện Tiên
Lãng về phát triển giáo dục phổ thông từ năm 2001 đến năm 2010.
- Đưa ra một số nhận xét và rút ra những kinh nghiệm từ quá trình Đảng bộ
huyện Tiên Lãng lãnh đạo phát triển giáo dục phổ thông giai đoạn 2001-2010
4. Đối tượng, phạm vi nghiên cứu của đề tài
* Đối tượng nghiên cứu
8
Đề tài nghiên cứu hoạt động lãnh đạo của Đảng bộ huyện Tiên Lãng về
phát triển giáo dục phổ thông từ năm 2001 đến năm 2010.
* Phạm vi nghiên cứu:
- Về nội dung: Nghiên cứu làm rõ chủ trương và sự chỉ đạo của Đảng
bộ huyện Tiên Lãng về phát triển giáo dục phổ thông
- Về thời gian: Từ năm 2001 đến năm 2010.
- Về không gian: Nghiên cứu trên địa bàn huyện Tiên Lãng.
5. Phương pháp luận và phương pháp nghiên cứu của đề tài
* Phương pháp luận
Đề tài dựa trên cơ sở lý luận của chủ nghĩa Mác-Lênin, tư tưởng Hồ
Chí Minh và đường lối, quan điểm của Đảng Cộng sản Việt Nam về giáo dục.
* Phương pháp nghiên cứu:
- Để thực hiện thành công đề tài, tác giả sử dụng chủ yếu là phương
pháp lịch sử và phương pháp lôgic.
- Ngoài ra đề tài còn sử dụng phương pháp khảo sát thực tế, nghiên cứu xử
lý số liệu, phương pháp phân tích và tổng hợp, khái quát hoá và hệ thống hoá…
6. Ý nghĩa của đề tài
- Đề tài góp phần vào việc hệ thống hóa những chủ trương, chính sách
của Đảng bộ huyện Tiên Lãng về phát triển giáo dục phổ thông từ năm 2001
đến năm 2010. Từ những thành công và hạn chế tồn tại rút ra kinh nghiệm và
chỉ ra phương hướng để vận dụng cho giai đoạn sau.
- Kết quả nghiên cứu đề tài là một nguồn tư liệu, có thể được tham
khảo trong nghiên cứu giảng dạy môn lịch sử Đảng ở các Học viện trong và
ngoài quân đội.
7. Kết cấu của đề tài
Đề tài gồm phần mở đầu, 2 chương (5 tiết), kết luận, danh mục tài liệu
tham khảo và phụ lục.
9
Chương 1
CHỦ TRƯƠNG VÀ SỰ CHỈ ĐẠO CỦA ĐẢNG BỘ HUYỆN
TIÊN LÃNG VỀ PHÁT TRIỂN GIÁO DỤC PHỔ THÔNG
TỪ NĂM 2001 ĐẾN NĂM 2010
1.1. Những yếu tố tác động đến phát triển giáo dục phổ thông của
Đảng bộ huyện Tiên Lãng (2001-2010)
1.1.1. Điều kiện tự nhiên, kinh tế-xã hội của huyện Tiên Lãng tác động đến
công tác phát triển giáo dục phổ thông
Tiên Lãng là vùng đất cổ và là một trong bảy huyện ngoại thành của
thành phố Hải Phòng. Huyện nằm giữa vùng đồng bằng duyên hải Bắc Bộ,
cách trung tâm thành phố Hải Phòng 25 km về phía Nam, cách thủ đô Hà Nội
gần 110 km theo tuyến đường quốc lộ 5. Tiên Lãng giáp với các huyện lân
cận như: phía Tây và Tây Nam giáp huyện Vĩnh Bảo (Hải Phòng), phía Đông
Bắc giáp huyện Tứ Kỳ và huyện Thanh Hà (tỉnh Hải Dương), phía Bắc giáp
huyện An Lão và huyện Kiến Thụy (Hải Phòng), phía Đông trông ra vịnh Bắc
Bộ, phía Đông Nam giáp Thái Thụy.
Là một huyện đồng bằng ven biển và liên tục tiến về phía biển với tốc
độ trung bình từ 10m đến 15m/năm nên Tiên Lãng ít đường bộ. Trên địa bàn
huyện có các đường giao thông chính là: 25, 212, 354. Tuy nhiên, phía Bắc
huyện lại có một đoạn quốc lộ 10 dài 4 km chạy cắt ngang, nối liền các tỉnh
duyên hải Bắc bộ: Ninh Bình-Nam Định-Hải Phòng-Quảng Ninh. Đây là
đoạn đường có ý nghĩa quan trọng cả về kinh tế, chính trị lẫn quốc phòng, an
ninh. Ngoài ra, huyện còn có mạng lưới sông ngòi khá dày, độ uốn khúc lớn
bao bọc quanh huyện. Vì vậy, nhìn toàn bộ Tiên Lãng như một hòn đảo lớn
được bao bọc bởi 4 mặt là sông, biển: sông Mía, sông Mới, sông Văn Úc
(ranh giới tự nhiên phía Bắc của huyện), sông Thái Bình (ranh giới tự nhiên
phía Nam của huyện). Do ảnh hưởng của thượng nguồn nên hàng năm huyện
10
được bồi đắp một lượng phù sa khá màu mỡ. Đây là điều kiện hết sức thuận
lợi để Tiên Lãng phát triển nền kinh tế đa dạng theo hướng kết hợp kinh tế
của vùng đồng bằng với kinh tế của vùng biển, và có ưu thế đặc biệt về việc
phát triển hệ thống giao thông đường thủy, sản xuất nông nghiệp và nuôi
trồng thủy sản.
