Tải bản đầy đủ (.doc) (111 trang)

LUẬN văn THẠC sĩ ĐẢNG bộ TỈNH hải DƯƠNG LÃNH đạo PHÁT TRIỂN THÀNH PHẦN KINH tế có vốn đầu tư nước NGOÀI GIAI đoạn 2001 2010

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (2.15 MB, 111 trang )

DANH MỤC CHỮ VIẾT TẮT
Chữ viết đầy đủ
Đầu tư nước ngoài
Kinh tế - xã hội
Nhà xuất bản
Ủy ban nhân dân

Chữ viết tắt
ĐTNN
KT-XH
Nxb
UBND

MỤC LỤC

1


Trang
MỞ ĐẦU

Chương 1: CHỦ TRƯƠNG VÀ SỰ CHỈ ĐẠO CỦA ĐẢNG BỘ

3
10

TỈNH HẢI DƯƠNG VỀ PHÁT TRIỂN THÀNH PHẦN
KINH TẾ CÓ VỐN ĐẦU TƯ NƯỚC NGOÀI (2000 1.1.

2005)
Yêu cầu khách quan và chủ trương của Đảng bộ tỉnh Hải Dương về



10

phát triển thành phần kinh tế có vốn đầu tư nước ngoài (2000 - 2005)
1.2.

Đảng bộ tỉnh Hải Dương chỉ đạo phát triển thành phần kinh

24

tế có vốn đầu tư nước ngoài (2000 - 2005)
Chương 2: ĐẢNG BỘ TỈNH HẢI DƯƠNG LÃNH ĐẠO ĐẨY

33

MẠNH PHÁT TRIỂN THÀNH PHẦN KINH TẾ CÓ
2.1.

VỐN ĐẦU TƯ NƯỚC NGOÀI (2006 - 2010)
Yêu cầu mới và chủ trương của Đảng bộ tỉnh Hải Dương về đẩy mạnh

33

phát triển thành phần kinh tế có vốn đầu tư nước ngoài (2006 - 2010)
2.2.

Đảng bộ tỉnh Hải Dương chỉ đạo đẩy mạnh phát triển thành

43


phần kinh tế có vốn đầu tư nước ngoài (2006 - 2010)
Chương 3: NHẬN XÉT VÀ KINH NGHIỆM
3.1.
Nhận xét quá trình Đảng bộ tỉnh Hải Dương lãnh đạo phát triển

55
55

thành phần kinh tế có vốn đầu tư nước ngoài (2000 - 2010)
Kinh nghiệm từ quá trình Đảng bộ tỉnh Hải Dương lãnh đạo phát

69

3.2.

triển thành phần kinh tế có vốn đầu tư nước ngoài (2000 - 2010)
KẾT LUẬN
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
PHỤ LỤC

86
88
97

MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài

2



Kinh tế là một lĩnh vực trọng yếu, tạo cơ sở vật chất vững chắc cho sự tồn
tại và phát triển của quốc gia dân tộc. Trong quá trình đổi mới toàn diện đất
nước, Đảng Cộng sản Việt Nam luôn nhất quán chủ trương ưu tiên đổi mới, phát
triển kinh tế, coi đó là nhiệm vụ trung tâm, có ý nghĩa quyết định sức mạnh tổng
hợp của quốc gia. Sau 30 năm đổi mới toàn diện đất nước, dưới sự lãnh đạo của
Đảng, kinh tế Việt Nam có bước phát triển quan trọng, chấm dứt tình trạng
khủng hoảng, ra khỏi danh sách nước nghèo kém phát triển và bước đầu xây
dựng được nhiều tiền đề để sớm cơ bản trở thành nước công nghiệp.
Trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam, sự tồn tại và phát
triển của kinh tế nhiều thành phần nói chung và kinh tế có vốn ĐTNN nói riêng
là một tất yếu khách quan. Thực tiễn 30 năm đổi mới cho thấy kinh tế có vốn
ĐTNN đã và đang chứng tỏ vai trò và động lực quan trọng đối với sự phát triển
của kinh tế Việt Nam trên con đường hội nhập. Thực hiện chủ trương của Đảng,
Đảng bộ và nhân dân các tỉnh, thành phố trong cả nước đã phát huy tối đa tiềm
năng, lợi thế, tích cực, chủ động phát triển kinh tế có vốn ĐTNN theo định
hướng xã hội chủ nghĩa, góp phần thúc đẩy kinh tế cả nước nói chung và các địa
phương nói riêng phát triển, hội nhập nhanh, hiệu quả và bền vững.
Hải Dương là một tỉnh nằm ở trung tâm đồng bằng Bắc Bộ, thuộc địa
bàn vùng kinh tế trọng điểm phía Bắc. Trong những năm đổi mới, đặc biệt là
10 năm đầu của thế kỷ XXI, dưới sự lãnh đạo của Đảng bộ Tỉnh, kinh tế có
vốn ĐTNN đã phát triển nhanh cả về số lượng và chất lượng, đưa Hải Dương
trở thành một “điểm sáng” trong thu hút ĐTNN. Tuy nhiên, quá trình phát
triển kinh tế có vốn ĐTNN ở Hải Dương vẫn còn bộc lộ nhiều hạn chế, nhất
là tình trạng phát triển tự phát, gây những tác động tiêu cực, tạo ra trở ngại
không nhỏ cho sự phát triển bền vững của Tỉnh trong những năm qua.
Thực trạng trên đặt ra yêu cầu khách quan là cần tiếp tục làm tốt công
tác nghiên cứu lý luận, tổng kết thực tiễn quá trình lãnh đạo phát triển kinh tế
có vốn ĐTNN của Đảng bộ tỉnh Hải Dương trong những năm 2000 - 2010,
rút ra những kinh nghiệm quý báu, cung cấp những luận cứ quan trọng để


3


Đảng bộ Tỉnh tiếp tục hoàn thiện chủ trương, chính sách lãnh đạo, chỉ đạo
phát triển kinh tế có vốn ĐTNN trong thời kỳ mới.
Với ý nghĩa đó, tác giả chọn đề tài “Đảng bộ tỉnh Hải Dương lãnh đạo phát
triển thành phần kinh tế có vốn đầu tư nước ngoài từ năm 2000 đến năm 2010”
làm Luận văn thạc sĩ Lịch sử, chuyên ngành Lịch sử Đảng Cộng sản Việt Nam.
2. Tình hình nghiên cứu có liên quan đến đề tài
Vấn đề phát triển kinh tế có vốn ĐTNN đã trở thành đề tài hấp dẫn, thu
hút sự quan tâm, nghiên cứu của nhiều cơ quan, các nhà khoa học, trong đó
liên quan trực tiếp đến đề tài có các nhóm công trình sau:
Nhóm công trình nghiên cứu về kinh tế có vốn ĐTNN ở Việt Nam
Lê Văn Châu (1995), Vốn nước ngoài và chiến lược phát triển kinh tế ở
Việt Nam, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội. Hoàng Công Hồng (1996), Xây dựng
môi trường đầu tư lành mạnh ổn định nhằm thu hút có hiệu quả nguồn đầu tư nước
ngoài, Luận án tiến sĩ kinh tế, Hà Nội. Mai Ngọc Cường (2000), Hoàn thiện chính
sách và tổ chức thu hút đầu tư trực tiếp nước ngoài ở Việt Nam, Nxb Chính trị quốc
gia, Hà Nội. Hoàng Văn Huấn (2001), Chính sách khuyến khích đầu tư nước ngoài
của Việt Nam, Nxb Thế giới, Hà Nội. Vũ Xuân Bình (2002), “Đầu tư trực tiếp nước
ngoài - nguồn tiềm năng quan trọng đối với phát triển kinh tế - xã hội ở Việt Nam”,
Tạp chí Giáo dục Lý luận, số 6. Lưu Tiền Hải (2002), “Đầu tư trực tiếp nước ngoài,
những xu hướng hiện nay”, Tạp chí ngoại thương, số 13. Phạm Ngọc Anh (2004),
“Thu hút đầu tư nước ngoài - từ những ý tưởng của Hồ Chí Minh đến thực tiễn phát
triển hiện nay”, Việt Nam trên con đường lớn (1945 - 2005) vì mục tiêu dân giàu,
nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh, Nxb Lao động, Hà Nội. Mai Văn
Bảo (2005), “Kinh tế có vốn đầu tư nước ngoài góp phần thúc đẩy kinh tế - xã hội
đất nước”, Tạp chí lý luận chính trị, số 8. Lê Thị Thúy Nga (2005), Môi trường đầu
tư ở Việt Nam - Thực trạng và giải pháp, Luận văn thạc sĩ kinh tế, Trường Đại học
Kinh tế quốc dân, Hà Nội. Ngô Hoài Anh (2006), Quản lý Nhà nước đối với lĩnh

vực đầu tư nước ngoài ở nước ta hiện nay, Luận án tiến sĩ kinh tế, Trường Đại học
Kinh tế quốc dân, Hà Nội. Đỗ Đức Bình (2006), Đầu tư trực tiếp nước ngoài của
các công ty xuyên quốc gia tại Việt Nam, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội. Nguyễn
Bích Đạt (2006), Khu vực kinh tế có vốn đầu tư nước ngoài trong nền kinh tế thị

