Tải bản đầy đủ (.doc) (92 trang)

LUẬN văn THẠC sĩ ĐẢNG bộ TỈNH NAM ĐỊNH LÃNH đạo PHÁT TRIỂN ĐẢNG VIÊN TRONG ĐỒNG bào các tôn GIÁO từ năm 2001 đến năm 2010

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (459.2 KB, 92 trang )

MỤC LỤC
Trang
MỞ ĐẦU
Chương 1

3
YÊU CẦU KHÁCH QUAN VÀ SỰ LÃNH ĐẠO
CỦA ĐẢNG BỘ TỈNH NAM ĐỊNH VỀ PHÁT
TRIỂN ĐẢNG VIÊN TRONG ĐỒNG BÀO CÁC

1.1.

TÔN GIÁO TỪ NĂM 2001 ĐẾN NĂM 2010
Yêu cầu khách quan và chủ trương của Đảng bộ tỉnh

11

Nam Định về phát triển đảng viên trong đồng bào các
1.2.

tôn giáo (2001-2010)
Đảng bộ tỉnh Nam Định chỉ đạo công tác phát triển đảng

11

viên trong đồng bào các tôn giáo và kết quả đạt được
NHẬN XÉT VÀ KINH NGHIỆM
Nhận xét
Kinh nghiệm.

39


53
53
67
78
80
87

Chương 2
2.1.
2.2.
KẾT LUẬN
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
PHỤ LỤC


`

MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Phát triển đảng viên mới là một nội dung quan trọng của công tác xây
dựng Đảng, có ý nghĩa cực kỳ quan trọng, quyết định sự tồn tại, phát triển
của Đảng. Sinh thời, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã từng đánh giá: “Nếu Đảng ta
không biết chọn lọc, kết nạp, đề bạt đồng chí mới thì đâu có như ngày nay”.
Trong suốt quá trình lãnh đạo sự nghiệp cách mạng, Đảng Cộng sản Việt
Nam thường xuyên quan tâm đến công tác xây dựng và phát triển đảng viên.
Đặc biệt là công tác phát triển đảng viên trong vùng đồng bào các tôn giáo.
Việc phát triển đảng viên trong đồng bào các tôn giáo không những có giá trị
cho công tác xây dựng Đảng, nâng cao năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu
của tổ chức đảng, mà còn góp phần quan trọng thực hiện chiến lược đại đoàn
kết dân tộc, đoàn kết tôn giáo có hiệu quả.

Là một tỉnh nằm ở ven biển phía Nam đồng bằng châu thổ sông Hồng,
Nam Định có vị trí chiến lược quan trọng về kinh tế, chính trị, an ninh, quốc
phòng. Là tỉnh có dân số đông và tỷ lệ tín đồ các tôn giáo lớn (chiếm hơn
40% dân số). Chính vì vậy đảng bộ các cấp ở tỉnh Nam Định xác định kết nạp
đảng viên đối với người có đạo là một trong những nội dung quan trọng trong
công tác xây dựng Đảng của Tỉnh. Trong thời gian qua nhất là những năm
2001- 2010, Đảng bộ tỉnh Nam Định đã có nhiều chủ trương đúng đắn, chỉ
đạo cụ thể, sâu sát trong xây dựng đội ngũ đảng viên, đặc biệt là vùng có
đông đồng bào tôn giáo. Công tác phát triển đảng viên là người có đạo đã góp
phần thay đổi cơ cấu đội ngũ đảng viên trong từng đảng bộ, tăng cường vai
trò lãnh đạo, sức chiến đấu của các tổ chức đảng và đảng viên tại những địa
bàn có đông đồng bào tôn giáo. Phần lớn quần chúng là người có đạo sau khi
được xem xét, bồi dưỡng kết nạp vào Đảng đã phát huy tốt vai trò trong việc
tham gia các tổ chức đoàn thể chính trị - xã hội ở cơ sở; vận động gia đình và
quần chúng xung quanh gương mẫu thực hiện các chủ trương, đường lối của
2

2


`

Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước, sống “Tốt đời, đẹp đạo”, “Kính
Chúa, yêu nước”; giữ gìn sự đoàn kết dân tộc, tôn giáo; tạo sự đồng thuận
phấn khởi tin tưởng của đồng bào có đạo đối với chủ trương của Đảng, góp
phần thực hiện thắng lợi mục tiêu phát triển kinh tế - xã hội, đảm bảo quốc
phòng – an ninh và công tác xây dựng hệ thống chính trị tại cơ sở. Tuy nhiên
công tác phát triển đảng viên ở vùng đồng bào có đạo vẫn còn một số tồn tại
như: Một số cấp ủy chưa chủ động trong công tác tạo nguồn phát triển đảng
viên là người gốc đạo; số lượng kết nạp ở một số chi bộ ít; chưa kết nạp

những chức việc, chức sắc vào Đảng; việc thu hút đoàn viên thanh niên là các
tín đồ tôn giáo vào các tổ chức đoàn thể còn thấp, công tác tuyên truyền giáo
dục, bồi dưỡng, giác ngộ quần chúng là người có đạo còn hạn chế…
Thực tiễn trên đòi hỏi phải nghiên cứu có hệ thống chuyên sâu về công
tác phát triển đảng viên trong vùng đồng bào các tôn giáo của Đảng bộ tỉnh
Nam Định, thông qua đó hệ thống hóa chủ trương, làm rõ sự chỉ đạo của
Đảng bộ tỉnh, rút ra những kinh nghiệm có thể vận dụng vào công tác phát
triển đảng viên trong vùng đồng bào các tôn giáo ở giai đoạn tiếp theo. Với ý
nghĩa đó tác giả chọn vấn đề: “Đảng bộ tỉnh Nam Định lãnh đạo phát triển
đảng viên trong đồng bào các tôn giáo từ năm 2001 đến năm 2010” làm đề
tài luận văn thạc sĩ Lịch sử, chuyên ngành Lịch sử Đảng Cộng sản Việt Nam.
2. Tình hình nghiên cứu có liên quan đến đề tài
Phát triển đảng viên nói chung và phát triển đảng viên trong đồng bào
các tôn giáo là vấn đề trọng tâm trong công tác xây dựng Đảng, có ý nghĩa
quyết định đến nâng cao năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu của Đảng. Chính
vì vậy đây là vấn đề được nhiều học giả, nhà khoa học quan tâm nghiên cứu.
Các công trình nghiên cứu có thể chia thành các nhóm sau:
Nhóm các công trình lý luận chung nghiên cứu về phát triển đảng
viên, tiêu biểu như:
Vũ Ngọc Am (2000), “Góp phần nâng cao chất lượng công tác kết nạp
đảng viên mới”, Tạp chí Cộng sản, số 10 năm 2000; Nguyễn Thị Mỹ Trang
3

3


`

(2001), Xây dựng đội ngũ đảng viên là thanh niên sinh viên các trường đại
học, cao đẳng trên địa bàn thành phố Hà Nội trong thời kỳ mới, Luận án tiến

