Tải bản đầy đủ (.doc) (135 trang)

LUẬN văn THẠC sĩ ĐẢNG bộ TỈNH VĨNH PHÚC LÃNH đạo xây DỰNG NÔNG THÔN mới từ năm 2006 đến năm 2014

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.06 MB, 135 trang )

MỤC LỤC

Trang
MỞ ĐẦU
Chương 1. CHỦ TRƯƠNG VÀ SỰ CHỈ ĐẠO CỦA ĐẢNG BỘ TỈNH

01

VĨNH PHÚC VỀ XÂY DỰNG NÔNG THÔN MỚI TỪ
NĂM 2006 ĐẾN NĂM 2014

1.1. Yêu cầu khách quan của Đảng bộ tỉnh Vĩnh Phúc lãnh đạo
xây dựng nông thôn mới (2006 - 2014)
1.2. Chủ trương của Đảng bộ tỉnh Vĩnh Phúc về xây dựng nông
thôn mới (2006 - 2014)
1.3. Đảng bộ tỉnh Vĩnh Phúc chỉ đạo xây dựng nông thôn mới
(2006 - 2014)
Chương 2. NHẬN XÉT VÀ KINH NGHIỆM
2.1. Nhận xét quá trình Đảng bộ tỉnh Vĩnh Phúc lãnh đạo xây
dựng nông thôn mới (2006 - 2014)
2.2. Kinh nghiệm từ quá trình Đảng bộ tỉnh Vĩnh Phúc lãnh
đạo xây dựng nông thôn mới (2006 - 2014)
KẾT LUẬN
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
PHỤ LỤC

08
22
28
50
50



68
81
83
96


MỞ ĐẦU

1. Lý do chọn đề tài
Việt Nam là một nước có nền kinh tế nông nghiệp, lực lượng lao động tập
trung chủ yếu ở nông thôn. Có tới 70,37% dân số sống trong khu vực nông thôn
(theo tổng điều tra dân số và nhà ở năm 2009). Cùng với tốc độ đô thị hóa ngày
càng cao thì sự khác biệt giữa thu nhập và mức sống dân cư sống ở khu vực
thành thị với khu vực nông thôn ngày càng lớn, tốc độ phát triển không đồng
đều cũng diễn ra giữa các khu vực ở nông thôn. Đặc biệt, là khu vực miền núi có
rất nhiều khó khăn ảnh hưởng tới quá trình phát triển của NTM như: Tỷ lệ
nghèo đói, tỷ lệ thất nghiệp cao, ô nhiễm môi trường nghiêm trọng, diện tích đất
nông nghiệp giảm do quá trình công nghiệp hóa, dịch vụ nông thôn kém phát
triển kể cả y tế và giáo dục, đất đai nhỏ lẻ manh mún, phương thức sản xuất kém
hiệu quả… là rào cản cho quá trình xây dựng NTM. Trước yêu cầu của phát
triển và hội nhập, mục tiêu đẩy nhanh CNH, HĐH đất nước, đòi hỏi có nhiều
chính sách đột phá và đồng bộ nhằm giải quyết toàn bộ các vấn đề KT - XH,
văn hóa, xây dựng NTM. Giải quyết tốt vấn đề nông dân và xây dựng NTM có ý
nghĩa chiến lược đối với sự ổn định và phát triển đất nước.
Năm 1997, tỉnh Vĩnh Phúc được tái lập theo Nghị quyết Kỳ họp thứ 10
Quốc hội khóa IX ngày 26/11/1996, địa giới hành chính, năm 2012 tỉnh Vĩnh
Phúc có tổng diện 1.236,5 km2, 09 đơn vị hành chính gồm: Thành phố Vĩnh
Yên, thị xã Phúc Yên và 07 huyện gồm: Sông lô, Lập Thạch, Tam Dương,
Tam Đảo, Bình Xuyên, Yên Lạc và Vĩnh Tường.

Tỉnh Vĩnh Phúc nằm trong vùng kinh tế trọng điểm của Bắc Bộ, vùng
thủ đô Hà Nội, kể từ khi tái lập tỉnh đến nay, Đảng bộ, chính quyền và Nhân
dân các dân tộc trong Tỉnh đã tranh thủ thời cơ, phát huy lợi thế, nỗ lực vượt
qua nhiều khó khăn, thách thức, giành được những thành tựu quan trọng trên
tất cả các lĩnh vực như: Kinh tế của tỉnh liên tục tăng trưởng (bình quân trong
16 năm giai đoạn từ năm 1997 đến năm 2012 đạt trên 16,0%/năm). Năm 2012,
tỷ trọng ngành công nghiệp và xây dựng chiếm 53,4%, dịch vụ chiếm 33,1%,
nông, lâm nghiệp và thủy sản chiếm 13,5%; GDP bình quân đầu người (theo

2


giá thực tế) đạt 47,4 triệu đồng/người/năm. Thu ngân sách năm sau cao hơn
năm trước, năm 2011 đạt 16.739,969 tỷ đồng. Từ năm 2004, Vĩnh Phúc là một
trong những tỉnh đã tự cân đối được ngân sách.
Các lĩnh vực văn hóa, xã hội, khoa học công nghệ tiếp tục phát triển, từng
bước kết hợp hài hòa với phát triển kinh tế... Với những thành tựu đã đạt được,
Đại hội Đảng bộ tỉnh lần thứ XV, đã đề ra mục tiêu phấn đấu đến năm 2015, Vĩnh
Phúc cơ bản trở thành tỉnh công nghiệp theo hướng hiện đại vào năm 2020 và trở
thành thành phố Vĩnh Phúc trực thuộc Trung ương vào năm 2020.
Tuy nhiên, so với Bộ Tiêu chí quốc gia về xây dựng NTM của Chính
phủ, Vĩnh Phúc vẫn còn nhiều xã tiêu chí chưa đạt hoặc đạt ở mức độ trung
bình. Thực tế cho thấy, thực trạng sản xuất nông nghiệp, tiểu thủ công nghiệp
còn manh mún nhỏ lẻ, không đồng bộ; sản xuất hàng hóa không tập trung, hiệu
quả thấp; kết cấu hạ tầng nông thôn còn chắp vá; tận dụng giá trị trên 01 ha đất
canh tác và thu nhập của người dân còn thấp; tỷ lệ hộ nghèo cao; môi trường
sống còn bị ô nhiễm; sản xuất nông nghiệp còn nhiều bất cập chưa phát huy
hết tiềm năng sẵn có… Do đó, việc nghiên cứu sự lãnh đạo của Đảng bộ tỉnh
Vĩnh Phúc về xây dựng mô hình NTM, từ năm 2006 đến năm 2014. Qua đó,
khẳng định những thành công, hạn chế, đúc kết kinh nghiệm lãnh đạo, góp

phần khẳng định chủ trương của Đảng trong cuộc sống và phục vụ công tác
lãnh đạo của Đảng bộ tỉnh Vĩnh Phúc trong thời gian tới.
Xuất phát từ những lý do trên, tôi chọn vấn đề: “Đảng bộ tỉnh Vĩnh
Phúc lãnh đạo xây dựng nông thôn mới từ năm 2006 đến năm 2014” làm
đề tài luận văn thạc sĩ lịch sử chuyên ngành Lịch sử Đảng Cộng sản Việt Nam.
2. Tình hình nghiên cứu liên quan đến đề tài
Nhóm các công trình nghiên cứu về nông nghiệp nông thôn và xây
dựng nông thôn mới trong phạm vi cả nước
Phan Đại Doãn và Nguyễn Quang Ngọc (Chủ biên 1994), Kinh nghiệm
tổ chức quản lý nông thôn Việt Nam trong lịch sử, Nxb Chính trị quốc gia, Hà
Nội; Phạm Xuân Nam (Chủ biên 1997), Phát triển nông thôn, Nxb Khoa học
xã hội, Hà Nội. Đây là hai công trình nghiên cứu chuyên sâu về phát triển nông
thôn, các tác giả đã phân tích khá sâu sắc một số nội dung về phát triển KT XH nông thôn nước ta như dân số, lao động, việc làm, chuyển dịch cơ cấu kinh

3


tế, vấn đề sử dụng và quản lý nguồn lực tài nguyên thiên nhiên và xoá đói
giảm nghèo. Hồng Vinh (1998), CNH, HĐH nông nghiệp, nông thôn - Một số
vấn đề lý luận và thực tiễn, Nxb CTQG, Hà Nội; Lê Đình Thắng (Chủ biên
1998), Chính sách nông nghiệp, nông thôn sau Nghị quyết X của Bộ Chính trị,
Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội. Nguyễn Vũ Bình (1999), “Gia Lâm trên con
đường CNH, HĐH nông nghiệp, nông thôn”, Tạp chí Cộng sản, tháng 12. Hội
thảo Khoa học kinh tế Việt Nam (2002), Con đường CNH, HĐH nông nghiệp,
nông thôn Việt Nam, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội. Hội thảo Khoa học kinh
tế Việt Nam (2002), Con đường CNH, HĐH nông nghiệp, nông thôn Việt
Nam, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội. Nguyễn Sinh Cúc (2003), Nông nghiệp,
nông thôn Việt Nam thời kỳ đổi mới, Nxb Thống kê, Hà Nội. Phạm Quốc
Doanh (2003) “Chính sách đất đai và vấn đề nông dân không đất để thực hiện
công nghiệp hóa nông thôn”, Tạp chí Nghiên cứu kinh tế, tháng 6. Học viện

Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh (2004), CNH, HĐH nông nghiệp nông thôn
Việt Nam, thực trạng và một số vấn đề đặt ra, Nxb Hà Nội. Tăng cường năng
lực hội nhập kinh tế quốc tế cho ngành nông nghiệp, do Bộ Nông nghiệp và
Phát triển nông thôn cùng Tổ chức Ausaid nghiên cứu, đã đi sâu phân tích
những quy định của Tổ chức Thương mại thế giới về thương mại nông sản.
Phùng Hữu Phú (Chủ biên 2009), Vấn đề nông nghiệp, nông dân, nông thôn Kinh nghiệm Việt Nam, kinh nghiệm Trung Quốc, Nxb Chính trị quốc gia, Hà
Nội. Đặng Kim Sơn (2011), Công nghiệp hóa từ nông nghiệp lý luận, thực tiễn
và triển vọng áp dụng ở Việt Nam, Nxb Nông nghiệp; Vũ Văn Phúc (Chủ biên
2012), Xây dựng NTM những vấn đề lý luận và thực tiễn, Nxb Chính trị quốc
gia, Hà Nội. Gồm 33 bài viết nêu lên những vấn đề lý luận chung và kinh
nghiệm quốc tế về xây dựng NTM và thực tiễn xây dựng NTM ở Việt Nam.
Hội thảo khoa học (2013), “Xây dựng nông thôn mới - Những vấn đề lý luận
và thực tiễn”, Tạp chí Cộng sản, tháng 9. Với hơn 40 tham luận, các nhà khoa
học đã bàn luận về các vấn đề như: Đẩy mạnh triển khai Chương trình xây
dựng NTM để nâng cao đời sống vật chất và tinh thần của nông dân, thu hẹp
khoảng cách giữa nông thôn và thành thị; xây dựng đồng bộ hệ thống kết cấu
hạ tầng KT - XH nông thôn cả miền núi và ven biển; xây dựng nền nông
4


nghiệp toàn diện theo hướng hiện đại ở nông thôn; tiếp tục đổi mới và nâng
cao hiệu quả của các hình thức tổ chức sản xuất theo hướng chú trọng phát
triển HTX kiểu mới trong nông nghiệp, nông thôn.
Những bài viết liên quan trên đã trình bày, luận giải có luận cứ, luận
chứng khoa học những dữ liệu rất quan trọng cho việc hoạch định chính sách phát
triển nông nghiệp, nông thôn trong thời kỳ mới, về thực trạng xây dựng NTM ở
các địa phương trong cả nước, tập trung vào những vấn đề nổi cộm nảy sinh, từ
đó rút ra những kinh nghiệm có giá trị về mặt lý luận và thực tiễn sâu sắc.
Nhóm các công trình nghiên cứu về nông nghiệp nông thôn và xây
dựng nông thôn mới ở các địa phương

Vũ Đức Trung (1996), Những định hướng cho việc chuyển dịch cơ cấu
kinh tế nông thôn tỉnh Hà Bắc, Luận án khoa học Kinh tế, Hà Nội. Tô Văn
Song (2002), “Hải Dương chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông nghiệp, nông thôn
theo hướng CNH, HĐH”, Tạp chí Lịch sử Đảng, tháng 12. Mai Thị Thanh
Xuân (2003), CNH, HĐH, nông thôn các tỉnh Thanh - Nghệ - Tĩnh, Luận văn
thạc sĩ chuyên ngành Chính trị học, Hà Nội. Lê Minh Tùng (2003), CNH,
HĐH nông nghiệp, nông thôn tỉnh An Giang, Luận văn thạc sĩ chuyên ngành
Địa lý học, Hà Nội. Đỗ Xuân (2003), “Đảng bộ huyện Tiên Lãng - Hải Phòng
lãnh đạo phát triển kinh tế nông nghiệp, nông thôn theo hướng CNH, HĐH”,
Tạp chí Lịch sử Đảng, tháng 8. Nguyễn Sinh Cúc (2004), “Tổng quan nông
nghiệp năm 2003”, Tạp chí nông thôn mới, số 108+109 (kỳ 1+2 tháng 1); Đỗ
Đức Quân (Chủ biên, 2010), Một số giải pháp nhằm phát triển bền vững nông
thôn vùng đồng bằng Bắc Bộ, trong quá trình phát triển các khu công nghiệp
(qua khảo sát các tỉnh Vĩnh Phúc, Hải Dương, Ninh Bình), Nxb Chính trị quốc
gia, Hà Nội. Đây là công trình nghiên cứu nhằm phát triển bền vững, về sự
phát triển 03 tiêu chí về KT - XH, môi trường. Trong đó nội dung xây dựng
NTM là nội dung quan trọng trong chiến lược phát triển bền vững. Vũ Thị
Mười (2012), Đảng bộ tỉnh Ninh Bình lãnh đạo xây dựng nông thôn mới từ
năm 2001 đến năm 2010, Luận văn Thạc sĩ. Lịch sử, Trung tâm Đào tạo, bồi
dưỡng giảng viên lý luận chính trị. Trình bày có hệ thống quan điểm, chủ
trương của Đảng Cộng sản Việt Nam về xây dựng NTM và của Đảng bộ tỉnh
Ninh Bình. Làm rõ quá trình Đảng bộ tỉnh Ninh Bình lãnh đạo xây dựng NTM

5


từ năm 2001 đến năm 2010. Khẳng định những thành tựu bước đầu và một số
kinh nghiệm xây dựng NTM ở tỉnh Ninh Bình. Phan Ngọc Huy (2012), “Phát
huy vai trò công tác tư tưởng trong xây dựng NTM ở tỉnh Bến Tre”,
Đề cập đến công tác tư tưởng có vai trò quan trọng

hàng đầu để quán triệt quan điểm, chủ trương xây dựng NTM, nâng cao nhận
thức của cán bộ, đảng viên và Nhân dân, cổ vũ quần chúng tích cực tham gia
thực hiện các tiêu chí xây dựng NTM ở tỉnh Bến Tre. Hà Trang (2013), “Xây
dựng NTM ở Đồng Bằng sông Cửu Long, tầm nhìn 2020”, Tạp chí Cộng sản,
tháng 7. Minh Phước (2013), “Xây dựng NTM ở Cà Mau: Cần những giải
pháp mang tính đột phá”, Tạp chí Cộng sản, tháng 11; Quang Minh (2013),
“Xây dựng NTM ở các tỉnh miền núi phía Bắc”. Nguyễn Đăng Quang (2014),
“Xây dựng NTM ở xã Chư Ă-Play Cu”, Tạp chí Cộng sản, tháng 6. Nguyễn
Thị Nha Trang (2014), Đảng bộ tỉnh Quảng Ninh lãnh đạo phong trào xây
dựng NTM từ năm 2008 đến 2013, Luận văn thạc sỹ. Lịch sử , Đại học Khoa
học xã hội và Nhân văn; Đỗ Thùy Dung, Đảng bộ huyện Sóc Sơn lãnh đạo xây
dựng NTM từ năm 2001 đến năm 2012, Luận văn thạc sỹ. Lịch sử, Đại học
Khoa học xã hội và Nhân văn.
Các bài viết của các tác giả có những nhận định đánh giá sâu sắc và cụ
thể về tình hình thực hiện xây dựng NTM ở từng địa phương trong cả nước,
tập trung làm rõ những thành tựu, hạn chế và nguyên nhân trong quá trình chỉ
đạo xây dựng NTM, bước đầu đề xuất những vấn đề cần tập trung tháo gỡ
trong thời gian tới. Những nội dung đó là cơ sở lý luận và thực tiễn, kinh
nghiệm quý báu cho tác giả nghiên cứu, làm rõ quá trình lãnh đạo xây dựng
NTM ở tỉnh Vĩnh Phúc.
Nhóm các công trình nghiên cứu về nông nghiệp nông thôn và xây
dựng nông thôn mới ở tỉnh Vĩnh Phúc
Ngô Thị Cẩm Linh (2008), Một số giải pháp nhằm phát triển kinh tế
HTX nông nghiệp trên địa bàn tỉnh Vĩnh Phúc, Luận án Kinh tế nông nghiệp.
Sở nông nghiệp và Phát triển nông thôn tỉnh Vĩnh Phúc (2011) Quy hoạch
phát triển nông nghiệp tỉnh Vĩnh Phúc đến năm 2020 và tầm nhìn đến năm
2030, đề ra các mục tiêu, định hướng lớn cho cả thời kỳ phát triển dài của toàn
bộ ngành nông nghiệp. Hoàng Thị Ngọc Lan (2012), Phát huy dân chủ ở cơ sở

6



trong quá trình xây dựng NTM trên địa bàn tỉnh Vĩnh Phúc hiện nay, (qua
khảo sát một số xã ở huyện Yên Lạc và huyện Lập Thạch), Luận văn thạc sĩ
chủ nghĩa xã hội khoa học. Văn Châu (2014), “Thực trạng và giải pháp sau 3
năm xây dựng nông thôn mới trên địa bàn tỉnh Vĩnh Phúc”,
Đề cao công tác xây dựng NTM là một nhiệm vụ
chính trị, kinh tế, xã hội quan trọng, tỉnh đã tập trung chỉ đạo quyết liệt, huy
động cả hệ thống chính trị vào cuộc, đẩy mạnh công tác thông tin, tuyên truyền
dưới nhiều hình thức để nâng cao nhận thức và các giải pháp xây dựng NTM
trên địa bàn Tỉnh.
Những luận văn, luận án và bài viết trên đây mới chỉ trình bày những
định hướng, lý luận và thực tiễn xây dựng NTM, dưới các góc độ khác nhau,
một số kết quả trong việc chỉ đạo của Đảng bộ tỉnh Vĩnh Phúc, mà chưa làm rõ
đặc điểm tự nhiên, điều kiện KT - XH và những yêu cầu đặt ra để Đảng bộ tỉnh
Vĩnh Phúc lãnh đạo xây dựng NTM và quá trình chỉ đạo xây dựng NTM từ
2006 đến năm 2014 và chưa có công trình nào chuyên nghiên cứu về quá trình
Đảng bộ tỉnh Vĩnh Phúc lãnh đạo xây dựng NTM một cách có hệ thống dưới
góc độ khoa học Lịch sử Đảng. Những kết quả nghiên cứu trên đã được tác giả
kế thừa, tiếp cận thông qua các tư liệu và những gợi mở cần thiết trong quá
trình xây dựng luận văn.
3. Mục đích, nhiệm vụ nghiên cứu
* Mục đích nghiên cứu
Nghiên cứu làm sáng tỏ quá trình Đảng bộ tỉnh Vĩnh Phúc lãnh đạo xây
dựng NTM, qua đó rút ra một số kinh nghiệm vận dụng, và lãnh đạo xây dựng
NTM ở tỉnh Vĩnh Phúc trong giai đoạn hiện nay.
* Nhiệm vụ nghiên cứu
Làm rõ yêu cầu khách quan Đảng bộ tỉnh Vĩnh Phúc lãnh đạo xây dựng
NTM.
Phân tích, luận giải chủ trương và sự chỉ đạo của Đảng bộ tỉnh Vĩnh

