Tải bản đầy đủ (.doc) (88 trang)

LUẬN văn THẠC sĩ HIỆU QUẢ KINH tế, xã hội của các KHU KINH tế QUỐC PHÒNG HIỆN NAY

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (458.7 KB, 88 trang )

MỤC LỤC
Trang
3

MỞ ĐẦU

Chương 1 CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ HIỆU QUẢ KINH TẾ - XÃ
HỘI CỦA CÁC KHU KINH TẾ - QUỐC PHÒNG
1.1. Những vấn đề chung về hiệu quả kinh tế - xã hội và

10

khu kinh tế - quốc phòng
Quan niệm, tiêu chí đánh giá và các nhân tố ảnh

10

1.2.

hưởng đến hiệu quả kinh tế - xã hội của các khu kinh
tế - quốc phòng
Chương 2 THỰC TRẠNG HIỆU QUẢ KINH TẾ - XÃ HỘI

17

CỦA CÁC KHU KINH TẾ - QUỐC PHÒNG
2.1. Thành tựu, hạn chế về hiệu quả kinh tế - xã hội của

30

các khu kinh - tế quốc phòng


Nguyên nhân của những thành tựu, hạn chế về hiệu

30

2.2.

quả kinh tế - xã hội của các khu kinh - tế quốc phòng
và những vấn đề đặt ra
Chương 3 QUAN ĐIỂM CƠ BẢN VÀ GIẢI PHÁP CHỦ YẾU

49

NÂNG CAO HIỆU QUẢ KINH TẾ-XÃ HỘI CỦA
CÁC KHU KINH TẾ- QUỐC PHÒNG
3.1. Quan điểm cơ bản nâng cao hiệu quả kinh tế - xã hội

56

của các khu kinh tế - quốc phòng
Giải pháp chủ yếu nâng cao hiệu quả kinh tế - xã hội

56

của các khu kinh tế - quốc phòng

63
80
82
87


3.2.

KẾT LUẬN
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
PHỤ LỤC

CHỮ DANH MỤC VIẾT TẮT

Chữ viết đầy đủ

Chữ viết tắt

Kinh tế - quốc phòng

KT-QP

Kinh tế - xã hội

KT-XH

Quốc phòng - an ninh

QP-AN

1


MỞ ĐẦU

1. Lý do chọn đề tài

Xây dựng và bảo vệ Tổ quốc xã hội chủ nghĩa là 2 nhiệm vụ chiến lược
của cách mạng Việt Nam trong giai đoạn hiện nay. Đại hội XI của Đảng đã
chỉ rõ: “Tăng cường sức mạnh quốc phòng, an ninh cả về tiềm lực và thế trận;
xây dựng khu vực phòng thủ tỉnh, thành phố vững mạnh; xây dựng thế trận
lòng dân vững chắc trong thực hiện chiến lược bảo vệ Tổ quốc. Kết hợp chặt

2


chẽ kinh tế với quốc phòng, an ninh; quốc phòng, an ninh với kinh tế trong
từng chiến lược quy hoạch, kế hoạch phát triển KT-XH; chú trọng vùng sâu,
vùng xa, biên giới, biển đảo” [15, tr.234]. Để tăng cường tiềm lực quốc phòng
gắn với phát triển KT-XH; khắc phục tình trạng mất cân đối giữa các vùng
miền trên cả nước, Đảng, Nhà nước ta đã chủ trương xây dựng các khu KTQP trên địa bàn chiến lược vùng sâu, vùng xa, biên giới, hải đảo của Tổ quốc.
Thực hiện Quyết định số 277/QĐ-TTg ngày 31/3/2000 của Thủ tướng
Chính phủ, Bộ Quốc phòng đã lựa chọn những địa bàn đặc biệt khó khăn và
có ý nghĩa chiến lược, để xây dựng các khu KT-QP, với mục tiêu phát triển
kinh tế - xã hội các vùng dự án góp phần cải thiện và từng bước nâng cao đời
sống vật chất tinh thần của nhân dân, củng cố thế trận quốc phòng - an ninh.
Hơn 15 năm thực hiện nhiệm vụ xây dựng và phát triển các khu KT-QP trên
các địa bàn chiến lược, biên giới đến nay 23 khu KT-QP do Quân đội xây
dựng đã trở thành những điểm sáng về kinh tế, văn hóa, xã hội và QP-AN. Mô
hình xây dựng khu KT-QP đã được Đảng, Nhà nước, cấp ủy, chính quyền nhân
dân địa phương và dư luận xã hội đánh giá cao. Tuy nhiên, quá trình xây dựng
và phát triển các khu KT-QP còn bộc lộ một số hạn chế, bất cập như: nguồn vốn
đầu tư cho xây dựng các khu kinh tế - quốc phòng còn thấp so với dự toán ban
đầu (trên 50% so với kế hoạch); một số cơ chế chính sách chưa được ban hành
đồng bộ đã hạn chế việc huy động các nguồn lực vào thực hiện các mục tiêu dự
án; công tác quản lý kế hoạch, đầu tư xây dựng cơ bản, định canh, định cư, di
dân trong vùng dự án còn bất cập...

Để hoàn thành mục tiêu, nhiệm vụ về xây dựng và phát triển các khu
KT-QP đặc biệt là quy hoạch, xây dựng và phát triển các khu KT-QP đến năm
2020, định hướng đến năm 2025, cần thiết phải làm rõ cơ sở lý luận,đánh giá
thực trạng hiệu quả kinh tế - xã hội của các khu KT-QP từ năm 2000 đến nay,
trên cơ sở đó đề xuất một số quan điểm cơ bản và giải pháp chủ yếu nâng cao
hiệu quả KT-XH của các khu KT-QP những năm tiếp theo. Với ý nghĩa đó tác