4


trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
Ngô Văn Hiền (2006), “Đầu tư trực tiếp nước ngoài trong tiến trình hội nhập kinh
tế quốc tế”, Tạp chí Kinh tế và phát triển, số 114. Trần Quang Lâm (2006), Kinh tế
có vốn đầu tư nước ngoài ở Việt Nam hiện nay, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội. Bộ
Kế hoạch và Đầu tư (2007), Báo cáo tình hình đầu tư nước ngoài cho đến năm
2007, Hà Nội. Cục Đầu tư nước ngoài (2007), 20 năm đầu tư nước ngoài: Nhìn lại
và hướng tới, Nxb Tri thức, Hà Nội. Phùng Xuân Nhạ (chủ biên) (2007), Các hình
thức đầu tư trực tiếp nước ngoài ở Việt Nam - Chính sách và thực tiễn, Nxb Đại
học quốc gia, Hà Nội. Phí Thị Lan Phương (2007), Phát triển kinh tế có vốn đầu tư
nước ngoài trong điều kiện hội nhập kinh tế quốc tế ở Việt Nam, Luận văn thạc sĩ
kinh tế, Đại học Kinh tế Thành phố Hồ Chí Minh. Cao Thị Lệ (2008), Khu vực
kinh tế có vốn đầu tư nước ngoài và vấn đề phát triển bền vững ở Việt Nam, Luận
văn thạc sĩ kinh tế, Đại học Kinh tế quốc dân, Hà Nội. Phan Hữu Thắng (2008),
Tổng kết 20 năm Luật đầu tư nước ngoài tại Việt Nam, Tạp chí Kinh tế và dự báo,
số 1/2008. Bộ Kế hoạch và Đầu tư (2013), Kỷ yếu hội nghị 25 năm đầu tư trực
tiếp nước ngoài tại Việt Nam, Hà Nội. Phạm Xuân Hữu (2013), Đảng Cộng sản
Việt Nam lãnh đạo phát triển kinh tế có vốn đầu tư nước ngoài từ năm 2001 đến
năm 2010, Luận văn thạc sĩ Lịch sử Đảng Cộng sản Việt Nam, Học Viện Chính
trị - Bộ Quốc phòng.
Các công trình trên đều khẳng định tính tất yếu khách quan về sự tồn tại của
kinh tế có vốn ĐTNN ở Việt Nam trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội. Với
nhiều cách tiếp cận khác nhau, các tác giả đã luận giải sâu sắc cơ sở lý luận, thực

tiễn, thực trạng và tác động của kinh tế có vốn ĐTNN ở Việt Nam trong gần 30
năm qua. Vì vậy, đây là nguồn tư liệu quý, trực tiếp cung cấp cho tác giả những
tiền đề lý luận và cơ sở thực tiễn đúng đắn trong nhận thức về kinh tế có vốn
ĐTNN ở Việt Nam hiện nay. Trên cơ sở đó, giúp tác giả phát triển tư duy hệ
thống, toàn diện và biện chứng trong nghiên cứu quá trình Đảng bộ tỉnh Hải
Dương lãnh đạo phát triển kinh tế có vốn ĐTNN từ năm 2000 đến năm 2010.
Nhóm công trình nghiên cứu về kinh tế có vốn ĐTNN ở các địa phương

5


Phan Hy (1996), Đầu tư trực tiếp nước ngoài tại Thành phố Hồ Chí
Minh, Luận văn thạc sĩ kinh tế, Hà Nội. Lê Hồng Sơn (1998), Vấn đề thu hút
vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài ở tỉnh Đồng Nai, Luận văn thạc sĩ kinh tế, Hà
Nội. Lê Thị Hương Quê (2008), Đầu tư trực tiếp nước ngoài tại Nghệ An,
Luận văn thạc sĩ kinh tế, Đại học Kinh tế quốc dân Hà Nội. Nguyễn Thị Ngọc
Mai (2010), Đầu tư trực tiếp nước ngoài tại Hà Nội, Luận văn thạc sỹ kinh tế,
Đại học Kinh tế quốc dân Hà Nội. Phạm Duyên Minh (2009), Phát triển kinh
tế có vốn đầu tư nước ngoài ở Bắc Ninh hiện nay, Luận văn thạc sĩ kinh tế,
Học viện Chính trị - Bộ Quốc phòng. Nguyễn Văn Nam (2000), Đầu tư trực
tiếp nước ngoài tại Đà Nẵng, Luận văn thạc sĩ kinh tế, Đại học Kinh tế quốc
dân Hà Nội. Nguyễn Thị Nga (2011), Những tác động trái chiều của đầu tư
trực tiếp nước ngoài đến đời sống kinh tế - xã hội ở Đồng Nai hiện nay, Luận
văn thạc sĩ kinh tế, Học viện Chính trị. Đặng Xuân Thùy (2011), Thu hút đầu
tư nước ngoài vào phát triển công nghiệp ở Vĩnh Phúc, Luận án tiến sĩ kinh
tế, Đại học Kinh tế quốc dân, Hà Nội. Nguyễn Thị Vân (2012), Vai trò của
đầu tư trực tiếp nước ngoài đối với sự phát triển kinh tế vùng Đông Nam Bộ,
Tạp chí Khoa học xã hội, số 11 (171).
Các công trình trên tiếp tục khẳng định tính tất yếu phát triển kinh
tế có vốn ĐTNN trên phạm vi cả nước cũng như ở các địa phương hiện

nay. Đồng thời đã đề cập một số nội dung trong chủ trương, chính sách
của Đảng bộ, chính quyền các địa phương về phát triển kinh tế có vốn
ĐTNN trong công cuộc đổi mới. Nhìn nhận khá sâu sắc và toàn diện về
thực trạng hoạt động và tác động của kinh tế có vốn ĐTNN ở các địa
phương trong cả nước hiện nay. Các tài liệu trên đã phản ánh hoạt động
lãnh đạo của các đảng bộ ở các địa phương về phát triển kinh tế có vốn
ĐTNN trong những năm đổi mới. Đây là nguồn tài liệu tham khảo rất bổ
ích đối với tác giả nhất là trong so sánh, đánh giá về chủ trương chính
sách phát triển kinh tế có vốn ĐTNN của Đảng bộ tỉnh Hải Dương với các
đảng bộ ở các địa phương khác trong cả nước.
Nhóm công trình nghiên cứu về kinh tế có vốn ĐTNN tỉnh Hải Dương

6


Nguyễn Thị Thu Thủy (2006), Môi trường đầu tư trực tiếp nước ngoài
tỉnh Hải Dương - Thực trạng và giải pháp, Khóa luận tốt nghiệp Đại học
Ngoại thương, Hà Nội. Nguyễn Văn Tứ, (2009), Phát triển bền vững công
nghiệp trên địa bàn tỉnh Hải Dương, Luận văn thạc sĩ kinh tế, Học viện Chính
trị - Hành chính khu vực I, Hà Nội. Nguyễn Quang Tạo (2013), Tác động của
đầu tư trực tiếp nước ngoài đến phát triển kinh tế - xã hội ở Hải Dương, Luận
văn thạc sĩ kinh tế chính trị, Học viện Chính trị - Bộ Quốc phòng, Hà Nội.
Vương Đức Sáng (2014), Đầu tư trực tiếp nước ngoài của tỉnh Hải Dương cùng
vấn đề đặt ra từ sau khi Việt Nam ra nhập WTO, Cổng thông tin điện tử Sở Kế
hoạch và Đầu tư tỉnh Hải Dương.
Các công trình trên đã làm rõ quá trình tồn tại và phát triển của thành
phần kinh tế có vốn ĐTNN trên địa bàn tỉnh Hải Dương. Các công trình chủ yếu
đề cập thực trạng phát triển và những tác động của kinh tế có vốn ĐTNN trên
địa bàn tỉnh Hải Dương hiện nay. Trên cơ sở đó đề xuất các kiến nghị, giải pháp
thực tiễn để phát triển kinh tế có vốn ĐTNN trên địa bàn Tỉnh trong những năm

tiếp theo. Mặc dù chưa nghiên cứu một cách hệ thống, toàn diện hoạt động lãnh
đạo của Đảng bộ tỉnh Hải Dương trong phát triển kinh tế có vốn ĐTNN nhưng
các công trình trên là nguồn tài liệu quý, trực tiếp cung cấp cho tác giả những số
liệu thực tiễn sinh động và phong phú về thực trạng phát triển của kinh tế có vốn
ĐTNN trên địa bàn tỉnh Hải Dương trong gần 30 năm đổi.
Tóm lại, ngay từ khi ra đời, kinh tế có vốn ĐTNN đã nhận được sự quan
tâm nghiên cứu của nhiều học giả thuộc nhiều ngành khoa học và dưới nhiều cấp
độ khác nhau. Bằng cơ sở lý luận và thực tiễn các công trình đã khẳng định tính
tất yếu và vai trò to lớn của kinh tế có vốn ĐTNN đối với phát triển kinh tế Việt
Nam trong bối cảnh hội nhập. Trên cơ sở đánh giá thực trạng các công trình
nghiên cứu đã đề xuất nhiều kiến nghị, giải pháp phát triển kinh tế có vốn
ĐTNN trên phạm vi cả nước cũng như trên một số địa bàn trọng điểm. Tuy
nhiên, xét một cách tổng thể, dưới góc độ khoa học Lịch sử Đảng, cho đến nay
chưa có công trình nào nghiên cứu toàn diện và có hệ thống về chủ trương, sự
chỉ đạo của Đảng bộ tỉnh Hải Dương trong phát triển kinh tế có vốn ĐTNN