Phúc về xây dựng NTM từ năm 2006 đến năm 2014.
Nhận xét và rút ra kinh nghiệm từ quá trình Đảng bộ tỉnh Vĩnh Phúc
lãnh đạo xây dựng NTM từ năm 2006 đến năm 2014.
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu

7


* Đối tượng nghiên cứu
Nghiên cứu hoạt động lãnh đạo, chỉ đạo của Đảng bộ tỉnh Vĩnh Phúc về
xây dựng NTM.
* Phạm vi nghiên cứu
Về nội dung: Nghiên cứu chủ trương, của Đảng bộ tỉnh Vĩnh Phúc lãnh
đạo xây dựng NTM.
Về thời gian: Từ năm 2006 đến năm 2014.
Về không gian: Trên địa bàn tỉnh Vĩnh Phúc.
5. Phương pháp luận và phương pháp nghiên cứu
* Phương pháp luận
Luận văn dựa trên cơ sở phương pháp luận của chủ nghĩa duy vật biện
chứng, duy vật lịch sử của chủ nghĩa Mác - Lênin và phương pháp luận sử học.
* Phương pháp nghiên cứu: Sử dụng phương pháp lịch sử và lôgic và
sự kết hợp hai phương pháp đó là chủ yếu. Đồng thời, kết hợp sử dụng một số
phương pháp khác như: thống kê, so sánh, đối chiếu…
6. Ý nghĩa của đề tài
Đề tài góp phần tổng kết lịch sử Đảng bộ tỉnh Vĩnh Phúc lãnh đạo xây
dựng NTM. Kết quả của luận văn góp phần cung cấp những căn cứ khoa học
để tiếp tục bổ sung, phát triển chủ trương, chính sách về phát triển NTM ở tỉnh
Vĩnh Phúc trong thời kỳ mới.
Luận văn có thể được sử dụng làm tài liệu tham khảo trong nghiên cứu,
giảng dạy, học tập các chuyên đề về Lịch sử Đảng trong các nhà trường.

7. Kết cấu của đề tài
Gồm: Mở đầu, 2 chương (5 tiết), kết luận, danh mục tài liệu tham khảo
và phụ lục.

8


Chương 1
CHỦ TRƯƠNG VÀ SỰ CHỈ ĐẠO CỦA ĐẢNG BỘ TỈNH VĨNH PHÚC VỀ
XÂY DỰNG NÔNG THÔN MỚI TỪ NĂM 2006 ĐẾN NĂM 2014

1.1. Yêu cầu khách quan của Đảng bộ tỉnh Vĩnh Phúc lãnh đạo xây
dựng nông thôn mới (2006 - 2014)
1.1.1. Vị trí, vai trò của xây dựng nông thôn mới đối với phát triển
kinh tế, xã hội của tỉnh Vĩnh Phúc
Khái niệm nông thôn, đến nay, khái niệm nông thôn được thống nhất với
quy định tại Thông tư số 54/2009/TT-BNN&PTNT ngày 21/8/2009 của Bộ
Nông nghiệp và Phát triển nông thôn, cụ thể: “Nông thôn là phần lãnh thổ
không thuộc nội thành, nội thị các thành phố, thị xã, thị trấn được quản lý bởi
cấp hành chính cơ sở là ủy ban nhân dân xã” [14, tr. 1].
Quan niệm về NTM, là nông thôn có kinh tế phát triển, đời sống vật chất,
văn hoá, tinh thần của người dân nông thôn không ngừng được nâng cao, giảm
dần sự cách biệt giữa nông thôn và thành thị. Nông dân được đào tạo, tiếp thu
các tiến bộ khoa học kỹ thuật tiên tiến, có bản lĩnh chính trị vững vàng, đóng vai
trò làm chủ NTM. NTM có kinh tế phát triển toàn diện, bền vững, cơ sở hạ tầng
được xây dựng đồng bộ, hiện đại, phát triển theo quy hoạch, gắn kết hợp lý giữa
nông nghiệp với công nghiệp, dịch vụ và đô thị. Nông thôn ổn định, giàu bản
sắc văn hoá dân tộc, môi trường sinh thái được bảo vệ. Sức mạnh của hệ thống
chính trị được nâng cao, đảm bảo giữ vững an ninh chính trị và trật tự xã hội.
Quan niệm về xây dựng NTM: Xây dựng NTM là “cuộc cách mạng” và là

“cuộc vận động lớn” để cộng đồng dân cư ở nông thôn đồng lòng xây dựng
thôn, xã, gia đình của mình khang trang, sạch đẹp; phát triển sản xuất toàn diện;
có nếp sống văn hoá, môi trường và an ninh nông thôn được đảm bảo; thu nhập,
đời sống vật chất, tinh thần của người dân được nâng cao. Xây dựng NTM là sự
nghiệp cách mạng của toàn Đảng, toàn dân, của cả hệ thống chính trị. NTM
không chỉ là vấn đề KT - XH, mà là vấn đề kinh tế, chính trị tổng hợp. Xây

9


dựng NTM giúp cho nông dân có niềm tin, trở nên tích cực, chăm chỉ, đoàn kết
giúp đỡ nhau xây dựng NTM phát triển giàu đẹp, dân chủ, văn minh.
Nguyên tắc xây dựng NTM: Xây dựng NTM theo phương châm phát huy
vai trò chủ thể của cộng đồng dân cư địa phương là chính, Nhà nước đóng vai
trò định hướng các tiêu chí, quy chuẩn, xã đặt ra các chính sách, cơ chế hỗ trợ và
hướng dẫn. Các hoạt động cụ thể do chính cộng đồng người dân ở thôn, bản bàn
bạc dân chủ để quyết định tổ chức và thực hiện. Xây dựng NTM được thực hiện
trên cơ sở kế thừa và lồng ghép các chương trình từ mục tiêu Quốc gia, chương
trình hỗ trợ có mục tiêu, các chương trình dự án khác đang triển khai ở nông
thôn, có bổ sung dự án hỗ trợ đối với các lĩnh vực cần thiết, có cơ chế chính
sách mạnh mẽ khuyến khích đầu tư của các thành phần kinh tế, huy động đóng
góp của các tầng lớp dân cư. Xây dựng NTM được thực hiện gắn với các quy
hoạch, kế hoạch phát triển KT - XH, đảm bảo an ninh, quốc phòng của mỗi địa
phương, có quy hoạch và cơ chế đảm bảo cho phát triển theo quy hoạch (trên cơ
sở các tiêu chuẩn kinh tế, kỹ thuật do các bộ chuyên ngành ban hành).
Xây dựng NTM là nhiệm vụ của của cả hệ thống chính trị và toàn thể xã
hội; cấp ủy Đảng, chính quyền đóng vai trò chỉ đạo, điều hành quá trình xây
dựng quy hoạch, kế hoạch tổ chức thực hiện. Hình thức là cuộc vận động
“Toàn dân xây dựng nông thôn mới” do Mặt trận Tổ quốc chủ trì cùng các tổ
chức chính trị, xã hội vận động mọi tầng lớp Nhân dân phát huy vai trò chủ thể

trong việc xây dựng NTM.
Vị trí, vai trò của xây dựng NTM đối với sự phát triển KT - XH của tỉnh
Vĩnh Phúc: Thực hiện đường lối đổi mới của Đảng, nhận thức sâu sắc vị trí, vai
trò của nông thôn trong sự phát triển KT - XH của Tỉnh, Đảng bộ Tỉnh sớm có
chủ trương lãnh đạo xây dựng phát triển nông thôn Vĩnh Phúc ngày càng giàu
đẹp. Ngay khi được tái lập (1997), Đảng bộ, chính quyền và Nhân dân Vĩnh
Phúc, tích cực triển khai xây dựng phát triển nông thôn. Nghị quyết Đại hội đại
biểu tỉnh Vĩnh Phúc lần thứ XIV (2005) xác định: “Quan tâm xây dựng NTM,
theo hướng hiện đại, bảo tồn các giá trị văn hóa truyền thống, tạo sự phát triển
đồng đều giữa các vùng trong Tỉnh” [29, tr. 43]. Thực hiện chủ trương của Đảng
bộ, qua thực tiễn xây dựng nông thôn trên địa bàn tỉnh Vĩnh Phúc những năm