3


giả chọn đề tài “Hiệu quả kinh tế - xã hội của các khu kinh tế - quốc phòng” làm
luận văn thạc sỹ chuyên ngành kinh tế chính trị của mình.
2. Tình hình nghiên cứu liên quan đến đề tài
Trong những năm gần đây vấn đề Quân đội tham gia xây dựng phát triển
các khu kinh tế - quốc phòng đã được nhiều nhà lãnh đạo, quản lý, nhiều nhà
khoa học quan tâm.
Thứ nhất, vấn đề Quân đội xây dựng các khu KT-QP đã có các công
trình tiêu biểu như:
Lương Văn Mạnh (2012), Đẩy mạnh xây dựng khu kinh tế - quốc
phòng trên các địa bàn chiến lược, biên giới, hải đảo”, Tạp chí Kinh tế
quốc phòng, số 1(2/2012). Trong bài viết, tác giả đã khái quát, đánh giá sau
hơn 12 năm thực hiện nhiệm vụ xây dựng các khu KT-QP trên các lĩnh vực
chủ yếu như: phát triển KT-XH, xây dựng cơ sở chính trị xã hội trên địa
bàn các khu KT-QP. Trên cơ sở đó tác giả đề xuất một số nội dung chủ yếu
cần tập trung thực hiện theo phương án quy hoạch xây dựng và phát triển
các khu KT-QP đến năm 2020, định hướng đến năm 2025.
Lương Văn Mạnh 2013, Kết quả đạt được và một số nét mới trong xây
dựng các khu kinh tế-quốc phòng, Tạp chí Kinh tế quốc phòng, số 2 (4/2013).
Tác giả đã đánh giá thực trạng kết quả xây dựng và phát triển các khu KT-QP
trên các lĩnh vực: xây dựng cơ sở hạ tầng kinh tế giúp dân phát triển sản xuất;

công tác quy hoạch, sắp xếp ổn định dân cư và chương trình quân, dân y kết
hợp. Từ đó tác giả đề xuất 4 giải pháp chủ yếu nhằm đẩy nhanh tiến độ và
nâng cao hiệu quả hoạt động các khu KT-QP năm 2013 và các năm tiếp theo.
Viện Khoa học xã hội nhân văn Quân sự, Bộ Quốc phòng (2006), Nghiên
cứu nâng cao hiệu quả Quân đội tham gia xây dựng cơ sở chính trị - xã hội ở các
khu kinh tế-quốc phòng”, đề tài cấp Bộ Quốc phòng. Trong công trình này nhóm
tác giả đã phân tích luận giải vấn đề Quân đội tham gia xây dựng cơ sở chính trị xã hội ở các khu KT-QP cả về tính chất, phạm vi, nội dung, hình thức, phương pháp

4


và lực lượng tham gia; đánh giá thực trạng hiệu quả Quân đội tham gia xây dựng cơ
sở chính trị - xã hội từ năm 2000 - 2005. Một trong những giải pháp nhóm tác giả
đã đề cập: về vai trò của đoàn kinh tế - quốc phòng; xây dựng cơ chế phối hợp giữa
các đơn vị quân đội đứng chân trên địa bàn với cấp ủy, chính quyền địa phương
trong xây dựng cơ sở chính trị - xã hội ở các khu KT-QP là đặc biệt quan trọng.
Đỗ Mạnh Hùng - Tạ Minh Tuấn (2011), Bàn về tính đặc thù của khu
KT-QP, Tạp chí Kinh tế quốc phòng, số 2 (4/2011). Trong bài viết các tác giả
đã chỉ ra những đặc điểm chủ yếu trong đầu tư xây dựng các khu KT-QP như:
mục tiêu, nhiệm vụ, nguồn lực đầu tư; quy trình thực hiện và các yếu tố tác
động đến hiệu quả của hoạt động đầu tư phát triển cá khu KT-QP...làm rõ sự
khác biệt của khu KT-QP với các loại hình khu kinh tế, khu kinh tế cửa khẩu,
vùng kinh tế. Từ tính đặc thù, đòi hỏi phải nghiên cứu xây dựng các cơ chế,
chính sách phù hợp đối với đầu tư xây dựng khu KT-QP và công tác bảo đảm
cho các hoạt động của đoàn KT-QP.
Trần Nam Chuân (2011), Hoàn thiện hệ thống tổ chức quản lý nhà
nước đối với các khu KT-QP, Tạp chí Kinh tế quốc phòng, số 4 (8/2011).
Trong bài viết này tác giả đã khẳng định, hoàn thiện hệ thống tổ chức quản lý
nhà nước đối với các khu KT-QP phải thực hiện trên 2 nội dung cơ bản là
kiện toàn bộ máy quản lý và hoàn thiện cơ chế quản lý điều hành. Từ đó tác

giả đã đề ra một số yêu cầu nhằm nâng cao hiệu lực quản lý nhà nước về khu
KT-QP trong những năm tới.
Lê Hữu Đức (2014) Gắn phát triển các khu kinh tế với bảo vệ biên giới tổ
quốc, Bqp.Vn, Website: bqp.vn, mod.gov.vn. Trong bài viết tác giả đã khẳng
định sự cần thiết phải gắn phát triển các khu kinh tế với tăng cường quốc phòng
an ninh nói chung, tầm quan trọng của xây dựng các khu kinh tế - quốc phòng
với nhiệm vụ bảo vệ biên giới. Theo đó các khu KT-QP cần tập trung ưu tiên
xây dựng kết cấu hạ tầng kinh tế phục vụ sản xuất, từng bước nâng cao đời sống
vật chất, tinh thần của nhân dân; tổ chức quy hoạch di dân, bố trí dân cư theo kế
hoạch sản xuất. Đồng thời các khu KT-QP phải vừa trực tiếp sản xuất tập trung,

5


làm dịch vụ cho đồng bào phát triển sản xuất, tiêu thụ sản phẩm hàng hóa, vừa
xây dựng mô hình phát triển trồng trọt, chăn nuôi để giúp dân chuyển từ sản xuất
tự cung, tự cấp sang sản xuất hàng hóa.
Trịnh Hoài Thanh (2013), Nâng cao năng lực trong thực hiện chức
năng chủ đầu tư dự án khu kinh tế - quốc phòng, Tạp chí Kinh tế quốc phòng
số 1 (2/2013). Tác giả đã đánh giá thực trạng đầu tư phát triển các khu KT-QP
từ năm 2000 đến nay, đặc biệt là những vấn đề tồn tại trong công tác đầu tư
như: công tác quy hoạch, xây dựng, quản lý kế hoạch còn bất cập; việc thực
hiện lồng ghép các dự án, công trình vùng dự án chưa tốt; quá trình đầu tư
còn dàn trải. Tác giả cũng chỉ ra một trong những nguyên nhân cơ bản dẫn
đến hạn chế trên là do năng lực của các đoàn KT-QP với tư cách là chủ đầu
tư còn hạn chế; từ đó đề xuất một số giải pháp nâng cao năng lực của các
đoàn KT-QP nhất là trong đào tạo, bồi dưỡng cán bộ.
Nguyễn Huy Tiến (2013), Quân đội triển khai hiệu quả dự án nhân rộng
mô hình giảm nghèo tại các khu KT-QP, Tạp chí Kinh tế quốc phòng, số 1
(2/2013). Trong bài viết tác giả đã cho thấy dự án nhân rộng mô hình giảm nghèo

tại các khu KT-QP đã tạo nên sự thay đổi tích cực đời sống KT-XH của đồng bào
vùng dự án, thông qua những hoạt động thiết thực của các đoàn KT-QP. Trên cơ
sở đó, tác giả đã khái quát những vấn đề có tính kinh nghiệm trong thực hiện dự
án nhân rộng mô hình giảm nghèo các khu KT-QP trong những năm tới.
Trần Xuân Phương (2003), Xây dựng phát triển các khu kinh tế - quốc
phòng ở nước ta hiện nay và vai trò của quân đội trong quá trình đó”, luận văn
thạc sĩ kinh tế chính trị, Học viện chính trị. Trong công trình này, tác giả đã khẳng
định sự cần thiết phải xây dựng các khu KT-QP ở nước ta trong gia đoạn hiện nay
cũng như vai trò của quân đội mà trực tiếp là các đoàn KT-QP trong tham gia xây
dựng và phát triển các khu kinh tế - quốc phòng. Trên cơ sở đánh giá thực trạng của
việc xây dựng và phát triển các khu KT-QP thời gian qua, các quan điểm và giả
pháp mà tác giả đề xuất hướng vào mục tiêu đó là xây dựng và phát triển các khu
kinh tế - quốc phòng phải mang lại lợi ích tổng hợp cả về KT-XH và QP-AN.