7


trong 10 năm đầu của thế kỷ XXI. Do đó, đề tài: “Đảng bộ tỉnh Hải Dương
lãnh đạo phát triển thành phần kinh tế có vốn đầu tư nước ngoài từ năm
2000 đến năm 2010” là một công trình nghiên cứu độc lập, không trùng lặp với
các công trình nghiên cứu về kinh tế có vốn ĐTNN đã được công bố.
3. Mục đích, nhiệm vụ nghiên cứu
* Mục đích nghiên cứu
Đề tài nghiên cứu làm sáng tỏ quá trình Đảng bộ tỉnh Hải Dương lãnh
đạo phát triển thành phần kinh tế có vốn ĐTNN từ năm 2000 đến năm 2010.
Trên cơ sở đó, rút ra một số nhận xét và những kinh nghiệm chủ yếu để vận
dụng trong những năm tới.
* Nhiệm vụ nghiên cứu

Làm rõ yêu cầu khách quan Đảng bộ tỉnh Hải Dương lãnh đạo phát triển
thành phần kinh tế có vốn ĐTNN trong những năm 2000 - 2010.
Phân tích, luận giải làm rõ chủ trương và sự chỉ đạo của Đảng bộ tỉnh Hải
Dương về phát triển thành phần kinh tế có vốn ĐTNN từ năm 2000 đến năm 2010.
Nhận xét quá trình Đảng bộ tỉnh Hải Dương lãnh đạo phát triển thành
phần kinh tế có vốn ĐTNN trong những năm 2000 - 2010 và rút ra những
kinh nghiệm chủ yếu, có giá trị.
4. Đối tượng, phạm vi nghiên cứu
* Đối tượng nghiên cứu
Đề tài nghiên cứu hoạt động lãnh đạo của Đảng bộ tỉnh Hải Dương về
phát triển kinh tế có vốn ĐTNN.
* Phạm vi nghiên cứu
Về nội dung: Đề tài tập trung nghiên cứu chủ trương và sự chỉ đạo phát
triển kinh tế có vốn ĐTNN của Đảng bộ tỉnh Hải Dương.
Về thời gian: Tập trung trong khoảng thời gian từ năm 2000 đến năm
2010. Tuy nhiên, để đảm bảo tính hệ thống và mục đích nghiên cứu đề tài có
sử dụng tài liệu, tư liệu trước năm 2000 và sau năm 2010.
Về không gian: Nghiên cứu trên địa bàn tỉnh Hải Dương.
5. Phương pháp luận và phương pháp nghiên cứu
* Phương pháp luận
Đề tài nghiên cứu dựa trên phương pháp luận duy vật biện chứng, duy
vật lịch sử của chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh và phương pháp
luận sử học macxít.
* Phương pháp nghiên cứu

8


Đề tài sử dụng phương pháp lịch sử và phương pháp lôgíc là chủ yếu. Đồng
thời trong quá trình thực hiện, đề tài còn sử dụng các phương pháp đồng đại, lịch

đại, so sánh, thống kê, phân tích, tổng hợp…
6. Ý nghĩa của đề tài
Đề tài góp phần tổng kết quá trình Đảng bộ tỉnh Hải Dương lãnh đạo
phát triển kinh tế có vốn ĐTNN từ năm 2000 đến năm 2010. Khẳng định vai
trò quyết định của Đảng bộ tỉnh Hải Dương đối với sự phát triển kinh tế nói
chung, kinh tế có vốn ĐTNN nói riêng. Trên cơ sở đó tiếp tục củng cố, giữ
vững niềm tin của quần chúng nhân dân vào sự lãnh đạo của Đảng bộ Tỉnh
trước những diễn biến phức tạp của tình hình hiện nay.
Đề tài là một nguồn tư liệu để các cấp ủy đảng, chính quyền và các tổ
chức chính trị - xã hội ở Hải Dương nghiên cứu, vận dụng trong lãnh đạo, chỉ
đạo, tổ chức thực hiện nhiệm vụ phát triển kinh tế có vốn ĐTNN một cách
chủ động, tích cực và hiệu quả.
Đề tài có thể sử dụng làm tài liệu tham khảo trong nghiên cứu, giảng dạy
Lịch sử Đảng Cộng sản Việt Nam ở các nhà trường trong và ngoài quân đội.
7. Kết cấu của đề tài
Luận văn gồm: Mở đầu, 03 chương (6 tiết), kết luận, danh mục tài liệu
tham khảo và phụ lục.

Chương 1
CHỦ TRƯƠNG VÀ SỰ CHỈ ĐẠO CỦA ĐẢNG BỘ TỈNH HẢI DƯƠNG VỀ PHÁT
TRIỂN THÀNH PHẦN KINH TẾ CÓ VỐN ĐẦU TƯ NƯỚC NGOÀI (2000 - 2005)

1.1. Yêu cầu khách quan và chủ trương của Đảng bộ tỉnh Hải Dương
về phát triển thành phần kinh tế có vốn đầu tư nước ngoài (2000 - 2005)
1.1.1. Yêu cầu khách quan lãnh đạo phát triển thành phần kinh tế có
vốn đầu tư nước ngoài ở Hải Dương
* Vị trí, vai trò của thành phần kinh tế có vốn đầu tư nước ngoài đối
với sự phát triển kinh tế - xã hội ở Hải Dương
- Quan niệm về kinh tế có vốn ĐTNN.


9


Kinh tế có vốn ĐTNN là một thuật ngữ mới được sử dụng trong một vài
thập niên gần đây, khi xuất hiện đầu tư từ nước ngoài vào một quốc gia nào đó
trên cơ sở hợp tác tự nguyện, bình đẳng, cùng có lợi. Với tư cách là một thành
phần kinh tế, kinh tế có vốn ĐTNN được hiểu là một loại hình kinh tế gồm những
cơ sở sản xuất kinh doanh có vốn của các doanh nghiệp, cá nhân người nước
ngoài tham gia đầu tư nhằm thực hiện những mục đích kinh tế nhất định. Đặc
trưng của kinh tế có vốn ĐTNN là tính quốc tế và đầu tư thu lợi nhuận. Vì vậy,
vốn của chính phủ và các tổ chức quốc tế, các cơ quan phi chính phủ của nước
ngoài ở các hình thức viện trợ không hoàn lại, cho vay ngắn hạn, cho vay với lãi
suất thấp hoặc lãi suất thông thường mang tính chất hỗ trợ nhân đạo cho các hoạt
động y tế, giáo dục, khắc phục hậu quả thiên tai… không nhằm mục đích đầu tư
kiếm lợi thì không nằm trong khuôn khổ của loại hình kinh tế có vốn ĐTNN.
Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VI (12/1986) của Đảng đánh dấu mốc
quan trọng trong tiến trình cách mạng Việt Nam; với quan điểm đổi mới toàn
diện, đồng bộ và triệt để Đại hội đã đề ra đường lối đổi mới toàn diện đưa đất
nước tiếp tục phát triển theo con đường xã hội chủ nghĩa. Nhận thức sâu sắc tính
tất yếu khách quan về mở rộng và nâng cao hiệu quả kinh tế đối ngoại, Đại hội
VI của Đảng chủ trương: công bố chính sách ĐTNN vào Việt Nam dưới nhiều
hình thức đồng thời đổi mới cơ chế, chính sách, tạo điều kiện thuận lợi cho
người nước ngoài và người Việt Nam định cư ở nước ngoài về nước hợp tác sản
xuất kinh doanh. Thực hiện chủ trương của Đảng, tháng 12 năm 1987, lần đầu
tiên “Luật đầu tư nước ngoài” của Việt Nam đã được công bố với nhiều chính
sách ưu đãi. Từ đó, Việt Nam nhanh chóng trở thành điểm đến hấp dẫn của các
nhà đầu tư đồng thời kinh tế có vốn ĐTNN từng bước khẳng định vị trí, vai trò
của mình đối với sự phát triển KT-XH của đất nước; là nguồn vốn bổ sung quan
trọng cho nhu cầu đầu tư phát triển, thúc đẩy tăng trưởng và quá trình chuyển
dịch cơ cấu kinh tế, góp phần quan trọng trong giải quyết việc làm, nâng cao

năng suất lao động, tạo điều kiện thuận lợi cho quá trình hội nhập của đất nước.
- Vị trí, vai trò của kinh tế có vốn ĐTNN với sự phát triển KT-XH tỉnh Hải Dương