10


đổi mới, quá trình xây NTM ở Vĩnh Phúc đã đạt nhiều kết quả quan trọng và có
vai trò to lớn đối với sự phát triển KT - XH tỉnh Vĩnh Phúc.
Thứ nhất, xây dựng NTM trực tiếp góp phần tạo diện mạo mới về KT - XH
cho địa bàn nông thôn, nơi tập trung đại đa số dân số Vĩnh Phúc. Theo số liệu điều
tra dân số năm 2009, dân số Vĩnh Phúc sinh sống trên địa bàn nông thôn là 778.163
người chiếm 77,58 % dân số. Vì vậy, xây dựng NTM là trực tiếp cải thiện môi
trường sinh sống, làm việc của đại bộ phận dân số Vĩnh Phúc. Đặc biệt nông thôn
là địa bàn sinh sống làm việc của nông dân, giai cấp cơ bản và đông đảo hiện nay.
Do vậy, xây dựng NTM sẽ tạo điều kiện thuận lợi cho nông dân, là sự cụ thể hóa
quan điểm xây dựng và phát triển giai cấp nông dân trong điều kiện mới.
Thứ hai, xây dựng NTM trực tiếp khắc phục tình trạng mất cân đối trong
phát triển vùng, lãnh thổ trên địa bàn. Là một tỉnh trung du Bắc Bộ, trong công
cuộc đổi mới, Vĩnh Phúc có tốc độ công nghiệp hóa khá cao, là “điểm sáng”
trong phát triển công nghiệp cả nước. Tuy nhiên, quá trình công nghiệp hóa ở
Vĩnh phúc cũng còn nhiều hạn chế, có tác động tiêu cực đến sự phát triển KT XH ở địa phương. Sự tập trung cao công nghiệp hóa ở một số địa bàn đã tạo ra

sự mất cân đối trong phát triển vùng các địa phương, nhất là khoảng cách giữa
thành thị và nông thôn ngày càng lớn. Do vậy, xây dựng NTM sẽ góp phần khắc
phục tình trạng mất cân đối trong phát triển KT - XH của tỉnh Vĩnh Phúc.
Thứ ba, xây dựng NTM tạo ra động lực thúc đẩy sản xuất nông nghiệp
phát triển. Tuy là ba lĩnh vực độc lập, nhưng nông nghiệp, nông thôn và nông dân
luôn có mối quan hệ biện chứng, tác động qua lại, chi phối và ảnh hưởng lẫn
nhau. Các vấn đề nông nghiệp, nông thôn, nông dân của Tỉnh luôn được giải
quyết đồng bộ, gắn với quá trình đẩy mạnh CNH, HĐH nông nghiệp. Nông thôn
của tỉnh Vĩnh Phúc, còn là khu vực giàu tiềm năng cần khai thác một cách có hiệu
quả quá trình xây dựng NTM. Phát triển nông nghiệp, nông thôn và nâng cao đời
sống vật chất, tinh thần của nông dân phải dựa trên cơ chế kinh tế thị trường, định
hướng XHCN, phù hợp với điều kiện của tỉnh Vĩnh Phúc, để giải phóng và sử
dụng có hiệu quả các nguồn lực. Chương trình Mục tiêu quốc gia về xây dựng
NTM là chương trình mang tính tổng hợp, sâu, rộng, có nội dung toàn diện, bao
gồm tất cả các lĩnh vực kinh tế, văn hóa, xã hội, chính trị, an ninh, quốc phòng.
Mục tiêu chung của Chương trình được xác định: “Xây dựng NTM có kết cấu hạ

11


tầng KT - XH từng bước hiện đại; cơ cấu kinh tế và các hình thức tổ chức sản
xuất hợp lý, gắn phát triển nông nghiệp với phát triển nhanh công nghiệp và dịch
vụ; gắn phát triển nông thôn với đô thị theo quy hoạch” [59, tr. 1].
Thực hiện đường lối của Đảng, trong thời gian qua, phong trào xây dựng
NTM đã diễn ra sôi nổi ở khắp các địa phương trong Tỉnh, thu hút sự tham gia
của cả cộng đồng, phát huy được sức mạnh của toàn Tỉnh. Quá trình xây dựng
NTM đã đạt được nhiều thành tựu. Những thành tựu đó đã góp phần thay đổi
toàn diện bộ mặt nông thôn, tạo cơ sở vững chắc nâng cao đời sống vật chất,
tinh thần của Nhân dân.
1.1.2. Điều kiện tự nhiên, kinh tế, xã hội tác động đến xây dựng nông

thôn mới của tỉnh Vĩnh Phúc
* Điều kiện đặc điểm tự nhiên
Tỉnh Vĩnh Phúc chính thức được tái lập vào năm 1997, là tỉnh trung du
phía Bắc, thuộc vùng kinh tế trọng điểm Bắc Bộ, nằm trong khu vực châu thổ
sông Hồng, phía Bắc giáp tỉnh Thái Nguyên và Tuyên Quang, phía Tây giáp
Phú Thọ, phía Đông và phía Nam giáp thủ đô Hà Nội. Tỉnh lỵ của Tỉnh là
thành phố Vĩnh Yên, cách trung tâm Hà Nội 50 km và cách sân bay quốc tế
Nội Bài 25 km. Vĩnh Phúc nằm trên Quốc lộ số 2, đường sắt Hà Nội - Lào Cai
và đường cao tốc Nội Bài - Lào Cai, là cầu nối giữa vùng miền núi phía Bắc
với Thủ đô Hà Nội; liền kề cảng hàng không quốc tế Nội Bài.
Tính đến năm 2012, Vĩnh Phúc có diện tích 1.231,76 km2 với dân số
khoảng 1.020.597 người, mật độ dân số khoảng 824 người/km 2, trong đó dân số
nam khoảng 504.048 người chiếm 49,39%, dân số nữ 516.549 người chiếm
50,61%. Tỷ lệ tăng dân số tự nhiên là 1,17%. Tỷ lệ dân số trong độ tuổi lao động
chiếm 61%, tỷ lệ dân số trong độ tuổi lao động đã qua đào tạo chiếm 38,1%, tỷ lệ
dân số làm việc trong khu vực nhà nước chiếm 7,99%, làm việc ngoài nhà nước
chiếm 86,91%, làm việc trong khu vực có vốn đầu tư nước ngoài chiếm 5,10%.
Vĩnh Phúc nằm trong vùng chuyển tiếp giữa vùng gò đồi trung du với vùng
đồng bằng châu thổ sông Hồng. Bởi vậy, địa hình thấp dần từ Tây Bắc xuống Đông
Nam và chia làm 3 vùng sinh thái: Vùng núi có diện tích 655 km 2; vùng trung du có
diện tích 251 km2; vùng đồng bằng có diện tích 335 km 2. Nằm trong vùng khí hậu
nhiệt đới gió mùa, nóng ẩm. Nhiệt độ trung bình năm 23,20 C - 250 C, lượng mưa

12


1.500 - 1.700 ml; độ ẩm trung bình 84 - 85%, số giờ nắng trong năm 1.400 - 1.800
giờ. Riêng vùng núi Tam Đảo có nhiệt độ trung bình 18 o C. Vĩnh Phúc có nhiều con
sông chảy qua, song chế độ thuỷ văn phụ thuộc vào 2 sông chính chảy qua địa phận
Tỉnh, với chiều dài chảy qua sông Hồng là 50 km và sông Lô là 35 km, đem lại lượng

phù sa lớn, mang lại sự màu mỡ cho đất đai, thuận lợi cho phát triển nông nghiệp.
Tài nguyên thiên nhiên của Vĩnh Phúc gồm có: Tài nguyên nước, tài
nguyên đất, tài nguyên rừng, tài nguyên khoáng sản, tài nguyên du lịch. Tài
nguyên nước mặt và nước ngầm: Nguồn nước mặt của tỉnh khá phong phú nhờ
hai sông Hồng và sông Lô cùng hệ thống các sông nhỏ như: sông Phó Đáy,
sông Phan, sông Cà Lồ và hàng loạt hồ chứa (Đại Lải, Xạ Hương, Vân Trục,
Đầm Vạc..) dự trữ khối lượng nước khổng lồ, đủ để phục vụ cho sản xuất và
sinh hoạt của Nhân dân. Nguồn nước ngầm có trữ lượng không lớn, đạt khoảng
01 triệu m3/ngày đêm. Trên địa bàn Tỉnh có 2 nhóm đất chính là: Đất phù sa và
đất đồi núi, tính đến năm 2012: Tổng diện tích 1.231,76 km 2; đất nông nghiệp
865,17 km2 chiếm 69,85%; đất phi nông nghiệp 351,83 km 2 chiếm 28,40%; đất
chưa sử dụng 21,61 km2 chiếm 1,75%. Trong đó, tỉnh Vĩnh Phúc có khoảng
324 km2 đất lâm nghiệp, trong đó rừng sản xuất là 132 km 2, rừng phòng hộ là
40 km2 và rừng đặc dụng là 151 km 2. Tài nguyên rừng là Vườn Quốc gia Tam
Đảo với trên 150 km2, còn có vai trò điều hoà nguồn nước, khí hậu. Khoáng
sản trên địa bàn chỉ bao gồm một số loại như: Đá xây dựng, cao lanh, than bùn.
Nhìn chung, tỉnh Vĩnh Phúc là Tỉnh nghèo về tài nguyên khoáng sản.
Tỉnh Vĩnh Phúc có nhiều tiềm năng để phát triển du lịch tự nhiên và du
lịch nhân văn. Bên cạnh đó Vĩnh Phúc còn có hệ thống sông ngòi, đầm hồ
tương đối phong phú, địa thế đẹp, có thể vừa phục vụ sản xuất, nhất là sản xuất
nông nghiệp, vừa có giá trị cho phát triển du lịch như: Đại Lải, Dị Nậu, Vân
Trục, Đầm Vạc, Đầm Dưng, Thanh Lanh… Tiềm năng tự nhiên cho phát triển
du lịch kết hợp với các giá trị văn hóa truyền thống sẽ là nguồn lực quan trọng
cho phát triển KT - XH và phát triển văn hóa.
Tỉnh Vĩnh Phúc có 09 đơn vị hành chính, gồm thành phố Vĩnh Yên, thị
xã Phúc Yên, các huyện: Bình Xuyên, Lập Thạch, Sông Lô, Tam Dương, Tam
Đảo, Vĩnh Tường, Yên Lạc và có tổng số 137 xã, phường, thị trấn, trong đó có
13 phường; 12 thị trấn và 112 xã. 112 xã này đều thuộc diện xây dựng NTM.