Là một huyện thuần nông giáp biển Đông nên chế độ thủy văn của Tiên
Lãng mang tính hỗn hợp sông, biển. Khí hậu mang nét đặc trưng của khí hậu
nhiệt đới ẩm gió mùa: nóng ẩm, mưa nhiều với 4 mùa rõ rệt, nền nhiệt độ
chênh lệch cao, lượng mưa trung bình hàng năm lớn (1500-1700 mm). Với
điều kiện khí hậu-thủy văn đó, tạo điều kiện thuận lợi cho Tiên Lãng phát
triển đa dạng các loại cây trồng như lúa, hành, tỏi, thuốc lào, rong câu… và
phát triển mạnh chăn nuôi gia súc, gia cầm, thủy sản.
Diện tích tự nhiên của huyện là 18.900 ha, trong đó diện tích đất nông
nghiệp là 11.898 ha. Về tài nguyên khoáng sản tuy không phong phú chỉ có
nguồn đất sét nằm rải rác ở các xã phía Bắc và các bãi cát biển ở phía Đông
huyện nhưng đây là nguồn nguyên liệu lớn phục vụ cho xây dựng và ngành
công nghiệp sản xuất vật liệu xây dựng của huyện.
Tiên Lãng là huyện có tiềm năng lớn về du lịch: ngoài những di tích
lịch sử, văn hóa nổi tiếng, huyện còn có 2 mỏ nước khoáng ngọt và mặn nằm
cách nhau khoảng 5km, có trữ lượng lớn đạt tiêu chuẩn quốc tế về chất lượng.
Khu du lịch suối khoáng nóng Tiên Lãng được đánh giá là 1 trong 5 mỏ nước
khoáng đặc biệt có giá trị của Việt Nam.
Hiện nay, trên địa bàn huyện có 23 đơn vị hành chính bao gồm 22 xã
và một thị trấn. Đó là thị trấn Tiên Lãng và các xã: Đại Thắng, Tiên Cường,
Tự Cường, Tiên Tiến, Quyết Tiến, Khởi Nghĩa, Tiên Thanh, Cấp Tiến, Kiến
Thiết, Đoàn Lập, Bạch Đằng, Quang Phục, Toàn Thắng, Tiên Thắng, Tiên
Minh, Bắc Hưng, Nam Hưng, Hùng Thắng, Tây Hưng, Đông Hưng, Tiên
Hưng, Vinh Quang.
11
Trong công cuộc đổi mới hiện nay, hòa nhịp vào cùng sự phát triển
chung của thành phố, Tiên Lãng đã có những chuyển biến tích cực. Kinh tế
huyện phát triển với tốc độ khá cao. Theo số liệu thống kê năm 2010: Tốc độ
tăng tổng sản phẩm nội huyện (GDP) bình quân trong 5 năm (2005-2010) đạt
11,8%/năm, GDP bình quân đầu người đạt 15,56 triệu đồng. Lương thực bình
quân đầu người là 674kg/người/năm. Giá trị sản lượng ngành Nông-Lâm-Ngư
nghiệp tăng bình quân 6,9%/năm. Sản xuất công nghiệp, tiểu thủ công nghiệp
tốc độ tăng trưởng cao đạt 21,5%/năm. Kinh tế dịch vụ tăng trưởng khá đạt
bình quân 19%/năm [20, tr5]. Có được những thành quả này là nhờ Tiên Lãng
đã biết khai thác tiềm năng thế mạnh địa phương, huy động trí tuệ, nhân lực
của toàn bộ Đảng bộ, chính quyền và nhân dân.
Dân số huyện Tiên Lãng tính đến năm 2010 khoảng: 150.000 người,
tổng số hộ trên địa bàn toàn huyện là 37.613 hộ, số người trong độ tuổi lao
động là 77.000 người. Là huyện thuần nông (nhân khẩu nông nghiệp chiếm tỷ
trọng 87%) nên số lao động nông nhàn, chưa có việc làm còn nhiều (lao động
nông nghiệp chưa có việc làm vẫn còn lên tới 24%) [20, tr.5].
Tỉ lệ phát triển dân số tự nhiên tính đến 2010 của huyện là 0,73%. Tỉ lệ
hộ nghèo chiếm 9,79% (3684 hộ) tổng số hộ, là một huyện có tỷ lệ hộ nghèo
cao nhất thành phố [20, tr.5-6].
Hiện nay Tiên Lãng có 25 trường mầm non, 26 trường tiểu học, 23
trường THCS, 04 trường THPT, 01 trung tâm giáo dục thường xuyên, 01
trung tâm dạy nghề. Là một huyện ngoại thành có nhiều trường đạt chuẩn
Quốc gia và tiêu chuẩn xanh-sạch-đẹp, trên địa bàn huyện có 27 trường đã
được công nhận đạt chuẩn giai đoạn I, thường xuyên có trên 37 nghìn học
sinh theo học; 100% số xã, thị trấn có ít nhất 1 trường học cao tầng trở lên
[20, tr.6].
Về công tác y tế, huyện có một trung tâm y tế, 4 phòng khu vực, 19
trạm y tế xã, thị trấn với tổng số 250 giường bệnh và 280 cán bộ y tế, nhân
viên chuyên môn phục vụ. Trong đó có 45 bác sỹ, 148 y sỹ; 100% phòng
12
khám khu vực và trạm y tế xã có bác sỹ, cơ bản đáp ứng yêu cầu khám và
chăm sóc sức khỏe cho nhân dân [20, tr.6].
Về vấn đề an ninh, chính trị và trật tự an toàn xã hội. Những năm qua
tình hình an ninh, chính trị của huyện luôn được giữ vững ổn định, trật tự an
toàn xã hội được đảm bảo, rất thuận lợi cho các nhà đầu tư vào đầu tư các dự
án phát triển kinh tế, xã hội của địa phương.
Cùng với sự phát triển của các huyện trong thành phố Hải Phòng, Tiên Lãng
đang từng bước thay đổi, tận dụng những điều kiện thuận lợi để phát triển kinh tế,
xã hội của địa phương, nâng cao đời sống vật chất tinh thần của người dân.
Từ những điều kiện tự nhiên, kinh tế, xã hội của địa phương nêu trên
đòi hỏi Đảng bộ huyện Tiên Lãng cần phát huy những thuận lợi, khắc phục
những khó khăn để tạo điều kiện tốt nhất cho sự nghiệp giáo dục phổ thông
huyện phát triển.
