Tải bản đầy đủ (.doc) (100 trang)

LUẬN văn THẠC sĩ ĐẢNG LÃNH đạo kết hợp sức MẠNH dân tộc với sức MẠNH THỜI đại TRONG sự NGHIỆP bảo vệ tổ QUỐC GIAI đoạn 1996 2006

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (699.03 KB, 100 trang )

DANH MỤC CHỮ CÁI VIẾT TẮT
Chữ viết đầy đủ
Ban Chấp hành Trung ương
Bảo vệ Tổ quốc
Chủ nghĩa đế quốc
Chủ nghĩa xã hội
Công nghiệp hóa, hiện đại hóa
Nhà xuất bản Chính trị Quốc gia
Nhà xuất bản Quân đội nhân dân
Quân đội nhân dân Việt Nam
Sức mạnh dân tộc
Sức mạnh thời đại
Trang
Xã hội chủ nghĩa

Chữ viết tắt
BCHTW
BVTQ
CNĐQ
CNXH
CNH, HĐH
Nxb CTQG
Nxb, QĐND
QĐNDVN
SMDT
SMTĐ
Tr
XHCN


MỤC LỤC


Trang
MỞ ĐẦU
Chương 1 CHỦ TRƯƠNG VÀ SỰ CHỈ ĐẠO CỦA ĐẢNG

3

VỀ KẾT HỢP SỨC MẠNH DÂN TỘC VỚI SỨC
MẠNH THỜI ĐẠI TRONG SỰ NGHIỆP BẢO VỆ
8

1.1.

TỔ QUỐC TỪ NĂM 1996 ĐẾN NĂM 2006
Yêu cầu khách quan về kết hợp sức mạnh dân tộc với

8

1.2.

sức mạnh thời đại trong bảo vệ Tổ quốc
Chủ trương của Đảng về kết hợp sức mạnh dân tộc với
sức mạnh thời đại trong sự nghiệp bảo vệ Tổ quốc
(1996 - 2006)
Đảng chỉ đạo kết hợp sức mạnh dân tộc với sức mạnh

22

thời đại trong sự nghiệp bảo vệ Tổ quốc (1996 - 2006)
Chương 2 NHẬN XÉT VÀ KINH NGHIỆM
2.1.

Nhận xét quá trình Đảng lãnh đạo kết hợp sức mạnh

34
50

1.3.

dân tộc với sức mạnh thời đại trong sự nghiệp bảo vệ
2.2.

Tổ quốc (1996 - 2006)
Kinh nghiệm từ quá trình Đảng lãnh đạo kết hợp sức

50

mạnh dân tộc với sức mạnh thời đại trong sự nghiệp
bảo vệ Tổ quốc (1996 - 2006)
KẾT LUẬN
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
PHỤ LỤC

60
80
82
88

2


MỞ ĐẦU

1. Lý do chọn đề tài
Kết hợp SMDT với SMTĐ là quan điểm tư tưởng lớn của Chủ tịch Hồ
Chí Minh và Đảng Cộng sản Việt Nam, là quy luật và bài học kinh nghiệm lịch
sử của cách mạng nước ta. Ngay từ khi ra đời, với cương lĩnh, đường lối đúng
đắn Đảng ta đã xác định rõ cách mạng Việt Nam là một bộ phận của cách mạng
thế giới, kết hợp SMDT với SMTĐ tạo thành sức mạnh tổng hợp cho cách mạng
Việt Nam là vấn đề tất yếu khách quan. Nhờ khéo kết hợp SMDT với SMTĐ mà
Đảng và chủ tịch Hồ Chí Minh đã lãnh đạo cách mạng Việt Nam đi từ thắng lợi
này đến thắng lợi khác, đánh thắng thực dân, đế quốc có sức mạnh về kinh tế và
quân sự gấp nhiều lần, bảo vệ vững chắc thành quả cách mạng.
Ngày nay, sự nghiệp BVTQ Việt Nam XHCN có những thuận lợi và
khó khăn, thách thức mới. Cuộc cách mạng khoa học, công nghệ phát triển
như vũ bão và xu thế toàn cầu hóa kinh tế đang diễn ra sôi động, những tác
động, ảnh hưởng xấu từ sự sụp đổ của CNXH ở Đông Âu và Liên Xô cùng
với những hoạt động chống phá của CNĐQ thông qua chiến lược “diễn biến
hòa bình”, bạo loạn lật đổ đã đặt nhiệm vụ BVTQ của nước ta đứng trước
những nội dung, yêu cầu mới. Đặc biệt, hiện nay trước sự biến đổi nhanh
chóng, mau lẹ của tình hình thế giới, khu vực cùng với tình hình trong nước
còn tồn tại nhiều khó khăn, thách thức, nảy sinh nhiều vấn đề tiêu cực như:
sức cạnh tranh của nền kinh tế còn thấp, sự phân hóa giàu nghèo, phân hóa
giai cấp, phân tầng xã hội đang diễn ra khá mạnh, các tiêu cực và tệ nạn xã
hội vẫn đang diễn biến phức tạp, những nhân tố gây mất ổn định chính trị, xã
hội vẫn tồn tại… cùng với yêu cầu mới về mục tiêu BVTQ ngày càng rộng
lớn, tính chất phức tạp hơn, đặt ra yêu cầu mới đổi mới việc kết hợp SMDT
với SMTĐ trong sự nghiệp BVTQ Việt Nam XHCN.
Bối cảnh quốc tế, khu vực và trong nước đang đòi hỏi nhiều vấn đề lý
luận và thực tiễn của công việc đổi mới nói chung, của quá trình kết hợp
SMDT với SMTĐ trong sự nghiệp BVTQ nói riêng cần được tổng kết đánh giá
đúng thành tựu, hạn chế và nguyên nhân để rút ra những kinh nghiệm vận dụng
vào công cuộc xây dựng CNXH và bảo vệ Tổ quốc hiện nay.

3


Với lý do trên tác giả chọn đề tài “Đảng lãnh đạo kết hợp sức mạnh
dân tộc với sức mạnh thời đại trong sự nghiệp bảo vệ Tổ quốc từ năm 1996
đến năm 2006” làm đề tài luận văn Thạc sĩ lịch sử, chuyên ngành Lịch sử
Đảng Cộng sản Việt Nam.
2. Tình hình nghiên cứu có liên quan đến đề tài
Nhóm các công trình nghiên cứu về vị trí, vai trò của SMDT, SMTĐ
và mối quan hệ giữa SMDT với SMTĐ:
Nguyễn Tuấn Dũng (1997), “Góp phần nhận thức bài học kết hợp sức
mạnh của dân tộc với sức mạnh của thời đại trong điều kiện hiện nay”, Tạp
chí Giáo dục lý luận chính trị quân sự, số 2/1997. Viện Nghiên cứu chủ nghĩa
Mác - Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh (1998), Tư tưởng Hồ chí Minh về kết
hợp sức mạnh dân tộc và sức mạnh thời đại. Lê Mậu Hãn (2001), Sức mạnh
dân tộc của cách mạng Việt Nam dưới ánh sáng tư tưởng Hồ Chí Minh, Nxb
CTQG, Hà Nội. Lê Văn Quang, “Thời cơ, nguy cơ và việc phát huy sức mạnh
thời đại trong bảo vệ Tổ quốc xã hội chủ nghĩa”, Tạp chí Giáo dục lý luận
chính trị quân sự, số 4/2004. Ngô Đăng Tri, “Sự kết hợp sức mạnh dân tộc
với sức mạnh thời đại trong cách mạng tháng Tám và ý nghĩa thực tiễn của
nó”, Tạp chí Lý luận chính trị, số 9/2005. Trịnh Văn Tuấn (2006), Đảng
Cộng sản Việt Nam kết hợp sức mạnh dân tộc với sức mạnh thời đại trong
cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước (1965 - 1973), Luận văn thạc sĩ chuyên
ngành Lịch sử Đảng Cộng sản Việt Nam, Học viện Chính trị Quân sự.
Nguyễn Dy Niên (2006), Phát huy cao độ nội lực, ra sức khai thác ngoại lực
kết hợp sức mạnh dân tộc với sức mạnh thời đại tạo sức mạnh tổng hợp để
phát triển đất nước, Tham luận tại Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ X, Nxb
CTQG, Hà Nội. Nguyễn Văn Sáu (2007), Đảng Cộng sản Việt Nam lãnh đạo
phát huy nội lực trong xây dựng, phát triển nền kinh tế độc lập tự chủ từ năm
1996 đến năm 2006, Luận văn thạc sĩ chuyên ngành Lịch sử Đảng Cộng sản

Việt Nam, Học viện Chính trị quân sự, Hà Nội. Bùi Đình Phong (2009), Tư
tưởng Hồ Chí Minh về kết hợp sức mạnh dân tộc với sức mạnh thời đại, Nxb
Công an nhân dân, Hà Nội. Trần Nguyên Việt (2009), Kết hợp sức mạnh dân
tộc và những thành tựu thế giới đương đại, Hội Khoa học xã hội. Nguyễn Văn
4


