MỤC LỤC
Trang
MỞ ĐẦU
3
Chương 1 CHỦ TRƯƠNG VÀ SỰ CHỈ ĐẠO CỦA ĐẢNG BỘ
TỈNH THÁI BÌNH VỀ PHÁT TRIỂN KHU, CỤM
11
1.1.
CÔNG NGHIỆP TỪ NĂM 2001 ĐẾN NĂM 2010
Yêu cầu khách quan phát triển khu, cụm công nghiệp ở
11
1.2.
tỉnh Thái Bình (2001-2010)
Chủ trương của Đảng bộ tỉnh Thái Bình về phát triển
25
1.3.
khu, cụm công nghiệp (2001-2010)
Đảng bộ tỉnh Thái Bình chỉ đạo phát triển khu, cụm
công nghiệp (2001-2010)
Chương 2 NHẬN XÉT VÀ KINH NGHIỆM
2.1.
Nhận xét quá trình Đảng bộ tỉnh Thái Bình lãnh đạo phát
33
48
triển khu, cụm công nghiệp (2001-2010)
Những kinh nghiệm chủ yếu từ quá trình Đảng bộ tỉnh
48
2.2.
Thái Bình lãnh đạo phát triển khu, cụm công nghiệp
(2001-2010)
KẾT LUẬN
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
PHỤ LỤC
MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
63
81
83
90
Chủ trương phát triển K,CCN là một trong những phương hướng đúng
đắn, phù hợp, cần thiết trong chiến lược phát triển đất nước hiện nay. Phát
triển các K,CCN có ý nghĩa quan trọng nhằm thu hút các nguồn lực để phát
triển công nghiệp thúc đẩy quá trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế trong thực
hiện CNH, HĐH ở Việt Nam. Các K,CCN có vai trò to lớn đối với phát triển
kinh tế, củng cố quốc phòng - an ninh trong quá trình hội nhập quốc tế
hiện nay. Xây dựng các K,CCN cho phép phát huy tối đa những lợi thế hiện
có của cả nước và của từng địa phương. Mặt khác, K,CCN là nơi thu hút vốn
đầu tư nước ngoài và đầu tư trong nước nhằm thực hiện mục tiêu tăng trưởng
kinh tế. Bên cạnh đó K,CCN còn là nơi thu hút và tạo thêm nhiều việc làm
cho người lao động, góp phần giải quyết một số vấn đề KT - XH khác, tạo
điều kiện cho chúng ta tiếp cận với kỹ thuật và công nghệ hiện đại của các
nước tiên tiến thông qua đó chúng ta học hỏi cách quản lý khoa học và nâng
cao tay nghề của đội ngũ công nhân.
Thái Bình là một tỉnh ven biển thuộc đồng bằng sông Hồng, có vị trí
quan trọng trong phát triển KT - XH và củng cố quốc phòng - an ninh; nằm
trong vùng ảnh hưởng trực tiếp của tam giác tăng trưởng kinh tế: Hà Nội, Hải
Phòng, Quảng Ninh. Những năm qua, tỉnh Thái Bình đã có bước phát triển
mạnh mẽ về KT - XH, song nhìn chung vẫn là một tỉnh nghèo, nông nghiệp
là chủ yếu, công nghiệp và dịch vụ chưa thực sự phát triển. Để chuyển dịch
cơ cấu kinh tế theo hướng hiện đại sớm đưa tỉnh Thái Bình thoát khỏi tỉnh
nghèo và chậm phát triển, văn kiện Đại hội Đảng bộ tỉnh Thái Bình lần thứ
XVII khẳng định: “Tập trung phát triển các khu, cụm công nghiệp và làng
nghề để tạo bước đột phá tăng trưởng kinh tế” đây là một trong 5 trọng tâm
cần tập trung tạo bước đột phá tăng trưởng kinh tế của Tỉnh.
Mặc dù đã đạt được những kết quả quan trọng, nhưng thực tế từ năm
2001 đến năm 2010 phát triển các K,CCN mới chỉ chú trọng tới việc thu hút
đầu tư, lấp đầy, chưa quan tâm đúng mức đến tính hiệu quả và sự bền vững;
quá trình phát triển các K,CCN trên địa bàn Tỉnh còn những hạn chế bất cập
3
cần tiếp tục giải quyết và khắc phục như: Công tác quy hoạch phát triển
K,CCN và cơ cấu quy hoạch sử dụng đất chưa phù hợp; vấn đề đào tạo nguồn
nhân lực, hiệu quả kinh tế của các K,CCN và trình độ sử dụng công nghệ của
các doanh nghiệp áp dụng vào sản xuất chưa cao, tình trạng ô nhiễm môi
trường ở các K,CCN chưa được giải quyết triệt để.
Việc tìm hiểu quá trình Đảng bộ tỉnh Thái Bình lãnh đạo phát triển
K,CCN từ năm 2001 đến năm 2010, tổng kết những thành công, khuyết điểm,
hạn chế và rút ra những kinh nghiệm có ý nghĩa thiết thực cả về lý luận và thực
tiễn là việc làm cần thiết. Nghiên cứu tốt vấn đề này sẽ góp phần làm rõ lý luận
và chủ trương, chính sách về phát triển K,CCN trong quá trình CNH, HĐH.
Dưới góc độ thực tiễn đề tài sẽ góp phần đánh giá thực trạng phát triển K,CCN
trên địa bàn tỉnh Thái Bình (2001-2010) và rút ra những kinh nghiệm làm cơ sở
giúp cho Đảng bộ tỉnh Thái Bình có thêm căn cứ để hoạch định chủ trương,
chính sách nhằm phát triển một cách có hiệu quả và bền vững các K,CCN trên
địa bàn của Tỉnh trong quá trình CNH, HĐH nền kinh tế những năm tới. Từ
những lý do trên tôi chọn đề tài “Đảng bộ tỉnh Thái Bình lãnh đạo phát triển
khu, cụm công nghiệp từ năm 2001 đến năm 2010” làm đề tài luận văn thạc
sỹ Lịch sử, chuyên ngành Lịch sử Đảng Cộng sản Việt Nam.
2. Tình hình nghiên cứu có liên quan đến đề tài
Vấn đề phát triển K,CCN đã thu hút rộng rãi sự quan tâm nghiên cứu của
nhiều nhà khoa học trong và ngoài quân đội, tuy nhiên trên từng khía cạnh và phạm
vi khác nhau. Đến nay đã có nhiều công trình nghiên cứu về vấn đề này được đăng
tải trên sách, báo, tạp chí và các đề tài khoa học thể hiện trong các nhóm chủ yếu sau:
* Nhóm các công trình nghiên cứu chung về phát triển K,CCN phạm
vi cả nước
Viện Kinh tế học (1994), Kinh nghiệm thế giới về phát triển khu công
nghiệp, khu chế xuất và đặc khu kinh tế; Đề tài khoa học cấp Nhà nước của
Bộ Xây dựng, ký hiệu KX 11-13 (1996), Cơ sở hình thành các khu công
nghiệp tập trung ở Việt Nam; Trần Trọng Hanh (1998), Quy hoạch quản lý và
4
phát triển các khu công nghiệp ở Việt Nam, Nxb Xây dựng, Hà Nội; Ngô Thế
Bắc (2000), “Khu chế xuất, khu công nghiệp ở Việt Nam hiện nay”, Tạp chí
Nghiên cứu kinh tế, (5), tr.30-32; Đề tài cấp Bộ của Bộ Kế hoạch và Đầu tư
(2002), Nghiên cứu mô hình quản lý nhà nước về khu công nghiệp, khu chế xuất
ở Việt Nam; Bộ Kế hoạch và Đầu tư (2004), “Phát triển khu công nghiệp và khu
chế xuất ở Việt Nam trong tiến trình hội nhập quốc tế”, Kỷ yếu hội thảo; Nguyễn
Chơn Chung, Trương Giang Long (2004), Phát triển các khu công nghiệp, khu
chế xuất trong quá trình công nghiệp hoá, hiện đại hoá, Nxb Chính trị quốc gia,
Hà Nội; Trương Thị Minh Sâm (2004), Các giải pháp nhằm nâng cao vai trò và
hiệu lực quản lý nhà nước về bảo vệ môi trường ở các khu công nghiệp, khu chế
xuất, Nxb Khoa học xã hội, Hà Nội; Vũ Anh Tuấn (2004), “Phát triển khu công
nghiệp, khu chế xuất, những vấn đề đặt ra”, Tạp chí Phát triển kinh tế, (2);
Nguyễn Ngọc Dũng (2005) “Một số vấn đề xã hội trong việc xây dựng và phát
triển các khu công nghiệp ở Việt Nam”, Tạp chí Kinh tế và dự báo, (383), tr.3335; Nguyễn Hữu Dũng (2008), “Phát triển khu công nghiệp với vấn đề lao động
việc làm ở Việt Nam”, Tạp chí Cộng sản, (149), tr.19-22; Nguyễn Văn Hùng
(2009), “Một số vấn đề về đổi mới công tác quy hoạch và phát triển khu công
nghiệp gắn với bảo vệ môi trường ở nước ta”, Tạp chí Khu công nghiệp (135),
tr.37-39; Đỗ Đức Quân (2010), Một số giải pháp nhằm phát triển bền vững
nông thôn vùng đồng bằng Bắc Bộ trong quá trình xây dựng, phát triển các khu
công nghiệp, Nxb Chính tri quốc gia, Hà Nội; Võ Thanh Thu (2010), “Những
giải pháp cho sự phát triển bền vững các khu công nghiệp ở Việt Nam”, Tạp chí
Phát triển kinh tế, (77), tr.10-13; Vũ Quốc Huy (2011), “Quản lý nhà nước về
môi trường khu công nghiệp, thực trạng và nhiệm vụ cần triển khai trong thời
gian tới”, Tạp chí Khu công nghiệp, (162), tr.4-6.