1.1.2. Thực trạng giáo dục phổ thông của huyện Tiên Lãng trước năm 2001
Nhận thức được tầm quan trọng to lớn của giáo dục phổ thông trong sự
nghiệp CNH, HĐH đất nước, trong những năm đổi mới, Đảng bộ huyện Tiên
Lãng luôn chăm lo cho sự nghiệp giáo dục-đào tạo nói chung, giáo dục phổ
thông nói riêng. Do đó, đến trước năm 2001 công tác giáo dục phổ thông Tiên
Lãng đã đạt được một số kết quả quan trọng, nổi bật là:
Mạng lưới trường lớp và quy mô giáo dục các bậc học bước đầu được
mở rộng, chất lượng giáo dục phổ thông được nâng lên. Cụ thể: từ năm 19901995 số học sinh phổ thông các cấp tăng từ 19000 học sinh lên 33000 học
sinh (173%); so với năm học 1998-1999, năm học 1999-2000, giáo dục tiểu
học đã có xu hướng giảm theo hướng chiều tích cực: giảm 161 em; THCS:
với quy mô 20 trường có 13.527 em (tăng 779 em), tỉ lệ bỏ học trong năm là
0,4%; Phổ thông trung học huy động được 3.149 em ra lớp (tăng 452 em) [17,
tr.3]; phong trào học sinh giỏi được duy trì và phát triển: số học sinh giỏi cấp
quốc gia và thành phố tăng từ 62 học sinh (năm học 1994-1995) lên 164 học
sinh (năm học 1999-2000), tất cả các trường trên địa bàn huyện đều có học
13
sinh giỏi cấp huyện; tỷ lệ thi chuyển cấp, chuyển lớp đều đạt từ 98% trở lên…
[17, tr.4]. Đánh giá về quy mô, chất lượng giáo dục phổ thông Tiên Lãng đã
đạt được đến năm 2000, Đại hội Đảng bộ huyện Tiên Lãng lần thứ XXIV đã
nhận định: “đến năm 1999-2000, ở Tiên Lãng, hiện tượng học sinh bỏ học ở
cấp II, cấp III giảm nhiều, số lượng học sinh huy động ra lớp tăng lên, chất
lượng giáo dục được cải thiện đáng kể” [17, tr.5].
Đội ngũ nhà giáo và cán bộ quản lý giáo dục được xây dựng theo
hướng đủ, đồng bộ, chuẩn hóa và từng bước được nâng chuẩn đáp ứng yêu
cầu của sự nghiệp giáo dục phổ thông trong giai đoạn mới. Đại bộ phận giáo
viên và cán bộ quản lý giáo dục giữ gìn được phẩm chất đạo đức, nhiệt tình,
yêu ngành, yêu nghề, có tinh thần trách nhiệm cao, chấp hành tốt quy chế
chuyên môn. Công tác quản lý giáo dục có nhiều chuyển biến tích cực, việc
đánh giá, phân loại đội ngũ hàng năm được chỉ đạo thường xuyên, các lớp bồi
dưỡng nội dung, phương pháp giảng dạy cho giáo viên mới được chú trọng,
việc tổ chức thi giáo viên giỏi các cấp được duy trì đều đặn. Do đó, Năm
2000, toàn huyện có 77,8% giáo viên đạt chuẩn các bậc học, 90 thầy giáo và
cô giáo đạt danh hiệu giáo viên giỏi, chiến sĩ thi đua cấp thành phố và 194
thầy giáo, cô giáo đạt danh hiệu giáo viên giỏi, chiến sĩ thi đua cấp huyện [17,
tr.4].
Công tác xây dựng cơ sở vật chất trường học, trường chuẩn quốc gia có
bước phát triển mới. Năm học 1992-1993 toàn huyện mới có 49% trường học
cao tầng kiên cố [17, tr.3]. Đến năm 1994 đã có 17/23 xã, thị trấn; năm 1995 có
19/23 xã, thị trấn và năm học 1999-2000 có 21/23 xã, thị trấn có trường học cao
tầng (trong đó có 8 xã đã có từ 2-3 trường học cao tầng kiên cố dành cho ngành
học mầm non và giáo dục phổ thông) [17, tr.4]. Tình trạng thiếu phòng học được
khắc phục dứt điểm, đã góp phần tăng số lớp và số lượng học sinh ở các bậc học,
đáp ứng nhu cầu theo học bậc phổ thông trung học ngày càng gia tăng. Đồng
thời, các thư viện, các phòng thí nghiệm cũng bước đầu được đầu tư. Từ chỗ
chỉ có một số ít trường học có phòng thí nghiệm và phòng thư viện, đến năm
14
học 1999-2000, ngân sách huyện đã chi trên 2 tỷ đồng cho sự nghiệp giáo dục
và đào tạo nên 100% các trường THPT và THCS trong huyện có phòng thí
nghiệm và phòng thư viện (trong đó có 18/47 thư viện đạt chuẩn trang bị của
ngành) [17, tr.4-5]. Các trang thiết bị phục vụ quá trình dạy và học được trang
bị ngày một hoàn thiện theo hướng hiện đại hóa. Đặc biệt, huyện đã có 5
trường THCS, 3 trường THPT và 1 trường tiểu học được trang bị phòng vi
tính phục vụ dạy, học và công tác quản lý.
Cùng với việc tăng cường cơ sở vật chất trường lớp, công tác xã hội
hóa giáo dục luôn được Đảng bộ quan tâm chỉ đạo. Công tác khuyến học ở cơ
sở được đẩy mạnh với nhiều hình thức. Ở các xã, thị trấn đã mở đại hội giáo
dục, thành lập hội đồng giáo dục địa phương. Hội đồng giáo dục của các xã,
thị trấn đã tham mưu cho cấp ủy, chính quyền cơ sở có những quyết định
đúng đắn trong việc huy động các nguồn lực đầu tư cho việc dạy và học.