13



Những lợi thế về vị trí địa lý kinh tế, đã đưa tỉnh Vĩnh Phúc trở thành
một bộ phận cấu thành của vành đai phát triển công nghiệp, nông nghiệp các
tỉnh phía Bắc, đem lại cho Vĩnh Phúc những thuận lợi nhất định trong phát
triển KT - XH, hiện nay Vĩnh Phúc nằm trong quy hoạch Vùng kinh tế trọng
điểm Bắc Bộ và vùng Thủ đô. Thủ tướng Chính phủ ban hành Quyết định số
20/QĐ-TTg, Về phê duyệt quy hoạch chung xây dựng đô thị Vĩnh Phúc, đến
năm 2030 và tầm nhìn đến năm 2050. Như vậy, trong tương lai Vĩnh Phúc sẽ
trở thành trung tâm kinh tế lớn của vùng Thủ đô.
* Điều kiện kinh tế
Quá trình tăng trưởng kinh tế của Vĩnh Phúc từ năm 2006 đến năm 2014
gắn liền với sự gia tăng mạnh mẽ của khu vực công nghiệp. Cùng với tốc độ tăng
trưởng nhanh của nền kinh tế, GDP bình quân đầu người trong Tỉnh cũng tăng
khá nhanh. Năm 2007, GDP/người đạt 15,74 triệu đồng, cao hơn mức trung bình
đồng bằng sông Hồng (14,5 triệu đồng) và mức bình quân cả nước (13,421 triệu
đồng). Năm 2008 GDP/người (theo giá thực tế) đạt 22,2 triệu đồng (tương đương
khoảng 1.300 USD), cao gấp 1,29 lần so với mức bình quân cả nước (17,2 triệu
đồng). Như vậy, xét về GDP/người Vĩnh Phúc có điểm xuất phát khá thuận lợi so
với nhiều tỉnh trong cả nước, GDP/người của Tỉnh năm 2007 xếp thứ 11, năm
2008 xếp thứ 6 trong tổng số 63 tỉnh, thành phố của cả nước. (Chỉ thấp hơn thành
phố Hồ Chí Minh, Hà Nội, Bình Dương, Bà Rịa - Vũng Tàu và Cần Thơ). Vấn đề
giải quyết việc làm đạt kết quả cao (trước năm 2006 giải quyết việc làm đạt
khoảng 18.600 người/năm, đến năm 2011 đạt khoảng 23.500 người/năm).
* Điều kiện văn hoá, xã hội
Từ khi tái lập tỉnh Vĩnh Phúc đã đạt được nhiều thành tựu về phát triển văn
hóa, xã hội. Cùng sự phát triển không ngừng về kinh tế, chất lượng cuộc sống của
người dân Vĩnh Phúc cũng ngày càng được cải thiện. Các mặt xã hội có nhiều
chuyển biến tích cực như: Chương trình xoá đói giảm nghèo, giải quyết việc làm,
xoá nhà dột nát…, nhất là giải quyết các vấn đề công bằng xã hội, được Nhân dân

đồng tình. Giáo dục và đào tạo đã đạt được những kết quả quan trọng: Trường lớp
được củng cố và dần ổn định; cơ sở vật chất của nhà trường tiếp tục được tăng
cường. Chất lượng giáo dục có tiến bộ vượt bậc, tỉnh Vĩnh Phúc được công nhận
đạt chuẩn phổ cập trung học cơ sở năm 2001. Trên địa bàn tỉnh có 76 cơ sở đào

14


tạo, trong đó: Có 4 trường đại học; 6 trường cao đẳng; 11 trường trung cấp
chuyên nghiệp và 55 cơ sở có tổ chức dạy nghề (cao đẳng nghề, trung cấp nghề
và trung tâm dạy nghề); quy mô đào tạo hơn 37.000 học sinh, hàng năm có gần
15.000 học sinh tốt nghiệp đáp ứng nhu cầu lao động của các thành phần kinh tế.
Cùng với tốc độ gia tăng dân số, dân số bước vào tuổi lao động ngày càng cao.
Mỗi năm Tỉnh có trên một vạn người bước vào độ tuổi lao động, đây là nguồn
nhân lực dồi dào cho phát triển KT - XH của Tỉnh, đây cũng là nguồn nhân lực bổ
sung cho chương trình xây dựng NTM của Tỉnh.
Công tác chăm sóc sức khoẻ Nhân dân được cải thiện, hệ thống mạng lưới
y tế từ tỉnh đến cơ sở tiếp tục được tăng cường cả về cơ sở vật chất và đội ngũ cán
bộ. Hệ thống văn hóa thông tin và phát thanh, truyền hình từ tỉnh đến cơ sở ngày
càng được hoàn thiện và phát triển. Công tác thông tin tuyên truyền trên các
phương tiện thông tin đại chúng được thực hiện tốt. Các thiết chế văn hóa được
củng cố, các công trình lịch sử, văn hóa được chú trọng.
1.1.3. Thực trạng nông thôn của tỉnh Vĩnh Phúc trước năm 2006
Trước năm 2006, phát huy truyền thống đoàn kết và cách mạng, Đảng
bộ và Nhân dân các dân tộc trong Tỉnh đã vượt qua nhiều khó khăn, phấn đấu
đạt được những thành tựu quan trọng trên tất cả các lĩnh vực. Trong quá trình
thực hiện các nhiệm vụ phát triển KT - XH, lĩnh vực nông nghiệp, nông thôn
luôn được Tỉnh đặc biệt quan tâm. Nghị quyết Đại hội XIV (năm 2005) đã đề
ra 10 chương trình KT - XH, trong đó có 04 chương trình liên quan trực tiếp
đến nông nghiệp, nông thôn. Ban Chấp hành Đảng bộ tỉnh Khoá XIV, đã ban

hành Nghị quyết 10-NQ/TU, Về chuyển dịch cơ cấu sản xuất nông nghiệp.
Trong quá trình tổ chức thực hiện, HĐND, UBND Tỉnh đã ban hành nhiều cơ
chế, chính sách, quan tâm đầu tư nhằm đẩy mạnh chuyển dịch cơ cấu kinh tế
nông nghiệp, đưa tiến bộ khoa học kỹ thuật vào sản xuất, hỗ trợ sản xuất, xây
dựng nông thôn, cải thiện và nâng cao đời sống nông dân. Vì vậy, trong xây
dựng, phát triển nông thôn, đảng bộ, chính quyền và Nhân dân tỉnh Vĩnh Phúc
đã thu được một số kết quả bước đầu, trên những nội dung chủ yếu sau:
Thứ nhất, kinh tế nông thôn Vĩnh Phúc có sự phát triển, góp phần cải
thiện và nâng cao đời sống nông dân. Sản xuất nông, lâm nghiệp, thủy sản

15


trong những năm 2001 - 2005, đạt mức tăng trưởng bình quân 7,1%/năm, trong
đó chăn nuôi tăng 13,02%/năm, thuỷ sản tăng 19,95%/năm. Cơ cấu kinh tế
nông nghiệp chuyển dịch tích cực, tỷ trọng chăn nuôi tăng từ 28,16% năm
2001 lên 43,1% năm 2006. An toàn lương thực được đảm bảo, tiểu thủ công
nghiệp và dịch vụ ở nông thôn khá phát triển.
Thứ hai, kết cấu hạ tầng nông thôn được tăng cường, hệ thống chính trị ở
nông thôn được củng cố, kiện toàn, nâng cao năng lực, hiệu quả hoạt động.
Trong những năm qua, được sự quan tâm của Đảng, Nhà nước và của Tỉnh, sự
nỗ lực, cố gắng của các địa phương và Nhân dân trong Tỉnh, cơ sở hạ tầng nông
thôn được tăng cường đầu tư nâng cấp và xây dựng mới, bộ mặt nông thôn Vĩnh
Phúc ngày càng khởi sắc. Về điện, 100% hộ dân nông thôn có điện phục vụ sinh
hoạt và sản xuất. Về giao thông, trên địa bàn Tỉnh phân bố khá hợp lý, mật độ
đường cao, tạo điều kiện thuận lợi về đi lại, giao lưu, trao đổi kinh tế, văn hoá.
100% số xã đã có trường tiểu học và trung học cơ sở, 14,93% số xã có trường
trung học phổ thông. Riêng giáo dục mầm non ở nông thôn có 149 trường, trong
đó, còn lại 62 trường chưa có nơi đặt giường cho các cháu, lớp mầm non ở nông
thôn vẫn phải học nhờ, học tạm ở nhà dân, đình chùa, nhà văn hoá (11,6%).