Trong các công trình khoa học này hầu hết các tác giả đều đề cập đến vị
trí, vai trò, ý nghĩa, tầm quan trọng của K,CCN trong phát triển KT-XH.
Đồng thời khẳng định phát triển K,CCN là một trong những nhân tố then chốt
đẩy mạnh sự nghiệp CNH, HĐH đất nước. Từ thực trạng khảo sát ở các địa
5
phương, các tác giả tập trung làm rõ những vấn đề lý luận về phát triển bền
vững nông thôn trong quá trình xây dựng, phát triển K,CCN và đưa ra một số
giải pháp phát triển bền vững nông thôn trong quá trình phát triển các K,CCN.
Trên cơ sở đó các tác giả đưa ra một số kiến nghị và giải pháp có tính đặc thù
nhằm nâng cao vai trò và hiệu lực quản lý nhà nước về bảo vệ môi trường ở
các KCN, CCN, khu chế xuất, để đảm bảo phát triển bền vững về KT-XH cho
vùng đồng bằng Bắc Bộ nói riêng và cả nước nói chung. Đặc biệt, trong các
công trình nghiên cứu trên, có công trình đã đi sâu phân tích, đánh giá, tổng
kết công tác quản lý và phát triển K,CCN trong những năm qua. Cùng với đó
là sự chỉ đạo quy hoạch tổng thể và một số quy hoạch chi tiết các K,CCN ở
nước ta giúp cho các nhà hoạch định kinh tế có cái nhìn tổng thể về các
K,CCN trên phạm vi cả nước.
* Nhóm các công trình nghiên cứu về phát triển K,CCN ở các địa
phương
Nguyễn Đức Phượng (2000), Phát triển các khu công nghiệp tập
trung trên địa bàn Đồng Nai và tác động của nó đến khu vực phòng thủ tỉnh,
Luận văn cao học Kinh tế, Học viện Chính trị quân sự; Võ Văn Một (2004),
Tổng kết quá trình xây dựng phát triển các khu công nghiệp và thu hút đầu tư
trên địa bàn tỉnh Đồng Nai (1991- 2004), Nxb Tổng hợp, Đồng Nai; Phạm
Văn Thanh (2005), Một số giải pháp phát triển khu công nghiệp tập trung tại
tỉnh Đồng Nai đến năm 2010, Luận án tiến sĩ Kinh tế, Trường Đại học Kinh
tế quốc dân, Hà Nội; Phạm Đắc Đương (2006), Tác động của khu công
nghiệp tập trung đối với củng cố quốc phòng trên địa bàn thành phố Hà Nội
hiện nay, Luận văn cao học Kinh tế, Học viện Chính trị quân sự; Nguyễn
Khắc Thanh (2007), Đảng bộ tỉnh Đồng Nai lãnh đạo xây dựng khu công
nghiệp trong những năm đổi mới từ năm 1986 đến năm 2005, Luận án tiến sĩ
Lịch sử Đảng, Học viện Chính trị quân sự; Nguyễn Quốc Nghi (2009), “Nhu
cầu nhà ở của công nhân tại các khu công nghiệp trên địa bàn thành phố Cần
Thơ thực trạng và giải pháp”, Tạp chí Phát triển kinh tế, (192), tr.47- 50;
6
Đinh Phi Hổ (2010),“Các yếu tố tác động đến sự hài lòng của cộng đồng dân
cư đối với sự phát triển các khu công nghiệp - trường hợp nghiên cứu điển
hình ở tỉnh Bến Tre”, Tạp chí Phát triển kinh tế, (7), tr.2-9; Trần Văn Liễu
(2010), “Các khu công nghiệp tỉnh Bình Dương vững bước trên con đường
phát triển”, Tạp chí Kinh tế và dự báo, (17), tr.37-39; Nguyễn Thị Thanh
Huyền (2012), Đảng bộ tỉnh Bắc Ninh lãnh đạo phát triển khu công nghiệp từ
năm 2000 đến năm 2010, Luận văn thạc sĩ Lịch sử Đảng, Trung tâm đào tạo,
bồi dưỡng giảng viên lý luận chính trị, Đại học Quốc gia Hà Nội.
Những công trình trên, các tác giả đã trình bày tổng quan về sự phát
triển các K,CCN tập trung, đánh giá thực trạng phát triển K,CCN tập trung ở
một số địa phương. Đồng thời, luận giải khá sâu sắc về cơ sở lý luận và thực
tiễn của việc phát triển các K,CCN tập trung ở một số địa phương nói chung
và nhất là vấn đề phát triển các K,CCN tập trung trên địa bàn tỉnh Đồng Nai
nói riêng, trong đó chỉ ra những tác động của quá trình đó đến khu vực phòng
thủ trên địa bàn tỉnh trên cả phương diện thành tựu và hạn chế, đề xuất một số
giải pháp nhằm phát huy tác động tích cực, hạn chế tác động tiêu cực của phát
triển các K,CCN tập trung đến khu vực phòng thủ tỉnh thời gian tới. Từ đó rút
ra những bài học kinh nghiệm và đưa ra các giải pháp nhằm tăng cường thu hút
đầu tư vào phát triển các K,CCN ở các địa phương trong những năm tới. Đặc
biệt hai công trình nghiên cứu dưới góc độ Lịch sử Đảng, các tác giả đã đi sâu
phân tích làm rõ thành tựu, hạn chế trong quá trình Đảng bộ tỉnh Đồng Nai và
tỉnh Bắc Ninh lãnh đạo xây dựng, phát triển các KCN, từ đó các tác giả đưa ra
một số kinh nghiệm để các Đảng bộ tham khảo, lấy đó làm cơ sở trong quá trình
hoạch định chủ trương, chính sách phát triển các KCN những năm tiếp theo.
* Nhóm các công trình nghiên cứu về phát triển K,CCN ở tỉnh Thái
Bình
Trần Ngọc Điệp (2009),“Một số giải pháp phát triển các khu công nghiệp
ở tỉnh Thái Bình trong điều kiện hội nhập kinh tế quốc tế”, Tạp chí Kinh tế và dự
báo, (11), tr.35-37; Nguyễn Tiến Dũng (2010), “Khu công nghiệp tỉnh Thái Bình,
7
thực trạng và giải pháp đầu tư phát triển”, Tạp chí Quản lý kinh tế, (34), tr.66;
Phạm Minh Hóa (2010), “Đầu tư phát triển bằng nguồn vốn ngân sách nhà nước
tỉnh Thái Bình, thực trạng và giải pháp”, Tạp chí Kinh tế và dự báo, (11), tr.16-18;
Vũ Ngọc Thu (2011), “Ban Quản lý các khu công nghiệp tỉnh Thái Bình nhìn lại
một năm hoạt động”, Tạp chí Khu công nghiệp, (165), tr.25-26; Đỗ Văn Trịnh
(2012), Phát triển khu, cụm công nghiệp tỉnh Thái Bình hiện nay, Luận văn cao
học Kinh tế chính trị, Học viện Chính trị.