Như vậy, vào thời điểm trước năm 2001, thực hiện chủ trương phát
triển giáo dục của Đảng, vượt qua nhiều khó khăn, thử thách, Đảng bộ và
nhân dân huyện Tiên Lãng đã cố gắng, nỗ lực thu được những kết quả đáng
trân trọng. Đây là tiền đề quan trọng để Đảng bộ huyện Tiên Lãng đẩy nhanh
tiến trình phát triển sự nghiệp giáo dục phổ thông trong những năm tiếp theo.
Tuy nhiên, đến trước năm 2001, giáo dục phổ thông Tiên Lãng vẫn còn
bộc lộ một số hạn chế, bất cập cần khắc phục, đó là:
Mạng lưới trường lớp và quy mô giáo dục ở Tiên Lãng mặc dù đã được
sắp xếp phù hợp với từng giai đoạn cụ thể và ngày càng được ổn định hơn. Song,
quy mô còn quá nhỏ hẹp, giữa quy mô và các điều kiện đội ngũ, cơ sở vật chất,
thiết bị, giữa quy mô và chất lượng còn chưa cân đối. Tình trạng quá tải về quy
mô đối với trung học phổ thông ảnh hưởng không nhỏ đến chất lượng giáo dục.
Việc phân luồng học sinh tốt nghiệp trung học cơ sở và trung học phổ thông còn
hạn chế. Với đặc thù là một huyện ven biển thuần nông, địa hình bị chia cắt bởi
hệ thống sông ngòi (có bốn bề sông nước), đời sống kinh tế còn chậm phát
15
triển… Đây thực sự là một khó khăn, thách thức lớn đối với sự nghiệp giáo dục
phổ thông của Tiên Lãng.
Chất lượng giáo dục phổ thông chưa cao. Chất lượng giáo dục đại trà
của học sinh ở các cấp học, bậc học chưa đồng đều, giáo dục mũi nhọn chưa
được quan tâm đúng mức. Số học sinh tiếp cận với CNTT còn quá thấp, giáo
dục toàn diện chưa tốt khi mà giáo dục trí lực chưa thực sự kết hợp chặt chẽ với
giáo dục phẩm chất nhân cách cho học sinh nên tình trạng học sinh vi phạm đạo
đức, pháp luật nghiêm trọng vẫn diễn ra, gây nhức nhối cho dư luận xã hội.
Tỷ lệ học sinh trong độ tuổi phổ cập bỏ học để tham gia giúp đỡ gia đình sản
xuất, làm nghề truyền thống còn cao. Công tác phổ cập THCS còn nhiều khó
khăn do chưa có kinh nghiệm thực tế.
Đội ngũ giáo viên và cán bộ quản lý (nhất là cấp trung học phổ thông)
còn thiếu nhiều, mất cân đối đã dẫn đến tình trạng một giáo viên đảm nhiệm
nhiều môn học như giáo viên dạy môn Văn kiêm dạy Giáo dục công dân, giáo
viên dạy Hoá kiêm dạy Thể dục… Rõ ràng ngoài những môn học được coi là
môn chính (Văn, Sử, Địa, Toán, Lý, Hóa) thì các môn còn lại (Thể dục, Giáo
dục công dân, Công nghệ…) - những môn góp phần rất lớn để học sinh phát
triển toàn diện về đức - trí - thể - mĩ chưa thực sự được coi trọng. Hiện tượng
dạy trái ban như vậy đã làm giảm chất lượng giáo dục phổ thông. Bên cạnh
đó, một bộ phận giáo viên và cán bộ quản lý còn ngại khó, ngại đi học để nâng
cao trình độ, nên tỉ lệ đạt chuẩn và trên chuẩn thấp. Đội ngũ cán bộ quản lý
giáo dục có trình độ trung cấp lý luận chính trị còn quá ít, chưa được đào tạo
cơ bản và đồng bộ về kiến thức quản lý, về trình độ lý luận chính trị, thiếu
kinh nghiệm làm ảnh hưởng không nhỏ đến công tác quản lý. Đời sống của
giáo viên và cán bộ quản lý giáo dục còn nhiều khó khăn. Công tác quản lý
giáo dục chưa đáp ứng được yêu cầu đặt ra. Tình trạng dạy thêm, học thêm tràn
lan ngoài quy định chưa được ngăn chặn có hiệu quả. Việc bố trí, sử dụng đội
ngũ giáo viên và cán bộ quản lý chưa hợp lý về cơ cấu, chưa đáp ứng được
yêu cầu vừa phải tăng nhanh về quy mô vừa phải nâng cao về chất lượng và
16
hiệu quả đào tạo. Tổ chức thi tuyển công chức hàng năm còn để lại những dư
luận không tốt. Số giáo viên đạt danh hiệu giáo viên dạy giỏi mới chỉ dừng lại
ở con số rất khiêm tốn.
Công tác xây dựng cơ sở vật chất trường học còn hạn chế. Hệ thống
phòng học chức năng trong trường học còn rất thiếu thốn, hệ thống nhà cấp 4
xuống cấp nghiêm trọng. Việc trang bị, khai thác, sử dụng đồ dùng dạy học
còn thiếu hiệu quả, nhiều trường tiểu học và trung học cơ sở bàn ghế không
đúng quy cách, cũ nát không đáp ứng yêu cầu cho học sinh học tập. Tỉ lệ
phòng học kiên cố cao tầng còn thấp; việc xây dựng trường chuẩn quốc gia ở
bậc Tiểu học, THCS, THPT còn rất khó khăn do nhiều nguyên nhân khác
nhau như thiếu đất đai để xây dựng khuôn viên, cơ sở vật chất không đạt
chuẩn, tỉ lệ phòng học không đảm bảo.
Công tác xã hội hóa về giáo dục phổ thông còn nhiều mặt hạn chế, phát
triển chưa đồng đều ở các xã, hiệu quả chưa cao. Việc huy động các nguồn
lực ở các xã nghèo còn nhiều khó khăn. Chưa khai thác, phát huy hết tiềm
năng, thế mạnh của địa phương.