100% xã, phường, thị trấn đã có trạm y tế, trong đó 24% số trạm đã đạt chuẩn
Quốc gia; 100% số trạm đã có nhà hộ sinh và y sỹ sản nhi; 100% thôn, làng có
cán bộ y tế hoạt động. Các trạm y tế đảm bảo phục vụ cấp cứu và khám chữa
bệnh cho Nhân dân. Đến hết năm 2005, đã có 7/9 huyện, thành phố, thị xã có hệ
thống cung cấp nước sạch, 11 xã có công trình cấp nước sạch tập trung phục vụ
cho gần 2,4 ngàn hộ. Đã có 63 xã có chợ, nhưng hầu hết chợ NTM được quy
hoạch, kết cấu hạ tầng còn chưa đáp ứng yêu cầu phát triển.
Thứ ba, các lĩnh vực văn hóa, xã hội trên địa bàn nông thôn có nhiều chuyển
biến, nhiều đổi mới. “Toàn tỉnh đã có 3 huyện được nâng cấp, xây dựng trung tâm
văn hoá, thể thao; xây dựng 56 nhà văn hoá xã (41,79%), 716 nhà văn hoá làng,
thôn (52,11%); 5 thư viện huyện (55,56%), 22 thư viện xã (16,42%), 100% số xã
có tủ sách pháp luật và điểm bưu điện văn hoá xã” [66, tr. 10]; “120 xã có hệ thống
loa truyền thanh đến thôn (89,55%); Có 2 nhà truyền thống huyện (22,22%), 3 nhà
truyền thống xã (2,2%) và 297/967 di tích được xếp hạng (92 di tích cấp Quốc gia,
16


205 di tích cấp tỉnh)” [66, tr. 11]. Đã quy hoạch và đầu tư xây dựng các di tích
trọng điểm như Đền Hai Bà Trưng, di tích danh thắng Tây Thiên, Thiền viện Trúc
Lâm Tây Thiên, đền Thính, di chỉ khảo cổ học Đồng Đậu...
Bên cạnh những thành tựu đã đạt được, trong xây dựng phát triển nông
thôn ở tỉnh Vĩnh Phúc trước năm 2006 còn bộc lộ nhiều hạn chế. Cụ thể là:
Thứ nhất, kinh tế nông thôn chậm phát triển, chưa tương xứng với tiềm
năng, chất lượng và sức cạnh tranh của một số lĩnh vực còn thấp. Công nghiệp
chế biến nông sản, tiểu thủ công nghiệp, làng nghề phát triển chậm. Hiệu quả sản
xuất nông nghiệp thấp, khối lượng hàng hoá ít, giá thành cao. Thu nhập của người
lao động khu vực nông nghiệp thấp hơn nhiều so với lao động ở các khu vực kinh
tế khác. Nhu cầu đầu tư cho phát triển nông nghiệp, nông thôn lớn song khả năng
đáp ứng của các nguồn lực còn thấp. Tư duy về kinh tế thị trường của đại bộ phận
nông dân còn nhiều hạn chế. Khu vực nông nghiệp, nông thôn chịu nhiều tác

động của thiên tai, dịch bệnh, rủi ro cao. Đến hết năm 2005, “GDP/người (theo
giá thực tế) toàn Tỉnh đạt 8,2 triệu đồng/người, nhưng 01 lao động nông lâm
nghiệp, thuỷ sản chỉ đạt được 5,2 triệu đồng (tăng hơn 2 lần so với năm 2000), chỉ
bằng 11,85% so với lao động công nghiệp, xây dựng (01 lao động đạt được 43,9
triệu đồng) và 30,23% so với lao động dịch vụ (01 lao động tạo ra 17,2 triệu
đồng)” [66, tr. 20]. “Tỷ lệ lao động nông lâm nghiệp, thủy sản chiếm 60% nhưng
chỉ tạo ra 21,2% giá trị tăng thêm trên địa bàn Tỉnh. Qua đó cho thấy sản xuất
nông lâm nghiệp, thủy sản có hiệu quả thấp hơn so với các ngành kinh tế khác”
[66, tr. 20]. Do thu nhập thấp nên mức độ “tích luỹ để tái phát triển chỉ đạt 9,1%
tổng nhu nhập GDP của hộ/năm (bằng 1/2 tích luỹ của nông dân vùng đồng bằng
sông Hồng). Số hộ nông dân có mức tích luỹ từ 1 - 3 triệu đồng chiếm tỷ lệ 5,5%,
mức tích luỹ từ 3,1 - 10 triệu đồng chiếm 15,5%” [66, tr. 20].
Khoảng cách giàu nghèo giữa khu vực nông thôn và thành thị ngày càng
lớn, tại khu vực nông thôn, người giàu và người nghèo cũng ngày càng cao,
qua khảo sát mức sống hộ gia đình năm 2004 cho thấy: “Mức thu nhập bình
quân đầu người tỉnh Vĩnh Phúc là 423.000 đồng/người/tháng, thấp hơn bình
quân cả nước và khu vực đồng bằng sông Hồng (487,2 ngàn đồng/tháng)” [66,
tr. 21]. Tại nông thôn, bình quân thu nhập của những người nghèo nhất chỉ đạt

17


166 ngàn/tháng, bằng 81,37% so với thành thị; người giàu ở nông thôn có thu
nhập 786.000/ đồng/tháng, bằng 70% so với ở thành thị. Mặt khác, người giàu
ở nông thôn có thu nhập cao hơn 4,73 lần so với người nghèo; số hộ nghèo có
thu nhập từ nông lâm nghiệp, thuỷ sản là chính chiếm 53,88%; số hộ giàu thu
nhập từ nông lâm nghiệp, thuỷ sản chỉ có 22,37%; Riêng đồng bào dân tộc
thiểu số có sự thu nhập rất thấp, 80% từ sản xuất nông lâm nghiệp và chiếm
41% số người nghèo của Tỉnh, chỉ đạt 2,4 triệu đồng/năm [66, tr. 21].
Thứ hai, văn hoá, xã hội nông thôn chưa theo kịp với tốc độ tăng trưởng

kinh tế; chất lượng nguồn nhân lực còn rất thấp so với yêu cầu. Tình trạng thừa
lao động, thiếu việc làm khá phổ biến. Thực hiện nếp sống văn minh trong việc
cưới, việc tang, lễ hội, mừng thọ ở nhiều nơi chưa tốt. Khiếu nại, tố cáo của
Nhân dân còn là vấn đề bức xúc. Đời sống nông dân tuy được cải thiện nhưng
còn nhiều khó khăn. Khoảng cách giàu nghèo giữa nông thôn và thành thị, giữa
nông dân và các nhóm xã hội khác, giữa miền núi, đồng bào dân tộc thiểu số và
miền xuôi... có chiều hướng gia tăng. Theo thống kê đến cuối năm 2005 “Tỉnh
vẫn có gần 45,8 ngàn hộ nghèo (chiếm 18%) [66, tr. 21], trong đó: Khu vực
nông thôn có trên 43,3 ngàn hộ, chiếm 19,67%, số hộ nông thôn và 94,64% tổng
số hộ nghèo; khu vực thành thị có 2,45 ngàn hộ, chiếm 7,16% số hộ thành thị;
số hộ nghèo là đồng bào dân tộc thiểu số là 3,33 ngàn hộ (chiếm 41% tổng số hộ
dân tộc thiểu số). Ngoài ra, còn rất nhiều hộ ở mức cận nghèo, nếu không nâng
cao năng lực sản xuất thì trong một vài năm tới sẽ tái nghèo. Qua điều tra cho
thấy nguyên nhân dẫn đến tình trạng nghèo của các hộ là do “thiếu vốn sản xuất
là 41%; thiếu đất sản xuất là 15%; thiếu kiến thức, kinh nghiệm sản xuất là 14%;
gia đình có người ốm đau, bệnh tật, già cả là 14%; thiếu lao động, đông người
ăn theo là 12%; tai nạn, rủi ro, thiên tai là 3%; gia đình có người mắc các tệ nạn
xã hội, lười lao động: 1%” [66, tr. 20]. Công tác đào tạo, bồi dưỡng, nâng cao
nhận thức, dạy nghề cho nông dân; công tác thông tin, nhất là về luật pháp,
chính sách, thị trường tiêu thụ sản phẩm nông nghiệp chưa được coi trọng.
Những giải pháp về giải quyết việc làm, tăng thu nhập cho nông dân hiệu quả
chưa cao. Phát triển các lĩnh vực y tế, văn hoá, giáo dục ở nông thôn, nhất là bậc
học mầm non, xây dựng thiết chế văn hoá làng, xã, bảo tồn và phát triển văn hoá
truyền thống chưa được quan tâm đúng mức.

18


Thứ ba, kết cấu hạ tầng KT - XH còn nhiều bất cập, hoạt động của hệ
thống chính trị có nơi chưa đáp ứng yêu cầu. Năng lực lãnh đạo, chỉ đạo và tổ

chức thực hiện của hệ thống chính trị nói chung, nhất là ở cơ sở nhiều mặt
chưa đáp ứng yêu cầu; khả năng tham mưu, đề xuất, cụ thể hoá chủ trương,
chính sách của Đảng, Nhà nước và của Tỉnh còn yếu. Chất lượng đội ngũ cán
bộ quản lý, chuyên môn, nghiệp vụ, đội ngũ doanh nhân còn nhiều hạn chế,
chưa đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ.
Thực trạng trên, đòi hỏi Đảng bộ, chính quyền và Nhân dân tỉnh Vĩnh
Phúc tiếp tục quán triệt đường lối của Đảng, phát huy tối đa thế mạnh của địa
phương. Chính vì vậy, việc thực hiện các chương trình, nội dung lớn giải pháp
đồng bộ và sự vào cuộc thực sự của các cấp, các ngành về phát triển nông
nghiệp, nông thôn, nâng cao đời sống nông dân và xây dựng NTM là nội dung,
nhiệm vụ quan trọng, đặc biệt trong chiến lược phát triển của Tỉnh, đáp ứng
yêu cầu phát triển nhanh, bền vững.
1.1.4. Chủ trương, chính sách của Đảng và Nhà nước về xây dựng
nông thôn mới
Đảng Cộng sản Việt Nam từ khi thành lập đến nay luôn khẳng định tầm
quan trọng của vấn đề nông nghiệp, nông thôn và nông dân. Trong quá trình
lãnh đạo sự nghiệp đổi mới đất nước, Đảng ta tiếp tục khẳng định sự nghiệp
CNH, HĐH nông thôn là một trong những nội dung, nhiệm vụ cơ bản của
CNH, HĐH đất nước.
Chủ tịch Hồ Chí Minh là vị lãnh tụ có tầm nhìn sâu rộng, Người đã khẳng
định vị trí, vai trò hết sức to lớn của sản xuất nông nghiệp đối với sự nghiệp phát
triển kinh tế và cải thiện đời sống Nhân dân trong thời kỳ quá độ đi lên CNXH ở
Việt Nam. Ngay từ khi Cách mạng tháng Tám thành công, trong Thư gửi điền
chủ nông gia Việt Nam ngày 11/4/1946, Chủ tịch Hồ Chí Minh chỉ rõ: Việt
Nam là một nước sống về nông nghiệp. Nền kinh tế của ta lấy canh nông làm
gốc. Trong công cuộc xây dựng nước nhà, Chính phủ mong vào nông dân, trông
cậy vào nông nghiệp, một phần lớn. Nông dân ta giàu thì nước ta giàu. Nông
nghiệp ta thịnh, thì nước ta thịnh. Từ đó, Người khẳng định: Muốn phát triển
công nghiệp phát triển kinh tế nói chung phải lấy việc phát triển nông nghiệp