Dưỡng (2009), Tư tưởng về kết hợp sức mạnh dân tộc với sức mạnh thời đại
trong Di chúc Bác Hồ, Nxb QĐND, Hà Nội. Nguyễn Mạnh Hùng, “Quan
điểm của Đảng Cộng sản Việt Nam về đấu tranh quốc phòng thời kỳ hội
nhập”, Tạp chí Quốc phòng toàn dân, số tháng 8/2010. Nguyễn Chí Vịnh,
“Quan điểm của Đảng ta về chủ động và tích cực hội nhập quốc tế trong công
tác đối ngoại quốc phòng” Tạp chí Quốc phòng toàn dân, số tháng 7/2012.
Những công trình nêu trên đã chỉ ra sự cần thiết phải kết hợp SMDT
với SMTĐ trong sự nghiệp cách mạng của Đảng. Với nhiều cách tiếp cận, các
tác giả đã luận giải sáng tỏ những vấn đề lý luận và thực tiễn về các vấn đề
như: SMDT, SMTĐ là gì ? phân định rõ vị trí, vai trò của SMDT, SMTĐ và
mối quan hệ giữa SMDT với SMTĐ trong sự nghiệp cách mạng. Vì vậy, đây
là nguồn tư liệu quý, giúp tác giả có thêm cơ sở lý luận và thực tiễn để nghiên
cứu một cách có hệ thống quá trình Đảng lãnh đạo kết hợp SMDT với SMTĐ
trong sự nghiệp BVTQ từ năm 1996 đến năm 2006.
Nhóm các công trình nghiên cứu về sự kết hợp SMDT với SMTĐ
trong sự nghiệp BVTQ:
Phạm Trang, “Kết hợp sức mạnh dân tộc với sức mạnh thời đại trong
sự nghiệp bảo vệ Tổ quốc hiện nay”, Tạp chí Quốc phòng toàn dân, số
7/2001. Mạc Thuận, “Phát huy sức mạnh tổng hợp lấy lực lượng vũ trang làm
nòng cốt, thực hiện thắng lợi nhiệm vụ bảo vệ Tổ quốc”, Tạp chí Giáo dục lý luận
chính trị quân sự, số 5/2003. Viện Khoa học xã hội nhân văn quân sự, Kết hợp
sức mạnh dân tộc với sức mạnh thời đại trong sự nghiệp bảo vệ Tổ quốc xã hội
chủ nghĩa hiện nay và Bảo vệ Tổ quốc trong tình hình mới, một số vấn đề lý luận

và thực tiễn, Nxb QĐND, Hà Nội (2003). Tô Xuân Sinh (2004), “Tăng cường
việc kết hợp sức mạnh dân tộc với sức mạnh thời đại trong sự nghiệp bảo vệ Tổ
quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa hiện nay”, Tạp chí Giáo dục lý luận chính trị
quân sự, số 3/2004. Trần Quang Cơ, “Kết hợp sức mạnh dân tộc với sức mạnh
thời đại trong kháng chiến chống Mỹ cứu nước và mấy vấn đề đặt ra trong sự
nghiệp bảo vệ Tổ quốc hiện nay”, Tạp chí Quốc phòng toàn dân số 4/2005.
Dương Văn Lượng (2006), Sức mạnh thời đại trong xây dựng và bảo vệ Tổ quốc

5


xã hội chủ nghĩa hiện nay, Báo cáo tổng kết đề tài Viện Khoa học xã hội nhăn văn
Quân sự - Bộ Quốc phòng, Hà Nội. Hoàng Xuân Lâm, “Kết hợp kinh tế với quốc
phòng - an ninh trong thời kỳ hội nhập quốc tế”, Tạp chí Quốc phòng toàn dân, số
tháng 8/2010. Viện Khoa học xã hội Nhân văn quân sự (2010), Sự phát triển quan
điểm lý luận bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa, Nxb Chính trị quốc gia,
Hà Nội. Nguyễn Bá Dương, Góp phần phát triển tư duy mới về bảo vệ Tổ quốc,
Nxb Quân đội nhân dân, Hà Nội 2013.
Những công trình khoa học được công bố trên đã đề cập dưới những
góc độ khác nhau về kết hợp SMDT với SMTĐ. Nhưng cho đến nay chưa
có một công trình khoa học nào đi vào nghiên cứu chuyên sâu, riêng biệt về
quan điểm và chủ trương của Đảng đối với sự kết hợp SMDT với SMTĐ
trong sự nghiệp BVTQ từ năm 1996 đến năm 2006. Tuy vậy, các công
trình khoa học nêu trên là tài liệu quý, tác giả tham khảo trong quá trình
xây dựng luận văn của mình.
3. Mục đích, nhiệm vụ nghiên cứu của đề tài
* Mục đích: Làm sáng tỏ quá trình Đảng lãnh đạo, chỉ đạo kết hợp
SMDT với SMTĐ trong công cuộc BVTQ từ năm 1996 đến năm 2006, từ đó
rút ra một số kinh nghiệm có thể vận dụng trong sự nghiệp xây dựng, bảo vệ
Tổ quốc XHCN hiện nay.

* Nhiệm vụ:
- Một là, làm rõ tính tất yếu của việc kết hợp SMDT với SMTĐ trong
sự nghiệp bảo vệ Tổ quốc.
- Hai là, trình bày có hệ thống và phân tích làm sáng tỏ chủ trương
và sự chỉ đạo của Đảng kết hợp SMDT với SMTĐ trong sự nghiệp bảo vệ
Tổ quốc từ năm 1996 đến năm 2006.
- Ba là, nhận xét quá trình Đảng lãnh đạo kết hợp SMDT với SMTĐ,
chỉ rõ nguyên nhân và rút ra kinh nghiệm.

6


Đối tượng, phạm vi nghiên cứu của đề tài
* Đối tượng nghiên cứu
Nghiên cứu hoạt động lãnh đạo của Đảng về sự kết hợp SMDT với
SMTĐ trong sự nghiệp BVTQ.
* Phạm vi nghiên cứu
Về nội dung: Đề tài tập trung nghiên cứu chủ trương và sự chỉ đạo của
Đảng kết hợp SMDT với SMTĐ trong sự nghiệp bảo vệ Tổ quốc.
Về thời gian: Từ năm 1996 đến năm 2006. Tuy nhiên, để bảo đảm tính
hệ thống, phục vụ mục đích nghiên cứu, đề tài có sử dụng tài liệu, tư liệu
trước và sau khoảng thời gian nói trên.
Về không gian: Trên phạm vi cả nước.
4. Phương pháp luận và phương pháp nghiên cứu của đề tài
* Phương pháp luận
Đề tài nghiên cứu dựa trên cơ sở phương pháp luận chủ nghĩa MácLênin, phương pháp luận duy vật biện chứng và duy vật lịch sử, phương
pháp luận sử học mácxit.
* Phương pháp nghiên cứu
Đề tài chủ yếu sử dụng phương pháp lịch sử, phương pháp lôgic. Ngoài ra,
còn sử dụng các phương pháp khác như: phân tích, tổng hợp, thống kê, so sánh.

5. Ý nghĩa của đề tài
Đề tài góp phần làm rõ tính đúng đắn, sáng tạo của Đảng lãnh đạo kết
hợp SMDT với SMTĐ trong sự nghiệp bảo vệ Tổ quốc từ năm 1996 đến năm
2006. Đánh giá thành tựu, hạn chế và rút ra một số kinh nghiệm từ quá trình
Đảng lãnh đạo kết hợp SMDT với SMTĐ trong sự nghiệp BVTQ từ năm
1996 đến năm 2006.
Đề tài có thể sử dụng làm tài liệu tham khảo, nghiên cứu, giảng dạy
môn Lịch sử Đảng trong các nhà trường quân đội.
7. Kết cấu của đề tài
Luận văn gồm: Mở đầu, 2 chương (5 tiết), kết luận, danh mục tài liệu
tham khảo và phụ lục.
7