Hạn chế, khuyết điểm trên xuất phát từ nhiều nguyên nhân khách quan và
chủ quan, trong đó đáng chú ý là: một số cấp ủy Đảng, chính quyền nhất là cơ sở
chưa nhận thức đầy đủ về vị trí, vai trò của sự nghiệp giáo dục phổ thông trong
thời kỳ đổi mới; việc phối, kết hợp giữa các cấp, các ngành nhiều nơi chưa chặt
chẽ, chưa tạo nên được sự thống nhất trong toàn huyện cho việc thực hiện các
nghị quyết, chỉ thị của Đảng bộ nên dẫn đến tình trạng có nơi còn trông chờ, ỷ
lại, thiếu chủ động trong lãnh đạo, chỉ đạo thực hiện nhiệm vụ giáo dục phổ
thông. Năng lực, trách nhiệm của một bộ phận cán bộ quản lý giáo dục, giáo
viên còn bất cập, còn biểu hiện chạy theo thành tích, chưa chú ý đến chất lượng
thực tế và chất lượng giáo dục toàn diện...
Như vậy, đến trước năm 2001 huyện Tiên Lãng đã thực hiện kế hoạch
phát triển công tác giáo dục phổ thông và đạt được những kết quả bước đầu
đáng ghi nhận trên nhiều mặt và ở tất cả các cấp học. Tuy nhiên, thực tiễn cho
17
thấy, giáo dục phổ thông của huyện Tiên Lãng vẫn còn tồn tại những bất cập,
hạn chế từ quy mô giáo dục, đội ngũ nhà giáo, chất lượng giáo dục cho đến cơ
sở vật chất. Thực trạng trên đòi hỏi cấp ủy Đảng, chính quyền và Phòng Giáo
dục và Đào tạo huyện Tiên Lãng phải có chủ trương, giải pháp chiến lược
phát triển giáo dục phổ thông phù hợp nhằm đáp ứng nhu cầu xây dựng, phát
triển của huyện trong thời kỳ đẩy mạnh CNH, HĐH.
1.1.3. Chủ trương của Đảng và Đảng bộ thành phố Hải Phòng về
phát triển giáo dục phổ thông
Nhận thức được: “Giáo dục phổ thông là nền tảng văn hóa của một
nước, là sức mạnh tương lai của một dân tộc, nó đặt những cơ sở ban đầu
rất quan trọng cho sự phát triển toàn diện con người Việt Nam xã hội chủ
nghĩa” [38, tr.593]; kế thừa và phát triển những quan điểm của Đảng, Đại hội
đại biểu toàn quốc lần thứ IX của Đảng (2001) tiếp tục khẳng định, bổ sung
và phát triển: “Phát triển giáo dục và đào tạo là quốc sách hàng đầu, là nền
tảng và động lực đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước” [29,
tr.657]. Như vậy, quan điểm mà Đại hội IX của Đảng bổ sung và phát triển là
một vấn đề có ý nghĩa chiến lược, là nhiệm vụ hết sức quan trọng của sự
nghiệp giáo dục nói chung, giáo dục phổ thông nói riêng. Từ đó, Đại hội đã
xác định nhiệm vụ và giải pháp chủ yếu cho phát triển giáo dục:
Một là, tiếp tục nâng cao chất lượng giáo dục toàn diện, đổi mới nội
dung, phương pháp dạy và học, hệ thống trường lớp và hệ thống quản lý giáo
dục; thực hiện “chuẩn hóa, hiện đại hóa, xã hội hóa”... đẩy mạnh phong trào
học tập trong nhân dân… thực hiện “giáo dục cho mọi người”, “cả nước trở
thành một xã hội học tập”.
Hai là, coi trọng công tác hướng nghiệp và phân luồng học sinh trung
học, chuẩn bị cho thanh niên, thiếu niên đi vào lao động nghề nghiệp phù hợp
với sự chuyển dịch cơ cấu kinh tế trong cả nước và từng địa phương. Phát huy
tinh thần độc lập suy nghĩ và sáng tạo của học sinh, đề cao năng lực tự học, tự
18
hoàn thiện học vấn và tay nghề. Thực hiện phương châm học đi đôi với hành,
giáo dục kết hợp với lao động sản xuất, nhà trường kết hợp với xã hội.
Ba là, củng cố thành tựu xóa mù chữ và phổ cập giáo dục tiểu học, phấn
đấu để ngày càng có nhiều trường tiểu học đủ điều kiện học hai buổi mỗi ngày
tại trường, được học ngoại ngữ và tin học. Đẩy nhanh tiến độ phổ cập giáo dục
THCS, tạo điều kiện cho những địa phương có khả năng hoàn thành sớm việc
phổ cập giáo dục bậc THPT qua việc mở rộng quy mô đào tạo và phát triển đa
dạng các loại hình trường phổ thông trung học.
Bốn là, tăng ngân sách nhà nước cho giáo dục và đào tạo theo nhịp độ
tăng kinh tế. Từng bước xúc tiến việc nối mạng internet ở trường học, tạo
điều kiện học tập, nghiên cứu trên mạng.
Năm là, tăng cường giáo dục chính trị, tư tưởng, đạo đức, lối sống cho học sinh.
Sáu là, thực hiện công bằng xã hội trong giáo dục, tạo điều kiện cho
người nghèo có cơ hội học tập, tiếp tục phát triển các trường phổ thông nội trú
giành cho con em dân tộc thiểu số. Có chính sách hỗ trợ đặc biệt những học sinh
có năng khiếu, có hoàn cảnh sống khó khăn được theo học ở các bậc học cao.
Bảy là, thực hiện chủ trương xã hội hóa giáo dục, phát triển đa dạng
các hình thức đào tạo, đẩy mạnh việc xây dựng các qũy khuyến khích tài
năng trẻ, các tổ chức khuyến học, bảo trợ giáo dục.