Trong những công trình nghiên cứu trên, các tác giả đã đi sâu phân tích
thực trạng quá trình phát triển các K,CCN của tỉnh Thái Bình. Trên cơ sở đó
các tác giả đề xuất một số giải pháp để phát triển các K,CCN ở tỉnh Thái
Bình trong điều kiện hội nhập kinh tế quốc tế. Việc phát triển các K,CCN
là nhiệm vụ, trách nhiệm của các cấp ủy Đảng và chính quyền địa
phương. Song trách nhiệm lớn nhất trong công tác lãnh đạo, chỉ đạo thuộc
về Tỉnh ủy, UBND tỉnh Thái Bình. Hiệu quả sự nghiệp phát triển các
K,CCN là sự tác động biện chứng của “ý Đảng, lòng dân”. Tuy nhiên, các
công trình này mới chỉ dừng lại ở việc đánh giá thực trạng, đề xuất giải
pháp, chưa có công trình nào đề cập đến chủ trương và sự chỉ đạo của
Đảng bộ tỉnh Thái Bình trong phát triển K,CCN. Đây thực sự là những tài
liệu có giá trị giúp tác giả tiếp cận đối chiếu, so sánh trong quá trình
nghiên cứu về phát triển các K,CCN ở tỉnh Thái Bình (2001-2010).
Từ các nhóm công trình nghiên cứu trên cho thấy, nhiều tác giả đã quan
tâm nghiên cứu về K,CCN nói chung, phát triển K,CCN ở Thái Bình nói riêng.
Các công trình khoa học đã có những cách tiếp cận khác nhau để lý giải cho tính
tất yếu phát triển K,CCN; khẳng định vai trò của K,CCN trong chiến lược phát
triển KT-XH, đẩy mạnh CNH, HĐH ở nước ta và đề xuất nhiều giải pháp có tính
khả thi cao theo góc độ tiếp cận của từng ngành khoa học, nhằm phát triển
K,CCN tương xứng với tiềm năng, lợi thế của từng địa phương . Nhìn chung các
công trình nghiên cứu trên đều thống nhất nhận định về bản chất, đặc điểm, lợi
8
thế của mỗi địa phương trong xây dựng, phát triển các K,CCN hiện nay. Đánh
giá về thực trạng, vai trò, hiệu quả, tác động và ảnh hưởng mạnh mẽ của K,CCN
đối với sự phát triển KT-XH. Những công trình đó là tài liệu có giá trị quan
trọng làm cơ sở để tác giả tham khảo kế thừa, phát triển trong triển khai
nghiên cứu luận văn. Tuy nhiên, dưới góc độ khoa học Lịch sử Đảng còn
nhiều “khoảng trống”, nhất là về sự lãnh đạo và chỉ đạo phát triển K,CCN của
Đảng bộ tỉnh Thái Bình. Vì vậy, đề tài tác giả lựa chọn là vấn đề mới, không
trùng lặp với các công trình đã công bố.
3. Mục đích, nhiệm vụ nghiên cứu
* Mục đích nghiên cứu
Làm sáng tỏ sự lãnh đạo của Đảng bộ tỉnh Thái Bình về phát triển K,CCN
từ năm 2001 đến năm 2010, trên cơ sở đó đúc rút một số kinh nghiệm từ quá trình
Đảng bộ tỉnh lãnh đạo phát triển K,CCN để vận dụng trong những năm tới.
* Nhiệm vụ nghiên cứu
Trình bày yêu cầu khách quan phát triển K,CCN ở tỉnh Thái Bình
trong những năm 2001-2010.
Phân tích, luận giải làm rõ chủ trương và quá trình chỉ đạo của Đảng bộ
tỉnh Thái Bình về phát triển K,CCN từ năm 2001 đến năm 2010.
Đưa ra những nhận xét và đúc rút một số kinh nghiệm từ quá trình Đảng bộ
tỉnh Thái Bình lãnh đạo phát triển K,CCN trong 10 năm (2001-2010).
4. Đối tượng, phạm vi nghiên cứu
* Đối tượng nghiên cứu
Hoạt động lãnh đạo phát triển K,CCN của Đảng bộ tỉnh Thái Bình từ
năm 2001 đến năm 2010
* Phạm vi nghiên cứu
Về nội dung: Nghiên cứu chủ trương và sự chỉ đạo của Đảng bộ tỉnh
Thái Bình về phát triển K,CCN.
Về thời gian: Trong 10 năm (2001-2010). Tuy nhiên, để làm rõ yêu cầu
khách quan phát triển K,CCN luận văn có đề cập tới một số vấn đề trước năm 2001
9
Về không gian: Nghiên cứu trên địa bàn tỉnh Thái Bình hiện nay.
5. Phương pháp luận và phương pháp nghiên cứu
* Phương pháp luận
Luận văn dựa trên phương pháp luận duy vật biện chứng, duy vật lịch
sử của chủ nghĩa Mác - Lênin và phương pháp luận sử học.
* Phương pháp nghiên cứu
Luận văn sử dụng phương pháp lịch sử và phương pháp lôgic đồng thời
kết hợp giữa hai phương pháp đó là chủ yếu, ngoài ra còn sử dụng phương
pháp thống kê, phân tích, tổng hợp, so sánh.
6. Ý nghĩa của đề tài
Luận văn góp phần tổng kết lịch sử Đảng bộ tỉnh Thái Bình về lãnh đạo
phát triển kinh tế trong những năm đổi mới. Kết qủa của luận văn góp phần
cung cấp những căn cứ khoa học để tiếp tục bổ sung, phát triển chủ trương
chính sách về phát triển K,CCN ở tỉnh Thái Bình trong thời kỳ mới.
Luận văn có thể được sử dụng làm tài liệu để tham khảo trong nghiên
cứu, giảng dạy, học tập các chuyên đề về Lịch sử Đảng trong các nhà trường.
7. Kết cấu của đề tài
Gồm phần mở đầu, 2 chương, 5 tiết, kết luận, danh mục tài liệu tham
khảo và phụ lục.
10
Chương 1
CHỦ TRƯƠNG VÀ SỰ CHỈ ĐẠO CỦA ĐẢNG BỘ
TỈNH THÁI BÌNH VỀ PHÁT TRIỂN KHU, CỤM CÔNG NGHIỆP
TỪ NĂM 2001 ĐẾN NĂM 2010
1.1. Yêu cầu khách quan phát triển khu, cụm công nghiệp ở tỉnh
Thái Bình (2001-2010)
1.1.1. Vị trí, vai trò của khu, cụm công nghiệp đối với phát triển kinh
tế, xã hội ở tỉnh Thái Bình
* Quan niệm về khu công nghiệp
Việt Nam tiến hành phát triển công nghiệp, thực hiện quá trình công nghiệp
hóa và hội nhập kinh tế quốc tế muộn hơn so với nhiều nước trong khu vực và trên
thế giới. Do vậy, sự hình thành và phát triển các KCN ở Việt Nam có nhiều điều
kiện học hỏi, kế thừa những kinh nghiệm của các nước đi trước. Trên cơ sở kinh
nghiệm của các nước trên thế giới gắn với điều kiện kinh tế cụ thể của Việt Nam,
Nghị định số 36/CP của Chính phủ ngày 24/07/1997 đã đưa ra khái niệm về KCN
như sau: “Khu công nghiệp là khu tập trung các doanh nghiệp chuyên sản xuất
hàng công nghiệp và thực hiện các dịch vụ cho sản xuất công nghiệp, có ranh giới
địa lý xác định, không có dân cư sinh sống; do Chính phủ hoặc Thủ tướng Chính
phủ quyết định thành lập. Trong các khu công nghiệp có thể có doanh nghiệp
chế xuất” [17, tr.64].
Theo Luật Đầu tư được Quốc hội thông qua ngày 29/11/2005 có hiệu
lực thi hành từ ngày 01/07/2006 thì: Khu công nghiệp là khu sản xuất hàng
công nghiệp và thực hiện các dịch vụ cho sản xuất công nghiệp, có ranh giới
địa lý xác định, được thành lập theo quy định của Chính phủ.
Nghị định của Chính phủ số 29/2008/NĐ-CP ngày 14/03/2008 quy định
về KCN, khu chế xuất và khu kinh tế thì khái niệm về KCN được hiểu như sau:
Khu công nghiệp, là khu chuyên sản xuất hàng công nghiệp và thực
hiện các dịch vụ cho sản xuất công nghiệp, có ranh giới địa lý xác định, được
thành lập theo điều kiện, trình tự và thủ tục quy định của Chính phủ.