sĩ khoa học Lịch sử, Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh, Hà Nội; Cao
Thị Thanh Vân (2002), Nâng cao chất lượng đội ngũ đảng viên ở nông thôn
đồng bằng sông Hồng trong thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa
đất nước, Luận án tiến sĩ khoa học Lịch sử; Nguyễn Thế Tư (2005), Nâng cao
chất lượng kiểm tra đảng viên khi có dấu hiệu vi phạm của ủy ban kiểm tra
huyện ủy ở các tỉnh duyên hải miền Trung giai đoạn hiện nay, Luận án tiến sĩ
khoa học Chính trị; Mạch Quang Thắng (2005), Đảng viên và phát triển đảng
viên trong nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, Nhà xuất bản Lao
Động, Hà Nội; Đặng Thị Huế (2009), Đảng Cộng sản Việt Nam với quá trình
xây dựng đội ngũ đảng viên từ năm 1996 đến năm 2006, Luận văn thạc sĩ khoa
học Lịch sử, Đại học Khoa học Xã hội và Nhân văn, Đại học Quốc gia Hà Nội;
Nguyễn Thị Hải Hà (2012), Đảng bộ tỉnh Hải Dương với công tác phát triển
đảng viên ở nông thôn từ năm 2001 đến năm 2010, Luận văn thạc sĩ khoa học
Lịch sử, Trung tâm đào tạo bồi dưỡng giảng viên lý luận chính trị - Đại học
Quốc gia Hà Nội; Nguyễn Văn Hào (2012), Tính tiền phong của đảng viên nông
thôn các tỉnh Tây Nguyên giai đoạn hiện nay, Luận án tiến sĩ khoa học Chính trị;
Đức Lượng - Trần Quang Nhiếp - Nguyễn Tuấn Phong (2013) Xây dựng đội
ngũ đảng viên ở nông thôn vững mạnh, Nhà xuất bản Chính trị quốc gia, Hà
Nội; Tăng Văn Trúc (2013), Công tác xây dựng đội ngũ đảng viên của Đảng từ
năm 2001 đến năm 2010, Luận văn thạc sĩ khoa học Lịch sử, Học viện Chính
trị.
Các công trình này đã nghiên cứu một cách cơ bản mang tính chất lý
luận chung về công tác phát triển đảng viên, luận giải dưới nhiều góc độ khác
nhau về vị trí, vai trò của đội ngũ đảng viên đối với công cuộc đổi mới, công
nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước. Đồng thời đề ra các giải pháp nâng cao
chất lượng công tác xây dựng và phát triển đội ngũ đảng viên trong giai đoạn
hiện nay, đáp ứng yêu cầu sự nghiệp đổi mới của Đảng. Dưới góc độ Lịch sử
4

4



`

Đảng, một số công trình đã tập trung làm rõ yêu cầu khách quan, chủ trương
và sự chỉ đạo của Đảng về xây dựng đội ngũ đảng viên trên cơ sở đó đánh giá
kết quả, rút ra một số kinh nghiệm vận dụng trong giai đoạn tiếp theo.
Nhóm các công trình nghiên cứu về công tác xây dựng Đảng trong
vùng có đông đồng bào tôn giáo, tiêu biểu như:
Viện Nghiên cứu chủ nghĩa Mác-Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh
(1995), Xây dựng Đảng ở một số vùng có đông đồng bào theo đạo Thiên
Chúa ở miền Bắc hiện nay, Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh; Trung
tâm Khoa học về Tín ngưỡng và Tôn giáo (1998), Mối quan hệ giữa chính trị
và tôn giáo trong thời kỳ mở rộng giao lưu quốc tế và phát triển nền kinh tế
thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở nước ta hiện nay, Học viện Chính
trị quốc gia Hồ Chí Minh; Ngô Hữu Thảo (1999), “Phát triển Đảng trong các
vùng đồng bào theo đạo Thiên Chúa”, Tạp chí Xây dựng Đảng (số 4); Viện
Xây dựng Đảng (1999), Công tác xây dựng Đảng ở những vùng có đông
đồng bào theo đạo Thiên Chúa ở các tỉnh phía Nam hiện nay, Học viện Chính
trị quốc gia Hồ Chí Minh; Nguyễn Thị Thu Hiền (1999), Đảng bộ tỉnh Đồng
Nai lãnh đạo thực hiện chính sách tôn giáo đối với đạo Thiên Chúa trong
thời kỳ đổi mới 1986-1998, Luận văn thạc sĩ chuyên ngành Lịch sử Đảng, Đại
học Khoa học Xã hội và Nhân văn, Đại học Quốc gia Hà Nội; Phan Thanh
Kiều (2000), Nâng cao năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu của tổ chức cơ sở
đảng ở vùng có đông đồng bào theo đạo Thiên Chúa ở tỉnh Đồng Nai hiện
nay, Luận văn thạc sĩ chuyên ngành Xây dựng Đảng, Học viện Chính trị quốc
gia Hồ Chí Minh; Huỳnh Chí Thắng (2000), Công tác tư tưởng của tổ chức
cơ sở đảng đối với đồng bào theo đạo Thiên Chúa ở huyện Thống Nhất tỉnh
Đồng Nai hiện nay, Luận văn thạc sĩ chuyên ngành Xây dựng Đảng, Học viện
Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh; Hoàng Mạnh Đoàn (2002), Công tác vận

động giáo dân của tổ chức cơ sở đảng(cấp xã) ở đồng bằng Bắc Bộ nước ta
hiện nay, Luận án tiến sĩ Lịch sử, Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh; Ban
Tư tưởng văn hóa Trung ương (2002), Tôn giáo và chính sách tôn giáo của
5

5


`

Đảng Cộng sản Việt Nam, Nhà xuất bản Chính trị quốc gia Hà Nội; Nguyễn Văn
Giang (2003), Nâng cao chất lượng đội ngũ đảng viên vùng có đông đồng bào
công giáo ở các tỉnh ven biển đồng bằng Bắc Bộ trong giai đoạn hiện nay, Luận
án tiến sĩ khoa học Lịch sử, Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh; Bảo
Trung (2010), “Phát triển đảng viên là người có đạo và dân tộc thiểu số”, Tạp
chí Xây dựng Đảng (số 7); Kiều Linh (2010), “Sóc Trăng phát triển đảng viên
trong chức sắc tôn giáo”, Tạp chí Xây dựng Đảng (số 1); Bùi Văn Phương
(2011), Công tác phát triển đảng viên là người theo đạo Thiên Chúa của các
đảng bộ xã, thị trấn của tỉnh Ninh Bình trong giai đoạn hiện nay, Luận văn thạc
sĩ khoa học Xây dựng Đảng, Học viện Chính trị - Hành chính quốc gia Hồ Chí
Minh, Hà Nội; Bảo Linh (2014), “Quan tâm phát triển đảng viên là người có
đạo”, Tạp chí Xây dựng Đảng (số 3).
Các công trình này đã đi sâu nghiên cứu làm rõ công tác xây dựng
Đảng nói chung và công tác phát triển đảng viên nói riêng trong đồng bào các
tôn giáo. Đánh giá kết quả đạt được, chỉ rõ yêu cầu khách quan của công tác
phát triển đảng viên trong đồng bào các tôn giáo; rút ra một số kinh nghiệm từ
thực tiễn hoạt động phát triển đảng viên, góp phần vào công tác xây dựng
Đảng, đáp ứng yêu cầu thực hiện thành công chiến lược đại đoàn kết toàn
dân, đoàn kết tôn giáo. Các đề tài, công trình nghiên cứu kể trên là thành quả
lao động tâm huyết, sáng tạo của các cá nhân, tập thể góp phần thiết thực vào

công tác phát triển đảng viên trong đồng bào các tôn giáo hiện nay.
Nhóm các công trình nghiên cứu liên quan trực tiếp đến công tác
phát triển Đảng trong đồng bào các tôn giáo ở tỉnh Nam Định như:
Nguyễn Văn Giang (2000), “Công tác phát triển đảng viên ở vùng
công giáo tỉnh Nam Định”, Tạp chí Xây dựng Đảng (số 10); Trọng Thủy
(2001), “Phấn đấu vì một Nam Định giàu đẹp, văn minh”, Tạp chí Xây dựng
Đảng (số 4); Bùi Hữu Dược (2003), Năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu của
tổ chức cơ sở đảng nông thôn vùng có đông đồng bào Công giáo ở tỉnh Nam
Định trong giai đoạn hiện nay - thực trạng và giải pháp, Luận văn thạc sĩ
6