Tám là, giải quyết dứt điểm những vấn đề bức xúc: sửa đổi chương trình
đào tạo đáp ứng yêu cầu về nguồn nhân lực của sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện
đại hóa; cải tiến chế độ thi cử, khắc phục khuynh hướng “thương mại hóa” giáo
dục, ngăn chặn những tiêu cực trong giáo dục [32, tr.654-657].
Nhằm cụ thể hóa quan điểm Đại hội IX của Đảng về phát triển giáo
dục và đào tạo, Chiến lược phát triển giáo dục 2001-2010 của Chính phủ
(2001) đã vạch ra những mục tiêu cụ thể đối với giáo dục phổ thông: giáo
dục phổ thông thực hiện giáo dục toàn diện về đức, trí, thể, mỹ. Cung cấp
học vấn phổ thông cơ bản, hệ thống và có tính hướng nghiệp; tiếp cận trình
19
độ các nước phát triển trong khu vực. Tăng tỷ lệ huy động học sinh trong độ
tuổi đến trường từ 95% năm 2000 lên 97% năm 2005 và 99% năm 2010;
THCS: cung cấp cho học sinh học vấn phổ thông cơ sở và những hiểu biết
ban đầu về kỹ thuật và hướng nghiệp để thực hiện phân luồng sau THCS, tạo
điều kiện để học sinh tiếp tục học tập hoặc đi vào cuộc sống lao động. Đạt
chuẩn phổ cập THCS ở các thành phố, đô thị, vùng kinh tế phát triển vào
năm 2005, trong cả nước năm 2010. Tăng tỷ lệ học sinh THCS trong độ tuổi
từ 74% năm 2000 lên 80% vào năm 2005 và 90% năm 2010; THPT: tăng tỷ
lệ học sinh trong độ tuổi vào THPT từ 38% năm 2000 lên 45% vào năm
2005 và 50% vào năm 2010. Đồng thời, chiến lược cũng nhấn mạnh cần mở
rộng cơ hội giáo dục cho tất cả trẻ em trong độ tuổi từ 6 đến 14 tuổi được đi
học. Xóa phòng học tạm và xây mới trường đạt chuẩn quốc gia. Cấp đủ sách
cho tất cả học sinh tiểu học và THCS. Tăng tỉ lệ giáo viên phổ thông đạt
chuẩn quốc gia. Bồi dưỡng và đào tạo lại giáo viên, mỗi giáo viên được bồi
dưỡng ít nhất 30 ngày trong một năm. Hiện đại hóa phương thức dạy và học.
Nâng cao cơ hội học tập bằng việc tăng số giờ học trên lớp của học sinh.
Đến tháng 7 năm 2002, tại Hội nghị lần thứ 6 BCHTW Đảng khóa IX,
sau khi kiểm điểm việc thực hiện Nghị quyết Trung ương 2 khóa VIII, Hội nghị
đã đề ra 3 nhiệm vụ lớn đó là: nâng cao chất lượng, hiệu quả giáo dục và đào tạo
nhân tài; phát triển hợp lý quy mô giáo dục, cả đại trà và mũi nhọn trên cơ sở
bảo đảm chất lượng và nâng cao hiệu quả giáo dục, gắn với yêu cầu phát triển
kinh tế, xã hội; thực hiện công bằng trong giáo dục, tạo cơ hội học tập ngày càng
tốt hơn ở mọi cấp học và trình độ đào tạo cho mọi tầng lớp nhân dân. Để thực
hiện có hiệu quả các nhiệm vụ trên, Hội nghị đưa ra một số giải pháp cơ bản: đổi
mới, nâng cao năng lực quản lý nhà nước về giáo dục; xây dựng và triển khai
chương trình Xây dựng đội ngũ nhà giáo và cán bộ quản lý giáo dục một cách
toàn diện; tiếp tục hoàn thiện cơ cấu hệ thống quốc dân và sắp xếp, củng cố, phát
triển mạng lưới trường lớp, cơ sở giáo dục; tăng cường đầu tư cho giáo dục đúng
20
với yêu cầu quốc sách hàng đầu; đẩy mạnh xã hội hóa giáo dục, coi đây là một
giải pháp quan trọng để tiếp tục phát triển giáo dục.
Nhận thức ngày càng đầy đủ hơn vị trí và vai trò của giáo dục nói chung,
giáo dục phổ thông nói riêng, Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ X (2006) chỉ rõ:
“Giáo dục và đào tạo cùng với khoa học và công nghệ là quốc sách hàng đầu,
là nền tảng và động lực thúc đẩy công nghiệp hóa, hiện đại hóa” [31, tr.9495]. Đồng thời, Đại hội cũng chỉ rõ: Đổi mới tư duy giáo dục một cách nhất
quán từ mục tiêu, chương trình, nội dung, phương pháp đến cơ cấu và hệ
thống tổ chức, cơ chế quản lý để tạo được chuyển biến căn bản và toàn diện
của nền giáo dục nước nhà, tiếp cận với trình độ giáo dục của khu vực và thế
giới; khắc phục cách đổi mới chắp vá, thiếu tầm nhìn tổng thể, thiếu kế hoạch đồng
bộ. Phấn đấu xây dựng nền giáo dục hiện đại, của dân, do dân và vì dân, đảm bảo
công bằng về cơ hội học tập cho mọi người, tạo điều kiện để toàn xã hội học tập và
học tập suốt đời, đáp ứng yêu cầu công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước.