11
Khu chế xuất, là KCN chuyên sản xuất hàng xuất khẩu, thực hiện dịch
vụ cho sản xuất hàng xuất khẩu và hoạt động xuất khẩu, có ranh giới địa lý
xác định, được thành lập theo điều kiện, trình tự và thủ tục áp dụng đối với
KCN theo quy định của Chính phủ.
Khu công nghệ cao, là khu tập trung các doanh nghiệp công nghiệp kỹ
thuật cao và các đơn vị hoạt động phục vụ cho phát triển công nghệ cao bao
gồm nghiên cứu triển khai, khoa học - công nghệ, đào tạo và các dịch vụ có
liên quan, có ranh giới xác định.
Như vậy, theo Nghị định này cả KCN, khu chế xuất và khu công nghệ
cao đều được thành lập theo điều kiện, trình tự và thủ tục áp dụng đối với
KCN quy định tại Nghị định này và được gọi chung là KCN.
* Quan niệm cụm công nghiệp
Theo từ điển Tiếng Việt của Viện Ngôn ngữ học xuất bản năm 2002
danh từ “Cụm” được dùng để chỉ “tập hợp một số đơn vị cùng loại ở gần nhau
cùng một nơi, làm thành một đơn vị lớn hơn”. Trong thực tế hiện nay ở nước
ta thuật ngữ “Cụm công nghiệp” thường được dùng để chỉ các KCN có quy
mô nhỏ, và đôi khi để chỉ các “Khu công nghiệp địa phương”. Có ý kiến cho
rằng CCN là các KCN vừa và nhỏ được hình thành ngoài quy định của Nghị
định 36/CP ngày 24/ 07/1997 của Chính phủ, tức là các KCN không nằm
trong quy hoạch của Chính phủ phê duyệt thành lập, mà do chính quyền địa
phương (cấp tỉnh) ra quyết định thành lập. Có địa phương lại cho rằng CCN là
địa điểm đã phát triển công nghiệp trước đây nay quy hoạch lại để phát triển
theo mô hình công nghiệp.
Ngày 19/8/2009 Thủ tướng đã ban hành Quyết định số 105/2009/QĐTTg về việc ban hành Quy chế thành lập và quản lý CCN thống nhất trên cả
nước. Theo Quy chế này, CCN là khu vực tập trung các doanh nghiệp, cơ sở
sản xuất công nghiệp, tiểu thủ công nghiệp, cơ sở dịch vụ phục vụ sản xuất
công nghiệp, tiểu thủ công nghiệp; có ranh giới địa lý xác định, không có dân
cư sinh sống; được đầu tư xây dựng chủ yếu nhằm di dời, sắp xếp, thu hút các
12
cơ sở sản xuất, các doanh nghiệp nhỏ và vừa, các cá nhân, hộ gia đình ở địa
phương vào đầu tư sản xuất, kinh doanh; do UBND các tỉnh, thành phố trực
thuộc Trung ương quyết định thành lập.
* Vị trí, vai trò của K,CCN đối với phát triển KT-XH ở tỉnh Thái Bình
Thực hiện đường lối CNH, HĐH đất nước, Đại hội đại biểu toàn quốc
lần thứ VIII của Đảng, trong thời gian qua Nhà nước đã tập trung huy động
các nguồn lực vào việc thực hiện Chương trình phát triển công nghiệp và phát
triển kết cấu hạ tầng trên địa bàn cả nước. Phát triển các K,CCN là một hướng
quan trọng trong Chương trình phát triển công nghiệp. Chủ trương phát triển
các K,CCN đã được Đảng và nhà nước ta quan tâm, đặc biệt là từ năm 1990
trở lại đây. Việc phát triển các K,CCN và khu chế xuất trong những năm qua
thực sự là một động lực thúc đẩy mạnh mẽ sự nghiệp CNH, HĐH đất nước.
Thực hiện nghị quyết Đại hội Đảng bộ tỉnh lần thứ XV (1996), những
năm qua việc xúc tiến đẩy nhanh tốc độ hình thành các K,CCN tập trung đã
được các cấp, các ngành đặc biệt quan tâm chỉ đạo đẩy mạnh phát triển. Đã có
một số dự án đăng ký đầu tư trong K,CCN, tình hình sản xuất tại các K,CCN
của Tỉnh đang từng bước góp phần vào tăng trưởng sản xuất công nghiệp, nâng
cao kim ngạch xuất khẩu và sức cạnh tranh của nền kinh tế, tạo sự lan tỏa mạnh
mẽ, nâng cao đời sống vật chất và tinh thần của người dân, tạo việc làm với thu
nhập ổn định, góp phần thúc đẩy sự phát triển của các loại hình dịch vụ trên địa
bàn Tỉnh, đặc biệt là địa bàn lân cận các K,CCN, cụ thể như sau:
Các K,CCN góp phần chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo đúng định
hướng đặc biệt là trong ngành công nghiệp
Khi K,CCN được hình thành và phát triển sẽ góp phần làm chuyển dịch
cơ cấu kinh tế từ nông nghiệp sang công nghiệp, làm tăng tỷ trọng của các
ngành công nghiệp, dịch vụ và làm giảm tỷ trọng nông nghiệp của cả nước
nói chung và tỉnh Thái Bình nói riêng. Các K,CCN phát triển nó sẽ làm tăng
khả năng cạnh tranh của hàng hóa trên thị trường trong và ngoài nước, đẩy
nhanh tốc độ và kim ngạch xuất khẩu, tăng nguồn thu ngoại tệ cho doanh
13
nghiệp, nhằm mở rộng sản xuất, đổi mới trang thiết bị, tích lũy kinh nghiệm
trong quản lý, điều hành sản xuất kinh doanh, làm cho các doanh nghiệp làm
ăn ngày càng có hiệu quả.
Các K,CCN góp phần giải quyết việc làm cho một bộ phận lớn người
lao động
Có thể khẳng định nét nổi bật của K,CCN là các ngành trong K,CCN
đòi hỏi rất nhiều lao động, cho nên nó sẽ tạo ra nhiều việc làm cho người lao
động, làm giảm tỷ lệ thất nghiệp. Đồng thời tham gia vào quá trình phân công
lao động và làm giảm các tệ nạn xã hội khác, đây là vấn đề bức xúc mà xã hội
cần quan tâm. Kinh nghiệm xây dựng các K,CCN ở các khu vực gần địa bàn
thuận lợi trong việc sử dụng lao động, giảm được các chi phí trong việc xây
dựng nhà ở và các dịch vụ sinh hoạt cho công nhân. Khi các doanh nghiệp
K,CCN mới đi vào hoạt động (1996) giải quyết việc làm cho 3.320 lao động,
trong đó chủ yếu là lao động địa phương. Đến năm 2000, các K,CCN Thái
Bình đã giải quyết việc làm cho 6.000 lao động [48, tr.3]. Việc thu hút nhiều
lao động làm việc tại các K,CCN cho thấy hiệu quả xã hội đem lại từ các
K,CCN của Tỉnh là rất lớn.
Các K,CCN tạo điều kiện huy động một lượng vốn lớn, từ nhiều nguồn
để phát triển kinh tế
Các K,CCN có vai trò quan trọng trong việc tập trung các doanh nghiệp
sản xuất chế biến công nghiệp nhằm thu hút vốn và công nghệ tiên tiến trong
và ngoài nước và hoạt động sản xuất, đồng thời thúc đẩy quá trình nghiên cứu
và ứng dụng các tiến bộ khoa học công nghệ mới, xây dựng các ngành công
nghiệp mũi nhọn, nâng cao vị trí chủ đạo của công nghiệp trong nền kinh
tế; bảo đảm tốc độ tăng trưởng kinh tế bền vững; phát triển công nghiệp
chế biến, nông, lâm, thủy sản, hỗ trợ các ngành này và phục vụ xuất khẩu,
phân bố lại các khu vực sản xuất và sinh hoạt, thực hiện đô thị hóa nông
thôn, cải tạo môi trường sống cho dân cư đô thị; tạo nhiều việc làm cho dân
cư, đặc biệt là dân cư sống tại vùng đất bị giảm do chuyển thành đất công
nghiệp. Hoạt động xuất nhập khẩu phụ thuộc rất lớn vào các K,CCN, đặc
14
biệt là các khu chế xuất. Sản lượng xuất khẩu của các K,CCN thường
chiếm tỷ trọng lớn trong sản lượng xuất khẩu của các ngành công nghiệp
toàn Tỉnh. Chính vì vậy, việc phát triển các K,CCN có tác động rất lớn
trong việc cân bằng cán cân xuất-nhập khẩu và dần dần đến xuất siêu. Như
vậy, tăng sản lượng hàng hóa xuất khẩu là mục tiêu trực tiếp của việc thiết
lập và phát triển K,CCN của Tỉnh.