10


Trong cơ cấu kinh tế nhiều thành phần của Hải Dương, kinh tế có vốn
ĐTNN có vị trí, vai trò quan trọng, biểu hiện:
Một là, kinh tế có vốn ĐTNN trực tiếp bổ sung vốn đầu tư và tăng thu cho
ngân sách địa phương. Quá trình công nghiệp hoá, hiện đại hoá, đất nước nói chung,
Hải Dương nói riêng đòi hỏi vốn đầu tư lớn. Trong quan hệ giữa đầu tư trong nước
và ĐTNN thì đầu tư trong nước là chủ yếu, giữ vai trò quyết định. Tuy nhiên, trong
điều kiện vốn đầu tư Trung ương khó khăn, tích luỹ từ nội bộ hạn chế thì tranh thủ
vốn ĐTNN trên cơ sở bảo đảm độc lập, tự chủ là rất cần thiết. Hải Dương là một tỉnh
thuần nông, vốn tích luỹ không đủ đáp ứng yêu cầu đầu tư; vì vậy, kinh tế có vốn
ĐTNN sẽ trực tiếp bổ sung nguồn vốn đầu tư, giảm bớt khó khăn về thiếu vốn đầu
tư. Cùng với các nguồn thu từ xuất khẩu, kinh tế có vốn ĐTNN còn tạo ra các nguồn
thu từ các hoạt động dịch vụ, góp phần tăng thu ngân sách của Tỉnh.
Hai là, kinh tế có vốn ĐTNN góp phần đẩy nhanh tốc độ tăng trưởng,
chuyển dịch cơ cấu kinh tế của Tỉnh. Kinh tế có vốn ĐTNN hoạt động sẽ tạo
nên sự kết hợp tối ưu giữa các yếu tố sản xuất và sử dụng triệt để các nguồn
lực nhàn rỗi trong Tỉnh tạo ra một khối lượng sản phẩm lớn. Để tổ chức hoạt
động các nhà ĐTNN phải thuê lao động, mua nguyên liệu, hàng hoá, dịch vụ
cần thiết, và các yếu tố đầu vào tại chỗ; những hoạt động này sẽ kích thích các
ngành, các thành phần kinh tế khác phát triển đồng thời kích thích nhu cầu
đầu tư, làm cho tổng vốn đầu tư toàn xã hội tăng lên. Kinh tế có vốn ĐTNN
trên địa bàn Tỉnh chủ yếu tập trung trong lĩnh vực sản xuất công nghiệp, theo
đó cơ cấu ngành, cơ cấu vùng, cơ cấu lao động của Tỉnh chuyển dịch tích cực
theo hướng tăng tỷ trọng ngành công nghiệp và dịch vụ.
Ba là, kinh tế có vốn ĐTNN sẽ tạo ra một khối lượng lớn việc làm và

nâng cao chất lượng lao động của Tỉnh. Kinh tế có vốn ĐTNN phát triển sẽ
thu hút một lượng lớn lao động tại địa phương. Hoạt động của các doanh
nghiệp có vốn ĐTNN cũng gián tiếp tạo ra khối lượng việc làm cho lao động
tại địa phương thông qua các ngành gia công, phụ trợ, dịch vụ phục vụ cho
hoạt động của kinh tế có vốn ĐTNN. Đặc biệt, do đòi hỏi cao ở người lao

11


động về trình độ, năng lực, tác phong làm việc của các doanh nghiệp có vốn
ĐTNN nên chất lượng nguồn lao động của Tỉnh từng bước được nâng cao.
Bốn là, kinh tế có vốn ĐTNN góp phần nâng cao trình độ khoa học và công
nghệ của địa phương. Phần lớn các doanh nghiệp ĐTNN có trình độ khoa học và
công nghệ khá hiện đại, có đội ngũ chuyên gia quản lý tốt, có kinh nghiệm. Do đó,
quá trình phát triển kinh tế có vốn ĐTNN cũng đồng thời là quá trình tiếp thu, sử
dụng những công nghệ hiện đại, tiên tiến của thế giới. Các doanh nghiệp có vốn
ĐTNN áp dụng mô hình quản lý tiên tiến, phương thức kinh doanh hiện đại, điều
đó thúc đẩy các doanh nghiệp trong nước đổi mới kỹ thuật và công nghệ.
Năm là, kinh tế có vốn ĐTNN góp phần mở rộng thị trường, nâng cao
kim ngạch xuất khẩu đồng thời thúc đẩy quá trình hội nhập kinh tế quốc tế của
Tỉnh. Kinh tế có vốn ĐTNN phát triển, Hải Dương có điều kiện thuận lợi để gắn
kết quá trình sản xuất của Tỉnh với hệ thống sản xuất, phân phối, trao đổi quốc
tế. Đối tác đầu tư thường là những công ty, tập đoàn xuyên quốc gia với mạng
lưới chi nhánh toàn cầu. Do vậy, thông qua hoạt động kinh tế có vốn ĐTNN, Hải
Dương sẽ tiếp cận và mở rộng thị trường xuất khẩu, nâng cao kim ngạch xuất
khẩu đồng thời thúc đẩy quá trình hội nhập kinh tế quốc tế của địa phương.
* Những tiềm năng, lợi thế và thực trạng hoạt động kinh tế có vốn đầu
tư nước ngoài ở Hải Dương trước năm 2000.
- Những tiềm năng, lợi thế phát triển kinh tế có vốn ĐTNN ở Hải Dương
Điều kiện tự nhiên, Hải Dương là tỉnh nằm ở trung tâm đồng bằng Bắc

Bộ có diện tích tự nhiên là 1.660,9 km2, tái lập ngày 01/01/1997 trên cơ sở
tách ra của tỉnh Hải Hưng cũ (bao gồm Hải Dương và Hưng Yên ngày nay). Là
một tỉnh nằm trong khu vực tam giác kinh tế Hà Nội - Hải Phòng - Quảng
Ninh, Hải Dương nằm giữa cảng Hải Phòng và Thủ đô Hà Nội, tiếp giáp với 6
tỉnh: Bắc Ninh, Bắc Giang, Quảng Ninh, Thái Bình, Hưng Yên, Hải Phòng.
Địa hình Hải Dương khá đa dạng, phần lớn là đồng bằng; vùng bán sơn địa
và rừng núi thuộc phía Bắc, chiếm 11% diện tích tự nhiên, vùng đồng bằng rộng
lớn chiếm 89% diện tích tự nhiên, đất đai màu mỡ. Địa hình bằng phẳng thuận lợi
để phát triển giao thông, yếu tố quan trọng cho phát triển KT-XH. Sông ngòi của

12


Tỉnh khá dày đặc, chiếm 6,6% diện tích tự nhiên; Hải Dương có 6 cửa sông lớn là
Bạch Đằng, Nam Triệu, Cửa Cấm, Lạch Tray, Văn Úc và Thái Bình. Từ những cửa
sông này, tàu thuyền có thể từ biển vào Hải Dương qua sông Thái Bình và sông
Kinh Thầy đã tạo điều kiện tốt cho sản xuất cũng như vận tải đường sông. Về
khoáng sản, mặc dù không có nhiều nhưng Hải Dương có một số khoáng sản với
giá trị kinh tế cao như đá vôi, xi măng, cao lanh, đất sét chịu lửa… Đây là nguồn
nguyên liệu quý giá, không chỉ là cơ sở để phát triển công nghiệp mà còn là lợi thế
so sánh của tỉnh Hải Dương trong thu hút các đối tác, phát triển kinh tế có vốn
ĐTNN. Về khí hậu, Hải Dương nằm trong vùng nhiệt đới gió mùa, nhiệt độ trung
bình hàng năm 23,3oC, giờ nắng trung bình hàng năm là 1.524 giờ, lượng mưa
trung bình hàng năm 1.300 - 1.700 mm, độ ẩm trung bình là 85 - 87%.
Các yếu tố tự nhiên tạo điều kiện thuận lợi để Hải Dương phát triển kinh
tế với một cơ cấu đa ngành, đa nghề; tạo ra những lợi thế so sánh tương đối và
lợi thế so sánh tuyệt đối trong quá trình công nghiệp hoá, hiện đại hoá nói chung
và phát triển kinh tế có vốn ĐTNN nói riêng.
Điều kiện kinh tế - xã hội, điểm nổi bật về KT-XH của Hải Dương tạo
điều kiện thuận lợi để phát triển kinh tế có vốn ĐTNN mà ít địa phương khác

có được là Giao thông và cơ sở hạ tầng. Tỉnh Hải Dương có hệ thống giao
thông và cơ sở hạ tầng khá hoàn chỉnh, tạo điều kiện thuận lợi đồng thời là
nội dung hấp dẫn để thu hút ĐTNN. Hệ thống giao thông gồm đường bộ,
đường thuỷ và đường sắt, phân bố hợp lý, giao lưu rất thuận lợi tới các tỉnh
khác trong khu vục. Hệ thống quốc lộ qua địa phận tỉnh Hải Dương có 7
tuyến: đường số 5, 183, 18, 37, 38, 10, đây đều là những tuyến đường cấp I,
cho 4 làn xe đi lại thuận tiện. Hệ thống giao thông đường thuỷ của Hải
Dương khá thuận lợi với 400km đường sông cho tàu thuyền 500 tấn qua lại dễ
dàng; cảng Cống Câu với công suất 300.000 tấn/năm, cùng hệ thống bến bãi
và cảng nội địa đã đáp ứng tốt nhu cầu tập kết và vận tải hàng hoá một cách
thuận lợi. Đường sắt chạy qua địa bàn tỉnh Hải Dương dài 68,17km với 7 ga,
gồm 3 tuyến: Hà Nội - Hải Phòng, Kép - Hạ Long và Chí Linh - Cổ Thành.
Với hệ thống giao thông đa dạng, khá hoàn chỉnh và hiện đại, Hải Dương có