6


`

khoa học Chính trị, Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh, Hà Nội;
Nguyễn Khắc Hưng (2006), “Đảng bộ thành phố Nam Định xây dựng tổ chức
cơ sở đảng và đội ngũ đảng viên”, Tạp chí Cộng sản (số 19); Nguyễn Thị Thu
Hương (2008), Quá trình thực hiện chính sách tôn giáo của Đảng ở tỉnh Nam
Định thời kỳ 1986-2007, Luận văn thạc sĩ Lịch sử Đảng, Đại học Quốc gia Hà
Nội; Trần Duy Hưng (2011), “Quản lý đảng viên đi làm ăn xa ở Nam Định”,
Tạp chí Xây dựng Đảng (số 10); Trần Thị Ngọc Tâm (2012), Thực hiện chính
sách tôn giáo ở vùng Công giáo tỉnh Nam Định hiện nay, Luận văn thạc sĩ
chuyên ngành Triết học, Đại học Quốc gia Hà Nội; Trần Duy Hưng (2012),
“Trẻ hóa cán bộ cấp xã tại Nam Định”, Tạp chí Xây dựng Đảng (số 10); Phan
Ngọc Lý (2014), “Gắn phát triển Đảng với việc khắc phục cơ sở đảng yếu
kém”, Tạp chí Xây dựng Đảng (số 6); Vũ Thị Phương Anh (2014), Quá trình
thực hiện chính sách tôn giáo của Đảng đối với Công giáo ở huyện Xuân
Trường (Nam Định) (1997-2010), Luận văn thạc sĩ chuyên ngành Lịch sử

Đảng, Đại học Khoa học Xã hội và Nhân văn, Đại học Quốc gia Hà Nội; Bùi
Thị Thanh Thúy (2014), Đảng bộ tỉnh Nam Định lãnh đạo công tác thanh
niên từ năm 2001 đến năm 2011, Luận văn thạc sĩ chuyên ngành Lịch sử
Đảng, Đại học Khoa học Xã hội và Nhân văn, Đại học Quốc gia Hà Nội.
Các công trình trên đề cập công tác phát triển Đảng nói chung, xây
dựng và phát triển đội ngũ đảng viên trong vùng đồng bào tôn giáo nói riêng
trên địa bàn Tỉnh ở nhiều góc độ và phạm vi khác nhau. Đây là các công trình
nghiên cứu về công tác phát triển Đảng ở từng khu vực, địa bàn cụ thể gắn
với điều kiện tự nhiên, kinh tế - xã hội của Tỉnh. Trên cơ sở luận giải các khía
cạnh, các công trình nghiên cứu đã có những đóng góp vào việc đề xuất
những vấn đề quan trọng nhằm phát triển đội ngũ đảng viên của Đảng bộ tỉnh
Nam Định ngày càng vững mạnh hơn.
Tất cả các công trình trên đã đi sâu nghiên cứu, làm rõ quá trình phát
triển đảng viên trên phạm vi cả nước, ở một số địa phương và trên địa bàn tỉnh
Nam Định. Đánh giá kết quả phát triển đảng viên, chỉ rõ yêu cầu, tính tất yếu
khách quan trong công tác phát triển đảng viên vùng đồng bào tôn giáo. Đưa ra

7

7


`

những bài học kinh nghiệm, trong công tác phát triển đảng viên vùng đồng bào
có đạo, đáp ứng yêu cầu công tác xây dựng Đảng trong giai đoạn hiện nay.
Tuy nhiên chưa có công trình nào nghiên cứu một cách hệ thống và toàn
diện về sự lãnh đạo của Đảng bộ tỉnh Nam Định đối với công tác phát triển đảng
viên trong vùng đồng bào các tôn giáo của Tỉnh từ năm 2001 đến năm 2010. Các
công trình trên chính là nguồn tư liệu phong phú, có giá trị lý luận và thực tiễn đáng

tin cậy để tác giả tham khảo trong quá trình thực hiện đề tài luận văn của mình.
3. Mục đích, nhiệm vụ nghiên cứu của đề tài
* Mục đích
Làm sáng tỏ chủ trương và sự chỉ đạo của Đảng bộ tỉnh Nam Định
về phát triển đảng viên trong đồng bào các tôn giáo từ năm 2001 đến năm
2010. Đúc rút kinh nghiệm nhằm vận dụng vào nâng cao hiệu quả lãnh
đạo của Đảng bộ về công tác phát triển đảng viên trong đồng bào các tôn
giáo những năm tới.
* Nhiệm vụ
Làm rõ sự cần thiết phải xây dựng, phát triển đội ngũ đảng viên trong đồng
bào các tôn giáo của Đảng bộ tỉnh Nam Định từ năm 2001 đến năm 2010.
Phân tích, luận giải chủ trương và sự chỉ đạo của Đảng bộ tỉnh Nam Định
về phát triển đảng viên trong đồng bào các tôn giáo từ năm 2001 đến năm 2010.
Đưa ra một số nhận xét và đúc rút những kinh nghiệm chủ yếu từ quá
trình Đảng bộ tỉnh Nam Định lãnh đạo công tác phát triển đảng viên trong
đồng bào tôn giáo, làm cơ sở để vận dụng trong những năm tới.
4. Đối tượng, phạm vi nghiên cứu đề tài
* Đối tượng
Nghiên cứu hoạt động lãnh đạo của Đảng bộ tỉnh Nam Định về phát
triển đảng viên trong đồng bào các tôn giáo từ năm 2001 đến năm 2010.
* Phạm vi nghiên cứu

8

8


`

Về nội dung: Nghiên cứu chủ trương và sự chỉ đạo của Đảng bộ tỉnh

Nam Định về phát triển đảng viên trong đồng bào các tôn giáo: Phật giáo,
Công giáo, Tin lành.
Về thời gian: Từ năm 2001 đến năm 2010. Tuy nhiên, quá trình nghiên
cứu đề tài để làm rõ yêu cầu khách quan lãnh đạo phát triển đảng viên trong
đồng bào các tôn giáo, tác giả có đề cập tới một số vấn đề trước năm 2001.
Về không gian: Trên địa bàn tỉnh Nam Định.
5. Phương pháp luận và phương pháp nghiên cứu đề tài
* Phương pháp luận
Luận văn nghiên cứu dựa trên cơ sở phương pháp luận chủ nghĩa
duy vật biện chứng, chủ nghĩa duy vật lịch sử của chủ nghĩa Mác - Lênin
và phương pháp luận sử học.
* Phương pháp nghiên cứu
Luận văn nghiên cứu trên cơ sở phương pháp chuyên ngành và liên
ngành, chủ yếu là phương pháp lịch sử, phương pháp logic.
Ngoài ra tác giả còn sử dụng phương pháp khảo sát, so sánh, thống kê,
phương pháp phân tích tổng hợp, tổng kết thực tiễn trên cơ sở bảo đảm sự phù
hợp với từng nội dung nghiên cứu của luận văn.
6. Ý nghĩa của đề tài
Thành công của luận văn góp phần làm rõ tính đúng đắn sáng tạo của
chủ trương và sự chỉ đạo của Đảng bộ tỉnh Nam Định trong công tác phát
triển đảng viên vùng đồng bào tôn giáo từ năm 2001 đến năm 2010.
Kết quả nghiên cứu của luận văn có thể làm tài liệu tham khảo phục vụ
cho nghiên cứu giảng dạy Lịch sử Đảng trong tỉnh Nam Định, các học viện, nhà
trường trong và ngoài quân đội.
Luận văn là nguồn tư liệu để các cấp ủy Đảng, chính quyền và các tổ
chức chính trị - xã hội ở tỉnh Nam Định tiếp tục nghiên cứu vận dụng vào lãnh
đạo, chỉ đạo phát triển đảng viên trong đồng bào tôn giáo những năm tới.
9