Phát triển K,CCN tận dụng lợi thế và tiềm năng của vùng để tạo ra các
ngành công nghiệp mũi nhọn có khả năng cạnh tranh cao trên thị trường
Điều kiện trước tiên để hoàn thành sự nghiệp CNH, HĐH đất nước,
là phải hình thành và phát triển được các ngành công nghiệp, đặc biệt là
các ngành mũi nhọn như công nghiệp điện tử tin học, công nghiệp cơ khí
chế tạo... Các ngành công nghiệp mũi nhọn này có thể tạo ra các sản phẩm
hàng hóa có giá trị cao trên thị trường. Do vậy, K,CCN là nơi mà các
doanh nghiệp công nghiệp thực hiện quá trình sản xuất hàng hóa với mục
đích xuất khẩu để thay thế nhập khẩu, từ đó có điều kiện khai thác lợi thế
và phát huy hiệu quả các yếu tố đầu vào của sản xuất như vốn, công nghệ,
lao động. Từ đó, tạo điều kiện nâng cao năng suất, giảm thiểu các chi phí
giúp cho các doanh nghiệp khẳng định được vị thế của mình trên thị trường
trong và ngoài nước. Bên cạnh sự đóng góp của các K,CCN vào giá trị kim
ngạch xuất khẩu toàn Tỉnh, các K,CCN cũng là nhân tố quan trọng trong
việc đưa nền kinh tế tỉnh Thái Bình tham gia hội nhập vào nền kinh tế quốc
tế thông qua trao đổi thương mại, thu hút đầu tư. Như vậy, các K,CCN là
nhân tố chủ yếu, quan trọng trong việc đẩy mạnh sự tăng trưởng về kim
ngạch xuất khẩu của Tỉnh.
Cùng với những thành công về kinh tế, các K,CCN còn tham gia đóng
góp tích cực vào tổ chức đời sống xã hội. Tạo việc làm, thúc đẩy hạ tầng xã
hội như trường học, bệnh viện, nhà ở, nhu cầu về dịch vụ ngân hàng…, ổn
định an sinh xã hội. Góp phần tạo lập và phân bố không gian kinh tế, tạo sự
phát triển hài hoà giữa các khu vực trong Tỉnh, là cơ sở để Thái Bình hội nhập
và phát triển một cách bền vững.
15
1.1.2. Những tiềm năng lợi thế cho phát triển khu, cụm công nghiệp
tỉnh Thái Bình
* Điều kiện tự nhiên
Vị trí địa lý: Thái Bình là tỉnh ven biển, thuộc đồng bằng châu thổ sông
Hồng, nằm trong vùng ảnh hưởng trực tiếp của tam giác tăng trưởng kinh tế:
Hà Nội, Hải Phòng, Quảng Ninh.Tỉnh Thái Bình cách Hà Nội 110 km về phía
Đông Nam, có tọa độ từ 20017’ đến 20044’ độ vĩ Bắc và từ 106006’ đến 106039’
độ kinh Đông. Phía Bắc giáp tỉnh Hưng Yên, Hải Dương và thành phố Hải
Phòng, phía Tây và Tây Nam giáp tỉnh Nam Định, Hà Nam, phía Đông giáp
vịnh Bắc Bộ.
Đất đai, địa hình: Tỉnh Thái Bình có diện tích đất tự nhiên 1.543,93
km2, chiếm 0,5% diện tích đất đai của cả nước. Địa hình tương đối bằng
phẳng, độ dốc nhỏ hơn 1%; cao trình biến thiên phổ biến từ 1 đến 1,5 m so với
mực nước biển, thấp dần từ Tây Bắc xuống Đông Nam. Từ Tây sang Đông dài
54 km, từ Bắc xuống Nam dài 49 km. Thái Bình được bao bọc bởi hệ thống
sông, biển khép kín, có bờ biển dài 54 km và bốn con sông lớn chảy qua địa
phận của Tỉnh (sông Hóa, sông Luộc, sông Trà Lý, đoạn hạ lưu sông Sồng); có 5
cửa sông lớn đổ ra biển (Văn Úc, Diêm Điền, Trà Lý, Lân và Ba Lạt).
Khí hậu: Tỉnh Thái Bình thuộc vùng khí hậu đặc trưng của vùng châu
thổ sông Hồng là nhiệt đới gió mùa. Nhiệt độ trung bình trong năm 23 0C240C, nhiệt độ thấp nhất ở mức 40C, cao nhất ở mức 380C-390C; số giờ nắng
trong năm từ 1.600-1.800 giờ. Lượng mưa trung bình hàng năm từ 1.500 mm
đến 1.900 mm; độ ẩm tương đối trung bình nhiều năm 85%-90%.
Tài nguyên khoáng sản: Tỉnh Thái Bình có mỏ khí đốt tự nhiên tại
huyện Tiền Hải, với sản lượng khai thác bình quân hàng năm lên tới hàng
triệu m3, phục vụ đắc lực cho ngành công nghiệp sản xuất đồ sứ, thủy tinh,
gạch ốp lát, xi măng trắng của Tỉnh. Mỏ nước khoáng Tiền Hải ở độ sâu 450
m. Ngoài ra còn có mỏ nước nóng 570C (ở độ sâu 50 m) và mỏ nước nóng
720C (ở độ sâu 178 m) tại xã Duyên Hải, huyện Hưng Hà.
16
Nguồn nguyên liệu
Về nông sản: Đất đai tỉnh Thái Bình màu mỡ thuận lợi cho phát triển
trồng trọt, phát triển nhiều loại cây trồng lương thực và cây công nghiệp. Một số
vùng đã phát triển cây công nghiệp như đay, ớt, salat, hành, tỏi, hòe... phục vụ cho
các cơ sở chế biến, sản lượng lúa bình quân hàng năm 1,1-1,3 triệu tấn/năm.
Về thực phẩm: Tỉnh Thái Bình đã và đang phát triển mạnh chăn nuôi
lợn, gồm lợn thịt và lợn sữa phục vụ 4 cơ sở chế biến hiện có trên địa bàn
Tỉnh; sản lượng gia súc, gia cầm đạt 138,1 nghìn tấn/năm.
Thủy hải sản: Với lợi thế 54 km bờ biển, chủ chương của Tỉnh tăng
cường hướng ra biển để phát triển kinh tế, đây cũng là một trong 5 trọng tâm
phát triển kinh tế của Tỉnh. Các vùng đất nội đồng đang có phong trào phát
triển mô hình kinh tế trang trại và nuôi trồng thủy sản nước ngọt, theo thống
kê sơ bộ hiện có khoảng 15.000 ha nội đồng nuôi thủy sản. Tổng sản lượng
đánh bắt và nuôi trồng hàng năm đạt 77,10 nghìn tấn/năm. Đây là nguồn
nguyên liệu quan trọng đảm bảo cho ngành chế biến trong các K,CCN hoạt
động liên tục, không bị gián đoạn hoặc rơi vào tình trạng thiếu nguyên liệu.
Tiềm năng về nguồn nhân lực: Con người Thái Bình có tiếng là cần cù,
chịu khó, siêng năng, dễ thích ứng với môi trường và hoàn cảnh mới. Nguồn
lao động của Tỉnh hàng năm được bổ sung và tăng lên khá nhanh từ các
nguồn: bộ đội xuất ngũ, học sinh trung học phổ thông và trung học cơ sở, học
sinh đã học nghề, sinh viên đã tốt nghiệp các trường đại học, cao đẳng trong
và ngoài Tỉnh. Năm 2006, dân số của Tỉnh khoảng 1,86 triệu người, dân cư
trú tại nông thôn khoảng 1,72 triệu người chiếm tỉ lệ 92,6%, dân số thành thị
173.000 người, chiếm 7,37%, mật độ dân số 1.203 người/km, tỉ lệ tăng dân số
tự nhiên là 0,897%. Năm 2000 tổng số người trong độ tuổi lao động của Tỉnh
khoảng 1.045 triệu người; năm 2006 khoảng 1,12 triệu người, bình quân mỗi
năm tăng khoảng 14.000-15.000 người. Cơ cấu lao động năm 2005 trong các
ngành nông, lâm, ngư nghiệp chiếm 68%, công nghiệp, xây dựng 20%, dịch
vụ 12%; đến năm 2007 cơ cấu lao động có xu hướng tăng trong ngành công
nghiệp, xây dựng và dịch vụ, giảm trong ngành nông, lâm, ngư nghiệp (nông,
17
lâm, ngư nghiệp 38,95%; công nghiệp, xây dựng 26,85%; dịch vụ 34,2 %) kết
quả trên có sự đóng góp rất lớn của ngành công nghiệp, trong đó các K,CCN giữ
vai trò đột phá. Theo thống kê của Chi cục Dân số - Kế hoạch hóa gia đình Tỉnh,
tính đến ngày 31/12/2010 dân số toàn tỉnh Thái Bình là: “1.944.546 người, số
phụ nữ từ 15-49 tuổi là 503.489, số trẻ sinh ra trong 12 tháng 25.486 cháu, giảm
so với cùng kỳ năm 2009 là 374 cháu, tỷ lệ sinh đạt 13,1%, giảm 0,25% so
với năm 2009...” [21, tr.15].