6


Đỗ Mạnh Hùng (2008), Đầu tư phát triển các khu kinh tế - quốc phòng
ở Việt nam hiện nay, luận án tiến sỹ kinh tế, trường Đại học Kinh tế Quốc
dân; Trong công trình này tác giả tập trung nghiên cứu tổng quan khu kinh tế,
khu KT-QP, hoạt động đầu tư cũng như hiệu quả đầu tư vào khu KT-QP. Trên
cơ sở đánh giá thực trạng kết quả đầu tư vào các khu KT-QP; đánh giá hiệu
quả đầu tư, phân tích các nhân tố ảnh hưởng đến kết quả và hiệu quả đầu tư,
tác giả đề ra các định hướng và một số giải pháp hoàn thiện đầu tư vào khu
KT-QP ở nước ta hiện nay.
Thứ hai, xung quanh vấn đề hiệu quả kinh tế - xã hội đã có các công

trình: Đỗ Văn Vĩnh (2006), Quan niệm về các tiêu chí xác định hiệu quả kinh
tế - xã hội trong hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp Nhà nước,
Kỷ yếu khoa học, Học viện CTQGHCM; Nguyễn Khắc Thanh (2006), Một số

quan điểm về hiệu quả kinh tế xã hội của doanh nghiệp Nhà nước trong nền
kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, Kỷ yếu khoa học, Học viện
Chính trị Quốc gia Hồ Chí Minh. Trong các công trình này, trên cơ phân tích
làm rõ vai trò, thực trạng sản xuất kinh doanh của các doanh ngiệp nhà nước,
các tác giả đã xây dựng hệ tiêu chí về hiệu quả sản xuất kinh doanh làm cơ sở
cho việc đánh giá hiệu quả sản xuất kinh doanh của các doanh nghiệp nhà
nước trong nền kinh tế thị trường, định hướng xã hội chủ nghĩa.
Trần Văn Tịch (2007), Hiệu quả kinh tế - xã hội của các khu kinh tế
quốc phòng trên địa bàn tỉnh Quảng Ninh hiện nay, luận văn thạc sĩ kinh
tế chính trị, Học viện chính trị. Trong công trình này tác giả đã luận giả
khá sâu sắc cơ sở lý luận và thực tiễn xây dựng, phát triển các khu KT-QP
nói chung, hiệu quả KT-XH các khu KT-QP trên địa bàn tỉnh Quảng Ninh
nói riêng. Bên cạnh những thành tựu đã đạt được cũng như những hạn chế
tồn tại, tác giả đề xuất một số giải pháp để nâng cao hiệu quả KT-XH các
khu KT-QP trên địa bàn tỉnh Quảng Ninh trong những năm tiếp theo.
Các công trình khoa học trên, tiếp cận dưới các góc độ khác nhau, đã có
những đóng góp nhất định về nội dung liên quan đến đề tài như quan niệm về

7


đặc điểm các khu KT-QP; vai trò của quân đội trong thực hiện nhiệm vụ ở khu
KT-QP; hiệu quả KT-XH và những tiêu chí đánh giá hiệu quả KT-XH trong
sản xuất kinh doanh.
Tuy nhiên, cho đến nay những vấn đề lý luận và thực tiễn về hiệu quả KTXH của các khu KT-QP chưa được nghiên cứu đầy đủ và có hệ thống. Kết quả
nghiên cứu những vấn đề liên quan tới các khu KT-QP cùng thực trạng về tình
hình hiệu quả kinh tế - xã hội của các khu KT-QP đặt ra yêu cầu cấp thiết phải
nghiên cứu làm rõ những vấn đề lý luận và thực tiễn về nội dung, đối tượng
nghiên cứu mà đề tài xác định.
3. Mục đích, nhiệm vụ nghiên cứu của đề tài

* Mục đích nghiên cứu
Luận giải cơ sở lý luận và thực tiễn hiệu quả KT-XH của các khu KTQP; đề xuất một số quan điểm và giải pháp cơ bản để nâng cao hiệu quả KTXH của các khu KT-QP trong thời gian tới.
* Nhiệm vụ nghiên cứu
- Làm rõ cơ sở lý luận về hiệu quả KT-XH của các khu KT-QP: khái
niệm, các nhân tố ảnh hưởng và tiêu chí đánh giá hiệu quả KT-XH của các
khu KT-QP.
- Đánh giá thực trạng hiệu quả KT-XH trong quá trình xây dựng, phát
triển các khu KT-QP; chỉ ra các nguyên nhân thành tựu, hạn chế và những
vấn đề đặt ra cần giải quyết.
- Đề xuất một số quan điểm cơ bản và giải pháp chủ yếu để nâng cao
hiệu quả KT-XH của các khu KT-QP trong thời gian tới.
4. Đối tượng, phạm vi nghiên cứu của đề tài
* Đối tượng nghiên cứu
Hiệu quả KT-XH của các khu KT-QP dưới góc nhìn của khoa học
kinh tế chính trị.
* Phạm vi nghiên cứu