9



`

7. Kết cấu của đề tài
Gồm phần mở đầu, 2 chương (4 tiết), kết luận, danh mục tài liệu tham
khảo, phụ lục.

10

10


`

Chương 1
YÊU CẦU KHÁCH QUAN VÀ SỰ LÃNH ĐẠO CỦA ĐẢNG BỘ
TỈNH NAM ĐỊNH VỀ PHÁT TRIỂN ĐẢNG VIÊN TRONG
ĐỒNG BÀO CÁC TÔN GIÁO TỪ NĂM 2001 ĐẾN NĂM 2010
1.1. Yêu cầu khách quan và chủ trương của Đảng bộ tỉnh Nam
Định về phát triển đảng viên trong đồng bào các tôn giáo (2001-2010)
1.1.1. Yêu cầu khách quan phát triển đảng viên trong đồng bào các
tôn giáo ở tỉnh Nam Định
Xây dựng Đảng là nhiệm vụ quan trọng hàng đầu đối với các chính
đảng nói chung, đặc biệt đối với các Đảng Cộng sản cầm quyền, bởi công tác
này quyết định sự tồn tại phát triển của Đảng. Nội dung cơ bản của công tác
xây dựng Đảng Cộng sản cầm quyền gồm: xây dựng Đảng về chính trị, tư
tưởng, tổ chức, đạo đức và văn hóa.
Phát triển Đảng là một nội dung quan trọng của công tác xây dựng
Đảng, là việc làm thường xuyên, là biện pháp để nâng cao chất lượng, số

lượng đảng viên; phát triển Đảng về tổ chức cơ sở đảng; phát triển ảnh hưởng
của Đảng đối với xã hội (tăng cường vai trò lãnh đạo của Đảng); phát triển
mở rộng ảnh hưởng của Đảng đối với cộng đồng quốc tế...
Phát triển đảng viên là nhiệm vụ quan trọng, thường xuyên trong công
tác xây dựng Đảng, là toàn bộ hoạt động của các tổ chức đảng từ khâu tuyên
truyền, vận động, tạo nguồn, bồi dưỡng, quản lý nguồn và kết nạp quần chúng
vào Đảng; giáo dục đảng viên dự bị trở thành đảng viên chính thức theo đúng
quy trình, thủ tục, nhằm tăng cường số lượng và chất lượng đảng viên, góp
phần tăng cường sức mạnh nâng cao năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu của
Đảng, đáp ứng yêu cầu của cách mạng trong mỗi giai đoạn lịch sử.
Đảng viên là những tế bào của Đảng. Đảng viên tốt hay xấu ảnh hưởng
trực tiếp đến sức chiến đấu của tổ chức đảng, đến việc giữ gìn và phát huy bản
chất giai cấp và tính tiên phong của Đảng. Muốn lãnh đạo quần chúng thực hiện
11

11


`

tốt đường lối, chính sách của Đảng, giáo dục quần chúng theo quan điểm, lập
trường của giai cấp công nhân, Đảng phải có những đảng viên tốt. Đảng viên có
thật sự gương mẫu, kiên quyết tích cực và biết tổ chức, vận động quần chúng chấp
hành các chủ trương chính sách của Đảng thì các chủ trương chính sách đó mới
được thực hiện đầy đủ, đảng viên đi trước làng nước theo sau. Mối liên hệ giữa
Đảng và quần chúng được củng cố ngày càng chặt chẽ chính là do Đảng có được
đội ngũ đảng viên tốt, bám rễ chắc trong quần chúng, gắn bó với quần chúng.
* Quan điểm của chủ nghĩa Mác – Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh về
phát triển đảng viên trong đồng bào các tôn giáo
Công tác phát triển đảng viên trong tín đồ các tôn giáo là vấn đề có ý

nghĩa lý luận và thực tiễn quan trọng. Vấn đề này đã được các nhà kinh điển của
chủ nghĩa Mác-Lênin quan tâm, nghiên cứu. Trong tác phẩm Điều lệ của Liên
đoàn những người Cộng sản năm 1853, C. Mác xác định mục đích của Liên
đoàn là lật đổ giai cấp tư sản, lập nền thống trị của giai cấp vô sản, tiêu diệt xã
hội tư sản để xây dựng một xã hội mới không có giai cấp, không có chế độ tư
hữu, không có bóc lột. Để thực hiện thắng lợi sứ mệnh này, Liên đoàn cần kết
nạp vào tổ chức của mình mọi đối tượng xã hội khi đáp ứng điều kiện:
Lối sống và hoạt động phù hợp với mục đích ấy; nghị lực cách mạng và
lòng nhiệt thành trong tuyên truyền; thừa nhận chủ nghĩa cộng sản;
không tham gia vào mọi tổ chức – chính trị hoặc dân tộc – chống cộng
sản, và có nghĩa vụ báo cáo với cơ quan lãnh đạo hữu quan về việc
tham gia vào một số tổ chức nào đó; phục tùng các nghị quyết của Liên
đoàn; giữ bí mật mọi công việc của Liên đoàn; được chi bộ nhất trí kết
nạp [33, tr. 732].
Kế thừa và phát triển lý luận của C.Mác trong thời đại mới, V.I.Lênin
đã cụ thể hóa công tác phát triển Đảng với từng đối tượng, trong đó có tín đồ
các tôn giáo. Theo Ông, để tăng cường khối đoàn kết các giai tầng trong xã
hội và chống tư tưởng cực đoan, bè phái, cần kết nạp những tín đồ tôn giáo
12

12


`

vào Đảng. Một công dân có tín ngưỡng, tôn giáo hoàn toàn có thể trở thành
đảng viên của Đảng khi người đó chấp nhận và đấu tranh cho cương lĩnh của
Đảng, đồng thời không dùng cơ sở đảng để tuyên truyền cho tôn giáo. Bởi
giữa những người cộng sản và người có tín ngưỡng tôn giáo có khác nhau về
thế giới quan, nhưng không tất yếu dẫn đến khác nhau hoặc đối lập về quan

điểm chính trị, người có cũng như người không có tín ngưỡng tôn giáo vẫn có
thể cùng nhau phấn đấu cho mục tiêu chính trị chung nhất định. Trong bài
“Về thái độ của đảng công nhân đối với tôn giáo”, V.I.Lênin viết:
Chúng ta không những phải sẵn sàng kết nạp, mà còn cố gắng để thu
hút vào Đảng dân chủ - xã hội tất cả những công nhân nào còn tin
tưởng ở thượng đế. Chúng ta nhất định phản đối bất cứ một sự xúc
phạm nhỏ nào đến tín ngưỡng tôn giáo của họ, việc kết nạp này để giáo
dục họ theo tinh thần cương lĩnh của chúng ta, chứ không phải để họ
tích cực chống lại cương lĩnh ấy [31, tr.520].
Công tác kết nạp đảng viên không chỉ với tín đồ ưu tú, mà cả chức sắc
tiến bộ. Trả lời câu hỏi, một linh mục có thể trở thành đảng viên Đảng dân
chủ - xã hội, Đảng của những người vô sản được không? V.I.Lênin cho rằng:
Không nên nhất loạt, và bất cứ trường hợp nào, cũng tuyên bố rằng các
linh mục không thể trở thành đảng viên Đảng dân chủ - xã hội nhưng
lại càng không nên nhất loạt tuyên bố ngược lại. Nếu có một linh mục
nào lại đi cùng chúng ta để cùng hoạt động chính trị, tận tâm làm tròn
nhiệm vụ của mình trong đảng và không chống lại cương lĩnh của đảng,
thì chúng ta có thể kết nạp người ấy vào hàng ngũ Đảng dân chủ - xã
hội, bởi vì trong những điều kiện ấy, mâu thuẫn giữa tinh thần của
cương lĩnh Đảng ta và các nguyên tắc của cương lĩnh ấy với những tín
ngưỡng của các tôn giáo linh mục đó có thể vẫn chỉ là mâu thuẫn riêng
của người đó, là việc riêng của bản thân người đó thôi; còn như đem
kiểm tra các đảng viên của mình xem có phải trong người họ không có
13