13


nhiều thuận lợi trong phát triển KT-XH nói chung và kinh tế có vốn ĐTNN
nói riêng. Về dân số, năm 2005, dân số của Hải Dương là 1.711.364 người
[10, tr.13] trong đó người trong độ tuổi lao động chiếm 49%. Với quy mô dân
số trên Hải Dương có mật độ dân số đông (1.038người/km2) [10, tr.13], đứng
thứ 11/63 tỉnh thành trong cả nước và thứ 5/11 tỉnh thành vùng đồng bằng
sông Hồng. Với quy mô dân số và tỷ lệ lao động như như trên Hải Dương có
nhiều tiềm năng phục vụ sự nghiệp phát triển KT-XH. Đặc biệt, trình độ dân
trí Hải Dương khá cao, số người trên 15 tuổi đã qua đào tạo chiếm 41%, trong
đó đào tạo nghề là 31,54%, tốt nghiệp đại học chiếm 2,9%, cao đẳng 2,1%,
Trung học chuyên nghiệp là 5,8%, số người có chứng chỉ, công nhân kỹ thuật
nghiệp vụ chiếm 3,2%. Như vậy, Hải Dương là tỉnh có nguồn nhân lực dồi
dào, với đức tính cần cù, hiếu học, khả năng tiếp cận tiến bộ khoa học kỹ
thuật tốt, là điều kiện thuận lợi để hình thành một đội ngũ lao động có chất

lượng cao đáp ứng yêu cầu của các nhà đầu tư.
Với bàn tay khéo léo, tài hoa và óc sáng tạo của người dân, Hải Dương là
quê hương của nhiều làng nghề danh tiếng như rượu nếp Phú Lộc, chạm khắc gỗ
Đông Giao, gốm Chu Đậu, thủ công mỹ nghệ vàng bạc ở Bình Giang, chạm khắc
đá ở Kinh Môn, Bánh đậu xanh, bánh gai Ninh Giang, vải thiều Thanh Hà… Hơn
nữa, Hải Dương nằm trong vùng du lịch Bắc Bộ, sản phẩm du lịch đặc trưng là du
lịch văn hóa và du lịch tham quan, nghiên cứu. Hải Dương có những địa danh du
lịch nổi tiếng như quần thể di tích Côn Sơn - Kiếp Bạc (Chí Linh), núi An Phụ,
động Kính Chủ, đảo Cò (Thanh Miện)… Đây là điều kiện thuận lợi tạo lợi thế so
sánh tuyệt đối của Hải Dương trong phát triển KT-XH nói chung và kinh tế có
vốn ĐTNN trong lĩnh vực du lịch và dịch vụ nói riêng.
- Thực trạng hoạt động kinh tế có vốn ĐTNN ở Hải Dương trước năm 2000
Quán triệt sâu sắc đường lối đổi mới toàn diện đất nước của Đảng, ngay
sau khi tái lập (1997), Đảng bộ tỉnh Hải Dương sớm có chủ trương phát triển
kinh tế có vốn ĐTNN. Nghị quyết Đại hội đại biểu Đảng bộ Tỉnh lần thứ XII
(9/1997) xác định: “Đẩy nhanh các hoạt động đầu tư trực tiếp nước ngoài, ưu
tiên các dự án công nghiệp hiện đại, sản phẩm chủ yếu để xuất khẩu, chế biến

14


nông sản, sản xuất vật liệu xây dựng, cơ khí, điện tử” [4, tr.13]. Thực hiện chủ
trương của Đảng bộ Tỉnh, hoạt động kinh tế có vốn ĐTNN trên địa bàn Hải
Dương sớm được cấp uỷ đảng, chính quyền các cấp tổ chức thực hiện, triển
khai mạnh mẽ và thu được một số kết quả:
Thứ nhất, về số lượng dự án và vốn đầu tư. Từ 02 dự án kinh tế có vốn
ĐTNN đầu tiên trên địa bàn tỉnh Hải Dương năm 1990 (Liên doanh chế tác
Kim cương Việt Nam - Bỉ và Liên doanh tơ lụa Việt - Triều) đến năm 1999 đã
tăng lên 32 dự án với tổng số vốn đăng ký 508,6 triệu USD [24, tr.250] được
cấp phép. Mặc dù chưa phải là lớn so với phạm vi cả nước nhưng so với các

tỉnh khu vực đồng bằng sông Hồng, Hải Dương đã thu hút được số lượng dự án
nhiều hơn các tỉnh trong khu vực. (Hưng Yên: 5 dự án, Thái Bình: 5 dự án).
Đến 30/6/2000, trên địa bàn tỉnh Hải Dương có 22 dự án đi vào hoạt động và
phát huy hiệu quả. Trong những năm 1990 -1999, kinh tế có vốn ĐTNN đã góp
phần tăng nguồn vốn đầu tư phát triển của Tỉnh, đóng góp của kinh tế có vốn
ĐTNN vào tổng sản phẩm quốc nội trên địa bàn liên tục tăng, năm 1996 là 33
tỷ đồng, năm 1997 là 106 tỷ đồng, năm 1998 là 192 tỷ đồng và năm 1999 con
số này là 168 tỷ đồng và chiếm 2,88% GDP [24, tr.22].
Thứ hai, kinh tế có vốn ĐTNN hoạt động làm gia tăng kim ngạch xuất khẩu
và thu ngân sách của Tỉnh. Kim ngạch xuất khẩu của Tỉnh tăng từ 36.853 USD
(1997) lên 45 triệu USD (1999), trong đó xuất khẩu của các doanh nghiệp có vốn
ĐTNN chiếm tỷ trọng khá, năm 1997 là 27,1%, năm 1998 là 28,42%, và năm 1999
là 16,1% [24, tr.130]. Kinh tế có vốn ĐTNN đã đóng góp một phần vào ngân sách
Tỉnh. Năm 1997, Liên doanh chế tác Kim cương Việt Nam - Bỉ doanh thu đạt
287.000 USD, nộp ngân sách 17.800 USD; Liên doanh tơ lụa Việt - Triều doanh
thu đạt 466.800 USD, nộp ngân sách 22.225 USD [24, tr.168].
Thứ ba, bước đầu thúc đẩy quá trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế, góp phần
giải quyết việc làm. Các doanh nghiệp có vốn ĐTNN chủ yếu hoạt động trên lĩnh
vực công nghiệp. Do vậy, cùng với việc thúc đẩy tăng trưởng của GDP kinh tế có
vốn ĐTNN tác động làm cơ cấu kinh tế của tỉnh có sự chuyển dịch. Tỷ trọng
trong GDP của ngành nông, lâm nghiệp có chiều hướng giảm từ 40,6% (1995)

15


xuống còn 36,6% (1999). Tỉ trọng của ngành dịch vụ tăng từ 24,5% (1995) lên
28% (2000). Hoạt động của các doanh nghiệp có ĐTNN đã tạo việc làm cho một
bộ phận lao động. Năm 1999, với 1.800 lao động trong các doanh nghiệp có vốn
ĐTNN đã góp phần đẩy lùi tình trạng thất nghiệp và thiếu việc làm trên địa bàn.
Bên cạnh những kết quả bước đầu, hoạt động kinh tế có vốn ĐTNN

trên địa bàn Hải Dương trước năm 2000 còn bộc lộ nhiều hạn chế. Cụ thể là:
Thứ nhất, việc huy động nguồn vốn, trình độ kỹ thuật công nghệ và hiệu
quả sản xuất kinh doanh của kinh tế có vốn ĐTNN còn thấp, chưa tương xứng
với tiềm năng của địa phương và bản thân thành phần kinh tế có vốn ĐTNN.
Đa số các dự án đầu tư thuộc loại vừa và nhỏ, các dự án có quy mô vốn từ 1
triệu USD đến dưới 10 triệu USD chiếm tỷ lệ lớn 86% (1999). Hoạt động của
một số doanh nghiệp có vốn ĐTNN gặp không ít khó khăn, tình trạng xin rút
giấy phép diễn ra khá lớn. Năm 1999 có 6/29 doanh nghiệp xin rút giấy phép.
(Liên doanh nước hoa quả Hải Chung, Liên doanh Hương Giang, Công ty tài
chính Transviet, dự án chế biến nông sản Vĩnh Phong - Bắc Việt, dự án sứ vệ
tinh Karat, và Liên doanh bia châu Á - Thái Bình Dương) [58, tr.3]. Một số dự
án sau khi nhận giấy phép, chậm triển khai hoạt động hoặc hoạt động kém hiệu
quả. Trước năm 2000, các dự án ĐTNN của Hải Dương, chủ yếu trên lĩnh vực
công nghiệp, lĩnh vực nông nghiệp rất ít (6/32 dự án), tạo nên sự mất cân đối
trong phát triển ngành nghề của địa phương. Các dự án ĐTNN vào Hải Dương
trước năm 2000 chủ yếu đến từ các nước và vùng lãnh thổ châu Á có trình độ
công nghệ ở mức độ trung bình.
Thứ hai, mặc dù đã có nhiều cố gắng, song do là một hoạt động kinh tế
mới nên quá trình lãnh đạo, chỉ đạo, quản lý điều hành của Đảng bộ, chính
quyền địa phương đối với hoạt động kinh tế có vốn ĐTNN chưa đáp ứng với yêu
cầu. Công tác tuyên truyền, phổ biến chủ trương phát triển kinh tế có vốn ĐTNN
chưa được quan tâm đúng mức. Việc quy hoạch, định hướng phát triển kinh tế
có vốn ĐTNN chưa rõ ràng. Cơ sở hạ tầng nhiều nơi trong Tỉnh còn gặp khó
khăn nên chưa tạo được môi trường thuận lợi cho việc thu hút ĐTNN. Năng lực,
kinh nghiệm xúc tiến vận động thu hút ĐTNN của địa phương còn hạn chế.