Quán triệt, vận dụng chủ trương của Đảng, tại Đại hội đại biểu đảng bộ
thành phố Hải Phòng lần thứ XII (2001) đã xác định phương hướng phát triển
giáo dục phổ thông trong định hướng phát triển kinh tế, xã hội của thành phố
giai đoạn 2001 - 2005 là: “Ưu tiên phát triển mạnh lực lượng sản xuất gắn với
xây dựng quan hệ sản xuất phù hợp, phát triển giáo dục, khoa học - công
nghệ” [23, tr.10]. Trên cơ sở nhận định, đánh giá kết quả đã đạt được cũng
như hạn chế còn tồn tại, Đại hội chỉ rõ mục tiêu, phương hướng, nhiệm vụ của
giáo dục phổ thông giai đoạn 2001-2005 là:
Giáo dục là khâu đột phá để phát triển nhanh, bền vững, cần tiếp tục
thực hiện tốt mục tiêu nâng cao dân trí, đào tạo nhân lực, bồi dưỡng
nhân tài. Nâng cao chất lượng đội ngũ giáo viên, học sinh để tạo
nguồn nhân lực cao đáp ứng yêu cầu CNH, HĐH. Tăng cường giáo
dục chủ nghĩa Mác-Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, truyền thống đạo lý
dân tộc gắn với xây dựng các tổ chức chính trị-xã hội vững mạnh
trong nhà trường. Tập trung cao cho công tác quản lý giáo dục, đẩy
21
lùi, tiến tới chấm dứt các tiêu cực trong ngành. Củng cố và nâng cao
chất lượng phổ cập, hết sức coi trọng môn tin học và ngoại ngữ. Đến
năm 2005, hoàn thành xây dựng kiên cố các phòng học ở xã và có
nhiều trường đạt chuẩn quốc gia. Tăng nhanh số học sinh tiểu học
được học 2 buổi/ngày. Đẩy mạnh xã hội hoá, mở rộng các loại hình
giáo dục, phát huy dân chủ trong giáo dục [23, tr.17-18].
Quán triệt sâu sắc và thực hiện quan điểm phát triển giáo dục phổ thông
của Đại hội đại biểu đảng bộ thành phố Hải Phòng lần thứ XII, công tác giáo dục
phổ thông của thành phố đã đạt được những kết quả tích cực. Đến Đại hội đại
biểu Đảng bộ thành phố Hải Phòng lần thứ XIII (2005) tiếp tục đề ra chủ trương
tiếp tục đổi mới, phát triển toàn diện giáo dục và đào tạo, nâng cao chất lượng
nguồn nhân lực, được tập trung trên những nội dung chủ yếu sau:
Một là, tăng cường đầu tư phát triển giáo dục để tiếp tục thực hiện toàn
diện các mục tiêu: nâng cao dân trí, đào tạo nhân lực, bồi dưỡng nhân tài, phát
triển nguồn nhân lực chất lượng cao, xây dựng con người Hải Phòng phát
triển toàn diện cả về thể lực, trí lực, có tác phong công nghiệp, khoa học và có
phẩm chất đạo đức, lối sống trong sáng, lành mạnh.
Hai là, củng cố, giữ vững kết quả phổ cập giáo dục tiểu học và trung
học cơ sở, cơ bản hoàn thành phổ cập giáo dục bậc trung học và nghề vào
năm 2008. Quan tâm đầu tư nâng cấp cơ sở vật chất trường, lớp theo hướng
đạt chuẩn quốc gia; đầu tư xây dựng cơ sở vật chất và nâng cao chất lượng
giáo dục của trường trung học phổ thông năng khiếu Trần Phú và một số
trường trọng điểm; nâng cao chất lượng đội ngũ cán bộ quản lý giáo dục và
nhà giáo; đẩy mạnh dạy tin học và ngoại ngữ trong các nhà trường. Phát triển
quy mô giáo dục theo cơ cấu các loại hình phù hợp với sự phát triển kinh tếxã hội và theo hướng đẩy mạnh “xã hội hóa”, từng bước chuyển đổi một số cơ
sở giáo dục công lập sang mô hình ngoài công lập; phát triển các trung tâm
học tập cộng đồng; từng bước hình thành vững chắc xã hội học tập.
Ba là, chủ động rà soát, đổi mới, hoàn thiện quy hoạch mạng lưới các
22
cơ sở giáo dục, vận dụng có hiệu quả các cơ chế, chính sách của Nhà nước đã
có, ban hành các cơ chế, chính sách trong phạm vi thẩm quyền của thành phố
để đẩy mạnh đào tạo nguồn lao động kỹ thuật thực hành có chất lượng cao,
đáp ứng yêu cầu CNH, HĐH và hội nhập kinh tế quốc tế [24, tr. 31-32].
Để chủ trương nâng cao chất lượng nguồn nhân lực theo tinh thần của
Đại hội đại biểu đảng bộ thành phố lần thứ XIII đạt hiệu quả cao hơn, tháng 4
năm 2008 Thành ủy Hải Phòng đã ra Nghị quyết số 18-NQ/TU về một số chủ
trương, giải pháp chủ yếu phát triển nhân lực chất lượng cao đáp ứng yêu cầu
công nghiệp hóa, hiện đại hóa thành phố đến năm 2010, định hướng 2020.
Thành ủy Hải Phòng đã xác định rõ quan điểm, nhiệm vụ và giải pháp chủ yếu:
Quan điểm:
Phát triển nhân lực chất lượng cao là nhiệm vụ hàng đầu và là khâu đột phá
của chiến lược phát triển kinh tế, xã hội trong giai đoạn đẩy mạnh CNH, HĐH.
Coi trọng việc phát hiện, bồi dưỡng, trọng dụng và tôn vinh nhân tài.
Phát triển nhân lực chất lượng cao bảo đảm đồng bộ cả về quy mô, cơ
cấu, số lượng, chất lượng, bảo đảm đáp ứng nhu cầu xã hội và yêu cầu phát
triển thành phố theo hướng CNH, HĐH, chủ động hội nhập quốc tế, thực hiện
thắng lợi các mục tiêu Nghị quyết Đại hội XIII Đảng bộ thành phố đã đề ra.
Phát triển nhân lực chất lượng cao là trách nhiệm, nghĩa vụ và quyền
lợi của cả hệ thống chính trị và của toàn xã hội. Trong đó, vai trò Nhà nước là
quan trọng trong việc tập trung đẩy mạnh thực hiện các nhiệm vụ phát triển
kinh tế, xã hội, xây dựng quy hoạch định hướng phát triển; quyết định cơ chế,
chính sách, tạo động lực và môi trường thúc đẩy phát triển nhân lực.