13


`


mâu thuẫn giữa quan điểm của họ với cương lĩnh của Đảng không, thì
một tổ chức chính trị không thể nào làm được [31, tr. 520].
Từ quan điểm chủ nghĩa Mác-Lênin, có thể thấy để tăng cường sức mạnh
và tính chiến đấu của Đảng, để thực hiện thắng lợi sứ mệnh lịch sử, Đảng cần kết
nạp vào hàng ngũ của mình tất cả những tín đồ ưu tú và chức sắc tiến bộ.
Chủ tịch Hồ Chí Minh có rất nhiều bài viết về tôn giáo nhưng Người
không đi sâu vào nguồn gốc, bản chất tôn giáo mà chủ yếu là tìm ra những nét
những mặt tích cực của các tôn giáo để vận động đồng bào có đạo tham gia
vào công cuộc xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. Mặc dù biết rất rõ “ tôn giáo là
duy tâm, cộng sản là duy vật” nhưng Hồ Chí Minh không đi đến sự đối lập
giữa tôn giáo và cộng sản mà trái lại, tìm ra điểm tương đồng, các mặt tích
cực của tôn giáo và đồng bào có đạo với cách mạng, với dân tộc. Có lẽ trong
số những người cộng sản chỉ có Chủ tịch Hồ Chí Minh, một lãnh tụ vĩ đại
nhưng đã ca ngợi cái từ bi của Đức Phật, lòng nhân ái của Đức Giê su và tự
nhận “làm người học trò nhỏ” của các vĩ nhân như Khổng Tử, Mác, Tôn Dật
Tiên, Giê su. Hồ Chí Minh viết về Đức Giê su như viết về một nhà cách mạng
lớn: “Cách đây gần hai ngàn năm, trong một đêm đông lạnh lẽo, Đức Thiên
chúa đã giáng sinh để cứu vớt nhân loại. Đức Thiên chúa là một tấm gương
hy sinh triệt để vì những người bị áp bức, vì những dân tộc bị đè nén, vì hoà
bình, vì công lý. Từ ngày Ngài hy sinh đến nay, tinh thần bác ái của Ngài toả
ra đã khắp, thấm vào đã sâu”. Hồ Chí Minh luôn luôn tin tưởng vào đồng bào
có đạo. Người nói: “Phần lớn đồng bào các tôn giáo nhất là các tầng lớp lao
động đều yêu nước, kháng chiến như Công giáo ở nhiều nơi, như Cao Đài
kháng chiến”. Người mạnh dạn giao các chức vụ quan trọng cho những người
có đạo và thường nhắc nhở cán bộ của Đảng không được hẹp hòi, định kiến
với tôn giáo và đặc biệt không được xúc phạm tín ngưỡng, tôn giáo của dân.
Hồ Chí Minh chiếm được lòng tin của đồng bào các tôn giáo vì Người hiểu
đạo, hiểu đồng bào có đạo, nói với các tín đồ bằng ngôn ngữ tôn giáo của họ .
14


14


`

Nói với Phật giáo, Người nói “ Lợi lạc quần sinh, vô ngã vị tha”, còn nói với
Công giáo, Người bảo : “Tôi kính cẩn cầu Đức Chúa phù hộ dân tộc Việt
Nam và giúp cho Việt Nam đi đến thắng lợi cuối cùng”.
Kế thừa, phát triển chủ nghĩa Mác-Lênin về công tác phát triển Đảng
đối với các tín đồ tôn giáo, trong bài nói chuyện tại lớp Chỉnh huấn cán bộ trí
thức, Hồ Chí Minh nói:
Có anh em hỏi một người Công giáo có thể vào Đảng lao động được
không? Có. Người tôn giáo nào cũng được, miễn là trung thành, hăng
hái làm nhiệm vụ, giữ đúng kỷ luật của Đảng. Nước ta kinh tế lạc hậu,
kỹ thuật kém, tôn giáo là duy tâm, cộng sản là duy vật, nhưng trong
điều kiện hiện tại, người theo đạo vẫn vào Đảng được [39, tr. 115]
Có thể nói, theo Hồ Chí Minh đồng bào mọi tôn giáo đều có thể vào
Đảng, miễn là luôn trung thành với sự nghiệp cách mạng của dân tộc, trung
thành với Đảng và nhân dân. Việc kết nạp đồng bào các tôn giáo vào Đảng
cũng là để tăng cường sức mạnh và tính chiến đấu của Đảng, bởi theo Người:
Đảng ta là trí tuệ, là danh dự và lương tâm của dân tộc.
Vận dụng sáng tạo chủ nghĩa Mác – Lênin vào điều kiện Việt Nam, Hồ
Chí Minh không coi sự khác nhau về thế giới quan tất yếu đẫn đến sự đối lập
về lập trường và thái độ chính trị. Sự thống nhất ý kiến để xây dựng cảnh cực
lạc dưới cõi trần, đem lại cuộc sống ấm no, tự do, hạnh phúc ở hiện thực quan
trọng hơn việc thống nhất có thiên đường hay không thiên đường, có hay
không thần thánh. Quan điểm này nhận được sự đồng tình từ các tôn giáo, thể
hiện ở đường hướng: “Đạo pháp – Dân tộc và chủ nghĩa xã hội” của Giáo hội
Phật giáo, “Sống Phúc âm, phụng sự Thiên chúa, phụng sự Tổ quốc” của Hội
thánh Tin lành, “Kính chúa – Yêu nước; Sống Phúc âm giữa lòng dân tộc”

của giáo hội Công giáo....
Như vậy, chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh bàn về công
tác phát triển đội ngũ đảng viên trong đồng bào tôn giáo rất toàn diện và cũng
15

15


`

hết sức cụ thể, thiết thực. Những quan điểm, tư tưởng này có ý nghĩa to lớn
cần phải tiếp tục vận dụng một cách sáng tạo, nhằm xây dựng, phát triển đội
ngũ đảng viên trong đồng bào các tôn giáo của Đảng nói chung, xây dựng đội
ngũ đảng viên có tôn giáo trên địa bản Tỉnh nói riêng, đáp ứng yêu cầu nhiệm
vụ cách mạng trong sự nghiệp đổi mới.
*Những yếu tố tác động đến công tác phát triển đảng viên trong đồng
bào các tôn giáo của tỉnh Nam Định.
Tác động điều kiện tự nhiên và văn hóa xã hội
Nam Định là một tỉnh ven biển phía Đông Nam đồng bằng châu thổ sông
Hồng, cách thủ đô Hà Nội 90km về phía Nam (theo quốc lộ 1A qua Hà Nam) và
cách thành phố Hải Phòng 80km về phía Tây (theo quốc lộ 10 qua Thái Bình).
Phía Đông, Nam Định giáp tỉnh Thái Bình, phía Tây giáp tỉnh Ninh
Bình; phía Nam và Đông Nam giáp biển Đông với tổng chiều dài đường bờ
biển là 72km; phía Bắc giáp tỉnh Hà Nam.
Nam Định ở vào vị trí trung chuyển giữa các tỉnh phía Nam đồng bằng
sông Hồng và các tỉnh Bắc Trung bộ. Diện tích tự nhiên Nam Định là
1651,4km2, bằng khoảng 0,5% diện tích tự nhiên cả nước. Dân số Nam Định là
1.830.0000 người, là một trong mười tỉnh thành phố đông dân nhất cả nước.
Tỉnh Nam Định có 9 đơn vị hành chính cấp huyện và 1 thành phố trực
thuộc tỉnh. Nam Định có 194 xã, 20 phường cùng 15 thị trấn, trong đó có 9 thị

trấn huyện lỵ và 6 thị trấn độc lập khác trực thuộc huyện. Là tỉnh nằm trong
vùng ảnh hưởng trực tiếp của tam giác tăng trưởng trọng điểm phía Bắc (Hà
Nội - Hải Phòng - Quảng Ninh). Là vùng đất có nền kinh tế đang phát triển
với nhiều tiềm năng lợi thế về nông nghiệp, chăn nuôi thủy hải sản, các làng
nghề truyền thống như đúc đồng, mây, tre, dệt may và các ngành công nghiệp
đang trên đà phát triển.
Nam Định là mảnh đất địa linh nhân kiệt, có lịch sử truyền thống trên
750 năm của Phủ Thiên Trường nơi phát tích nhà Trần nổi tiếng trong lịch sử
16