16


Thứ ba, kinh tế có vốn ĐTNN gây ra một số tác động tiêu cực đến sự phát

triển KT-XH của địa phương. Vì mục đích thu lợi nhuận tối đa, các nhà đầu tư ít
quan tâm đến xây dựng quan hệ sản xuất mới theo định hướng xã hội chủ nghĩa.
Do vậy, xuất hiện một số vấn đề tiêu cực trong trong hoạt động ĐTNN ở Hải
Dương, các nhà đầu tư luôn tìm cách trốn thuế và lẩn tránh trách nhiệm trong thực
hiện chính sách với người lao động. Hiện tượng thực hiện chính sách bảo hiểm và
chi trả tiền lương chưa đúng quy định của pháp luật đã xuất hiện. Đặc biệt, tình
trạng ngược đãi của chủ đầu tư đối với người lao động dẫn đến các cuộc đình
công, bãi công, gây lên những phức tạp về trật tự xã hội trên một số địa bàn.
Thực trạng trên đòi hỏi Đảng bộ, chính quyền và Nhân dân Hải Dương
tiếp tục quán triệt đường lối của Đảng, phát huy tối đa thế mạnh của địa
phương, phát triển kinh tế có vốn ĐTNN mạnh mẽ hơn theo hướng nhanh,
hiệu quả và bền vững.
* Quan điểm và những định hướng lớn của Đảng về phát triển kinh tế có
vốn ĐTNN trong công cuộc đổi mới.
- Quan điểm
Điểm nổi bật trong đường lối đổi mới kinh tế của Đại hội VI (12/1986) của
Đảng là chủ trương xây dựng một nền kinh tế mới năng động, có sự hiện diện của
nhiều thành phần kinh tế trong đó có mở rộng và phát huy hiệu quả của kinh tế đối
ngoại. Đại hội VII (1991) và Đại hội VIII (1996) của Đảng tiếp tục quan điểm: Nền
kinh tế nước ta là nền kinh tế hàng hoá nhiều thành phần, đồng thời chỉ rõ yêu cầu
mở rộng hợp tác quốc tế, tranh thủ tối đa các nguồn vốn bên ngoài phục vụ đắc lực
sự nghiệp đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước. Xuất phát từ những
đặc điểm mới của tình hình thế giới và trong nước, từ những kết quả phát triển kinh
tế có vốn ĐTNN trong 15 năm đổi mới, Đại hội IX (2001), Đảng đã bổ sung thêm
một thành phần kinh tế mới - thành phần kinh tế có vốn ĐTNN. Đại hội khẳng
định: “Kinh tế có vốn đầu tư nước ngoài là một bộ phận của kinh tế Việt Nam,
được khuyến khích phát triển” [31, tr.191]. Đại hội X (4/2006) tiếp tục khẳng định
“Các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài là một bộ phận quan trọng của nền
kinh tế Việt Nam, được đối xử bình đẳng như doanh nghiệp Việt Nam trong kinh


17


doanh. Tạo điều kiện cho ĐTNN tham gia nhiều hơn vào phát triển các ngành, các
vùng lãnh thổ phù hợp với cam kết quốc tế của nước ta” [33, tr. 238]. Quan điểm
của Đảng đối với kinh tế có vốn ĐTNN được thể hiện:
Một là, kinh tế có vốn ĐTNN là một bộ phận trong cơ cấu nền kinh tế
nhiều thành phần trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội ở nước ta. Đây là quan
điểm đúng đắn, thể hiện nhận thức mới của Đảng về kinh tế có vốn ĐTNN. Từ
chỗ phủ nhận sự tồn tại của các thành phần kinh tế ngoài kinh tế quốc doanh và
kinh tế tập thể đến chỗ thừa nhận và coi kinh tế có vốn ĐTNN là một thành phần
kinh tế độc lập, một bộ phận quan trọng trong nền kinh tế Việt Nam. Quan điểm
trên thể hiện nhận thức đúng đắn về vị trí, vai trò của kinh tế có vốn ĐTNN.
Hai là, Đảng và Nhà nước tạo mọi điều kiện thuận lợi để thành phần
kinh tế có vốn ĐTNN phát triển, kinh tế có vốn ĐTNN bình đẳng, cạnh tranh
lành mạnh với các thành phần kinh tế khác. Theo đó, Đảng chủ trương tiếp tục
cải thiện môi trường đầu tư, đẩy mạnh cải cách hành chính, chú trọng đào tạo
nguồn nhân lực, tạo lập những điều kiện thuận lợi để thu hút mạnh các nguồn
vốn quốc tế. Đồng thời hoàn thiện hệ thống pháp luật, chính sách liên quan tạo
hành lang pháp lý thông thoáng, minh bạch, phát huy cao độ lợi thế so sánh của
đất nước để thu hút tốt hơn và sử dụng hiệu quả hơn các nguồn vốn ĐTNN.
Ba là, khuyến khích phát triển kinh tế có vốn ĐTNN vào các ngành, các
lĩnh vực quan trọng của nền kinh tế. Việt Nam là một quốc gia giàu tài nguyên
thiên nhiên, khoáng sản và lao động dồi dào. Tuy nhiên, năng lực đầu tư, kết cấu
hạ tầng KT-XH cũng như trình độ khoa học công nghệ của nước ta còn thấp kém
và lạc hậu. Vì vậy, cần thu hút mạnh các nhà đầu tư vào các ngành, các lĩnh vực
quan trọng của nền kinh tế để đẩy nhanh quá trình công nghiệp hoá, hiện đại hoá
đất nước. Tập trung thu hút ĐTNN vào các lĩnh vực sản xuất kinh doanh hàng
hóa xuất khẩu, xây dựng kết cấu hạ tầng KT-XH, công nghệ hiện đại. Khuyến
khích ĐTNN vào các ngành công nghiệp, các ngành có công nghệ cao, các

ngành có lợi thế so sánh, tạo nhiều việc làm cho người lao động.
- Những định hướng lớn

18


Trên cơ sở những quan điểm đúng đắn, trong những năm 2000 - 2010,
Đảng xác định những định hướng lớn để phát triển kinh tế có vốn ĐTNN. Đó là:
Thứ nhất, cải thiện môi trường và nâng cao khả năng thu hút ĐTNN.
Mặc dù Việt Nam có nhiều thuận lợi về điều kiện tự nhiên cũng như những
chính sách ưu đãi nhưng môi trường đầu tư vẫn còn không ít hạn chế. Vì vậy,
cải thiện môi trường đầu tư là một giải pháp tích cực, vừa mang tính cấp bách
vừa có ý nghĩa chiến lược lâu dài. Cải thiện môi trường đầu tư cần đẩy mạnh
xây dựng kết cấu hạ tầng KT-XH, phát huy lợi thế so sánh của đất nước. Tiếp
tục đẩy mạnh cải cách hành chính, nâng cao chất lượng nguồn nhân lực.
Thứ hai, đa dạng hoá các hình thức đầu tư, tăng mạnh về số lượng đi đôi
với nâng cao chất lượng và hiệu quả vốn ĐTNN. Đại hội IX (4/2001) của Đảng
xác định: “Vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài được thực hiện trong 5 năm tới khoảng
9-10 tỷ USD, bao gồm vốn các dự án đã được cấp phép chưa thực hiện của các
năm trước, vốn thực hiện các dự án cấp phép mới và vốn bổ sung các dự án đã
thực hiện” [31, tr.269]. Đến năm 2005 đóng góp của kinh tế có vốn ĐTNN
khoảng 15% GDP, 25% tổng kim ngạch xuất khẩu và khoảng 10% thu ngân sách
của cả nước. Tại Đại hội X (4/2006) của Đảng, trên cơ sở đánh giá kết quả thu hút
vốn ĐTNN 5 năm 2001 - 2005, Đảng định hướng 5 năm 2006 - 2010 cần: “Tăng
cường thu hút vốn đầu tư nước ngoài, phấn đấu trên 1/3 tổng nguồn vốn đầu tư
phát triển toàn xã hội… trung bình mỗi năm đạt trên 5 tỷ USD” [33, tr.204].
Thứ ba, thu hút ĐTNN hướng vào những thị trường giàu tiềm năng, các tập
đoàn kinh tế lớn, có uy tín trên thế giới. Trước năm 2001, phần lớn các doanh
nghiệp có vốn ĐTNN hoạt động ở Việt Nam đến từ các nước trong khu vực châu Á
và là các công ty có quy mô vốn không lớn, trình độ khoa học công nghệ ở mức

trung bình, hoạt động gia công là chủ yếu. Vì vậy, Đảng định hướng tập trung thu
hút sự đầu tư của các tập đoàn kinh tế lớn, các nhà đầu tư có tiềm năng về tài chính
và công nghệ nguồn từ các nước công nghiệp phát triển. Vận động, thu hút các tập
đoàn, công ty lớn đầu tư vào Việt Nam đồng thời chú ý đến các công ty có quy mô
vừa và nhỏ nhưng công nghệ hiện đại. Đại hội X (2006), Đảng xác định: “…tạo lợi