8


- Về nội dung: Khảo sát hiệu quả KT-XH, đề ra giải pháp trên cơ sở
dựa chắc vào nội hàm khái niệm hiệu quả KT-XH và các tiêu chí đánh giá.
- Về thời gian: Từ năm 1998 đến nay
- Về không gian: 23 khu KT-QP hiện có trên cả nước
5. Phương pháp luận và phương pháp nghiên cứu của đề tài
* Phương pháp luận
Luận văn được nghiên cứu dựa trên phương pháp luận duy vật biện
chứng và duy vật lịch sử của chủ nghĩa Mác - Lênin
* Phương pháp nghiên cứu
Đề tài sử dụng các phương pháp chủ yếu như: phương pháp trừu tượng

hóa khoa học, phương pháp hệ thống, phân tích, tổng hợp, thống kê so sánh
và một số phương pháp khác của kinh tế chính trị.
6. Ý nghĩa của đề tài
Ý nghĩa lý luận: Góp phần làm rõ quan niệm và những tiêu chí đánh giá
hiệu quả KT-XH của các khu KT-QP; các quan điểm, giải pháp nâng cao hiệu
quả kinh tế - xã hội của các khu KT-QP. Luận văn có thể dùng làm tài liệu
tham khảo trong nghiên cứu, giảng dạy môn kinh tế chính trị, kinh tế quân sự
trong các nhà trường quân đội.
Ý nghĩa thực tiễn: Làm cơ sở vận dụng vào thực tiễn quá trình xây
dựng, phát triển các khu KT-QP ở nước ta hiện nay.
7. Kết cấu đề tài
Gồm phần mở đầu; 3 chương (6 tiết); kết luận; danh mục tài liệu tham
khảo và phụ lục
Chương 1
CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ HIỆU QUẢ KINH TẾ - XÃ HỘI
CỦA CÁC KHU KINH TẾ - QUỐC PHÒNG

1.1. Những vấn đề chung về hiệu quả kinh tế - xã hội và khu kinh tế quốc phòng

9


1.1.1. Hiệu quả kinh tế - xã hội
* Hiệu quả kinh tế
Trong mọi lĩnh vực hoạt động, hiệu quả bao giờ cũng là vấn đề được
các chủ thể quan tâm. Hiệu quả là một thuật ngữ được sử dụng phổ biến
trong các lĩnh vực của đời sống xã hội (chính trị, quân sự, quốc phòng, an
ninh, đặc biệt là trong kinh tế) để “đo” kết quả đạt được về mặt chất lượng
qua các thời kỳ, một giai đoạn nhất định. Xét vấn đề một cách tổng quát nhất,
hiệu quả chính là sự so sánh giữa kết quả đạt được trong các hoạt động của

một lĩnh vực nào đó với các nguồn lực đã được sử dụng, chẳng hạn các chi
phí về lao động, tài chính, vật chất, hoặc thời gian để hoàn thành. Hiệu quả
được xác định bằng công thức: H = K/C, trong đó: H là hiệu quả, K là kết
quả, C là chi phí.



một số lĩnh vực phức tạp, có tính trừu tượng cao, như

hoạt động chính trị - xã hội, hiệu quả cũng được xem xét trong mối quan hệ
với mục đích, nhiệm vụ đã đề ra, trong sự tác động, ảnh hưởng của nó đến các
lĩnh vực xã hội khác theo hướng tích cực, hoặc tiêu cực.
Hiệu quả kinh tế được hiểu là sự so sánh giữa kết quả và chi phí, sao cho
kết quả thì đạt tối đa, chi phí ở mức tối thiểu. Nói rõ hơn, đó là trình độ sử dụng
các yếu tố của lao động, ứng dụng khoa học kỹ thuật, cải tiến phương pháp,
cách thức quản lý v.v. để có kết quả sản xuất tốt nhất, ở mức tối đa và chi phí
cho kết quả đó ở mức thấp nhất. Mọi hoạt động sản xuất được xem là có hiệu
quả khi hoạt động sản xuất đó diễn ra các trường hợp: a) kết quả và chi phí đều
tăng, nhưng chi phí tăng chậm hơn (ít hơn) so với kết quả, hoặc kết quả và chi
phí đều giảm, nhưng chi phí giảm nhanh hơn; b) kết quả tăng lên trong khi chi
phí vẫn giữ nguyên hoặc giảm xuống; c) kết quả giữ nguyên nhưng chi phí
giảm xuống. Như vậy, trong lĩnh vực kinh tế muốn có hiệu quả thì kết quả đạt
được phải nhiều hơn so với chi phí tương ứng. Suy rộng ra hiệu quả là sự tiết
kiệm sức lao động xã hội.

10


Trong các hoạt động KT-XH, thì hiệu quả được thể hiện ở 2 nội dung
chủ yếu đó là: hiệu quả kinh tế, hiệu quả xã hội.

Hiệu quả kinh tế là hiệu quả xét về mặt kinh tế, được so sánh, tính toán
dựa trên giá trị và được đo bằng tiền. Hiệu quả kinh tế mô tả mối quan hệ lợi
ích kinh tế mà chủ thể nhận được và chi phí bỏ ra để nhận được lợi ích kinh tế
đó, biểu hiện của lợi ích và chi phí kinh tế phụ thuộc vào chủ thể và mục tiêu
mà chủ thể đặt ra. Hiệu quả kinh tế phản ánh chất lượng hoạt động kinh tế và
được xác định bởi tỷ số giữa kết quả đạt được với chi phí bỏ ra để đạt được
kết quả đó.
Trong hoạt động sản xuất kinh doanh, hiệu quả kinh tế là mối quan tâm
hàng đầu của các nhà quản lý cả ở tầm vĩ mô và vi mô. Bởi vì, đây chính là
tiêu chuẩn, là thước đo để đánh giá hiệu suất của vốn đầu tư, đánh giá khả
năng phát triển sản xuất của một tổ chức kinh tế. Phân tích hiệu quả kinh tế
trong hoạt động sản xuất kinh doanh của các cơ sở sản xuất, của một ngành và
rộng hơn là của toàn xã hội cho biết: cơ sở, ngành và xã hội đã sử dụng nguồn
lực như thế nào; kết quả đạt được ra sao; từ đó có những biện pháp sử dụng
các nguồn lực tốt hơn và đạt hiệu quả kinh tế cao hơn. Trong kinh tế thị
trường, phân tích hiệu quả kinh tế của các đơn vị hay toàn bộ nền kinh tế để
đánh giá được mức sinh lời của vốn; thấy được lợi nhuận và lợi nhuận ròng
thu được; đánh giá được tổng thu nhập quốc dân, thu nhập của các tầng lớp
dân cư; đánh giá mức sống và chất lượng cuộc sống của nhân dân trong
những điều kiện và thời gian cụ thể.
* Hiệu quả xã hội
Hiệu quả xã hội phản ánh trình độ sử dụng các nguồn lực nhằm đạt
được các mục tiêu xã hội nhất định. Các mục tiêu xã hội thường thấy là: giải
quyết công ăn, việc làm trong phạm vi toàn xã hội hoặc từng khu vực kinh tế;
giảm số người thất nghiệp; nâng cao trình độ và đời sống văn hóa, tinh thần
cho người lao động, đảm bảo mức sống tối thiểu cho người lao động, nâng
cao mức sống cho các tầng lớp nhân dân trên cơ sở giải quyết tốt các quan hệ