16


`

Việt Nam về hào khí Đông A, từng ba lần đại thắng quân Nguyên, nơi sinh ra
nhiều danh nhân cho đất nước như Quốc công Tiết chế Hưng đạo Đại vương
Trần Quốc Tuấn, Thượng tướng Trần Quang Khải, vua Trần Thái Tông và
Trần Thánh Tông, Thiền sư Dương Không Lộ và Nguyễn Giác Hải, các vị
trạng nguyên như Nguyễn Hiền, Lương Thế Vinh...
Nam Định là địa phương có nền văn hóa đa dạng với nhiều danh lam
thắng cảnh, di tích lịch sử văn hóa, là địa phương có nhiều người theo các tôn
giáo khác nhau. Theo Ban Tôn giáo thuộc Sở Nội vụ tỉnh, hiện nay ở Nam
Định có 3 tôn giáo chính: Công giáo, Phật giáo, Tin Lành (Phật giáo có 858 tăng
ni khoảng 30.000 tín đồ; đạo Tin Lành có 594 tín đồ, đạo Thiên Chúa có
385.404 tín đồ, chiếm 22,8% dân số toàn tỉnh), cùng với nhiều loại hình tín
ngưỡng, nhất là tín ngưỡng thờ cúng tổ tiên và tín ngưỡng thờ Mẫu... tạo nên sự
đa dạng, phong phú trong hoạt động chính trị, kinh tế, văn hóa, xã hội của Tỉnh.
Điều kiện thuận lợi cơ bản về vị trí địa lý, về truyền thống văn hiến,
nhân dân luôn có truyền thống cách mạng, tinh thần yêu nước, lao động cần

cù sáng tạo là cơ sở để phát triển kinh tế, chính trị, văn hóa, xã hội đồng thời
cũng tạo ra sự đa dạng trong công tác phát triển Đảng, nhất là công tác phát
triển đảng viên trong đồng bào các tôn giáo.
Như vậy, trước những điều kiện tự nhiên, kinh tế, văn hóa, xã hội và
tính đặc thù của Tỉnh, vấn đề đặt ra đối với công tác phát triển đảng viên
trong đồng bào các tôn giáo của Đảng bộ tỉnh là phải lãnh đạo thực hiện tốt
nhiệm vụ chính trị trung tâm, quan tâm đúng mức tới công tác phát triển đảng
viên, đặc biệt là trong vùng có đông đồng bào tôn giáo, đáp ứng yêu cầu của
sự nghiệp xây dựng, bảo vệ, giữ vững tình hình an ninh chính trị trong địa bàn
tỉnh Nam Định, cũng như sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã
hội chủ nghĩa, góp phần vào sự nghiệp đổi mới, công nghiệp hóa, hiện đại hóa
đất nước hiện nay.
Đặc điểm tình hình tôn giáo ở Nam Định.
Ở Nam Định hiện nay có 3 tôn giáo chính hoạt động hợp pháp được
nhà nước công nhận đó là: Công giáo, Phật giáo, Tin Lành; các tôn giáo được
du nhập vào Nam Định sớm, phát triển và được tổ chức chặt chẽ theo các cấp.
17

17


`

Theo quan điểm của Nhà nước Việt Nam: tín đồ là người có niềm tin
vào một tôn giáo và được tổ chức tôn giáo đó thừa nhận; chức sắc là tín đồ có
chức vụ, phẩm sắc trong tôn giáo; nhà tu hành là tín đồ tự nguyện thực hiện
thường xuyên nếp sống riêng theo giáo lý, giáo luật của tôn giáo mà mình tin
theo [5, tr. 9-10].
Đặc điểm đồng bào Công giáo
Đạo Công giáo là đạo do Chúa Giêsu khai sinh giảng dạy để mang ơn

cứu độ của Thiên Chúa và để cho mọi người thành tâm đón nhận để được cứu
rỗi. Tín đồ đạo Công giáo là người hiệp thông với Giáo hoàng La Mã và thừa
nhận Giáo hoàng là người đứng đầu Giáo hội, đồng thời tự nguyện thực hiện
những thông điệp của Giáo hội. Công giáo được du nhập vào tỉnh Nam Định từ
năm 1553, đến nay đã trở thành một tôn giáo lớn, tín đồ đạo Công giáo chiếm
22,2% tổng số dân toàn tỉnh, có tòa giám mục Bùi Chu được thành lập từ năm
1848, có đền thánh Phú Nhai được phong là Tiểu Vương Cung Thánh Đường
năm 2008. Đạo Công giáo thuộc giáo phận Bùi Chu và một phần giáo phận Hà
Nội; có 590 nhà thờ, 141 giáo xứ, 525 giáo họ, có 6 dòng tu, 39 cơ sở dòng, có 1
Giám mục, 183 linh mục, 3600 chức việc, 1000 nữ tu và 473.000 giáo dân. Các
huyện có tỷ lệ giáo dân cao là Nghĩa Hưng 48,9% (là huyện có tỷ lệ giáo dân
xếp thứ hai trong cả nước; Hải Hậu 41,3%; Xuân Trường 30,2%; Giao Thủy
26,9%; 200/299 xã phường, thị trấn có tín đồ công giáo; 11 xã có tỷ lệ giáo dân
trên 90%, đặc biệt có xã tỷ lệ giáo dân gần toàn tòng như xã Nghĩa Sơn, Nghĩa
Lạc huyện Nghĩa Hưng là 99,8%; xã Trực Hùng, huyện Trực Ninh là 99,6%.
Qua quá trình tồn tại và phát triển, đồng bào Công giáo trên địa bàn
tỉnh Nam Định có một số đặc điểm nổi bật:
Đa số đồng bào Công giáo trên địa bàn tỉnh Nam Định có tinh thần yêu
nước, đoàn kết với các tôn giáo khác trong chống giặc ngoại xâm. Tinh thần
yêu nước, đoàn kết chống giặc ngoại xâm được thể hiện rõ trong các cuộc đấu
18

18


`

tranh chống thực dân Pháp, đế quốc Mỹ. Trong các cuộc chiến tranh đó rất nhiều
tín đồ, chức sắc đã tham gia tích cực vào phong trào đấu tranh của quần chúng
nhân dân. Nhà thờ các giáo xứ, giáo họ là nơi trú ẩn cho các chiến sĩ hoạt động

bí mật, cũng là nơi tuyên truyền đường lối kháng chiến cho đồng bào, giáo dân.
Nam Định cũng là tỉnh có nhiều thanh niên là tín đồ Công giáo tham gia vào các
đơn vị bộ đội, thanh niên xung phong. Sau khi đất nước được giải phóng, đa số
đồng bào thực hiện tốt chủ trương, đường lối của Đảng, chính sách và pháp luật
của Nhà nước, tham gia tích cực, hiệu quả công tác từ thiện, nhân đạo. Nhiều tín
đồ được bầu vào các cơ quan dân cử, đoàn thể các cấp. Tiêu biểu như: Linh mục
Lê Ngọc Hoàn, Phó Chủ tịch Ủy ban Đoàn kết Công giáo tỉnh Nam Định, 15
năm liên tục tham gia Ủy ban Đoàn kết Công giáo tỉnh, là đại biểu Quốc hội
khoá XII, XIII. Đây là những điểm thuận lợi cho công tác phát triển đảng viên
trong đồng bào Công giáo của Đảng bộ tỉnh.
Đặc điểm đồng bào Phật giáo:
Phật giáo là tôn giáo do Đức Phật (Thich Ca Mâu Ni) sáng lập tại Ấn
Độ vào thế kỷ VI trước công nguyên. Giáo lý của đạo Phật được tập hợp
trong Tam Tạng Kinh (Kinh tạng, Luật tạng, Luận tạng). Tín đồ Phật giáo là
người có niềm tin vào Phật giáo và được Giáo hội Phật giáo thừa nhận. Phật
giáo được truyền vào Việt Nam từ khá sớm. Tại Nam Định, Phật giáo phát
triển rực rỡ dưới triều Lý, Trần và tồn tại đến bây giờ. Trong suốt quá trình
phát triển, Phật giáo cũng trải qua những bước thăng trầm cùng những biến cố
lịch sử của dân tộc.
Phật giáo ở Nam Định có số lượng tín đồ khoảng 30.000 người, trong đó có
858 tăng ni phật tử, sinh hoạt ở 837 chùa. Trong 837 chùa ở 197 xã (44 đơn vị có
từ 7 chùa trở lên) có 93 chùa được xếp hạng di tích lịch sử văn hóa cấp bộ. 64
chùa được xếp hạng di tích lịch sử văn hóa cấp Tỉnh, có 1 trường trung cấp Phật
học, 5 cơ sở hạ và khu trung tâm Trúc Lâm Thiên Trường tại phường Lộc
vượng, thành phố Nam Định. Ban trị sự Phật giáo Tỉnh gồm 37 thành viên.
19