19


làm gốc, làm chính. Chính vì vậy, Người rất quan tâm, dành nhiều công sức để
nghiên cứu, chỉ đạo phát triển nông nghiệp.
Tại Đại hội III (9/1960) Đảng đã khẳng định: Trong nền kinh tế quốc dân
miền Bắc tiến lên chủ nghĩa xã hội, chúng ta phải đi từ nông nghiệp, phải dựa vào
lực lượng của nông dân lao động và phát huy tính tích cực cách mạng của họ.
Đến Đại hội IV (12/1976) Đảng đã xác định: Lấy phát triển nông nghiệp và công
nghiệp nhẹ, làm cơ sở để ưu tiên phát triển công nghiệp nặng một cách hợp lý.
Tại Đại hội V (3/1982) Đảng khẳng định: Nông nghiệp là mặt trận hàng đầu và
chỉ rõ quan điểm xây dựng và phát triển công nghiệp nặng phải phục vụ thiết thực
và có hiệu quả cho nông nghiệp và hàng tiêu dùng. Tại Đại hội VI (12/1986), đây
là đại hội có bước ngoặt trong đổi mới tư duy của Đảng về CNXH nói chung, về
nông nghiệp, nông thôn nói riêng. Trên cơ sở những thành tựu đã đạt được cùng
với những bài học chưa thành công được rút ra trong suốt cả thời kỳ tập trung,
quan liêu, bao cấp (1976 - 1986), đặc biệt, xuất phát từ lợi ích của Nhân dân lao
động lên hàng đầu, Đại hội xác định: Trong nhưng năm tới chúng ta thực sự lấy
nông nghiệp làm mặt trận hàng đầu, ra sức đẩy mạnh sản xuất hàng tiêu dùng và
hàng xuất khẩu. Công nghiệp nặng trong bước này, hướng trước hết vào phục vụ
nông nghiệp, công nghiệp nhẹ, với quy mô và trình độ thích hợp. Các Đại hội
VII, Đại hội VIII, Đại hội IX và Đại hội X cũng như nhiều nghị quyết, chỉ thị, hội
nghị Trung ương trong các nhiệm kỳ, đều thể hiện rõ chủ trương chiến lược nhất
quán đối với nông nghiệp, nông thôn và nông dân, từng bước xác định ý nghĩa và
tầm quan trọng của việc phát triển toàn diện kinh tế nông nghiệp, tiến đến khẳng
định CNH, HĐH nông nghiệp và kinh tế nông thôn, đưa nông nghiệp và kinh tế
nông thôn lên sản xuất lớn là nhiệm vụ cực kỳ quan trọng, cả trước mắt và lâu
dài. Văn kiện Đại hội X (4/2006) của Đảng nhấn mạnh: Hiện nay và trong nhiều
năm tới, vấn đề nông nghiệp, nông dân và nông thôn có tầm chiến lược đặc biệt
quan trọng, phải luôn coi trọng CNH, HĐH nông nghiệp, nông thôn hướng tới

xây dựng một nền nông nghiệp hàng hóa lớn, đa dạng, phát triển nhanh và bền
vững, có năng suất, chất lượng và khả năng cạnh tranh cao.
Cụ thể hóa quan điểm của Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ X của
Đảng, tại Hội nghị lần thứ bảy Ban Chấp hành Trung ương Đảng đã ban hành
Nghị quyết số 26-NQ/TW, Về nông nghiệp, nông dân, nông thôn, đã tiếp tục

20


khẳng định những quan điểm, mục tiêu nhiệm vụ và giải pháp xây dựng nền
nông nghiệp toàn diện theo hướng hiện đại, bền vững, sản xuất hàng hóa lớn,
có năng suất, chất lượng, hiệu quả cao. Nghị quyết số 26-NQ/TW đã đánh giá
kết quả “sau hơn 20 năm thực hiện đường lối đổi mới, dưới sự lãnh đạo của
Đang, nông nghiệp, nông dân, nông thôn nước ta đã đạt được thành tựu khá
toàn diện và to lớn” [2, tr. 1], bộ mặt nhiều vùng nông thôn thay đổi, đời sống
vật chất và tinh thần của Nhân dân ở hầu hết các vùng nông thôn ngày càng
được cải thiện. Hệ thống chính trị ở nông thôn được củng cố và tăng cường,
dân chủ cơ sở được phát huy. An ninh chính trị, trật tự an toàn xã hội được giữ
vững. Vị thế chính trị của giai cấp nông dân ngày càng được nâng cao.
Tuy nhiên, những thành tựu đạt được chưa tương xứng với tiềm năng,
lợi thế và chưa đồng đều giữa các vùng. Nông nghiệp phát triển còn kém bền
vững, chuyển dịch cơ cấu kinh tế và đổi mới sản xuất nông nghiệp còn chậm,
phổ biến vẫn là sản xuất nhỏ, phân tán; năng suất, chất lượng, giá trị gia tăng
nhiều mặt hàng thấp. Chưa thúc đẩy mạnh mẽ chuyển dịch cơ cấu kinh tế và
lao động ở nông thôn. Nông nghiệp và nông thôn phát triển thiếu quy hoạch,
kết cấu hạ tầng KT - XH còn yếu kém, môi trường ngày càng ô nhiễm; năng
lực thích ứng, đối phó với thiên tai còn nhiều hạn chế. Đời sống vật chất và
tinh thần của người dân nông thôn còn thấp, tỷ lệ hộ nghèo cao, nhất là vùng
đồng bào dân tộc; chênh lệch giàu, nghèo giữa nông thôn và thành thị, giữa các
vùng còn lớn, phát sinh nhiều vấn đề xã hội bức xúc.

Trước thực trạng nêu trên, đặt ra yêu cầu phải tiếp tục xây dựng và phát
triển nông nghiệp, nông dân và nông thôn nhằm không ngừng nâng cao đời
sống vật chất, tinh thần của dân cư nông thôn. Xây dựng nền nông nghiệp phát
triển toàn diện theo hướng hiện đại, xã hội nông thôn ổ định, giàu bản sắc văn
hóa dân tộc. Xây dựng giai cấp nông dân, củng cố liên minh công, nông, trí
vững mạnh, tạo nền tảng KT - XH và chính trị vững chắc cho sự nghiệp CNH,
HĐH xây dựng và bảo vệ vững chắc Tổ quốc Việt Nam XHCN.
Nghị quyết chỉ rõ các quan điểm “Nông nghiệp, nông dân, nông thôn có
vị trí chiến lược trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. Các vấn đề nông
nghiệp, nông dân, nông thôn phải được giải quyết đồng bộ, gắn với quá trình
đẩy mạnh CNH, HĐH đất nước” [2, tr. 1]. Xây dựng NTM gắn với xây dựng

21


các cơ sở công nghiệp, dịch vụ và phát triển đô thị theo quy hoạch. Phát triển
nông nghiệp, nông thôn và nâng cao đời sống vật chất, tinh thần của nông dân.
Giải quyết vấn đề nông nghiệp, nông dân, nông thôn là nhiệm vụ của cả hệ
thống chính trị và toàn xã hội.
Mục tiêu tổng quát: Xây dựng NTM có kết cấu hạ tầng KT - XH hiện
đại; cơ cấu kinh tế và các hình thức tổ chức sản xuất hợp lý; “xã hội nông thôn
ổn định, giàu bản sắc văn hoá dân tộc” [2, tr. 2]; dân trí được nâng cao; hệ
thống chính trị ở nông thôn được tăng cường. Củng cố liên minh công - nông trí vững mạnh, tạo nền tảng phát triển KT - XH và chính trị vững chắc cho sự
nghiệp CNH, HĐH, xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam XHCN.
Mục tiêu đến năm 2020: “Tốc độ tăng trưởng nông, lâm, thuỷ sản đạt 3,5
- 4%/năm” [2, tr. 2]; sử dụng đất nông nghiệp hiệu quả; “nâng cao thu nhập của
dân cư nông thôn gấp trên 2,5 lần so với hiện nay. Lao động nông nghiệp còn
khoảng 30% lao động xã hội, tỷ lệ lao động nông thôn qua đào tạo đạt trên 50%;
số xã đạt tiêu chuẩn NTM khoảng 50%” [2, tr. 2]. Phát triển đồng bộ kết cấu hạ
tầng nông thôn, như hệ thống thuỷ lợi, giao thông thông suốt bốn mùa tới hầu

hết các xã và cơ bản có đường ôtô tới các thôn, đảm bảo cơ bản điều kiện học
tập, chữa bệnh, sinh hoạt văn hoá, thể dục thể thao ở hầu hết các vùng nông
thôn. Nâng cao chất lượng cuộc sống của dân cư nông thôn; nâng cao trình độ
và vị thế của giai cấp nông dân; nâng cao chất lượng môi trường nông thôn.
Một số nhiệm vụ giải pháp xây dựng và phát triển nông nghiệp, nông
dân, nông thôn
Thứ nhất, xây dựng nền nông nghiệp toàn diện theo hướng hiện đại,
đồng thời phát triển mạnh công nghiệp và dịch vụ ở nông thôn.
Thứ hai, xây dựng kết cấu hạ tầng KT - XH nông thôn gắn với phát triển
các đô thị.
Thứ ba, nâng cao đời sống vật chất, tinh thần của dân cư nông thôn, nhất
là vùng khó khăn.
Thứ tư, đổi mới và xây dựng các hình thức tổ chức sản xuất, dịch vụ có
hiệu quả ở nông thôn.