11



trong phân phối, đảm bảo và nâng cao sức khỏe; đảm bảo vệ sinh môi
trường... Nếu xem xét hiệu quả xã hội, người ta xem xét mức tương quan giữa
các kết quả (mục tiêu) đạt được về mặt xã hội (cải thiện điều kiện lao động,
nâng cao đời sống văn hóa và tinh thần, giải quyết công ăn, việc làm...) và chi
phí bỏ ra để đạt được kết quả đó.
Như vậy, theo quan niệm chung nhất, hiệu quả kinh tế - xã hội là một
phạm trù kép, gắn liền kết quả thực hiện các mục tiêu, nhiệm vụ kinh tế với kết
quả đạt được trong giải quyết các vấn đề xã hội của các đơn vị, các ngành, các
địa phương cũng như của toàn bộ nền kinh tế trong một thời gian nhất định.
1.1.2. Khu kinh tế - quốc phòng
* Khu kinh tế
Để luận giải khái niệm khu KT-QP, trước hết phải làm rõ khái niệm về
khu kinh tế. Khái niệm về khu kinh tế được đề cập trong Luật Đầu tư năm
2005, theo đó: “Khu kinh tế là không gian kinh tế riêng biệt, có môi trường
đầu tư và kinh doanh đặc biệt thuận lợi cho các nhà đầu tư, có ranh giới địa
lý xác định, được thành lập theo quy định của Chính phủ”.
Từ khái niệm này chúng ta có thể rút ra một số đặc điểm (điều kiện
cần) của khu kinh tế: là không gian kinh tế riêng biệt, gắn với một chức năng
riêng nào đó (cửa khẩu, vùng kinh tế, ngành kinh tế,...); có môi trường đầu tư
và kinh doanh thuận lợi, có dân cư sinh sống và được áp dụng những cơ chế,
chính sách phát triển đặc thù, phù hợp với từng địa phương sở tại; có ranh
giới địa lý xác định; được thành lập theo quy định của Chính phủ. Ngoài khái
niệm được luật hóa về khu kinh tế trên, hiện nay chưa có tài liệu chính thức
nào ở Việt Nam định nghĩa về khu kinh tế. Từ khái niệm trên đây, đối chiếu
với thực tế các khu kinh tế ở nước ta hiện nay cho thấy khái niệm này đã phản
ánh được về cơ bản thực tế ở các khu kinh tế, mặc dù mỗi loại hình khu kinh
tế đều có những đặc trưng riêng.
Tóm lại, cho dù chưa có khái niệm chính thức về khu kinh tế, tuy nhiên,
việc phân tích trên cũng cho thấy khái niệm về khu kinh tế theo Luật Đầu tư năm


12


2005 là rất gần với thực tiễn của các loại hình khu kinh tế ở nước ta hiện nay.
* Khu KT-QP
- Quan niệm khu KT-QP
Trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ tổ quốc, vấn đề kết hợp kinh tế
với quốc phòng đã được Đảng, Nhà nước quan tâm lãnh đạo, chỉ đạo từ rất
sớm. Sau thắng lợi của cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp, chúng ta đã
điều động hơn 8 vạn cán bộ, chiến sỹ đi làm nhiệm vụ kinh tế, hình thành nên
20 nông trường quân đội nằm trên các địa bàn chiến lược trọng yếu cả về kinh
tế và quốc phòng. Như vậy, nông trường quân đội cũng có thể được coi là
hình thức manh nha của các khu KT-QP ở nước ta. Tuy nhiên, các khu KTQP theo đúng nghĩa của nó phải đến năm 1985 mới thực sự hình thành.
Năm 1985 theo Quyết định 68/HĐBT của Hội đồng Bộ trưởng (nay là
Chính phủ), Binh đoàn 15 được thành lập với nhiệm vụ chủ yếu là “Phát triển
kinh tế xã hội gắn với nhiệm vụ QP-AN, xây dựng các khu dân cư - xã hội trên địa
bàn chiến lược Tây Nguyên”, gọi tắt là khu KT-QP.
Tiếp theo đó, ngày 31 tháng 3 năm 2000, Thủ tướng Chính phủ ra
Quyết định số 277/QĐ-TTg phê duyệt đề án tổng thể Quân đội tham gia xây
dựng phát triển kinh tế - xã hội các xã đặc biệt khó khăn, vùng sâu, vùng xa
gắn với xây dựng quốc phòng - an ninh trên địa bàn chiến lược biên giới, ven
biển. Theo Quyết định đó, hàng chục dự án xây dựng các khu KT-QP đã được
triển khai, cho đến nay ở nước ta đã và đang xây dựng 23 khu KT-QP trên các
địa bàn trọng điểm biên giới, hải đảo.
Khái niệm khu KT-QP lần đầu tiên đã được đề cập trong từ điển bách
khoa quân sự Việt Nam như sau:
“Khu KT-QP là vùng lãnh thổ và dân cư thuộc các xã đặc biệt khó
khăn, vùng sâu, vùng xa trên địa bàn chiến lược, biên giới, ven biển, được đầu
tư xây dựng phát triển kinh tế - xã hội gắn với QP-AN theo Quyết định số

277/QĐ-TTg, ngày 31 tháng 3 năm 2000 của Thủ tướng Chính phủ; do Quân
đội đảm nhiệm, lấy đơn vị KT-QP làm nòng cốt. Khu KT-QP có nhiệm vụ:
xây dựng cơ sở hạ tầng KT-XH; khai thác tối đa tiềm năng đất đai để phát

13


triển sản xuất, từng bước chuyển sang kinh tế hàng hoá với các loại cây trồng,
vật nuôi có giá trị kinh tế cao; bố trí lại dân cư trên địa bàn theo quy hoạch
phát triển KT-XH; bảo vệ môi trường sinh thái và sử dụng bền vững, hợp lý
các nguồn tài nguyên thiên nhiên; phục hồi, bảo tồn và phát triển văn hoá
truyền thống dân tộc, nhằm nâng cao đời sống vật chất và tinh thần của nhân
dân, kết hợp bảo đảm QP-AN, hình thành các cụm làng xã biên giới tạo nên
vành đai biên giới trong thế trận quốc phòng toàn dân bảo vệ Tổ quốc”.
Ngày 21/9/2004, Bộ Quốc phòng đã ra Quy chế hoạt động của đoàn
KT-QP, trong đó, đưa ra quan niệm: “Khu KT-QP là tên gọi tắt của dự án khu
KT-QP, do Bộ Quốc phòng làm chủ đầu tư hoặc khu vực được Bộ Quốc
phòng xác định, có các đoàn KT-QP đứng chân, nhằm thực hiện mục tiêu
phát triển KT-XH các xã đặc biệt khó khăn, vùng sâu, vùng xa, gắn với xây
dựng thế trận quốc phòng, an ninh trên các địa bàn chiến lược biên giới”.
Khu KT-QP là khu vực được hình thành trên cơ sở và nhằm thực hiện
“Đề án tổng thể Quân đội tham gia xây dựng, phát triển KT-XH ở các xã đặc
biệt khó khăn, vùng sâu, vùng xa, gắn với xây dựng các khu QP-AN trên các
địa bàn chiến lược biên giới, ven biển” của Chính phủ, đáp ứng yêu cầu xây
dựng và bảo vệ Tổ quốc trong tình hình mới.
Tóm lại, khu KT-QP là dạng thức tổ chức KT-XH, QP-AN phức hợp
mang tính lãnh thổ quy mô nhỏ, được lập ra trên cơ sở các dự án nằm trong đề
án quy hoạch tổng thể do Bộ Quốc phòng lập, được Chính phủ phê duyệt, giao
cho các đoàn KT-QP làm lực lượng nòng cốt tổ chức triển khai xây dựng trên
các địa bàn khó khăn có vị trí chiến lược ở những vùng biên giới, hải đảo; nhằm