19



`

Đồng bào Phật giáo ở Nam Định luôn gắn bó với quê hương, đất nước
mong muốn xây dựng quê hương thanh bình, ấm no. Trong kháng chiến nhiều
nhà sư, phật tử tích cực tham gia phong trào yêu nước của nhân dân trong
tỉnh, nhiều chùa là cơ sở kháng chiến, nơi thành lập các chi bộ đảng. Sau khi
đất nước được giải phóng, đồng bào Phật giáo có nhiều đóng góp cho công
cuộc xây dựng quê hương đất nước, giữ vững an ninh chính trị, tham gia có
hiệu quả công tác từ thiện nhân đạo của địa phương và cả nước. Với tư tưởng,
giáo lý nhà Phật đề cao sự bình yên, tinh thần thanh thản, không đấu tranh với
thế sự thời cuộc, đã tạo những khó khăn nhất định trong công tác phát triển
đảng viên trong đồng bào Phật giáo.
Đặc điểm đồng bào theo đạo Tin Lành:
Đạo Tin Lành là một trong bốn trường phái chính của Kitô giáo, được
tách ra từ giáo hội Công giáo tại châu Âu vào thế kỷ XVI. Tin Lành là tên gọi
chung của một tôn giáo bao gồm nhiều Giáo hội, Giáo phái độc lập. Tín đồ
theo đạo Tin Lành là những người từ 15 tuổi trở lên, có niềm tin vào đạo Tin
Lành và được Giáo hội Tin Lành thừa nhận.
Là tôn giáo du nhập sau, trong quá trình phát triển do ảnh hưởng của
lịch sử, đạo Tin Lành không nhận được nhiều sự ủng hộ của đồng bào. Gần
một thế kỷ du nhập, số lượng tín đồ còn ít, chỉ tập trung tại hai cơ sở của Nam
Định. Đạo Tin Lành hiện có 2 chi hội là Hội Thánh Nam Định và Hội Thánh
Giao Hà (huyện Giao Thủy) gồm 2 mục sư, số lượng tín đồ gần 500 người.
Trong những năm qua, đồng bào Tin Lành trên địa bàn tỉnh Nam Định luôn
được Đảng, chính quyền các cấp trong tỉnh quan tâm, tạo điều kiện sinh hoạt
tín ngưỡng theo quy định của Nhà nước. Hầu hết các chức sắc, tín đồ phấn
khởi trước chủ trương của Đảng cho phép đạo Tin Lành được sinh hoạt trong
khuôn khổ pháp luật. Do vậy, Hội thánh Tin Lành trong tỉnh đã từng bước ổn
định sinh hoạt tôn giáo; đồng bào ngày càng yên tâm, tin tưởng vào chủ
trương, đường lối của Đảng, chính sách pháp luật của Nhà nước. Tuy nhiên,

20

20


`

do yếu tố của lịch sử để lại, và số lượng tín đồ ít chỉ tập trung tại hai địa
phương trong tỉnh, đã tạo những khó khăn nhất định trong công tác phát triển
đảng viên là tín đồ theo đạo Tin Lành.
* Thực trạng công tác phát triển đảng viên trong đồng bào các tôn
giáo ở tỉnh Nam Định trước năm 2001.
Thực hiện Nghị quyết kỳ họp thứ 10, Quốc hội khóa IX, ngày 6 tháng
11 năm 1996 Quyết định tách tỉnh Nam Hà thành hai tỉnh Nam Định và Hà
Nam. Để phát huy thuận lợi, đẩy lùi khó khăn, Tỉnh ủy đã bám sát đường lối
chủ trương của Đảng, đổi mới và tăng cường lãnh đạo trên tất cả các lĩnh vực
của đời sống xã hội.
Về công tác chính trị, tư tưởng: Trước những biến động của tình hình
quốc tế và khu vực và những vấn đề nảy sinh trong quá trình đổi mới, các cấp
ủy Đảng đã tập trung lãnh đạo, chỉ đạo công tác tư tưởng, chú trọng tuyên
truyền, giáo dục bồi dưỡng nâng cao phẩm chất đạo đức cách mạng cho cán
bộ, đảng viên. Tăng cường công tác thông tin, bồi dưỡng cán bộ đảng viên về
đường lối chủ trương của Đảng các vấn đề cơ bản của chủ nghĩa Mác-Lênin,
tư tưởng Hồ Chí Minh, truyền thống tốt đẹp của dân tộc, của địa phương đấu
tranh chống những biểu hiện sai trái trên các mặt của đời sống xã hội, củng cố
khối đoàn kết thống nhất trong Đảng và nhân dân.
Tỉnh ủy đã tổ chức quán triệt học tập Nghị quyết Trung ương 6 (lần 2)
khóa VIII; đẩy mạnh các hoạt động sinh hoạt chính trị tự phê bình và phê bình
nhằm nâng cao nhận thức chính trị , tư tưởng, đạo đức, lối sống cho mọi cán
bộ, đảng viên. Kết quả hầu hết cán bộ, đảng viên đều có tư tưởng, chính trị

vững vàng, trung thành với mục tiêu, lý tưởng của Đảng; giữ được phẩm chất
đạo đức, lối sống trong sạch, lành mạnh, tiền phong, gương mẫu.
Về tổ chức cơ sở đảng: Sau khi tái lập tỉnh có 9 huyện, 1 thành phố,
201 xã, 15 phường, 9 thị trấn, với 84.134 đảng viên, trong đó đảng viên gốc
giáo có 3.352 đồng chí, chiếm 4,05%. Đảng bộ tỉnh có 14 đảng bộ trực thuộc; có
21

21


`

927 tổ chức cơ sở đảng; có 194 tổ chức cơ sở đảng có đông đồng bào theo đạo
Thiên Chúa (385.404 tín đồ), với 170 tổ chức cơ sở đảng có từ 1 đảng viên trở
lên là người gốc đạo, có 5 tổ chức cơ sở đảng có trên 70% đảng viên là người
gốc đạo; 11 tổ chức cơ sở đảng có từ 30 đến 70% đảng viên là người gốc đạo.
Về chi bộ toàn tòng (100% đảng viên gốc giáo): toàn tỉnh có 93 chi bộ
thuộc loại hình này (chiếm 10,1% tổng số chi bộ ở nông thôn). Đảng viên
trong các chi bộ này phần lớn thuộc các gia đình Công giáo, có truyền thống
cách mạng hoặc con em đảng viên gốc giáo, có phẩm chất đạo đức tốt, tích
cực, có uy tín trong quần chúng nhân dân. Tại các chi bộ này, công tác phát
triển đảng viên có đạo được chú trọng và đạt kết quả khá tốt.
Về chi bộ gồm đảng viên có đạo và đảng viên không có đạo: số chi bộ này
phổ biến, chiếm khoảng hơn 80% tổng số chi bộ ở nông thôn. Trong chi bộ này
đảng viên gốc giáo ít (chiếm 4%) và phần lớn là những người đã nghỉ hưu, bộ
đội xuất ngũ, đảng viên có đạo được kết nạp tại địa phương ít. Công tác phát
triển đảng viên là tín đồ tôn giáo ở loại hình chi bộ này ít, xu hướng giảm nhiều.
Nguyên nhân là do đảng viên gốc giáo trong chi bộ này tính năng động thấp,
ngại va chạm, tính lan tỏa và uy tín với giáo dân không cao.
Chi bộ không có đảng viên là tín đồ các tôn giáo: loại hình chi bộ này ít

(dưới 8%), đảng viên còn nhiều biểu hiện phân biệt giữa các tôn giáo. Công
tác phát triển đảng viên có tôn giáo còn nhiều định kiến, thiên lệch, chưa phát
huy được nhân tố mới trong đồng bào các tôn giáo.
Về công tác phát triển đảng viên: Công tác xây dựng đội ngũ đảng viên
được quan tâm thường xuyên thông qua việc giáo dục, rèn luyện, quản lý đội
ngũ đảng viên và phát triển đảng viên mới. Đội ngũ đảng viên cơ bản có năng
lực, phát huy được truyền thống cách mạng của quê hương, giữ vững phẩm
chất đạo đức cách mạng của người cán bộ, đảng viên, kiên định mục tiêu lý
tưởng của Đảng, hoàn thành nhiệm vụ được giao. Công tác phát triển đảng
viên được đặc biệt chú trọng, đã tăng cường công tác tạo nguồn bồi dưỡng
22