19


thế so sánh để thu hút nhiều doanh nghiệp lớn, các tập đoàn kinh tế hàng đầu thế
giới, đầu tư cho sản phẩm xuất khẩu và công nghệ cao” [33, tr.240].
Thứ tư, nâng cao hiệu lực, hiệu quả quản lý nhà nước đối với thành phần
kinh tế có vốn ĐTNN. Đại hội IX (2001), Đảng chỉ rõ: “Nâng cao hiệu lực và hiệu
quả quản lý nhà nước đối với các khu công nghiệp, khu chế xuất và doanh nghiệp
có vốn đầu tư nước ngoài” [31, tr.200]. Đến Đại hội X (2006), Đảng tiếp tục định
hướng: “đổi mới phương thức quản lý nhà nước và cải tiến mạnh mẽ thủ tục đầu tư,
thực hiện đúng các quy định của Luật đầu tư và phù hợp với lộ trình thực hiện các
cam kết quốc tế của nước ta” [33, tr.238]. Theo đó, Đảng chủ trương tiếp tục hoàn
thiện hệ thống pháp luật, cơ chế chính sách về ĐTNN. Thực hiện tốt việc phân cấp
quản lý ĐTNN. Kịp thời phát hiện, xử lý những sai phạm và khắc phục những tác
động tiêu cực của ĐTNN, bảo đảm sự phát triển nhanh và bền vững của đất nước.
Những quan điểm và định hướng lớn trên đây của Đảng là cơ sở quan
trọng, tạo tiền đề trực tiếp, xuyên suốt để Đảng bộ tỉnh Hải Dương lãnh đạo phát
triển thành phần kinh tế có vốn ĐTNN đúng hướng, hiệu quả.
1.1.2. Chủ trương của Đảng bộ tỉnh Hải Dương về phát triển thành
phần kinh tế có vốn đầu tư nước ngoài (2000 - 2005)
Trong những năm 2000 - 2005, Đảng bộ tỉnh Hải Dương đã ban hành
nhiều chủ trương phát triển kinh tế có vốn ĐTNN. Những chủ trương đó được
thể hiện ở văn kiện Đại hội đại biểu Đảng bộ Tỉnh lần thứ XIII (2000), Chương
trình hành động thực hiện Nghị quyết Đại hội đại biểu Đảng bộ Tỉnh lần thứ

XIII (4/5/2001), Chương trình số 12 - CTr/TU của Tỉnh ủy về thu hút và sử
dụng có hiệu quả mọi nguồn vốn đầu tư giai đoạn 2001 - 2005 (26/9/2001), Đề
án tạo môi trường thuận lợi, thu hút mọi nguồn vốn đầu tư trong và ngoài nước
vào tỉnh Hải Dương (26/9/2001). Nội dung cụ thể:
* Quan điểm chỉ đạo
Đại hội đại biểu Đảng bộ tỉnh Hải Dương lần thứ XIII (12/2000) nêu
rõ: “Tập trung tăng nhanh đầu tư phát triển. Có giải pháp cụ thể để huy động
nhiều nguồn vốn, bao gồm vốn từ ngân sách tập trung, vốn từ quỹ hỗ trợ đầu

20


tư, vốn tín dụng đầu tư, vốn của các doanh nghiệp, vốn huy động của nhân
dân, vốn đầu tư trực tiếp của nước ngoài.” [5, tr.53-54]
Như vậy, Nghị quyết Đại hội đại biểu Đảng bộ Tỉnh lần thứ XIII, đã chỉ
rõ vốn ĐTNN là một bộ phận trong cơ cấu các nguồn vốn đầu tư phát triển của
Tỉnh. Cụ thể hoá quan điểm của Đại hội đại biểu Đảng bộ Tỉnh lần thứ XIII, trên
cơ sở đánh giá thực trạng hoạt động kinh tế có vốn ĐTNN, Chương trình thu hút
và sử dụng có hiệu quả mọi nguồn vốn đầu tư của tỉnh Hải Dương giai đoạn
2001 - 2005 (26/9/2001) khẳng định: “Đầu tư nước ngoài đã trở thành một trong
những nguồn vốn quan trọng cho đầu tư phát triển, có tác dụng thúc đẩy sự
chuyển dịch kinh tế theo hướng công nghiệp hoá, hiện đại hoá” [6, tr.192]. Đồng
thời khẳng định kinh tế có vốn ĐTNN “đang dần có vị trí quan trọng trong phát
triển kinh tế và đóng góp nhiều vào tăng trưởng kinh tế của tỉnh, tạo công ăn
việc làm cho người lao động” [6, tr.196].
Quan điểm trên thể hiện nhận thức mới của Đảng bộ Tỉnh về phát triển kinh
tế có vốn ĐTNN, là sự quán triệt sâu sắc quan điểm của Đảng về phát triển kinh tế
có vốn ĐTNN. Đặc biệt, quan điểm trên thể hiện nét mới của Đảng bộ tỉnh Hải
Dương so với quan điểm của Đảng về kinh tế có vốn ĐTNN. Đánh giá cao vai trò
của kinh tế có vốn ĐTNN, Đại hội IX, Đảng đánh giá kinh tế có vốn ĐTNN là một

bộ phận của cơ cấu kinh tế nhiều thành phần ở nước ta. Đảng bộ tỉnh Hải Dương,
đánh giá cao vai trò của kinh tế có vốn ĐTNN, đang dần “có vị trí quan trọng”
trong phát triển kinh tế của Tỉnh. Quan điểm này một mặt thống nhất với quan điểm
của Đảng trong đánh giá về vị trí, vai trò của kinh tế có vốn ĐTNN, một mặt phản
ánh đúng thực tiễn của địa phương và thực trạng kinh tế có vốn ĐTNN trên địa bàn
Tỉnh trong những năm 1990 - 2000. Trong 10 năm (1990 - 2000), kinh tế có vốn
ĐTNN trên địa bàn tỉnh Hải Dương liên tục phát triển, thúc đẩy sự tăng trưởng kinh
tế của Tỉnh. Đóng góp của kinh tế có vốn ĐTNN vào tổng sản phẩm quốc nội trên
địa bàn Tỉnh liên tục tăng, năm 1999 là 168 tỷ đồng và chiếm 2,88% GDP [24,
tr.22]. Đặc biệt, kinh tế có vốn ĐTNN đã thúc đẩy quá trình chuyển dịch cơ cấu
kinh tế, góp phần giải quyết việc làm. Đến năm 1999 lao động trong các doanh
nghiệp có vốn ĐTNN trên địa bàn Tỉnh là 1.800 người, trực tiếp đẩy lùi tình trạng

21


thất nghiệp và thiếu việc làm. Những kết quả bước đầu trên là cơ sở thực tiễn để
Đảng bộ tỉnh Hải Dương khẳng định vị trí quan trọng của kinh tế có vốn ĐTNN.
* Phương hướng, mục tiêu
Nghị quyết Đại hội đại biểu Đảng bộ tỉnh Hải Dương lần thứ XIII
(2000) xác định: “Khuyến khích, tạo điều kiện để các thành phần kinh tế tham
gia đầu tư phát triển sản xuất kinh doanh. Tiếp tục tạo môi trường hấp dẫn và
tích cực tìm các đối tác nước ngoài đầu tư vào địa bàn tỉnh trên các lĩnh vực
công nghiệp, nông nghiệp, giao thông, dịch vụ... Phấn đấu 5 năm tới số vốn
đăng ký của các dự án đầu tư nước ngoài tăng 40-50%” [5, tr.55]
Thực hiện Nghị quyết Đại hội đại biểu Đảng bộ Tỉnh lần thứ XIII,
Chương trình thu hút và sử dụng có hiệu quả mọi nguồn vốn đầu tư giai đoạn
2001 - 2005 (26/9/2001) của Tỉnh ủy Hải Dương tiếp tục cụ thể hoá, phương
hướng, mục tiêu phát triển kinh tế có vốn ĐTNN. Cụ thể:
Thứ nhất, tạo môi trường thông thoáng để thu hút các nhà ĐTNN vào

đầu tư trên địa bàn tỉnh trên cơ sở phát huy những lợi thế của địa phương,
hình thành các cụm công nghiệp tập trung.
Thứ hai, khuyến khích mạnh mẽ ĐTNN vào các ngành, các lĩnh vực mà
Chính phủ ưu tiên, phù hợp với điều kiện, thế mạnh của địa phương. Tập trung
vào các ngành: “công nghiệp sản xuất hàng xuất khẩu, công nghiệp chế biến, các
ngành công nghệ cao, vật liệu mới, thông tin, điện tử…” [6, tr.199].
Thứ ba, tiếp tục thực hiện tốt công tác quản lý nhà nước đối với kinh tế
có vốn ĐTNN. Thực hiện tốt các quy định của Luật khuyến khích ĐTNN và
các văn bản hướng dẫn, thi hành. Xây dựng và công bố các danh mục dự án ưu
tiên thu hút ĐTNN. Kiện toàn bộ máy quản lý đầu tư, tăng cường đào tạo, nâng
cao chất lượng đội ngũ cán bộ quản lý ĐTNN.
Thứ tư, thúc đẩy triển khai nhanh các dự án, phấn đấu giai đoạn 2000 - 2005
cấp giấy phép mới cho 40 dự án ĐTNN với tổng vốn đầu tư thu hút thêm 200 triệu
USD, số vốn đầu tư thực hiện của các dự án tại địa bàn cả cũ và mới khoảng 5000