thực hiện các mục tiêu gắn phát triển KT-XH với tăng cường QP-AN, lấy phát
triển KT-XH giữ vai trò quyết định, tạo cơ sở vật chất, tinh thần để xây dựng lực
lượng, thế trận QP-AN, xây dựng tuyến hành lang biên giới vững chắc trong
thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước.
Như vậy, quan niệm về khu KT-QP bao hàm các nội dung:

14


Một là, nêu rõ tính chất của khu KT-QP: đó là mô hình tổ chức kinh tế
tổng hợp với mục tiêu kết hợp phát triển KT-XH với tăng cường QP-AN.
Hai là, xác định không gian xây dựng khu KT-QP: được xây dựng
trên các địa bàn khó khăn, có vị trí chiến lược ở vùng sâu, vùng xa, biên
giới, ven biển, hải đảo.
Ba là, chỉ rõ chủ thể quản lý, lực lượng trực tiếp tổ chức triển khai
thực hiện: Nhà nước giao cho Bộ Quốc phòng làm chủ đầu tư và quản lý,
các đơn vị quân đội tại các khu KT-QP làm lực lượng nòng cốt.
Bốn là, xác định mục tiêu lấy phát triển KT-XH giữ vai trò quyết
định, tạo cơ sở vật chất, tinh thần để xây dựng lực lượng, thế trận QP-AN
bảo vệ địa bàn.
- Đặc điểm các khu KT-QP
Khu KT-QP chính là chương trình lồng ghép hai nhiệm vụ: phát triển
kinh tế - văn hoá - xã hội và củng cố QP-AN, cho một “khu vực”, một
“vùng” cụ thể, trên các địa bàn chiến lược đã được hoạch định trước trong
chương trình của Chính phủ, dự án của Bộ Quốc phòng ở các địa bàn chiến
lược, vùng sâu, vùng xa, biên giới, hải đảo. Khu KT-QP chứa đựng trong
lòng nó nội dung tổng hợp của tất cả các lĩnh vực chính trị, kinh tế, văn hoá,
xã hội, QP-AN. Do đó, xây dựng và phát triển các khu KT-QP chính là để gắn
nhiệm vụ phát triển KT-XH với củng cố QP-AN trong các vùng dự án.
Các khu KT-QP đều được xây dựng ở các vùng đất đai còn hoang hoá,

vùng miền núi, vùng sâu, vùng xa, biên giới, ven biển, hải đảo, đây là những
vùng có ý nghĩa chiến lược về QP-AN. Ở những vùng này, các tiềm năng, lợi thế
về kinh tế chưa được đánh thức và khai thác do nhiều nguyên nhân cả chủ quan
và khách quan. Về điều kiện địa lý, đây là những vùng có địa hình hiểm trở,
phức tạp, khí hậu khắc nghiệt, mật độ dân cư ở những nơi này thường rất thấp
(có nơi 2 người/ km2). Về mặt xã hội đây là vùng sinh sống của phần đông đồng
bào các dân tộc thiểu số; trình độ dân trí thấp, phong tục tập quán sinh hoạt còn
lạc hậu, đời sống vật chất, tinh thần còn gặp nhiều khó khăn, thiếu thốn.

15


Ở các khu KT-QP, phải gắn xây dựng khu kinh tế với củng cố QPAN. Nghĩa là, đồng thời với các hoạt động xây dựng về kinh tế tại các khu
kinh tế mới sẽ diễn ra các hoạt động xây dựng về mặt QP-AN, từng bước
củng cố, phát triển hệ thống các cụm làng, xã biên giới tạo nên sự vững
mạnh về thế trận quốc phòng toàn dân và an ninh nhân dân cũng như lực
lượng vũ trang địa phương. Chính hai mặt hoạt động này là điều kiện hỗ trợ
cho nhau cùng phát triển, do vậy các khu kinh tế mới này sẽ ngày càng
vững về kinh tế và mạnh về QP-AN.
Khu KT-QP tuy nằm trên nhiều xã, nhiều huyện, nhưng không phải là
đơn vị hành chính trung gian giữa tỉnh với huyện hoặc giữa huyện với xã. Tổ
chức hành chính của Nhà nước vẫn điều hành, quản lý về mọi mặt theo hệ
thống dọc. Khu KT-QP là một dạng thức rất đặc thù, một mô hình phát triển
KT-XH gắn với củng cố QP-AN trên các địa bàn chiến lược, biên giới, ven
biển, vùng sâu, vùng xa của Tổ quốc, được hình thành và phát triển trên cơ sở
dự án khu KT-QP.
Khu KT-QP là khu vực có đoàn KT-QP đứng chân, đại diện cho Quân
đội trực tiếp thực hiện các nhiệm vụ dự án xây dựng và phát triển khu KT-QP .
Không có đoàn KT-QP thực hiện dự án thì không thể gọi là khu KT-QP.
Đoàn KT-QP và KT-QP cùng tồn tại và phát triển trong sự phụ thuộc lẫn

nhau. Các khu KT-QP được chia làm hai loại: một là, khu KT-QP với nhiệm
vụ sản xuất tập trung, phát triển kinh tế gắn với củng cố QP-AN (Binh đoàn 15,
Binh đoàn 16); hai là, khu KT-QP không sản xuất tập trung, thực hiện nhiệm
vụ củng cố QP-AN là chủ yếu (các khu khu KT-QP từ Quân khu IV trở ra). Cả
hai loại này đều cần được phát triển trong thời gian tới.
1.2. Quan niệm, tiêu chí đánh giá và các nhân tố ảnh hưởng đến
hiệu quả kinh tế - xã hội của các khu kinh tế - quốc phòng
1.2.1. Quan niệm hiệu quả KT-XH của các khu KT-QP