Chương 1
CHỦ TRƯƠNG VÀ SỰ CHỈ ĐẠO CỦA ĐẢNG VỀ KẾT HỢP SỨC
MẠNH DÂN TỘC VỚI SỨC MẠNH THỜI ĐẠI TRONG SỰ NGHIỆP
BẢO VỆ TỔ QUỐC TỪ NĂM 1996 ĐẾN NĂM 2006
1.1. Yêu cầu khách quan về kết hợp sức mạnh dân tộc với sức
mạnh thời đại trong bảo vệ Tổ quốc
1.1.1. Vị trí, vai trò của kết hợp sức mạnh dân tộc với sức mạnh thời đại
trong sự nghiệp bảo vệ Tổ quốc
Kết hợp SMDT với SMTĐ là yêu cầu khách quan, có tính quy luật của
cách mạng vô sản. Giai cấp vô sản muốn chiến thắng kẻ thù, hoàn thành sứ mệnh
lịch sử của mình phải biết phát huy sức mạnh tổng hợp của mọi lực lượng trong
nước và ngoài nước, sức mạnh của dân tộc kết hợp với sức mạnh của thời đại.
Chủ nghĩa Mác ra đời là một thành tựu vĩ đại của nhân loại, là vũ khí lý
luận khoa học và cách mạng soi đường để giai cấp vô sản và các dân tộc vươn
lên giải phóng mình. Chủ nghĩa Mác đã khẳng định: Trong cuộc đấu tranh cách
mạng lâu dài, giai cấp vô sản mỗi nước trước hết phải giành lấy chính quyền và

tự mình trở thành dân tộc. Nhưng sức mạnh đấu tranh của các lực lượng cách
mạng ấy lại không bao giờ được tự giới hạn mình trong phạm vi dân tộc, mà cần
phải được đặt trong mối liên hệ quốc tế, theo tinh thần “vô sản tất cả các nước,
đoàn kết lại”. Mặt khác, giai cấp vô sản mang bản chất quốc tế, đó là cơ sở
khách quan của sự liên minh đoàn kết chiến đấu giữa giai cấp công nhân, nhân
dân lao động ở tất cả các quốc gia dân tộc theo quan điểm kết hợp SMDT với
SMTĐ tạo thành sức mạnh vô địch chiến thắng chủ nghĩa tư bản.
Kế tục sự nghiệp của C.Mác và Ph.Ăngghen, V.I.Lênin là người hoạt
động trong thời kỳ chủ nghĩa tư bản đã chuyển sang CNĐQ, khi hệ thống
thuộc địa của chúng đã bao trùm cả thế giới và khi phong trào giải phóng dân
tộc đã bắt đầu được khơi dậy. Trong điều kiện ấy, V.I.Lênin đã phát triển
khẩu hiệu chiến lược của C.Mác và Ph.Ăngghen thành: “Vô sản tất cả các
nước và các dân tộc bị áp bức đoàn kết lại!”. Người nói: “Chỉ độc một mình
đội tiên phong thôi thì không thể thắng nổi. Ném một đội tiền phong vào cuộc

8


chiến đấu quyết định… thì đó không những là một điều dại dột mà còn là một
tội ác nữa” [40, tr. 97]. Lênin đã chỉ ra: Trong thời đại ngày nay, sự nghiệp
đấu tranh đánh đổ CNĐQ chỉ có thể giành thắng lợi bằng sự kết hợp chặt chẽ
cách mạng vô sản ở các nước tư bản chủ nghĩa với cách mạng giải phóng dân
tộc ở các nước thuộc địa phụ thuộc. Đồng thời, cách mạng vô sản ở các nước
tư bản chủ nghĩa cũng chỉ có thể nổ ra và giành thắng lợi khi có sự hỗ trợ,
phối hợp của cách mạng giải phóng dân tộc ở các nước thuộc địa phụ thuộc.
Vì vậy, cách mạng vô sản chính quốc phải tích cực giúp đỡ phong trào giải
phóng dân tộc bằng mọi hình thức có thể, thì mới tạo nên sức mạnh tổng hợp
để chiến thắng kẻ thù giành thắng lợi cho cách mạng.
Nắm vững bản chất cách mạng và khoa học của chủ nghĩa Mác - Lênin,
hiểu sâu sắc thực tiễn cách mạng Việt Nam, Hồ Chí Minh đã sớm nhận thấy

sức mạnh to lớn của dân tộc. Đó là những truyền thống tốt đẹp của dân tộc,
những tinh hoa văn hóa tốt đẹp của cộng đồng các dân tộc Việt Nam; là tiềm
năng của dân tộc, đất nước được Nhân dân ta phát huy lên trên tất cả các mặt
của đời sống xã hội trong quá trình cách mạng. Sức mạnh đó chính là sức
mạnh của tinh thần yêu nước, của ý chí tự lực, tự cường, kiên cường bất khuất
và sức mạnh đoàn kết của dân tộc ta, sức mạnh của con người, của đất nước
Việt Nam. Người ý thức rất rõ sức mạnh đó sẽ trở thành vô địch khi cách
mạng nước ta đặt dưới sự lãnh đạo đúng đắn của Đảng. Đồng thời, Người
cũng khẳng định, sức mạnh đó được nhân lên nhiều lần khi được kết hợp với
SMTĐ tạo thành sức mạnh tổng hợp chiến thắng mọi kẻ thù. Theo Hồ Chí
Minh, SMTĐ trước hết là sức mạnh của tính quy luật phát triển của lịch sử xã
hội loài người; sức mạnh của nền văn minh nhân loại; sức mạnh của các lực
lượng cách mạng thế giới. Đó là sức mạnh của tính chất thời đại quá độ từ
CNTB lên CNXH, là sức mạnh của nhân dân lao động, các dân tộc thuộc địa
bị áp bức gắn với sức mạnh của giai cấp vô sản và cách mạng vô sản, được
soi sáng bởi chủ nghĩa Mác - Lênin, dưới sự lãnh đạo của giai cấp công nhân.
Hồ Chí Minh đã sớm nhận thức được tính tất yếu phải kết hợp đúng đắn hai
yếu tố ấy để tạo nên sức mạnh tổng hợp của cách mạng Việt Nam.

9


Theo Hồ Chí Minh, kết hợp SMDT với SMTĐ trước hết phải đặt cách
mạng Việt Nam trong tiến trình chung của cách mạng thế giới. Bởi vậy, khi
lựa chọn con đường cứu nước của dân tộc Việt Nam theo gương cuộc cách
mạng Tháng Mười Nga (1917), Hồ Chí Minh đã nhận thấy nhiệm vụ chủ
yếu của loài người trong thời đại đế quốc chủ nghĩa là phải biết đoàn kết
xung quanh giai cấp công nhân, tiến hành cuộc cách mạng vô sản để lật đổ
CNTB, xây dựng CNXH. Do đó, vấn đề dân tộc phải gắn liền với vấn đề giai
cấp, cách mạng giải phóng dân tộc phải gắn liền với cách mạng vô sản. Vấn đề

giải phóng thuộc địa trở thành một vấn đề quốc tế, không chỉ đối với nhân dân
các nước thuộc địa, phụ thuộc mà cả với nhân dân chính quốc. Tuy nhiên, khi
gắn bó cuộc cách mạng giải phóng dân tộc với cách mạng thế giới, Hồ Chí Minh
vẫn nhấn mạnh đến những mặt riêng về lịch sử - xã hội, kinh tế, văn hóa của mỗi
cuộc cách mạng, những đặc điểm riêng giữa phương Đông và phương Tây để
vạch ra chiến lược đấu tranh cho phù hợp. Trong đó, Người chú ý khai thác
những điểm riêng của dân tộc mà không trái với đường lối chung của cách mạng
thế giới. Cuộc đấu tranh của quần chúng lao động trong thời đại đế quốc chủ
nghĩa dù diễn ra dưới các hình thức khác nhau, nhưng đều phải nằm trong quỹ
đạo cách mạng vô sản, đều nhằm vào mục tiêu giải phóng dân tộc và giải phóng
giai cấp “chỉ có giải phóng giai cấp vô sản thì mới giải phóng được dân tộc, cả
hai cuộc giải phóng này chỉ có thể là sự nghiệp của chủ nghĩa cộng sản và của
cách mạng thế giới” [40, tr. 416].
Cách mạng vô sản phải biết kết hợp cuộc đấu tranh giải phóng giai cấp
với cuộc đấu tranh giải phóng dân tộc thì mới có thể thắng lợi. Tuy nhiên, khi
chỉ đạo thực hiện ở mỗi nước lại phải rất linh hoạt. Theo Hồ Chí Minh cách
mạng muốn thành công, trước hết phải dựa vào những điều kiện cụ thể của
dân tộc mình, để làm cơ sở kết hợp phát huy sức mạnh của thời đại, đồng thời
không được xa rời nguyên tắc đấu tranh của cách mạng vô sản.
Đó thực chất là việc xử lý khéo léo, có hiệu quả mối quan hệ giữa vấn đề
“dân tộc” và “giai cấp”; vấn đề “dân tộc” và “quốc tế” trong tình hình cụ thể của
thế giới và trong nước. Xét về bản chất, theo Hồ Chí Minh, cuộc cách mạng ở
10


các nước thuộc địa “dân tộc cách mệnh”, cũng thể hiện tính chất giai cấp rõ rệt.
Đó là cuộc đấu tranh của đông đảo nhân dân lao động mà “công nông là gốc
cách mạng”, nhằm chống lại “cường quyền”, tức là chống lại ách áp bức của tư
bản đế quốc và bọn tay sai nhằm thiết lập chuyên chính vô sản. Mặt khác, Hồ
Chí Minh luôn luôn nhấn mạnh rằng: Trong thời đại mới, mở đầu bằng cuộc