Nhiệm vụ và giải pháp:
Tăng cường sự lãnh đạo, chỉ đạo của các cấp ủy đảng, chính quyền, sự
tham gia, phối hợp của các ngành, đoàn thể, các tổ chức kinh tế - xã hội tham
gia phát triển nhân lực chất lượng cao.
Đẩy mạnh công tác thông tin, tuyên truyền nhằm nâng cao nhận thức
của toàn xã hội, góp phần làm thay đổi quan điểm và tâm lý xã hội, tạo động
lực phát triển nhân lực chất lượng cao.
23
Xây dựng và hoàn chỉnh quy hoạch, kế hoạch phát triển nhân lực chất
lượng cao của thành phố.
Phát triển hệ thống cơ sở đào tạo, nghiên cứu khoa học; đa dạng hóa các
loại hình, cấp độ đào tạo, thực hiện đào tạo theo địa chỉ và theo nhu cầu xã hội.
Xây dựng và thực hiện cơ chế, chính sách khuyến khích đào tạo, thu
hút và sử dụng nhân lực chất lượng cao.
Tập trung đầu tư, đẩy mạnh xã hội hóa, tăng cường hợp tác trong nước
và quốc tế trong đào tạo, phát triển nhân lực chất lượng cao [76, tr3-4].
Như vậy, trên cơ sở quán triệt đúng đắn các quan điểm, đường lối
chính sách của Đảng, Nhà nước và của ngành giáo dục, Đại hội XII, XIII
của Đảng bộ thành phố Hải Phòng và Nghị quyết số 18-NQ/TU của Thành
ủy đã đề ra những mục tiêu, phương hướng phát triển giáo dục phổ thông
phù hợp với tình hình cụ thể. Các quan điểm, chủ trương của Đảng, Đảng
bộ Hải Phòng không chỉ có ý nghĩa đối với đất nước, với thành phố Hải
Phòng mà nó còn tác động trực tiếp đến phát triển giáo dục phổ thông của
Tiên Lãng.
1.1.4. Yêu cầu đòi hỏi của thời kỳ mới
Thời đại hiện nay, trước sự phát triển mạnh mẽ của cuộc cách mạng
khoa học công nghệ, xu thế quốc tế hóa là tất yếu khách quan, sự cạnh tranh
giữa các nền kinh tế ngày càng gay gắt để tồn tại và hợp tác toàn diện dẫn đến
không một dân tộc nào có thể đứng vững ở vị trí tiên tiến mà thiếu sự học tập
tích cực. Sự phồn vinh của một quốc gia trong thế kỷ XXI, sẽ phụ thuộc rất
lớn vào khả năng học tập của dân chúng. Thực tiễn của nước ta cũng như trên
thế giới đã chứng minh, muốn đẩy mạnh tốc độ phát triển kinh tế, xã hội thì
một nhiệm vụ hết sức quan trọng được đặt ra, nhất là với các nước xã hội chủ
nghĩa, là phải hoàn thiện công tác giáo dục, đào tạo, để đảm bảo cho thế hệ trẻ
từng bước làm chủ được các quy luật cơ bản của tự nhiên, của xã hội, của bản
24
thân, trên cơ sở đó vươn lên làm chủ ở trình độ ngày càng cao về mọi mặt đời
sống kinh tế, chính trị, quốc phòng, an ninh, đối ngoại của đất nước.
Chính vì vậy, không chỉ Việt Nam mà nhiều nước trên thế giới coi giáo
dục, đào tạo là quốc sách hàng đầu. Thủ tướng Singapo - Lý Quang Diệu từng
nói: “Nếu thắng trong cuộc đua giáo dục sẽ thắng trong phát triển kinh tế”
[90]. Trong bài diễn văn sau lễ nhận chức trước hai viện của Quốc hội Mỹ
sáng ngày 25/02/2009, Tổng thống Barack Obama khẳng định: “Trong nền
kinh tế toàn cầu, nơi thứ có giá trị nhất mà bạn có thể bán là tri thức của các
bạn. Một nền giáo dục tốt không chỉ là cơ hội mà là điều kiện tiên quyết” [90].
Song, trong nền giáo dục nói chung, trước hết phải nói đến giáo dục phổ thông,
bởi đây là nền tảng, là bước khởi đầu của hành trình giáo dục và quá trình
chiếm lĩnh tri thức. Nhận định về vị trí, vai trò quan trọng của giáo dục phổ
thông, trong một công trình nghiên cứu ứng dụng vào thực tiễn về những ưu
tiên và chiến lược cho giáo dục, Ngân hàng thế giới đã có kết luận: “Giáo
dục, đặc biệt là giáo dục cơ bản (GDPT) góp phần làm giảm đói nghèo, tăng
năng suất lao động của từng lớp lao động nghèo, giảm sinh đẻ và tăng cường
sức khoẻ, giúp mọi người cùng có cơ hội tham gia đầy đủ vào hoạt động xã
hội và phát triển kinh tế” [89].
Hiện nay, nhằm thực hiện những mục tiêu khác nhau tùy theo bản chất
của mỗi chế độ xã hội, nhiều nước trên thế giới đang tiếp tục tiến hành cải
cách giáo dục phổ thông, đưa các thành tựu mới nhất của khoa học và kỹ
thuật vào nhà trường như các thành tựu về máy tính, về tin học, về công nghệ
sinh học… Làm cho xu thế đổi mới giáo dục phổ thông diễn ra trên quy mô
toàn cầu, tạo nên những thay đổi sâu sắc từ triết lý, quan niệm, giá trị đến mục
tiêu, nội dung, phương pháp. Trong đó, trọng tâm chủ yếu tập trung vào cải
cách nội dung chương trình và sách giáo khoa. Nhà trường từ chỗ “khép kín”,
“kinh viện” chuyển sang “mở cửa” hội nhập, đối thoại với xã hội và gắn với
nhu cầu phát triển kinh tế, xã hội, tiến bộ khoa học, công nghệ, củng cố quốc
25