22


Thứ năm, phát triển nhanh nghiên cứu, chuyển giao và ứng dụng khoa
học, công nghệ, đào tạo nguồn nhân lực, tạo đột phá để hiện đại hoá nông
nghiệp, công nghiệp hoá nông thôn.
Thứ sáu, đổi mới mạnh mẽ cơ chế, chính sách để huy động cao các
nguồn lực, phát triển nhanh kinh tế nông thôn, nâng cao đời sống vật chất, tinh
thần của nông dân.
Thứ bảy, tăng cường sự lãnh đạo của Đảng, quản lý của Nhà nước, phát huy
sức mạnh của các đoàn thể chính trị, xã hội ở nông thôn, nhất là hội nông dân.
Những chủ trương, quan điểm về xây dựng NTM trên đây của Đảng là cơ sở
quan trọng, tạo tiền đề trực tiếp, xuyên suốt để Đảng bộ tỉnh Vĩnh Phúc lãnh đạo
xây dựng NTM đúng hướng, hiệu quả, phù hợp với đặc điểm của địa phương.
1.2. Chủ trương của Đảng bộ tỉnh Vĩnh Phúc về xây dựng nông thôn

mới (2006 – 2014)
1.2.1. Chủ trương, tư tưởng chỉ đạo xây dựng nông thôn mới
Tỉnh Vĩnh Phúc có truyền thống là tỉnh đi đầu trong đổi mới cơ chế phát
triển nông nghiệp như: Năm 1966, Tỉnh ủy có Nghị quyết số 68-NQ/TU, Về
Khoán hộ do Bí thư Kim Ngọc khởi xướng; năm 1979 Về Khoán cây màu; năm
1983, có nghị quyết số 18-NQ/TU Về khoán đồi rừng; năm 1987, Về Khoán 10
và tại Đại hội lần thứ XIV năm 2005, trong phương hướng nhiệm vụ năm năm
2005 - 2010 đã đưa ra một số nhiệm vụ giải pháp, trong đó, “quan tâm xây dựng
nông thôn mới, tạo sự phát triển đồng đều giữa các vùng, các địa phương trong
tỉnh” [31, tr. 45] là nội dung xây dựng NTM theo hướng hiện đại, văn minh, bảo
tồn các giá trị văn hóa truyền thống, nhằm tạo sự phát triển đồng đều giữa các
vùng, các địa phương trong Tỉnh, tăng thu nhập và điều kiện sống cho người dân
nông thôn. Tập trung xây dựng NTN như quy hoạch các trung tâm xã các cụm
KT - XH. “Phát triển kết cấu hạ tầng nông thôn, đặc biệt là giao thông, điện nước,
công trình thủy lợi… bảo đảm các điều kiện để phát triển bền vững” [31, tr. 45].
Tại Hội nghị lần thứ tư, Ban Chấp hành Đảng bộ tỉnh Vĩnh Phúc Khoá
XIV đã ban hành Nghị quyết số 03-NQ/TU ngày 27/12/2006, Về phát triển
nông nghiệp, nông dân, nâng cao đời sống nông dân giai đoạn 2006 - 2010,
định hướng đến năm 2020, Nghị quyết đã chỉ rõ: Xây dựng, phát triển nông
thôn là nhiệm vụ đặc biệt quan trọng trong chiến lược phát triển KT - XH của

23


Tỉnh. Chủ trương trên đây đã khẳng định vị trí vai trò to lớn của sự nghiệp xây
dựng, phát triển nông thôn của tỉnh Vĩnh Phúc; là sự cụ thể hóa quan điểm xây
dựng nông thôn theo tinh thần Nghị quyết Đại hội X (4/2006) của Đảng. Đồng
thời, phản ánh đúng thực trạng nông thôn Vĩnh Phúc trong năm 2006 và những
năm trước đó.
Xây dựng NTM là nhiệm vụ của cả hệ thống chính trị và toàn xã hội,

“trước hết phải phát triển lực lượng sản xuất, trong đó chú trọng phát huy
nguồn lực con người” [67, tr. 4], tạo điều kiện cho phát triển nông nghiệp,
nông thôn; xây dựng NTM phải giải quyết tốt mối quan hệ giữa tăng trưởng
kinh tế với ổn định xã hội, bảo vệ môi trường, giảm nhẹ thiên tai; xây dựng xã
hội nông thôn ổn định, có đời sống văn hoá phong phú, đậm đà bản sắc dân
tộc, “xây dựng NTM nhằm giải quyết việc làm, nâng cao đời sống của nông
dân, thu hẹp khoảng cách giàu nghèo giữa nông thôn và thành thị” [67, tr. 4].
Kết hợp chặt chẽ giữa xây dựng NTM với giữ vững an ninh chính trị, đảm bảo
trật tự an toàn xã hội, củng cố quốc phòng an ninh.
Quá trình xây dựng NTM phải quán triệt tư tưởng chỉ đạo: “Giảm đóng
góp, tăng đầu tư, phát triển nông thôn toàn diện” [67, tr. 4]. Xây dựng NTM là
công cuộc đổi mới toàn diện nông thôn theo hướng văn minh, hiện đại, nên cần
nhiều nguồn đầu tư, bao gồm nguồn đầu tư của Trung ương, địa phương và
trong Nhân dân. Trong điều kiện đầu tư của Trung ương còn hạn hẹp, tích lũy
từ nội bộ địa phương còn hạn chế, thì tất yếu phải huy động sự đóng góp của
Nhân dân. Tuy nhiên, sự đóng góp đó phải được tính toán, phù hợp với năng
lực và có lộ trình hợp lý.
1.2.2. Mục tiêu xây dựng nông thôn mới
Mục tiêu: “Xây dựng NTM phải khai thác tối đa tiềm năng, lợi thế về vị
trí địa lý, nâng cao chất lượng nguồn nhân lực, thu hút trí tuệ của đội ngũ trí
thức” [67, tr. 5]; tinh thần cách mạng, tính cần cù, sáng tạo của nông dân trong
phát triển KT - XH nông thôn theo hướng CNH, HĐH. Tăng thu nhập từ sản
xuất nông nghiệp ở nông thôn. “Xây dựng NTM giàu, đẹp, văn minh, có hệ
thống kết cấu hạ tầng KT - XH phát triển, hệ thống chính trị vững mạnh, xã hội
ổn định, an ninh quốc phòng được giữ vững, trật tự an toàn xã hội, môi trường

24


được đảm bảo; đời sống vật chất, văn hoá, tinh thần của người dân nông thôn

được nâng cao” [67, tr. 5].
“Tốc độ sản xuất nông nghiệp tăng trên 5,5%/năm; tỷ trọng nông lâm
nghiệp, thuỷ sản trong cơ cấu kinh tế của tỉnh tăng 10 - 12%; tỷ trọng chăn nuôi,
thuỷ sản trong cơ cấu nông lâm nghiệp, thuỷ sản tăng trên 50%; GDP bình quân
đầu người đạt 1.300 - 1.500 USD, trong đó, khu vực nông thôn đạt trên 600
USD. Mỗi năm giải quyết việc làm 24 - 25 nghìn lao động” [67, tr. 6]. Tỷ lệ lao
động nông lâm nghiệp, thuỷ sản dưới 48%. Tỷ lệ lao động qua đào tạo 40 45%, trong đó, 30% trở lên lao động nông nghiệp, nông thôn được đào tạo. Tỷ
lệ hộ nghèo giảm bình quân 2%/năm trở lên; đường giao thông nông thôn được
kiên cố hoá 80% trở lên; hoàn thành phổ cập giáo dục trung học phổ thông;
70% trường mầm non, 90% trường tiểu học, 70% trường trung học cơ sở,
trung học phổ thông đạt chuẩn quốc gia; 100% số xã đạt chuẩn quốc gia về y
tế; 80% học sinh được khám sức khoẻ hàng năm, 90% người cao tuổi, tàn tật
được quản lý sức khỏe. 100% xã xây dựng quỹ sự nghiệp y tế và khám chữa
bệnh miễn phí cho đối tượng chính sách, trẻ em dưới 6 tuổi; 85% gia đình đạt
tiêu chuẩn gia đình văn hoá, 80% làng đạt tiêu chuẩn văn hoá. 100% các xã,
thôn, bản có nhà văn hoá, khu hoạt động thể dục, thể thao và vui chơi giải trí
cho trẻ em. Xây dựng 20 làng văn hoá trọng điểm. Giữ vững an ninh chính trị,
trật tự an toàn xã hội trên địa bàn. Tỷ lệ tổ chức cơ sở đảng đạt danh hiệu trong
sạch, vững mạnh đạt 80% trở lên; bộ máy chính quyền, các tổ chức chính trị,
xã hội hoạt động có chất lượng, hiệu quả.
Mục tiêu đến năm 2020
Phấn đấu tốc độ tăng trưởng kinh tế gấp 1,5 lần bình quân chung cả
nước; thúc đẩy hỗ trợ phát triển kinh tế các vùng khó khăn. Phấn đấu đạt mục
tiêu trở thành thành phố Vĩnh Phúc trực thuộc Trung ương vào năm 2020. Xây
dựng nền nông nghiệp hàng hoá gắn với công nghiệp chế biến; nâng cao chất
lượng, giá trị và sức cạnh tranh của hàng hoá nông sản; tăng thu nhập cho nông
dân. Phát triển nguồn nhân lực, đảm bảo quốc phòng, an ninh, an sinh xã hội
và an toàn môi trường. “Trong giai đoạn 2011 - 2020 phấn đấu đạt nhịp độ
tăng trưởng GDP trên 13%/năm; GDP bình quân đầu người đến năm 2015 đạt
3.000 USD; năm 2020 đạt 5.500 - 6.000 USD. Đến năm 2020: lao động trong

25


×