cách mạng Tháng Mười Nga (1917), cuộc “dân tộc cách mệnh” và “thế giới
cách mệnh” do “vô sản giai cấp đứng đầu đi trước” có quan hệ chặt chẽ với
nhau.
Khẳng định sự kết hợp biện chứng giữa vấn đề dân tộc và vấn đề quốc
tế, Hồ Chí Minh đã làm tất cả để gắn cách mạng Việt Nam với cách mạng thế
giới, Người đã viết: “Cách mệnh An Nam cũng là một bộ phận trong cách
mệnh thế giới. Ai làm cách mệnh trong thế giới đều là đồng chí của nhân dân
An Nam cả” [43, tr. 301]. Chính nhờ nắm bắt được đặc điểm và xu thế phát
triển của thời đại mà Hồ Chí Minh đã xác định đường lối chiến lược, sách
lược, phương pháp cách mạng đúng đắn cho cách mạng Việt Nam theo con
đường cách mạng vô sản.
Kế thừa và phát triển tư tưởng của chủ nghĩa Mác - Lênin về đoàn kết
của giai cấp vô sản với nhân dân lao động tất cả các nước trên thế giới, theo
Hồ Chí Minh phải xây dựng tinh thần hữu nghị hợp tác giữa các quốc gia, dân
tộc và các lực lượng cách mạng, hòa bình, dân chủ trên thế giới. Vì vô sản ở
chính quốc hay lao động bị áp bức ở thuộc địa, những người cùng khổ, tất cả
đều có mối tương đồng là đấu tranh cho hòa bình, tiến bộ xã hội, con người
được giải phóng mọi áp bức và bất công. Do đó:
“Quan san muôn dặm một nhà
Bốn phương vô sản đều là anh em”.
Đây là cơ sở để Hồ Chí Minh đề ra chủ trương xây dựng tình đoàn kết
hữu nghị giữa các dân tộc. Nguyên tắc đoàn kết của Hồ Chí Minh là “có lý, có
tình”. Có lý là tuân thủ những nguyên tắc cơ bản của chủ nghĩa Mác - Lênin,
những nguyên tắc chung trong quan hệ quốc tế: Tôn trọng độc lập chủ quyền,
không can thiệp vào công việc nội bộ của nhau, bình đẳng, hai bên cùng có
11


lợi. Có tình là trên cơ sở tôn trọng nguyên tắc chung phải chú ý đến đặc điểm
riêng của mỗi dân tộc, phải thông cảm, tôn trọng nhau của những người cùng

chung lý tưởng, khắc phục tư tưởng nước lớn, tránh dùng sức ép chính trị,
kinh tế, ngoại giao hoặc vũ lực trong quan hệ quốc tế.
Nắm vững quan điểm của chủ nghĩa Mác - Lênin về mối quan hệ biện
chứng giữa các yếu tố khách quan và chủ quan, Hồ Chí Minh khẳng định kết
hợp SMDT với SMTĐ nhưng phải dựa vào sức mình là chính. Người nói:
“Một dân tộc không tự lực cánh sinh mà cứ ngồi chờ dân tộc khác giúp đỡ thì
không xứng đáng được độc lập” [43, tr. 293].
Như vậy, kết hợp SMDT với SMTĐ theo tư tưởng Hồ Chí Minh là sự
kế thừa, vận dụng sáng tạo và phát triển chủ nghĩa Mác - Lênin trong hoàn
cảnh mới của cuộc đấu tranh cho độc lập, tiến bộ xã hội. Nó có ý nghĩa lý
luận và thực tiễn to lớn, là nguyên tắc quan trọng cho Đảng, Nhà nước ta xác
định đường lối, chính sách đối nội, đối ngoại đúng đắn; đồng thời là phương
hướng lớn của cách mạng Việt Nam trong sự nghiệp đổi mới, xây dựng và
BVTQ Việt Nam XHCN.
Vận dụng sáng tạo chủ nghĩa Mác - Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh
vào thực tiễn cách mạng Việt Nam, ngay từ khi mới được thành lập Đảng đã
có những quan điểm đúng đắn về sự kết hợp SMDT với SMTĐ trong quá
trình lãnh đạo cách mạng.
Trong Cương lĩnh của Đảng năm 1930 xác định: Đảng là đội tiên
phong của vô sản giai cấp, phải thu phục cho được đại bộ phận giai cấp
mình… Đảng phải thu phục cho được đại bộ phận dân cày và phải dựa vào
hạng dân cày nghèo làm thổ địa cách mạng… Đảng phải hết sức liên lạc
với tiểu tư sản, trí thức, trung nông, thanh niên, Tân Việt… để kéo họ đi
vào phe vô sản giai cấp. Để thực hiện chính sách đó Đảng luôn luôn phấn
đấu vì hòa bình, tự do vì tiến bộ xã hội, luôn luôn kiên định lập trường của
giai cấp công nhân: “không bao giờ Đảng lại hy sinh quyền lợi của giai cấp
công nhân và nông dân cho một giai cấp nào khác”. Tất cả mọi đường lối

12



chính sách của Đảng và Nhà nước đều dựa trên lợi ích, nhu cầu nguyện
vọng của quần chúng nhân dân lao động.
Từ chiến lược phát huy đoàn kết toàn dân, Đảng ta đã đề ra nhiệm vụ
của toàn thể dân tộc phải đoàn kết quốc tế. Đảng xác định cách mạng Việt
Nam nằm trong phạm trù cách mạng vô sản thế giới. Trong Chính cương vắn
tắt Đảng xác định: “chủ trương làm tư sản dân quyền cách mạng và thổ địa
cách mạng để đi tới xã hội cộng sản” và thực hành liên lạc với bị áp bức dân
tộc và vô sản giai cấp thế giới, nhất là giai cấp vô sản Pháp. Đến Luận cương
chính trị, Đảng xác định: vô sản Đông Dương phải liên lạc mật thiết với vô
sản thế giới, nhất là vô sản Pháp để làm mặt trận vô sản “mẫu quốc” và thuộc
địa cho sức đấu tranh cách mạng được mạnh lên.
Thời kỳ đấu tranh giành chính quyền (1930 - 1945) là thời kỳ cách
mạng nước ta gặp nhiều khó khăn. Đảng Cộng sản Việt Nam mới thành lập,
thế và lực chưa mạnh, uy tín của Đảng, của dân tộc trên trường quốc tế chưa
cao. Trong khi đó kẻ thù lại có tiềm lực kinh tế, tiềm lực quân sự mạnh hơn
ta gấp nhiều lần. Nhưng do Đảng và Chủ tịch Hồ Chí Minh khéo kết hợp
SMDT với SMTĐ, biết đặt cách mạng Việt Nam trong mối quan hệ chặt chẽ
với cách mạng thế giới, do đó đã tranh thủ tối đa những thời cơ thuận lợi từ
điều kiện quốc tế trong đấu tranh giành chính quyền. Sự kết hợp SMDT với
SMTĐ ở thời kỳ này được thể hiện rõ nét nhất trong cao trào giải phóng dân
tộc 1939 - 1945. Đảng và Chủ tịch Hồ Chí Minh luôn theo sát diễn biến của
cuộc chiến tranh thế giới lần thứ hai, phân tích một cách khoa học những
biến động của tình hình thế giới, chiều hướng phát triển của cuộc chiến
tranh, tích cực xây dựng lực lượng cách mạng, bao gồm cả lực lượng chính
trị và lực lượng quân sự, lực lượng ở cả nông thôn và thành thị, xây dựng
căn cứ địa cách mạng và cơ sở cách mạng trong cả nước. Nhờ đó, chớp thời
cơ khi Hồng quân Liên Xô đánh tan đội quân mạnh nhất của phátxít Nhật
(13/8/1945) và phát xít Nhật tuyên bố đầu hàng vô điều kiện quân Đồng minh
(15/8/1945), Đảng đã kịp thời phát động Tổng khởi nghĩa giành chính quyền