22


`

quần chúng ưu tú kết nạp vào Đảng, bảo đảm cả số lượng và chất lượng. Từ
năm 1997 đến năm 2000, toàn Đảng bộ đã kết nạp được 8.919 đảng viên. Đội
ngũ đảng viên mới kết nạp có trình độ học vấn, tuổi trẻ, phát huy được năng
lực, hoàn thành nhiệm vụ.
Về công tác phát triển Đảng trong đồng bào các tôn giáo: Công tác
phát triển đảng viên mới chỉ tập trung trong tín đồ Thiên Chúa giáo, chưa kết
nạp tín đồ Phật giáo và Tin Lành. Trong khi tín đồ Phật giáo khá đông, có ảnh
hưởng lớn, có vị trí quan trọng trong xã hội và có những đóng góp nhất định vào
sự phát triển kinh tế - xã hội, sự ổn định chính trị của địa phương.
Qua phân tích số liệu từ Ban Tổ chức Tỉnh ủy và Ban Tôn giáo thuộc
Sở Nội vụ tỉnh Nam Định cho thấy: Đến năm 2000 toàn Đảng bộ có 3.407
đảng viên gốc giáo là tín đồ Thiên Chúa giáo, không có đảng viên là tín đồ
Phật giáo và Tin Lành. Từ năm 1997 đến năm 2000 số lượng đảng viên là tín

đồ các tôn giáo được kết nạp ít. Mỗi năm kết nạp được khoảng 30 đồng chí,
tất cả đều là tín đồ Thiên Chúa giáo. Số lượng đảng viên gốc giáo giảm 1.593
đồng chí so với năm 1990 (toàn tỉnh năm 1990 có 5.000 đảng viên gốc giáo).
Nguyên nhân là do: Chỉ đạo của Đảng bộ tỉnh chưa sâu sát, các cấp ủy
Đảng, chính quyền, đoàn thể chưa thấy rõ tầm quan trọng của công tác phát
triển đảng viên trong đồng bào các tôn giáo. Từ đó dẫn đến việc chưa chủ
động kết nạp Đảng đối với tín đồ các tôn giáo, kết nạp sợ sai, sợ vi phạm chủ
trương của Đảng.
Đánh giá, nhìn nhận của một bộ phận cán bộ đảng viên đối với tôn giáo
còn định kiến. Bộ máy làm công tác tôn giáo còn yếu, chưa được quan tâm
chú trọng. Công tác tư tưởng và tổ chức thiếu chặt chẽ, còn nhiều ý kiến khác
nhau về vấn đề tôn giáo. Vì vậy, các cấp ủy Đảng, chính quyền, đoàn thể các
cấp chưa quan tâm công tác tạo nguồn, bồi dưỡng phát triển đảng viên là tín
đồ các tôn giáo.
23

23


`

Đảng viên là tín đồ Thiên Chúa giáo giảm sút về số lượng là do một số
vi phạm kỷ luật bị đưa ra khỏi Đảng (đa số là tuổi trẻ), số già yếu xin miễn
sinh hoạt, một số bị thần quyền chi phối nên xin ra khỏi Đảng... Điển hình như
huyện Hải Hậu từ năm 1996 đến 2000, huyện Hải Hậu kết nạp được 69 đảng
viên là người Công giáo nhưng phải đưa ra khỏi Đảng 87 đảng viên là người
Công giáo. Thực tế này làm cho tỉ lệ đảng viên là tín đồ tôn giáo thấp so với tổng
số đồng bào theo tôn giáo. Công tác phát triển đảng viên là tín đồ các tôn giáo
gặp nhiều khó khăn, nhiều xã trong 10 năm không kết nạp được một tín đồ nào
vào Đảng, dù có rất đông đồng bào tôn giáo.

Thực tiễn trên cho thấy, công tác phát triển đảng viên trong tín đồ các tôn
giáo chưa được các cấp ủy Đảng, chính quyền và đoàn thể các cấp trong tỉnh
Nam Định quan tâm đúng mức. Công tác phát triển đảng viên gốc giáo thời kỳ
này đặt ra nhiều vấn đề cho Đảng bộ tỉnh để xem xét có kế hoạch cụ thể trong
giai đoạn mới.
Từ thực trạng công tác phát triển đảng viên trong đồng bào các tôn giáo
của tỉnh Nam Định trước năm 2001, cùng với các yếu tố tác động về tình hình
kinh tế, văn hóa - xã hội của địa phương đã đặt ra tính tất yếu khách quan cần
phải phát triển đảng viên trong đồng bào các tôn giáo. Làm tốt công tác phát
triển đảng viên trong đồng bào các tôn giáo sẽ góp phần thực hiện thắng lơi
nhiệm vụ chính trị của Tỉnh.
1.1.2. Chủ trương phát triển đảng viên trong đồng bào các tôn giáo
của Đảng Cộng sản Việt Nam và Đảng bộ tỉnh Nam Định (2001-2010).
*Chủ trương của Đảng Cộng sản Việt Nam
Bước sang năm 2001, nước ta đã đạt nhiều thành tựu to lớn trong phát
triển kinh tế, văn hóa xã hội, an ninh quốc phòng, nhưng cũng đứng trước
không ít khó khăn.
Để đề ra đường lối nhằm phát huy thuận lợi, đẩy lùi khó khăn, thách
thức, Đảng đã triệu tập Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ IX (4/2001). Tại
24

24


`

Đại hội, Đảng khẳng định vấn đề dân tộc và đoàn kết các dân tộc luôn luôn
có vị trí chiến lược quan trọng trong sự nghiệp cách mạng, là nguồn sức
mạnh và động lực to lớn để xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. Vì vậy, Đảng tiếp
tục khẳng định chủ trương: thực hiện đại đoàn kết dân tộc, tôn giáo, giai cấp,

tầng lớp, thành phần kinh tế, mọi giới, mọi lứa tuổi, mọi vùng của đất nước,
người trong Đảng và người ngoài Đảng, người đang công tác và người đã
nghỉ hưu, mọi thành viên trong đại gia đình dân tộc Việt Nam dù sống trong
nước hay ở nước ngoài.
Về tín ngưỡng tôn giáo, Đảng ta xác định là nhu cầu tinh thần của một bộ
phận nhân dân. Thực hiện nhất quán chính sách tôn trọng và bảo đảm quyền tự do
tín ngưỡng, theo hoặc không theo một tôn giáo nào, quyền sinh hoạt tôn giáo bình
thường theo đúng pháp luật. Đoàn kết đồng bào theo các tôn giáo khác nhau, đồng
bào theo tôn giáo và đồng bào không theo tôn giáo [15, tr. 123-128].
Tại Hội nghị lần thứ 7 (1/2003) Ban Chấp hành Trung ương khóa IX đã
thảo luận và thông qua 4 Nghị quyết: Nghị quyết số 23 – NQ/TW về phát huy
sức mạnh đại đoàn kết dân tộc vì “Dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng,
dân chủ, văn minh”; Nghị quyết số 24 – NQ/TW về công tác dân tộc; Nghị
quyết 25 – NQ/TW về công tác tôn giáo; Nghị quyết số 26 – NQ/TW về tiếp
tục đổi mới chính sách, pháp luật về đất đai trong thời kỳ đẩy mạnh công
nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước.
Về công tác tôn giáo: Nghị quyết xác định: hoạt động tôn giáo và công
tác tôn giáo phải nhằm tăng cường đoàn kết đồng bào các tôn giáo trong khối
đại đoàn kết toàn dân tộc, phát huy sức mạnh tổng hợp của toàn dân tộc, thực
hiện thắng lợi sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước, xây dựng và
bảo vệ vững chắc Tổ quốc... Để thực hiện phương hướng này, Đảng ta đã
nhấn mạnh 5 quan điểm và chính sách:
Một là, tín ngưỡng tôn giáo là nhu cầu tinh thần của một bộ phận nhân
dân, đang và sẽ tồn tại cùng dân tộc trrong quá trình xây dựng chủ nghĩa xã
25

25



×