Đơn vị hành chính: Tỉnh Thái Bình có 7 huyện và 1 thành phố (loại II);
285 xã, phường, thị trấn. Trung tâm tỉnh lỵ là thành phố Thái Bình. Các huyện
đều bao quanh Thành phố, huyện xa nhất cách Thành phố 30 km.
* Về kết cấu hạ tầng đảm bảo phát triển các K,CCN trên địa bàn Tỉnh
Giao thông vận tải
Đường bộ: Tuyến Quốc lộ 10 chạy dọc từ Bắc xuống Nam Tỉnh dài
khoảng 41 km, nối liền giao thông với Hải Phòng và Nam Định; Quốc lộ 39
nối liền giao thông với tỉnh Hưng Yên qua cầu Triều Dương; Quốc lộ 39B nối
liền thị trấn Tiền Hải với thị trấn Diêm Điền và nối liền với địa phận Hải Phòng.
Một số tuyến tỉnh lộ như 217, 223, 219, 221A... đã được Tỉnh đầu tư nâng cấp.
Đến nay toàn Tỉnh đã có 4.092 km đường các loại, trong đó quốc lộ là 98,97 km,
tỉnh lộ 328 km, huyện lộ 589 km và đường liên xã, liên thôn, xóm là 3.076 km.
Vận tải hành khách đường bộ những năm gần đây phát triển mạnh, đáp ứng
được nhu cầu đi lại của người dân trên tất cả các tuyến liên tỉnh, liên huyện.
Đường thủy: Hiện có 16 cảng biển, cảng sông và dự kiến xây dựng mới
đều nằm trên các tuyến sông chính, cải tạo nâng cấp trang, thiết bị đầy đủ đáp
ứng nhu cầu phát triển kinh tế. Sông Hồng chạy dọc theo phía Tây Nam của
Tỉnh có chiều dài 67 km; sông Trà Lý có chiều dài 65 km; sông Luộc có chiều
dài 53 km; sông Hóa có chiều dài 35 km, các sông này có khả năng lưu thông
cho các phương tiện sà lan có tải trọng 1.200-1.600 tấn, tàu thủy 400-600 tấn.
Hệ thống điện: Tỉnh Thái Bình có mạng lưới cấp điện phát triển tương
đối hoàn chỉnh theo quy hoạch trong hệ thống cấp điện miền Bắc; mật độ lưới
điện của tỉnh Thái Bình lớn nhất toàn quốc, bình quân mỗi xã có 5 trạm biến
18
thế các loại. Thường xuyên xây dựng, cải tạo hệ thống đường dây, bảo đảm
cơ bản đủ đáp ứng cho các nhu cầu sử dụng điện trong công nghiệp, nông
nghiệp, đời sống và các nhu cầu khác trong Tỉnh.
Mạng lưới bưu chính viễn thông-công nghệ thông tin
Về phát triển mạng lưới và dịch vụ Bưu chính viễn thông đến năm
2010, chuyển mạnh theo hướng công nghệ thế hệ mới, phát triển các dịch vụ
thông minh, đa chức năng, tốc độ cao.
Về chuyển mạch và truyền dẫn: Đến 2010 toàn Tỉnh có 03 trạm Host,
44 trạm vệ tinh, 9 điểm truy nhập quang; mật độ 13 máy điện thoại/100 dân,
về truyền dẫn 100% các trạm vệ tinh được truyền dẫn bằng cáp quang.
Về phát triển Bưu điện văn hóa xã: Đến 2005 100% số xã, phường
trong toàn Tỉnh có điểm Bưu điện văn hóa xã, đưa bán kính phục vụ nhân dân
xuống còn 1km/điểm.
Về Bưu chính: Khép kín hành trình vận chuyển toàn bộ đường thư cấp
II, cấp III trong toàn Tỉnh bằng xe chuyên dùng. Phát triển mới các dịch vụ
bưu chính cao cấp tiện ích, giá rẻ như các dịch vụ tài chính, bưu chính,
chuyển phát nhanh.
Về công nghệ thông tin: Đẩy mạnh phát triển internet tốc độ cao, phổ
cập rộng rãi ứng dụng công nghệ thông tin phục vụ phát triển kinh tế và nhu
cầu sử dụng của nhân dân trên địa bàn Tỉnh.
Quy hoạch sử dụng đất: Quy hoạch sử dụng đất đến 2010 và kế hoạch
sử dụng đất 5 năm (2006-2010) tỉnh Thái Bình đã được Chính phủ phê duyệt
tại Nghị quyết số 24/2007/NQ-CP ngày 25/4/2007 như sau: Tổng diện tích đất
tự nhiên của Tỉnh là 154.594 ha, trong đó đất sản xuất nông nghiệp là 104.213
ha, đất phi nông nghiệp là 49.508 ha; trong đó đất KCN là 1.221 ha, chiếm tỉ
lệ 1,17% so với diện tích đất tự nhiên của Tỉnh.
Với những đặc điểm nêu trên, tỉnh Thái Bình có một số lợi thế trong
phát triển KT-XH theo hướng đa dạng hóa các ngành nghề. Trong đó công
nghiệp nói chung và phát triển K,CCN nói riêng là một trong những lĩnh vực
19
có nhiều thế mạnh nhất, có khả năng thu hút nhiều dự án đầu tư trong và
ngoài nước, hình thành các K,CCN tập trung. Đồng thời những tiềm năng đó
cho phép tỉnh Thái Bình phát huy thế mạnh, khắc phục những khó khăn, nỗ
lực vươn lên để phát triển các K,CCN góp phần thực hiện thắng lợi nghị
quyết Đại hội Đảng bộ tỉnh đề ra.
1.1.3. Chủ trương của Đảng về phát triển khu, cụm công nghiệp
(2001-2010)
Phát triển công nghiệp là quá trình phát triển của phân công lao động
gắn liền với sự phát triển của khoa học công nghệ và kinh tế hàng hóa, với sự
hình thành và phát triển của thị trường trong nước và quốc tế. Đó là quá trình
phát triển các ngành công nghiệp riêng biệt nhằm từng bước điều chỉnh cơ cấu
kinh tế theo hướng hiện đại, trong đó công nghiệp ngày càng chiếm tỷ trọng cao,
hướng tới xây dựng đất nước trở thành một quốc gia công nghiệp theo các tiêu
chí tương ứng. Trong chiến lược phát triển KT-XH 10 năm (2001-2010) được
thông qua tại Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ IX (2001), Đảng Cộng sản Việt
Nam xác định: “Coi phát triển kinh tế là nhiệm vụ trung tâm, xây dựng đồng bộ
nền tảng cho một nước công nghiệp là yêu cầu cấp thiết” [26, tr.164].
Phát triển K,CCN là một trong những phương thức quan trọng để tạo
tiền đề vững chắc cho sự nghiệp CNH, HĐH đất nước. Lịch sử phát triển các
KCN ở trên thế giới cũng như ở Việt Nam đã khẳng định vai trò to lớn của nó
đối với sự phát triển của các quốc gia. Thực tiễn cho thấy phát triển KCN là
nhân tố quyết định làm thay đổi căn bản phương thức sản xuất, chuyển nền
kinh tế từ sản xuất nông nghiệp truyền thống, tiểu nông sang phương thức
mới sản xuất hiện đại. Về mặt kinh tế, phát triển KCN làm thay đổi phương
thức sản xuất và cơ cấu kinh tế sang một bước phát triển mới về chất, đó là
nền kinh tế dựa trên nền đại công nghiệp tập trung, trình độ cao. Về mặt xã
hội phát triển KCN góp phần chuyển một số vùng nông thôn thành đô thị.