trong cả nước, đưa đến thắng lợi của Cách mạng Tháng 8/1945 và sự ra đời của
13


nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa ngày 2/9/1945, Nhà nước công nông đầu tiên
ở khu vực Đông Nam Á. Điều đó lý giải một thực tế khi Liên Xô và lực lượng
Đồng minh chiến thắng phát xít Nhật, mở ra thời cơ giải phóng dân tộc đối với
nhiều nước trong khu vực Đông Nam Á, nhưng chỉ có cách mạng Việt Nam
giành thắng lợi. Bởi vì, Đảng và Chủ tịch Hồ Chí Minh đã kết hợp SMDT với
SMTĐ để tạo nên sức mạnh tổng hợp giành thắng lợi cho cách mạng Việt Nam.
Trong hai cuộc kháng chiến chống Pháp và chống Mỹ (1945 - 1975),
Đảng đã kết hợp chặt chẽ SMDT với SMTĐ, sức mạnh chiến đấu của nhân
dân ta với sự giúp đỡ có hiệu quả của Liên Xô, Trung Quốc và các nước
XHCN anh em khác. Sự giúp đỡ, ủng hộ của các lực lượng hòa bình, giải
phóng dân tộc, dân chủ và tiến bộ xã hội, sự liên minh đoàn kết chiến đấu của
ba dân tộc anh em trên bán đảo Đông Dương.
Trong cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp (1945 - 1954), Nhân
dân ta đứng trước những khó khăn thử thách nặng nề. Đảng và Chủ tịch Hồ
Chí Minh đã phân tích, nhận định đúng đắn các nhân tố ảnh hưởng và tính
chất của cuộc kháng chiến chống Pháp là một cuộc chiến tranh chính nghĩa.
Đảng đã đề ra đường lối kháng chiến toàn dân, toàn diện, trường kỳ, dựa
vào sức mình là chính, đồng thời tranh thủ tối đa điều kiện quốc tế thuận
lợi, hạn chế thấp nhất những tác động bất lợi bên ngoài để đẩy mạnh cuộc
kháng chiến. Cho nên chúng ta đã phát huy được tối đa sức mạnh của cả
dân tộc tham gia vào kháng chiến với tinh thần “Quyết tử để Tổ quốc quyết
sinh”; vừa đánh địch vừa tích cực xây dựng lực lượng, vượt qua những khó
khăn thử thách ban đầu. Sau thắng lợi Chiến dịch Biên giới (1950), Nhân
dân ta có điều kiện mở rộng quan hệ quốc tế, tiếp nhận và phát huy có hiệu
quả sự chi viện, giúp đỡ về vật chất và tinh thần của nhân dân Trung Quốc,
Liên Xô và nhân dân các nước XHCN cùng với sự đồng tình ủng hộ của

nhân dân tiến bộ trên toàn thế giới, dẫn đến kết thúc thắng lợi cuộc kháng
chiến chống thực dân Pháp, mở đầu cho quá trình sụp đổ của chủ nghĩa
thực dân cũ. Thắng lợi của cuộc kháng chiến chống Pháp đã khẳng định
đường lối kháng chiến của Đảng là hoàn toàn đúng đắn, đường lối đó đã
14


kết hợp sức mạnh của cả dân tộc với SMTĐ tạo nên sức mạnh tổng hợp
chiến thắng kẻ thù.
Trong cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước (1954 - 1975), bên
cạnh những thuận lợi cơ bản, cách mạng nước ta cũng gặp những khó khăn,
phức tạp về nhiều mặt; đất nước tạm thời bị chia cắt thành hai miền với hai
chế độ chính trị xã hội khác nhau; trong hệ thống XHCN xuất hiện mâu
thuẫn kéo dài, thậm chí có lúc khá gay gắt; kẻ thù của dân tộc là đế quốc
Mỹ, có ưu thế vượt trội về kinh tế, quân sự. Đảng và Chủ tịch Hồ Chí Minh
đã đứng vững trên lập trường của giai cấp công nhân, giải quyết đúng đắn
mối quan hệ giữa chiến tranh cách mạng và bảo vệ hòa bình, vừa đẩy mạnh
chiến tranh cách mạng ở nước ta, vừa tích cực góp phần vào sự nghiệp giữ
gìn hòa bình của nhân dân thế giới, đề ra đường lối tiến hành đồng thời hai
chiến lược cách mạng: cách mạng xã hội chủ nghĩa ở miền Bắc và cách
mạng dân tộc dân chủ nhân dân ở miền Nam. Do đó, cách mạng Việt Nam
đã tranh thủ được sự đồng tình, ủng hộ của tất cả các dân tộc, của loài
người tiến bộ trên thế giới, trong đó có nhân dân Mỹ. Chúng ta đã kết hợp
một cách có hiệu quả sự chi viện giúp đỡ nhiều mặt của nhân dân các nước
XHCN. Đặc biệt, Đảng đã kết hợp đúng đắn sức mạnh của nước ta với sức
mạnh của các dân tộc trên bán đảo Đông Dương, tạo thành thế chiến lược,
sức mạnh tổng hợp chung chống kẻ thù xâm lược.
Thắng lợi của cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước, một lần nữa
khẳng định tính đúng đắn của bài học kết hợp SMDT với SMTĐ của Đảng.
Đánh giá nguyên nhân thắng lợi của cuộc khán chiến chống Mỹ cứu nước.

Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ IV của Đảng (12/1976) nêu rõ:
Nhờ kết hợp sức mạnh của nhân dân ta với sức mạnh của thời đại
nhờ đường lối quốc tế đúng đắn của Đảng, chúng ta đã tranh thủ được
sự ủng hộ to lớn về tinh thần và vật chất của các nước XHCN anh em,
của tất cả các lực lượng cách mạng và tiến bộ trên thế giới, tạo thành
một mặt trận quốc tế rộng lớn chưa từng có để ủng hộ Việt Nam chống
đế quốc Mỹ, xâm lược [15, tr. 23].
15


Thời kỳ cả nước tiến hành cách mạng XHCN, tình hình thế giới có
nhiều diễn biến phức tạp, tác động bất lợi đối với sự nghiệp xây dựng và
BVTQ của Nhân dân ta. Đảng, Nhà nước đã có nhiều cố gắng tranh thủ sự
giúp đỡ viện trợ của quốc tế để xây dựng và BVTQ. Song mười năm đầu
(1975 - 1985), Việt Nam chưa tranh thủ được điều kiện quốc tế thuận lợi ở
mức cao nhất và chưa sử dụng tốt sự hợp tác giúp đỡ của các nước để xây
dựng đất nước sau mấy chục năm bị chiến tranh tàn phá.
Từ năm 1986 đến nay, dưới ánh sáng Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ
VI, Nghị quyết 13 của Bộ Chính trị (5 - 1988), Nghị quyết Hội nghị Trung
ương lần thứ sáu (3 - 1989) đã đặt cơ sở cho việc đổi mới công tác đối ngoại
và hoạt động ngoại giao của Việt Nam. Đảng cho rằng, Việt Nam có cơ hội
lớn để giữ vững hoà bình và phát triển kinh tế, rằng lợi ích cao nhất của Đảng
và nhân dân ta là phải củng cố hoà bình, để tập trung sức xây dựng và phát
triển kinh tế. Đó là nhân tố quyết định củng cố an ninh và giữ vững độc lập.
Thực hiện đường lối đối ngoại độc lập, tự chủ, đa phương hóa, đa dạng hóa
các quan hệ quốc tế, Việt Nam đã mở rộng quan hệ đối ngoại và hợp tác với
các nước, các tổ chức quốc tế, các vùng lãnh thổ trên thế giới. Việt Nam
muốn là bạn với tất cả các nước trên thế giới phấn đấu vì hòa bình, độc lập và
phát triển. Vì thế, đã tranh thủ được những điều kiện quốc tế thuận lợi, kết
hợp chặt chẽ lợi thế và nguồn lực trong nước với lợi thế và nguồn lực bên

ngoài để xây dựng đất nước và BVTQ.
1.1.2. Thời kỳ mới đặt ra yêu cầu kết hợp sức mạnh dân tộc với sức
mạnh thời đại trong bảo vệ Tổ quốc
Một là, sự phát triển của cuộc cách mạng khoa học công nghệ hiện đại đang
diễn ra ngày càng mạnh mẽ, cùng với xu thế toàn cầu hóa và hội nhập kinh tế quốc tế
đang đặt ra yêu cầu phải kết hợp SMDT với SMTĐ trong sự nghiệp BVTQ.
Sự phát triển của cách mạng khoa học, công nghệ hiện đại, đã và đang
làm cho lực lượng sản xuất thế giới có những biến đổi mạnh mẽ; làm thay đổi
cơ cấu kinh tế, cơ chế quản lý sản xuất, thay đổi tính chất, hình thức lao
động… Trong lĩnh vực quân sự, nhiều thế hệ vũ khí, phương tiện chiến tranh
16