22


tỷ đồng, thu hút thêm 10.000 lao động trực tiếp tại các doanh nghiệp có vốn ĐTNN,
đạt mức đóng góp từ 15 - 20% thu ngân sách địa phương vào năm 2005.
* Nhiệm vụ và giải pháp
- Nhiệm vụ và giải pháp về xây dựng môi trường đầu tư
Đề án tạo môi trường thuận lợi, thu hút mọi nguồn vốn đầu tư trong và
ngoài nước vào Tỉnh xác định: tập trung thực hiện tốt nâng cấp hạ tầng cơ sở
nhất là hệ thống giao thông, điện, nước và đẩy mạnh cải cách thủ tục hành chính.
Tiếp tục cải tiến quy trình tiếp nhận dự án theo cơ chế “một cửa”. Ban hành các
quy định về trình tự thủ tục chấp thuận đầu tư theo hướng đơn giản, thuận lợi
nhất cho các nhà đầu tư đồng thời rút ngắn thời gian cấp phép xuống còn một
nửa so với quy định của Chính phủ. Nghiên cứu, công bố các chính sách hỗ trợ
doanh nghiệp về thông tin quảng cáo, đảm bảo ưu tiên cấp điện 24/24 giờ cho

sản xuất của các doanh nghiệp, áp dụng tính giá thuê đất ở mức thấp nhất trong
khung Nhà nước quy định tại Quyết định 189/2000/QĐ - BTC ngày 24/11/2000
của Bộ tài chính về tiền thuê đất, mặt nước, mặt biển áp dụng đối với ĐTNN.
- Nhiệm vụ và giải pháp về xây dựng quy hoạch tổng thể các dự án ĐTNN
Chương trình thu hút và sử dụng có hiệu quả mọi nguồn vốn đầu tư giai
đoạn 2001-2005 của Tỉnh uỷ Hải Dương chỉ rõ: Rà soát, điều chỉnh, bổ sung các
quy hoạch tổng thể và quy hoạch chi tiết đã được phê duyệt cho phù hợp với tình
hình mới, đáp ứng yêu cầu phát triển kinh tế xã hội. Trong quy hoạch, phải có định
hướng phát triển các ngành, lĩnh vực trọng tâm, mang tính đột phá, phù hợp với
thực tế của địa phương. Hình thành các khu công nghiệp tập trung để kêu gọi các
nhà đầu tư trong và ngoài nước vào đầu tư. Triển khai Đề án xây dựng cơ sở hạ
tầng các khu công nghiệp tạo điều kiện thuận lợi cho triển khai hoạt động ĐTNN.
- Nhiệm vụ và giải pháp về công tác xúc tiến, vận động thu hút đầu tư
Chương trình thu hút và sử dụng có hiệu quả mọi nguồn vốn đầu tư để phát
triển giai đoạn 2001 - 2005 của Tỉnh uỷ Hải Dương xác định: “Tăng cường công
tác xúc tiến, vận động đầu tư, mở rộng việc giới thiệu tiềm năng của tỉnh ra bên
ngoài. Xây dựng trang Web của tỉnh nhằm giới thiệu tiềm năng đầu tư cho các

23


nhà đầu tư” [6, tr.201]. Đề án tạo môi trường thuận lợi, thu hút mọi nguồn vốn đầu
tư trong và ngoài nước vào Tỉnh chủ trương đẩy mạnh công tác tuyên truyền, xúc
tiến, vận động đầu tư trên các phương tiện thông tin đại chúng. Cử cán bộ tham
gia cùng đoàn xúc tiến, vận động đầu tư của Chính phủ, Bộ Kế hoạch và Đầu tư
đồng thời thành lập đoàn xúc tiến, vận động đầu tư tới các cơ quan đại diện ngoại
giao, đại diện thương mại của các nước tại Thủ đô Hà Nội nhằm thiết lập mối
quan hệ, giới thiệu tiềm năng, cơ hội, chính sách ưu đãi của Tỉnh đối với các nhà
đầu tư. Thực hiện chính sách thưởng một lần cho tổ chức, cá nhân có công giới
thiệu dự án đầu tư vào Hải Dương.

- Nhiệm vụ và giải pháp về tăng cường quản lý nhà nước đối với kinh
tế có vốn ĐTNN.
Quán triệt và tổ chức thực hiện nghiêm túc Luật ĐTNN và các văn bản
pháp luật quy định về quản lý kinh tế có vốn ĐTNN của Nhà nước. Rà soát, ban
hành, điều chỉnh, bổ sung các văn bản pháp luật về quản lý kinh tế có vốn ĐTNN
nhằm xây dựng một hành lang pháp lý thuận lợi, thông thoáng. Thực hiện tốt việc
phân cấp quản lý nhà nước và tăng cường công tác thanh tra, kiểm tra, quản lý các
dự án đã đi vào hoạt động. Thực hiện có hiệu quả công tác quản lý quy hoạch,
nhất là quản lý đất đai. Các dự án đầu tư phải phù hợp với quy hoạch, coi trọng
công tác bảo vệ môi trường để đảm bảo phát triển bền vững.
1.2. Đảng bộ tỉnh Hải Dương chỉ đạo phát triển thành phần kinh tế
có vốn đầu tư nước ngoài (2000 - 2005)
1.2.1. Chỉ đạo xây dựng môi trường đầu tư
Thực hiện mục tiêu xây dựng môi trường đầu tư thuận lợi, thu hút tối đa
các nguồn đầu tư, Tỉnh ủy, UBND đã thực hiện nhiều biện pháp, giải pháp xây
dựng môi trường đầu tư. Thực hiện Chương trình số 12 - CTr/TU của Tỉnh ủy Hải
Dương về thu hút và sử dụng hiệu quả mọi nguồn vốn đầu tư để phát triển, ngày
26 tháng 9 năm 2001, UBND Tỉnh xây dựng Đề án tạo môi trường đầu tư thuận
lợi thu hút mọi nguồn vốn đầu tư trong và ngoài nước vào tỉnh Hải Dương. Đề án
của UBND Tỉnh đã xác định mục tiêu, nhiệm vụ và các giải pháp nhằm xây dựng

24


một môi trường đầu tư thuận lợi, hấp dẫn, thu hút các nhà đầu tư. Đề án xác định
biện pháp để xây dựng môi trường đầu tư thuận lợi, Tỉnh phải tập trung nâng cấp
hạ tầng cơ sở, đầu tư phát triển hệ thống giao thông, điện, nước, thông tin liên lạc.
Đồng thời giao cho ngành điện lực bảo đảm thực hiện chính sách ưu tiên về cung
cấp điện 24/24 giờ cho các doanh nghiệp có vốn ĐTNN.
Thực hiện nội dung của Đề án tạo môi trường đầu tư thuận lợi thu hút mọi

nguồn vốn đầu tư trong và ngoài nước vào tỉnh Hải Dương, để tạo điều kiện thuận
lợi cho doanh nghiệp rút ngắn thời gian khi làm thủ tục hành chính, Quyết định số
3149/2002/QĐ-UB ngày 17 tháng 7 năm 2002 của UBND tỉnh Hải Dương đã quy
định cụ thể về giải quyết thủ tục hành chính đối với hoạt động kinh tế có vốn
ĐTNN là thực hiện các thủ tục đầu tư, quản lý hoạt động theo cơ chế “một cửa,
một đầu mối” tại Sở Kế hoạch và Đầu tư. Các ngành căn cứ vào chức năng và
nhiệm vụ của mình có trách nhiệm phối hợp với Sở Kế hoạch và Đầu tư giải quyết
các thủ tục hành chính bảo đảm nhanh nhất cho các doanh nghiệp. Quyết định ghi
rõ:
1- Thẩm định, chấp thuận dự án và cấp giấy phép: không quá 5 ngày làm việc
2- Thủ tục cho thuê đất xây dựng: không quá 10 ngày làm việc
3- Thẩm định hồ sơ thiết kế kỹ thuật: không quá 15 ngày làm việc
4- Thẩm định cấp giấy phép xây dựng: không quá 10 ngày làm việc [76, tr.3]
Để xây dựng môi trường đầu tư thuận lợi, xây dựng kết cấu hạ tầng kinh tế
đồng bộ, hiện đại đáp ứng yêu cầu phát triển kinh tế có vốn ĐTNN, UBND tỉnh
Hải Dương tích cực chỉ đạo phát triển hệ thống kết cấu hạ tầng kinh tế - kỹ thuật
của địa phương. Cùng với việc tích cực đề nghị Trung ương đầu tư, Tỉnh ủy,
UBND Tỉnh chủ động chỉ đạo phát huy tối đa nguồn lực của địa phương để phát
triển hệ thống kết cấu hạ tầng kinh tế - kỹ thuật. Ngày 26 tháng 9 năm 2001, Tỉnh
ủy Hải Dương ra Chương trình số 13 - CTr/TU về xây dựng kết cấu hạ tầng phục
vụ công nghiệp hóa, hiện đại hóa giai đoạn 2001 - 2005. Với 4 đề án Chương trình
số 13 - CTr/TU của Tỉnh ủy đã xác định mục tiêu, giải pháp phát triển kết cấu hạ

25


×