Về quan điểm phát triển K,CCN trong chiến lược phát triển KT-XH
(2001-2010) được thông qua Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ IX (2001),
20
Đảng Cộng sản Việt Nam xác định: “Quy hoạch phân bố hợp lý công nghiệp
trên cả nước. Phát triển có hiệu quả các khu công nghiệp, khu chế xuất, xây
dựng một số khu công nghệ cao, hình thành các cụm công nghiệp lớn và khu
kinh tế mở” [26, tr.136].
Từ quan điểm trên Đại hội đưa ra định hướng phát triển K,CCN (20012005) là: “Tập trung thu hút vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài vào các khu công
nghiệp, khu chế xuất, khu công nghệ cao; tiếp tục nghiên cứu đề án xây dựng
khu kinh tế mở để đưa vào kế hoạch 5 năm” [26, tr.171]. Phát triển các K,CCN
hiện có, xây dựng các K,CCN mới bao gồm cả khu chế xuất, khu công nghệ cao,
tạo điều kiện thuận lợi cho việc xây dựng các cơ sở công nghiệp mới. Phát huy
lợi thế của mỗi vùng theo cơ cấu kinh tế mở, gắn với nhu cầu phát triển của thị
trường cả trong nước và ngoài nước. Trên cơ sở hiệu quả tổng hợp về KT-XH,
trước mắt và lâu dài, triển khai xây dựng các công trình kết cấu hạ tầng thiết yếu
và xây dựng có chọn lọc một số cơ sở công nghiệp nặng quan trọng, cấp thiết, có
điều kiện về vốn, công nghệ, thị trường, phát huy nhanh tác dụng, đáp ứng yêu
cầu phát triển của các ngành kinh tế và quốc phòng, an ninh. Về định hướng các
giải pháp chính sách phát triển bền vững các K,CCN là:
Thứ nhất, phát triển K,CCN phải tuân thủ quy hoạch đã được phê
duyệt. Nâng cao chất lượng, hiệu quả và bảo đảm tính hệ thống trong quy
hoạch KCN trên toàn quốc; nghiên cứu và vận dụng cho Việt Nam các mô
hình KCN theo hướng hiện đại với điều kiện thị trường mở.
Thứ hai, xây dựng K,CCN phải gắn với việc thực hiện quy hoạch hạ
tầng kỹ thuật khu vực đồng thời xây dựng và triển khai chính sách phát triển
hạ tầng xã hội; bảo đảm tính đồng bộ của các yếu tố cơ sở hạ tầng về KT-XH
và môi trường; thực hiện cơ cấu trong nội bộ K,CCN theo hướng hiệu qủa và
phù hợp với sự phát triển của khoa học và công nghệ.
Thứ ba, tăng cường công tác vận động xúc tiến đầu tư vào K,CCN.
Thứ tư, chính sách tạo nguồn vốn, sử dụng vốn ngân sách Nhà nước để hỗ
trợ phát triển các công trình hạ tầng kỹ thuật trong hàng rào. Để tạo điều kiện hỗ trợ
21
cho các địa bàn gặp nhiều khó khăn trong phát triển các K,CCN trong từng trường
hợp cụ thể, không chỉ xuất phát từ sự cần thiết thành lập KCN mà còn phải phù hợp
với khả năng cân đối của ngân sách, không hỗ trợ nhỏ giọt và dàn trải.
Thứ năm, chính sách đất đai, cần tuân thủ theo những quy định của
Luật Đất đai và được xử lý trong các quy định liên quan để giải quyết thỏa
đáng quyền lợi và trách nhiệm của doanh nghiệp phát triển hạ tầng KCN cũng
như doanh nghiệp trong các KCN để bảo đảm tính nhất quán của chính sách
ưu đãi về đất đai của Nhà nước đối với tất cả các doanh nghiệp trong và ngoài
KCN, tôn trọng quyền tự chủ sản xuất, kinh doanh của các doanh nghiệp.
Thứ sáu, chính sách phát triển lao động và đào tạo nghề, phát triển các
cơ sở đào tạo nghề gắn với nhu cầu phát triển các K,CCN.
Thứ bảy, xây dựng các giải pháp về môi trường và phát triển bền vững
đối với phát triển các K,CCN.
Thứ tám, phân cấp quản lý, tiếp tục hoàn thiện bộ máy quản lý K,CCN,
tăng cường kiểm tra, giám sát phát triển K,CCN, tăng cường chỉ đạo, phối
hợp liên tỉnh, liên vùng trong phát triển K,CCN.
Xây dựng có chọn lọc một số cơ sở công nghiệp nặng: dầu khí, luyện
kim, cơ khí chế tạo, hoá chất cơ bản, phân bón, vật liệu xây dựng...với bước
đi hợp lý, phù hợp điều kiện vốn, công nghệ, thị trường, phát huy được hiệu
quả. Phát triển mạnh các ngành công nghiệp công nghệ cao, nhất là công nghệ
thông tin, viễn thông, điện tử, tự động hoá. Chú trọng phát triển công nghiệp
sản xuất phần mềm tin học thành ngành kinh tế có tốc độ tăng trưởng vượt
trội. Phát triển rộng khắp các cơ sở sản xuất công nghiệp nhỏ và vừa với
ngành, nghề đa dạng. Đổi mới, nâng cấp công nghệ trong các cơ sở hiện có để
nâng cao năng suất, chất lượng, hiệu quả. Sử dụng phù hợp các công nghệ có
khả năng thu hút nhiều lao động. Phát triển nhiều hình thức liên kết giữa các
doanh nghiệp nhỏ, vừa và lớn, giữa sản xuất nguyên liệu với chế biến, tiêu thụ
sản phẩm trên cơ sở đảm bảo hài hoà về lợi ích. Tăng tỷ lệ nội địa hoá trong
công nghiệp gia công, lắp ráp. Tăng cường công tác kiểm tra chất lượng sản
phẩm, bảo hộ sở hữu công nghiệp, bảo vệ môi trường.
22
Bước vào thực hiện kế hoạch phát triển KT-XH 5 năm (2006 – 2010)
cùng với việc “đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa và phát triển kinh tế
tri thức tạo nền tảng để đưa nước ta cơ bản trở thành một nước công nghiệp theo
hướng hiện đại vào năm năm 2020” [27, tr.186]. Đại hội đại biểu toàn quốc lần
thứ X của Đảng (4/2006) đã có những định hướng phát triển K,CCN: “Hoàn
chỉnh quy hoạch phát triển các khu, cụm, điểm công nghiệp trên cả nước; hình
thành các vùng công nghiệp trọng điểm; gắn việc phát triển sản xuất với bảo
đảm nhà ở và các điều kiện sinh hoạt cho người lao động...” [27, tr.198].
Chuyển các cơ sở công nghiệp trong nội thành, nội thị, gần khu đông dân cư
không bảo đảm tiêu chuẩn môi trường vào các KCN tập trung hoặc các vùng
ít dân cư. Huy động các nguồn lực (nhà nước, doanh nghiệp, nhân dân, cộng
đồng) để xoá nhà ở dột nát, nhà ở tạm bợ cho người nghèo; phát triển nhanh
quỹ nhà để đáp ứng cơ bản nhu cầu nhà ở cho công chức, viên chức, người
lao động, sinh viên, học sinh, nhất là công nhân các K,CCN.
Tăng cường hợp tác liên kết, đưa ngành công nghiệp và xây dựng nước
ta hội nhập vào khu vực và quốc tế, trước hết thông qua việc thu hút mạnh
đầu tư và công nghệ nguồn của các công ty đa quốc gia tham gia phát triển
công nghiệp và xây dựng ở Việt Nam.
Phát triển đồng bộ công nghiệp chế biến, chế tác, công nghiệp công
nghệ cao, công nghiệp sản xuất tư liệu sản xuất quan trọng, công nghiệp quốc
phòng, góp phần xây dựng nền tảng cho một nước công nghiệp và nâng cao
khả năng tự chủ của nền kinh tế. Xây dựng và thực hiện tốt chương trình phát
triển công nghiệp phục vụ CNH, HĐH nông nghiệp, nông thôn.