mới có hiệu quả chiến đấu cao ra đời thay thế các thế hệ trước đây. Thực tiễn
chiến tranh cục bộ ở các nước vùng Vịnh những năm 1991, 2003 và Nam Tư
(1999) cho thấy ưu thế thuộc về các nước có tiềm lực quân sự, khoa học, công
nghệ cao và vũ khí hiện đại. Sự phát triển như vũ bão của khoa học, công nghệ
hiện đại, đã tác động một cách sâu sắc đến các quốc gia dân tộc trong việc hoạch
định chính sách xây dựng đất nước và BVTQ, đặt các quốc gia dân tộc trước
một sự thách thức rất lớn nhằm tìm kiếm và chiếm lĩnh những thành tựu mới về
khoa học, công nghệ nếu không muốn lạc hậu so với các quốc gia dân tộc
khác.
Mặt khác, từ năm 1996 đến năm 2006, quá trình toàn cầu hóa kinh tế
cũng diễn ra mạnh mẽ tác động đến tất cả các quốc gia, khu vực trên thế giới.
Sự tác động của toàn cầu hóa kinh tế đối với mỗi quốc gia đều mang tính hai
mặt, vừa có mặt tích cực vừa có mặt tiêu cực, vừa đem đến những thời cơ
điều kiện thuận lợi mới cho các quốc gia phát triển kinh tế, củng cố quốc
phòng, BVTQ, vừa đặt các quốc gia trước việc đối phó với những nguy cơ,
thách thức do mặt trái của quá trình toàn cầu hóa đem lại. Sự phân hóa giàu
nghèo giữa các quốc gia, theo đó cũng gia tăng và làm tăng tính phụ thuộc

của các nước về vốn, công nghệ và thị trường.
Tham gia vào quá trình toàn cầu hóa và hội nhập kinh tế quốc tế, Việt
Nam có nhiều cơ hội mở rộng thị trường, khai thác thêm vốn, tận dụng những
thành tựu khoa học công nghệ để đẩy mạnh sự nghiệp CNH, HĐH đất nước.
Đồng thời, trong quá trình đó, Việt Nam cũng phải đối mặt với những mặt trái
của toàn cầu hóa và những tác động tiêu cực bởi sự xâm nhập các trào lưu văn
hóa - tư tưởng độc hại từ bên ngoài, đòi hỏi phải đề cao cảnh giác, chống âm
mưu, thủ đoạn lợi dụng xu thế toàn cầu hóa kinh tế để chống phá cách mạng
Việt Nam của các thế lực thù địch.
Hai là, diễn biến của tình hình quốc tế và khu vực phức tạp, mau lẹ
khó lường.
Sau sự sụp đổ của chế độ XHCN ở các nước Đông Âu và Liên Xô,
CNXH tạm thời lâm vào thoái trào; phong trào cách mạng thế giới đứng trước
17


những khó khăn thử thách to lớn. Đây là đặc điểm nổi bật của tình hình thế
giới tác động chi phối đến việc kết hợp SMDT với SMTĐ trong sự nghiệp
BVTQ ở nước ta.
Sự khủng hoảng kinh tế - xã hội dẫn tới sự sụp đổ chế độ XHCN ở các
nước Đông Âu và Liên Xô không phải là “bất ngờ lớn” đối với Đảng và Nhân
dân ta. Nhưng cách mạng Việt Nam mất một chỗ dựa to lớn cả về kinh tế và
chính trị, tinh thần; có ảnh hưởng đến tâm tư, tình cảm của đội ngũ cán bộ đảng
viên và Nhân dân ta. Sự nghiệp xây dựng, BVTQ của Việt Nam không còn nhận
được sự viện trợ giúp đỡ, tạo điều kiện thuận lợi như trước.
Lợi dụng CNXH lâm vào thoái trào, CNĐQ đứng đầu là đế quốc Mỹ điều
chỉnh chiến lược chống phá CNXH. Chiến lược tiến công cách mạng thế giới và
chống các quốc gia độc lập có chủ quyền bằng những cuộc chiến tranh xâm
lược, can thiệp quân sự, lật đổ chính quyền. Điều đó đặt ra yêu cầu mới đối với
Việt Nam phải tiếp tục phát huy sức mạnh của dân tộc kết hợp với sức mạnh mới

của thời đại trong sự nghiệp BVTQ để tiếp tục giữ vững ổn định chính trị - xã
hội của đất nước tạo môi trường hòa bình để xây dựng thành công CNXH.
Mặt khác, các thế lực thù địch và CNĐQ lợi dụng chủ trương mở rộng
quan hệ đối ngoại và chủ động hội nhập kinh tế quốc tế của Đảng và Nhà nước
xúc tiến thực hiện chiến lược “diễn biến hòa bình” bạo loạn lật đổ, tiến công ta
trên mặt trận văn hóa tư tưởng và ngầm phá hoại Việt Nam về tổ chức, nhằm
làm biến chất cán bộ, đảng viên, kể cả cán bộ chủ chốt trong cơ quan lãnh đạo
các cấp của Đảng và Nhà nước, hòng tạo nên quá trình “tự diễn biến”, “tự
chuyển hóa” chuyển đất nước đi vào quỹ đạo tư bản chủ nghĩa. Các hoạt động
tình báo, gián điệp có cơ hội, điều kiện luồn lách vào các lĩnh vực của đời sống
xã hội, nắm thực lực của Việt Nam, đặc biệt là sức mạnh quân sự - quốc phòng
và sơ hở trong thế trận quốc phòng - an ninh để có thời cơ, tiến hành bạo loạn lật
đổ hoặc đánh đòn phủ đầu nhằm lật đổ chế độ.
Ba là, công cuộc đổi mới do Đảng ta khởi xướng và lãnh đạo từ năm
1986 đến năm 2006 đã đạt được nhiều thành tựu to lớn, có ý nghĩa lịch sử
tạo tiền đề và động lực mạnh mẽ trong sự nghiệp xây dựng và BVTQ Việt
18


Nam XHCN. Đất nước đã ra khỏi khủng hoảng về kinh tế - xã hội và có
những bước tăng trưởng khá vững chắc. Tình hình chính trị, xã hội dần đi
vào ổn định; thế và lực của Việt Nam không ngừng lớn mạnh; quan hệ
quốc tế được mở rộng; vị thế Việt Nam trên trường quốc tế được cải thiện;
khả năng giữ vững độc lập, tự chủ và hội nhập được tăng cường. Qua đó,
lòng tin của Nhân dân đối với cách mạng, đối với Đảng được củng cố tăng
cường, sức mạnh tổng hợp do thành quả đổi mới tạo ra và sức mạnh truyền
thống BVTQ được phát huy trong nhân dân và lực lượng vũ trang.
Đảng Cộng sản Việt Nam với tinh thần độc lập, sáng tạo và kinh nghiệm
lãnh đạo của mình cùng Nhân dân nhận rõ âm mưu thâm độc của kẻ thù, luôn đề
cao tinh thần cảnh giác cách mạng, làm thất bại mọi âm mưu chống phá của kẻ

địch đối với cách mạng Việt Nam. Thế và lực quốc phòng của Việt Nam đã có
sự phát triển mới trên cơ sở thế và lực của đất nước. An ninh quốc gia, an ninh
biên giới, biển đảo của Việt Nam tiếp tục được củng cố dựa trên cơ sở tăng
cường sức mạnh tổng hợp của cả nước, kết hợp với việc giải quyết tốt quan hệ
đối ngoại với các nước láng giềng và khu vực. Đồng thời, BVTQ trong thời kỳ
mới của Nhân dân Việt Nam là cuộc đấu tranh chính nghĩa, nên được sự ủng hộ
của nhân dân tiến bộ trên thế giới. Đó là những thuận lợi hết sức cơ bản là cơ sở
để Việt Nam phát huy SMDT với SMTĐ trong sự nghiệp BVTQ hiện nay.
Bốn là, đất nước đứng trước những khó khăn, thách thức lớn, đan xen
nhau, diễn biến phức tạp ảnh hưởng đến việc kết hợp SMDT với SMTĐ
trong sự nghiệp BVTQ.
Nền kinh tế Việt Nam vẫn trong tình trạng kém phát triển; nguy cơ tụt
hậu xa hơn về kinh tế so với các nước trong khu vực và trên thế giới vẫn tồn
tại. Cùng với những hạn chế về khoa học, công nghệ, về năng lực quản lý và
những tiêu cực nội sinh đã ảnh hưởng trực tiếp đến việc phát huy nội lực để
phát triển kinh tế bền vững và tăng cường quốc phòng - an ninh đất nước.
Trong đời sống chính trị đất nước, tình trạng suy thoái tư tưởng, chính
trị, đạo đức lối sống của một bộ phận không nhỏ cán bộ, đảng viên gắn với
tệ quan liêu tham nhũng, lãng phí vẫn tiếp tục diễn ra với tính chất nghiêm
19


trọng nhưng vẫn chưa được ngăn chặn có hiệu quả. Việc giữ vững hòa bình, ổn
định nội địa, ổn định biên giới, biển đảo của Việt Nam trong điều kiện các thế
lực thù địch tăng cường chống phá, với nhiều thủ đoạn thâm hiểm, nhất là việc
tăng cường các hoạt động “diễn biến hòa bình” kết hợp với bạo loạn lật đổ là
một thách thức gay gắt. Các hoạt động khủng bố, ly khai, các cuộc bạo loạn
quân sự và chính trị, tranh chấp lãnh thổ, biển đảo ở một số nước và trong khu
vực cũng tác động tiêu cực đến an ninh - quốc phòng ở Việt Nam.
Yêu cầu của sự nghiệp CNH, HĐH đất nước đòi hỏi phải kết hợp