Tập trung nguồn lực phát triển mạnh và nâng cao chất lượng các ngành
công nghiệp có lợi thế cạnh tranh, tạo ra sản phẩm xuất khẩu và thu hút nhiều
lao động, như: chế biến nông, lâm, thuỷ sản; may mặc, giày dép, đồ nhựa, đồ gỗ
gia dụng; cơ khí đóng tàu, công nghiệp chế tạo thiết bị đồng bộ, thiết bị điện,
thiết bị xây dựng, máy nông nghiệp, phương tiện giao thông, sản xuất và lắp ráp
23
cơ - điện tử; công nghiệp bổ trợ, công nghiệp công nghệ thông tin, sản xuất phần
mềm. Nâng tỉ trọng sản phẩm công nghiệp xuất khẩu đã qua chế biến. Chú trọng
phát triển công nghiệp năng lượng đi đôi với áp dụng công nghệ tiết kiệm năng
lượng; công nghiệp vật liệu và công nghệ tiết kiệm nguyên vật liệu; công nghiệp
dược và các chế phẩm sinh học; công nghiệp bảo vệ môi trường.
Quan điểm phát triển các K,CCN của Đảng là phát triển các K,CCN
theo hướng nâng cao chất lượng; phát triển các K,CCN gắn với phát triển khu
đô thị, khu dân cư và các dịch vụ khác. Xây dựng các K,CCN tiến tới là các
công viên công nghiệp xanh, sạch đẹp. Yêu cầu đối với các K,CCN là phải
tạo ra cơ sở vật chất kỹ thuật đáp ứng yêu cầu của các doanh nghiệp, mang
hình ảnh tập trung nhất mô hình CNH, HĐH; K,CCN phải tập trung mật độ
cao nhất lực lượng lao động lành nghề của đất nước, tiếp nhận trình độ quản
lý tiên tiến từ các quốc gia khác nhau nhằm không ngừng nâng cao trình độ
lực lượng lao động và quản lý kinh tế trong nước. Đồng thời K,CCN phải thể
hiện tập trung nhất vai trò quản lý vĩ mô, các quan điểm và định hướng chiến
lược phát triển KT-XH của quốc gia.
Cùng với sự đóng góp quan trọng vào quá trình phát triển kinh tế của cả
nước, trong những năm qua không thể không kể đến sự đóng góp của việc
phát triển các K,CCN. Các K,CCN địa phương cũng đẩy mạnh việc phát triển
sản xuất trên cơ sở xây dựng các K,CCN tập trung, hình thành các vùng
chuyên canh cho sản xuất nông nghiệp, chế biến, nuôi trồng thủy sản, hình
thành các vùng sản xuất hàng hóa trên cơ sở điều kiện tự nhiên, KT-XH của
từng vùng. Đến hết năm 2009, cả nước đã có 249 KCN được thành lập, tăng
thêm 26 khu, với tổng diện tích đất tự nhiên 63.173 ha, diện tích đất công
nghiệp có thể cho thuê đạt khoảng 38.858 ha, chiếm 61,5% tổng diện tích đất
tự nhiên; 126 KCN đã đi vào hoạt động, 74 KCN đang trong giai đoạn đền bù
giải phóng mặt bằng và xây dựng cơ bản, các KCN phân bố ở 61 tỉnh, thành
phố trên cả nước. Những chủ trương của Đảng là cơ sở để Đảng bộ tỉnh Thái
24
Bình đề ra phương hướng, mục tiêu, nhiệm vụ và giải pháp phát triển K,CCN
của Tỉnh trong những năm 2001 - 2010.
1.2. Chủ trương của Đảng bộ tỉnh Thái Bình về phát triển khu,
cụm công nghiệp trong những năm 2001 - 2010
Thái Bình là một tỉnh nông nghiệp ở trung tâm đồng bằng Bắc Bộ, tỷ
trọng nông nghiệp trong cơ cấu kinh tế của Tỉnh chiếm khá cao khoảng
49,5% (2003), trong khi tỷ trọng công nghiệp và xây dựng chỉ chiếm
khoảng 18,5%. Điều đó, đặt tỉnh Thái Bình vào tình thế muốn trở thành
một tỉnh giàu mạnh của cả nước, phải nhanh chóng chuyển dịch cơ cấu
kinh tế. Như kết luận của Thủ tướng Phan Văn Khải trong chuyến thăm và
làm việc ở tỉnh Thái Bình đầu tháng 4 năm 2004: “Phát triển công nghiệp
là hướng đột phá cho kinh tế của Thái Bình, theo cả 2 hướng công nghiệp
thu hút nhiều lao động và công nghiệp có trình độ công nghệ cao”.
Với phương châm “Phát triển công nghiệp là hướng đột phá”, Tỉnh uỷ
Thái Bình đã có chủ trương: “Phát triển công nghiệp, tiểu thủ công nghiệp với
nhịp độ cao, chuyển dần nền kinh tế thuần nông sang nền kinh tế có cơ cấu
nghiêng về công nghiệp, tiểu thủ công nghiệp. Tạo thuận lợi thu hút đầu tư, hình
thành các khu, cụm công nghiệp” [56, tr.41]. Thực hiện chủ trương đó, UBND
tỉnh có nhiều kế hoạch, biện pháp phát triển công nghiệp mà trọng tâm là phát
triển các KCN tập trung, làm đầu tầu kéo toàn bộ ngành công nghiệp phát triển.
1.2.1. Về phương hướng, mục tiêu
* Phương hướng
Đại hội đại biểu Đảng bộ tỉnh Thái Bình lần thứ XVI xác định: “Phát
huy nội lực, tăng cường hợp tác đầu tư, tiếp tục đổi mới, đẩy mạnh công
nghiệp hóa, hiện đại hóa…thực hiện mục tiêu dân giàu, nước mạnh, xã hội
công bằng, dân chủ, văn minh” [56, tr.42].
Đến Đại hội đại biểu Đảng bộ tỉnh Thái Bình lần thứ XVII xác định:
“...Đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa; chuyển dịch cơ cấu kinh tế, tăng
nhanh tỷ trọng công nghiệp và dịch vụ, giảm tỷ trọng nông nghiệp..., phấn
25
đấu tăng trưởng kinh tế cao và bền vững, sớm đưa Thái Bình thoát khỏi tỉnh
nghèo và chậm phát triển” [57, tr.40]. Cụ thể:
Đẩy mạnh và đổi mới công tác xúc tiến đầu tư vào các K,CCN; ưu tiên
thu hút các dự án có quy mô lớn, sử dụng công nghệ hiện đại, tiên tiến; tiêu
hao ít năng lượng; có giá trị gia tăng cao và nộp ngân sách lớn;
Tranh thủ sự giúp đỡ, hỗ trợ của Trung ương về các nguồn lực để đầu
tư xây dựng kết cấu hạ tầng K,CCN và sự giúp đỡ về công tác xúc tiến, kêu
gọi đầu tư vào các K,CCN của Tỉnh;
Tăng cường chất lượng công tác thẩm tra xét duyệt các dự án đầu tư
vào các K,CCN, đảm bảo việc quản lý toàn diện các chỉ tiêu đăng ký trong dự
án của các chủ đầu tư; thực hiện nghiêm túc công tác giám sát đầu tư theo quy
định của pháp luật để có biện pháp xử lý kịp thời đối với những dự án có dấu
hiệu vi phạm các quy định của pháp luật.
Tiếp tục hoàn thiện cơ chế chính sách khuyến khích đầu tư và cải cách
thủ tục hành chính đầu tư vào các K,CCN phù hợp với điều kiện của Tỉnh và
các quy định của pháp luật. Xây dựng cơ chế chính sách và thực hiện một số
dự án xây dựng nhà ở cho công nhân lao động trong các KCN;
Tăng cường công tác lãnh đạo, chỉ đạo của các cấp ủy Đảng, chính
quyền và làm tốt công tác tuyên truyền để mọi cán bộ đảng viên và nhân dân
hiểu về việc phát triển các K,CCN tập trung gắn với việc xây dựng nông thôn
mới và phát triển đô thị.
Triển khai quy hoạch chi tiết một số K,CCN ven biển trong quy hoạch
khu kinh tế biển đã được Chính phủ chấp thuận thành lập. Tập trung hoàn
thành đầu tư xây dựng đồng bộ các công trình kết cấu hạ tầng kỹ thuật các
KCN hiện có; hoàn thành xây dựng các công trình xử lý chất thải của KCN
theo đúng tiêu chuẩn quy định.
* Mục tiêu
Mục tiêu tổng quát
Xác định quy mô sử dụng đất ngắn hạn và dài hạn cho phát triển công
26