SMDT với SMTĐ, để thực hiện tốt việc chủ động BVTQ từ xa, nhằm ngăn
ngừa mọi nguy cơ làm mất ổn định tình hình đất nước. Phát huy mạnh mẽ
nguồn nội lực kết hợp với nắm bắt xu thế phát triển hòa bình, hợp tác trên thế
giới tạo ra và giữ vững môi trường hòa bình, ổn định để đất nước phát triển,
đẩy nhanh công cuộc đổi mới bảo vệ vững chắc Tổ quốc Việt Nam XHCN.
1.1.3. Yêu cầu kết hợp sức mạnh dân tộc với sức mạnh thời đại trong
sự nghiệp bảo vệ Tổ quốc
Một là, kết hợp SMDT với SMTĐ tạo ra sức mạnh tổng hợp để giữ
vững hòa bình và ổn định chính trị - điều kiện căn bản để đất nước tiếp tục
phát triển nhanh và bền vững trong bối cảnh quốc tế mới.
Mục tiêu cơ bản của cách mạng Việt Nam hiện nay là tiếp tục đẩy mạnh
sự nghiệp đổi mới đất nước, đẩy mạnh CNH, HĐH đất nước, chủ động và tích
cực hội nhập quốc tế vì dân giàu, nước mạnh, công bằng, dân chủ, văn minh
và bảo vệ vững chắc Tổ quốc Việt Nam XHCN. Đó là một sự nghiệp đòi hỏi
phải phát huy toàn bộ sức mạnh vật chất và tinh thần của dân tộc Việt Nam,
tận dụng và phát huy thế và lực mới của cách mạng Việt Nam; đồng thời phải
tranh thủ những điều kiện quốc tế thuận lợi, trước hết là xu thế phát triển về
kinh tế, khoa học công nghệ, tranh thủ sự đồng tình ủng hộ của lực lượng tiến
bộ trên thế giới đối với sự nghiệp đổi mới của Việt Nam.
Hiện nay, thế giới đã và đang tiếp tục chứng kiến cuộc đấu tranh gay
gắt giữa lực lượng tiến bộ với các thế lực đế quốc phản động - mà thực chất là
cuộc đấu tranh dân tộc, đấu tranh giai cấp. Cùng với các âm mưu, thủ đoạn
20


trên các lĩnh vực kinh tế, chính trị, văn hóa, các thế lực thù địch sẵn sàng gây
chiến đối với những quốc gia có chủ quyền không tuân theo “gậy chỉ huy”
của chúng. Vấn đề đấu tranh cho hòa bình vẫn là mục tiêu hàng đầu của hầu
hết các quốc gia, của nhân dân yêu chuộng hòa bình trên thế giới. Việt Nam
mong muốn giữ vững hòa bình, ổn định để phát triển đất nước, dĩ nhiên đó

không phải là “hòa bình bằng mọi giá”, mà là một nền hòa bình trên cơ sở độc
lập, tự chủ, một nền hòa bình mà trong đó Nhân dân Việt Nam có thể sống,
lao động và xây dựng đất nước theo mục tiêu “dân giàu, nước mạnh, dân chủ,
công bằng, văn minh”. Với mục tiêu ấy, cần tranh thủ xu thế hòa bình, xu thế
chống chiến tranh xâm lược của tất cả các nước, các dân tộc, của mỗi con
người tiến bộ trên thế giới cho sự nghiệp BVTQ của chúng ta.
Thứ hai, kết hợp SMDT với SMTĐ tạo sức mạnh mới để giữ vững độc
lập dân tộc và chế độ xã hội chủ nghĩa.
Với tư duy mới về BVTQ, nội hàm của khái niệm Tổ quốc XHCN
không chỉ là đất nước theo phạm vi biên giới quốc gia, mà còn là chế độ
XHCN ở Việt Nam, là nhân dân lao động dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng
sản Việt Nam, là bản sắc văn hóa Việt Nam. Bảo vệ sự nghiệp đổi mới và lợi
ích quốc gia, dân tộc. Giữ vững độc lập dân tộc trước hết phải kiên định và
giữ vững con đường đổi mới đi lên chủ nghĩa xã hội mà Đảng ta, Bác Hồ đã
lựa chọn - con đường được nhân dân tiến bộ trên toàn thế giới ủng hộ.
Yêu cầu của việc kết hợp SMDT và SMTĐ trong điều kiện mới, một
mặt phải động viên được toàn thể dân tộc Việt Nam sẵn sàng đem tất cả tinh
thần và lực lượng, tính mạng và của cải để giữ vững quyền tự do, độc lập; mặt
khác, bằng nỗ lực của Đảng, Nhà nước, Nhân dân thông qua các hoạt động
chính trị, kinh tế, văn hóa, ngoại giao,… khơi dậy và tranh thủ được lương tri
của loài người tiến bộ, làm cho thế giới hiểu rõ, hiểu đúng Việt Nam hơn, tạo
ra một mặt trận nhân dân thế giới ủng hộ Việt Nam đổi mới và phát triển bằng
cả tinh thần và vật chất. Nếu trong thời bình Việt Nam làm được việc đó, thì
chắc chắn khi cần thiết phải cầm vũ khí tiến hành chiến tranh chống xâm
lược, Việt Nam sẽ được thế giới ủng hộ mạnh mẽ. Trong thời đại ngày nay,

21


bất cứ một cuộc tiến công quân sự xâm lược nào, kẻ gây chiến dù điên cuồng

đến mấy cũng không thể, không tính đến phản ứng của dư luận quốc tế và
ngay ở trong nước chúng.
Kết hợp SMDT với SMTĐ trong BVTQ không chỉ đơn thuần về lĩnh
vực chính trị. Trong một thế giới đầy mâu thuẫn, Việt Nam vẫn có thể tranh
thủ được sự ủng hộ về kinh tế, quân sự, tạo nên tiềm lực quân sự. Ngược lại,
nếu Việt Nam có tiềm lực quân sự mạnh mới có thể tranh thủ được lợi thế
trong quan hệ quốc tế. Theo hướng đó, lĩnh vực đối ngoại quân sự, kinh tế
quân sự cần được chú trọng đúng mức trong tình hình mới.
Thứ ba, kết hợp SMDT với SMTĐ tạo động lực to lớn để đẩy mạnh sự
nghiệp CNH, HĐH đất nước đáp ứng đầy đủ các yêu cầu BVTQ.
Hiện nay, Việt Nam cần có sự ổn định chính trị - xã hội để phát triển
kinh tế, trong điều kiện nhiều nước trên thế giới đã đạt đến trình độ phát triển
kinh tế cao, muốn ổn định và phát triển chúng ra phải đẩy mạnh sự nghiệp
CNH, HĐH. Việt Nam có thể tự hào về sự lãnh đạo của Đảng, về Nhân dân
lao động cần cù, sáng tạo, về tiềm năng và lợi thế chính trị - kinh tế. Cái thiếu
nhất của Việt Nam hiện nay là vốn, công nghệ, kinh nghiệm tổ chức và tiến
hành CNH, HĐH. Nếu biết kết hợp SMDT với SMTĐ, chúng ta hoàn toàn có
khả năng để phát huy tính chủ động và lợi thế, đồng thời tranh thủ và phát
huy có hiệu quả các yếu tố về vốn, công nghệ, kinh nghiệm của các nước trên
thế giới phục vụ tốt nhất cho sự nghiệp BVTQ.
1.2. Chủ trương của Đảng về kết hợp sức mạnh dân tộc với sức
mạnh thời đại trong sự nghiệp bảo vệ Tổ quốc (1996 - 2006)
1.2.1. Quan điểm của Đảng về bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ
nghĩa trong tình hình mới
* Quan điểm của Đảng về mục tiêu, nhiệm vụ bảo vệ Tổ quốc thể hiện
sự kết hợp sức mạnh dân tộc với sức mạnh thời đại.
Mục tiêu BVTQ XHCN ngày nay được Đảng Cộng sản Việt Nam nhận
thức một cách đa diện, nhiều chiều đòi hỏi phát huy sức mạnh tổng hợp, lực
lượng của toàn dân và cả hệ thống chính trị với phương thức tổng hợp và đặt
dưới sự lãnh đạo tuyệt đối, trực tiếp về mọi mặt của Đảng Cộng sản Việt Nam.

22


Sự biến đổi mạnh mẽ và sâu sắc của tình hình thế giới, khu vực và
trong nước là căn cứ thực tiễn của quá trình đổi mới tư duy, phát triển nhận
thức của Đảng trên những vấn đề cơ bản về quốc phòng, BVTQ. Trong quá
trình đổi mới đất nước, Đảng không ngừng đổi mới tư duy về BVTQ XHCN,
để có những quan điểm đúng đắn, khoa học và đề ra những chủ trương, biện
pháp phù hợp với tình hình mới. Kế thừa tư tưởng, quan điểm về BVTQ của
các kỳ đại hội và hội nghị Trung ương trong công cuộc đổi mới, Đại hội IX
của Đảng (4 - 2006) đề ra quan điểm về BVTQ là bảo vệ: Độc lập dân tộc,
chủ quyền quốc gia, toàn vẹn lãnh thổ, ổn định của chế độ, an ninh của đất
nước trước hết và chủ yếu phụ thuộc vào ổn định chính trị tăng cường kinh tế
và phát triển khoa học, công nghệ theo định hướng XHCN, đồng thời phụ
thuộc vào tiềm lực quốc phòng, an ninh. Tư duy mới về nhiệm vụ BVTQ một
mặt nhấn mạnh đến các biện pháp phi vũ trang, tích cực xây dựng đất nước về
mọi mặt theo đúng định hướng XHCN; mặt khác không coi nhẹ các biện pháp
vũ trang, đảm bảo luôn có đủ sức mạnh vũ trang cần thiết để ngăn đe, giữ
được hòa bình và sẵn sàng đánh thắng chiến tranh xâm lược trên các quy mô
của chủ nghĩa đế quốc và các thế lực thù địch.
Bảo vệ Tổ quốc Việt Nam XHCN là bảo vệ độc lập, chủ quyền, thống
nhất, toàn vẹn lãnh thổ gắn bó chặt chẽ với bảo vệ Đảng, Nhà nước, bảo vệ
chế độ XHCN và quyền làm chủ của Nhân dân. Nói một cách khái quát: bảo
vệ chế độ XHCN mà Nhân dân đang xây dựng bao hàm bảo vệ độc lập chủ
quyền quốc gia, thống nhất và toàn vẹn lãnh thổ đất nước. Nét mới, đặc sắc
trong tư duy lý luận của Đảng ta là: trong điều kiện toàn cầu hóa và hội nhập
quốc tế, bảo vệ lợi ích quốc gia, dân tộc Việt Nam gắn bó chặt chẽ với các nội
dung nhiệm vụ bảo vệ ở trong nước; nhiệm vụ BVTQ XHCN vừa phải bảo
đảm lợi ích đất nước, lợi ích quốc gia, dân tộc vừa tạo điều kiện thuận lợi cho
sự nghiệp đổi mới, phát triển theo đúng định hướng XHCN, thực hiện thắng

lợi mục tiêu dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh. Đồng thời,
giữ vững hòa bình, ổn định chính trị xã hội, tạo môi trường thuận lợi cho các

23


nước hợp tác kinh tế và làm ăn lâu dài ở Việt Nam. Chính điều đó, đã thu hút,
lôi cuốn họ, góp phần bảo vệ Tổ quốc Việt Nam một cách tự nguyện, tự giác,
phát huy được SMDT và SMTĐ trong sự nghiệp bảo vệ Tổ quốc.
Tư duy mới về BVTQ Việt Nam XHCN của Đảng thể hiện sâu sắc ở
việc quan tâm giữ cho “trong ấm”, “ngoài êm”, coi đó là một trong những kế
sách quan trọng để bảo vệ vững chắc Tổ quốc Việt Nam XHCN trong bối cảnh
hiện thời. Điều này hoàn toàn phù hợp với điều kiện hiện có và thực lực của Việt
Nam, khi mà cùng lúc, chúng ta vừa đang phải đối mặt, vượt qua những nguy cơ
thách thức, khó khăn, vừa tìm phương thức tối ưu để khai thác, tận dụng có hiệu
quả những thời cơ, vận hội, những thuận lợi mới đưa đến. Vì vậy, việc xác định
đúng đắn và thực hiện tốt kế sách “trong ấm”, “ngoài êm” là sự xác định thông
minh nhất, khôn khéo nhất, có lợi nhất cho quốc gia, dân tộc. Đó là vấn đề cực kỳ
hệ trọng đối với sự tồn tại và phát triển bền vững của đất nước trong một thế giới
đầy biến động phức tạp như hiện nay. Theo tinh thần đó, Đảng nhấn mạnh việc chú
trọng giáo dục thống nhất nhận thức về “đối tượng”, “đối tác”, giữ cho “trong ấm”,
“ngoài êm” phải giữ an ninh nội địa, giải quyết kịp thời các mâu thuẫn, tranh chấp
trong nhân dân; phải chủ động, tăng cường hợp tác quốc tế về quốc phòng, an ninh.
Sự nhận thức sâu sắc, toàn diện các nội dung trong mục tiêu, nhiệm vụ
bảo vệ Tổ quốc Việt Nam XHCN là kết quả của quá trình phát triển tư duy lý
luận của Đảng ta về quân sự, quốc phòng, BVTQ kể từ khi Đảng khởi xướng
và lãnh đạo công cuộc đổi mới toàn diện đất nước; đặc biệt là sự vận dụng
sáng tạo bài học về kết hợp SMDT với SMTĐ trong tình hình mới.
Trước sự biến đổi mau lẹ của thời cuộc và yêu cầu, nhiệm vụ bảo vệ vững
chắc độc lập, chủ quyền quốc gia, dân tộc, tạo điều kiện thuận lợi để Nhân dân

phát triển kinh tế, xây dựng đất nước; tránh mọi tác động xấu, các nguy cơ có thể
xảy ra, Hội nghị Trung ương 8, khóa IX đã xác định sáu nhiệm vụ cơ bản sau:
Một là, giữ vững hòa bình, ổn định để thực hiện thắng lợi sự nghiệp
công nghiệp hóa đất nước theo định hướng XHCN.
Hai là, xây dựng Đảng là nhiệm vụ then chốt, kết hợp chặt chẽ với
bảo vệ Đảng, bảo vệ vững chắc an ninh chính trị nội bộ.
24


Ba là, nỗ lực thực hiện thắng lợi hai nhiệm vụ trung tâm là phát triển
kinh tế gắn với giải quyết tốt các vấn đề xã hội, xây dựng nền kinh tế độc lập
tự chủ, đồng thời chủ động hội nhập kinh tế quốc tế.
Bốn là, phát huy sức mạnh khối đại đoàn kết dân tộc, mở rộng dân
chủ XHCN đi đôi với việc tăng cường trật tự kỷ cương, chú trọng giải quyết
các vấn đề dân tộc, tôn giáo, nâng cao vai trò của Mặt trận Tổ quốc và các
đoàn thể nhân dân trong sự nghiệp bảo vệ Tổ quốc.
Năm là, tăng cường quốc phòng, giữ vững an ninh quốc gia và toàn vẹn
lãnh thổ là nhiệm vụ trọng yếu thường xuyên của Đảng, Nhà nước và của toàn
dân, trong đó Quân đội nhân dân và Công an nhân dân là lực lượng nòng cốt.
Sáu là, về hoạt động đối ngoại: đẩy mạnh hoạt động đối ngoại, mở
rộng hợp tác quốc tế theo tinh thần “Việt Nam sẵn sàng là bạn, là đối tác tin
cậy của các nước trong cộng đồng quốc tế, phấn đấu vì hòa bình, độc lập và
phát triển” [3, tr. 48, 49]; ưu tiên phát triển hợp tác với các nước láng giềng,
chú trọng thúc đẩy quan hệ với các nước và trung tâm lớn, đồng thời đề
phòng sự thỏa hiệp có hại cho sự nghiệp BVTQ.
Trong các nhiệm vụ trên đây, Ban Chấp hành Trung ương Đảng đã xác
định: nhiệm vụ thứ nhất là quan trọng hàng đầu. Bởi lẽ, chỉ có thể xây dựng
thành công CNXH và bảo vệ vững chắc Tổ quốc Việt Nam XHCN khi giữ vững
môi trường quốc tế thuận lợi; duy trì được nền hòa bình lâu dài và sự ổn định
chính trị bền vững, không để xảy ra bạo loạn chính trị và “tự diễn biến”, “tự

chuyển hóa”; ngăn chặn và đẩy lùi âm mưu “diễn biến hòa bình”, nguy cơ can
thiệp và xung đột vũ trang xâm hại độc lập, chủ quyền, thống nhất, toàn vẹn lãnh
thổ của đất nước. Trong tình hình mới, nhiệm vụ then chốt là xây dựng Đảng
phải kết hợp chặt chẽ với bảo vệ Đảng và bảo vệ an ninh chính trị nội bộ. Để đáp
ứng được yêu cầu, nhiệm vụ đặt ra, Đảng Cộng sản Việt Nam đã xác định nhiệm
vụ quan trọng hàng đầu, có ý nghĩa quyết định sự thành công của sự nghiệp cách
mạng nước ta là phải xây dựng cho được đội ngũ cán bộ các cấp, đặc biệt là cán
bộ lãnh đạo có đủ phẩm chất, năng lực, đức và tài ngang tầm yêu cầu nhiệm vụ;

25


×