16


Khu KT-QP cũng được coi là một trong những kiểu tổ chức kinh tế
gắn với những vùng lãnh thổ được xác định, nhưng không giống các tổ
chức kinh tế khác bởi tính đặc thù của nó. Nó là tổ chức kinh tế trong đó
bao gồm các đơn vị quân đội được giao nhiệm vụ thực hiện đề án tổng thể
Quân đội tham gia xây dựng, phát triển KT-XH ở các xã đặc biệt khó khăn,
gắn với xây dựng thế trận quốc phòng toàn dân và an ninh nhân dân trên
các địa bàn chiến lược. Do vậy, hiệu quả KT-XH của các khu KT-QP phải
là hiệu quả tổng hợp cả về kinh tế, xã hội, QP-AN, trên cơ sở kết hợp chặt
chẽ giữa kinh tế với quốc phòng trong xây dựng, phát triển kinh tế.
Tuy nhiên, cần thấy rằng việc xây dựng và phát triển các khu KTQP ở nước ta hiện nay là chủ trương lớn của Quân ủy Trung ương và Bộ
Quốc phòng. Nhằm thực hiện nhiệm vụ mà Đảng và Nhà nước giao cho
Quân đội trong quá trình tham gia thực hiện “Chương trình phát triển KTXH các xã đặc biệt khó khăn ở miền núi, vùng sâu, vùng xa”, đồng thời
củng cố QP-AN trên những địa bàn chiến lược của Tổ quốc với những
nhiệm vụ được giao cụ thể:
Thứ nhất, về KT-XH: xây dựng kết cấu hạ tầng là nhiệm vụ trọng tâm
thời kỳ đầu triển khai các dự án, tạo nền tảng cho thực hiện các mục tiêu của
khu KT-QP; ưu tiên xây dựng, nâng cấp hệ thống cầu, đường, hình thành
mạng lưới giao thông nối liền các bản, cụm bản với huyện, tỉnh; xây dựng hệ

thống điện, trường học, trạm y tế, chợ, các công trình thủy lợi...phục vụ sản
xuất, đời sống vật chất tinh thần của nhân dân. Tổ chức phát triển sản xuất;
triển khai các dự án khai hoang, phục hoá đất đai để phát triển các vùng kinh
tế chuyên canh theo hướng sản xuất hàng hoá, phục vụ cho nhu cầu trong
nước cũng như xuất khẩu ra thị trường nước ngoài; tạo nhiều việc làm để có
thể thực hiện di dời dân ra các vùng dự án. Xây dựng văn hóa, xã hội, mà cốt
lõi là phát triển giáo dục, y tế, nhằm nâng cao dân trí, đào tạo nhân lực; xóa
bỏ phong tục tập quán lạc hậu, mê tín dị đoan; chăm sóc sức khỏe nhân dân.

17


Thứ hai, về QP-AN: xây dựng lực lượng, thế trận QP-AN bảo vệ địa bàn;
thực hiện bố trí lại một cách hợp lý các cụm dân cư tạo ra thế trận phòng thủ liên
hoàn trên toàn tuyến biên giới. Xây dựng cơ sở chính trị - xã hội; bảo đảm giữ
vững an ninh chính trị, trật tự an toàn xã hội trong khu KT-QP, góp phần giữ
vững chủ quyền, an ninh biên giới của quốc gia.
Như vậy với nhiệm vụ được giao cụ thể đã nêu trên, các đoàn KT-QP
(lực lượng nòng cốt trong xây dựng và phát triển kinh tế xã hội ở các khu
KT-QP) mặc dù cũng được coi là một kiểu tổ chức kinh tế tham gia xây
dựng kinh tế, nhưng không phải là đơn vị chuyên làm kinh tế. Đồng thời, là
những đơn vị quân đội tham gia củng cố QP-AN giữ vững chủ quyền đất
nước, nhưng không phải là những đơn vị bộ đội chủ lực làm nhiệm vụ sẵn
sàng chiến đấu và chiến đấu. Vì vậy, khái niệm hiệu quả KT-XH của các
khu KT-QP không thể hiểu như khái niệm hiệu quả KT-XH của các doanh
nghiệp hạch toán kinh doanh nói chung.
Từ những luận giải trên, tác giả đưa ra khái niệm về hiệu quả KT-XH
của các khu KT-QP như sau:
Hiệu quả KT-XH của các khu KT-QP là phạm trù kép gắn
liền kết quả thực hiện các nhiệm vụ, mục tiêu KT-XH với QP-AN;

là tỷ lệ giữa kết quả đạt được với những nguồn lực đã chi phí
được diễn ra ở không gian kinh tế có tính chất đặc thù do Quân
đội quản lý, trong một thời gian xác định.
1.2.2. Tiêu chí đánh giá hiệu quả KT-XH của các khu KT-QP
Tiêu chí là dấu hiệu làm căn cứ để nhận biết, xếp loại một sự vật,
một hiện tượng. Do đó, có thể hiểu tiêu chí đánh giá hiệu quả hoạt động
chính là các tham số xác định về kết quả hoạt động và những chi phí vật
chất, chi phí lao động, chi phí về thời gian. Vì vậy, việc xác định tiêu chí
đánh giá cần phải sát, đúng với tính chất của hoạt động thì mới đánh giá
đúng hoạt động đó hiệu quả hay không, ở mức độ nào. Từ khái niệm hiệu

18


quả KT-XH của các khu KT-QP chỉ rõ, khi đánh giá hiệu quả không chỉ
đơn thuần là về mặt kinh tế, xã hội mà nó còn bao hàm cả về QP-AN trên
cơ sở kết hợp giữa QP-AN trong hoạt động sản xuất kinh tế. Mặt khác, tiêu
chí đánh giá hiệu quả KT-XH của khu KT-QP cũng không hoàn toàn đồng
nhất với tiêu chí đánh giá hiệu quả KT-XH của hoạt động sản xuất kinh
doanh. Bởi vì, xây dựng khu KT-QP nhằm thực hiện các mục tiêu gắn phát
triển KT-XH với tăng cường QP-AN, lấy phát triển KT-XH giữ vai trò
quyết định, tạo cơ sở vật chất, tinh thần để xây dựng lực lượng, thế trận
QP-AN, xây dựng tuyến hành lang biên giới vững chắc trong thời kỳ đẩy
mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước. Do đặc thù của khu KT-QP,
nên khả năng thu hồi vốn của các công trình hạ tầng miền núi, vùng sâu,
vùng xa, biên giới, hải đảo là rất thấp (thậm chí có nơi đầu tư cho không)
và thời gian dài. Vì vậy, đánh giá hiệu quả KT-XH của khu KT-QP cần
phải tính đến hiệu ứng lan tỏa của nó đối với sự phát triển kinh tế nói
chung của địa phương cũng như ý nghĩa chính trị.
Từ những phân tích trên, để đánh giá hiệu quả KT-XH của các khu KTQP cần dựa trên một số nhóm tiêu chí cơ bản sau:

- Nhóm tiêu chí đánh giá hiệu quả kinh tế
Hiệu quả kinh tế thể hiện ở mức độ góp phần đáp ứng ngày càng tốt
hơn nhu cầu vật chất của nhân dân, tăng trưởng kinh tế gắn với công bằng xã
hội. Đó là kết quả về xây dựng và phát triển kinh tế; xây dựng hệ thống kết
cấu hạ tầng KT-XH; chuyển dịch cơ cấu cây trồng, vật nuôi; từng bước phát
triển kinh tế hàng hóa trên địa bàn các khu KT-QP...
Thứ nhất, xây dựng hệ thống kết cấu hạ tầng kinh tế - xã hội.
Xuất phát từ thực trạng kết cấu hạ tầng KT-XH ở các xã thuộc khu vực
vùng sâu, vùng xa, vùng biên giới của nước ta hiện nay rất khó khăn. Làm
ảnh hưởng lớn tới quá trình phát triển kinh tế của địa phương, cũng như ảnh
hưởng tới mục tiêu chung của công cuộc phát triển kinh tế đã xác định. Vì
vậy, yêu cầu đặt ra cho các khu KT-QP phải thực hiện tốt nhiệm vụ là: góp

19


phần từng bước xây dựng hoàn chỉnh hệ thống kết cấu hạ tầng KT-XH, qua
đó tạo động lực phát triển KT-XH, nâng cao đời sống nhân dân vùng dự án.
Cụ thể phải tổ chức triển khai thực hiện tốt các dự án xây dựng hệ thống
đường giao thông nông thôn, trường học, bệnh xá, các cửa hàng dịch vụ
thương nghiệp, hệ thống chợ, công trình nước sạch, hệ thống thông tin nghe
nhìn các tụ điểm văn hoá, các công trình phúc lợi khác.
Khi đánh giá hiệu quả nội dung này, phải căn cứ vào số, chất lượng các
công trình mà các đơn vị ở khu KT-QP xây dựng dựa trên cơ sở các dự án
được giao so với trước đây, đồng thời tiến hành khảo sát thực tiễn việc thực
hiện có đúng như kế hoạch đã xác định hay không và hiệu ứng của nó trong
việc nâng cao đời sống vật chất tinh thần của đồng bào.
Thứ hai, phát triển sản xuất bước đầu xây dựng những yếu tố cho phát triển
kinh tế hàng hoá
Một trong các nhiệm vụ mà các khu KT-QP phải làm là: khai thác tối

đa tiềm năng đất đai được giao để phát triển sản xuất, phục vụ mục tiêu cả
trước mắt và lâu dài, từng bước chuyển sang kinh tế hàng hoá với những cây
công nghiệp, cây đặc sản, cây ăn quả, trồng và bảo vệ rừng, chăn nuôi, trong
đó tập trung vào những cây trồng, vật nuôi có giá trị hàng hoá cao. Song, do
lịch sử để lại, KT-XH ở nhiều vùng dân tộc và miền núi còn kém phát triển,
mang nặng tính tự cấp, tự túc, dựa nhiều vào tự nhiên; phương thức sản xuất,
tập quán canh tác còn lạc hậu. Do vậy, để bước đầu tạo nên những yếu tố cho
phát triển kinh tế hàng hoá bao gồm các công việc khai hoang, đưa diện tích
vào sản xuất các loại cây trồng, vật nuôi phù hợp với điều kiện đất đai, khí
hậu của địa phương theo hướng tạo ra các vùng chuyên canh, hình thành các
sản phẩm có tỷ trọng hàng hóa lớn; tổ chức tốt các hoạt động dịch vụ phát
triển sản xuất, tiêu thụ sản phẩm hàng hóa...
Đánh giá nội dung này cần làm rõ đó là: khai thác tiềm năng đất đai;
giúp đỡ đồng bào phát triển sản xuất thông qua hình thức khuyến nông,

20


khuyến lâm, khuyến ngư...đầu tư các dự án, xây dựng các mô hình kinh tế, tổ
chức hoạt động dịch vụ bao tiêu sản phẩm
- Nhóm tiêu chí đánh giá hiệu quả xã hội
Hiệu quả xã hội phản ánh trình độ sử dụng các nguồn lực nhằm đạt
được các mục tiêu xã hội nhất định. Các mục tiêu xã hội thường thấy là: giải
quyết công ăn, việc làm trong phạm vi toàn xã hội hoặc từng khu vực kinh tế ;
giảm số người thất nghiệp; nâng cao trình độ và đời sống văn hóa, tinh thần
cho người lao động, đảm bảo mức sống tối thiểu cho người lao động, nâng
cao mức sống cho các tầng lớp nhân dân trên cơ sở giải quyết tốt các quan hệ
trong phân phối, đảm bảo và nâng cao sức khỏe; đảm bảo vệ sinh môi trường.
Nếu xem xét hiệu quả xã hội, người ta xem xét mức tương quan giữa các kết
quả (mục tiêu) đạt được về mặt xã hội (cải thiện điều kiện lao động, nâng cao

đời sống văn hóa và tinh thần, giải quyết công ăn việc làm...) và chi phí bỏ ra
để đạt được kết quả đó. Tuy nhiên, với tính chất đặc thù của khu KT-QP thì
hiệu quả xã hội cần được xem xét trên các tiêu chí cơ bản đó là
Thứ nhất, giải quyết vấn đề lao động, việc làm
Xây dựng, phát triển nhiều ngành nghề, nhiều lĩnh vực sản xuất, tạo ra
nhiều việc làm; chuyển đổi mô hình sản xuất từ tự cung tự cấp sang sang sản
xuất hàng hóa, góp phần tăng thu nhập một cách ổn định cho đồng bào các
dân tộc trên địa bàn.
Để đánh giá nội dung này cần làm rõ số lượng lao động được tạo việc làm
trong quá trình tham gia dự án cũng như thu nhập bình quân hiện nay so với trước
đây khi chưa có dự án khu KT-QP.
Thứ hai, thực hiện chương trình xóa đói, giảm nghèo
Đây là một chỉ tiêu quan trọng, nó giúp đánh giá được sự đóng góp của
dự án khu KT-QP vào việc thực hiện mục tiêu phân phối và xác định được
những tác động của dự án đến quá trình điều tiết thu nhập theo nhóm dân cư và
theo vùng lãnh thổ. Để đánh giá được tiêu chí này chúng ta cần căn cứ vào điều
kiện, mức sống của người dân hiện nay so với trước đây. Xác định số hộ thoát

21


đói nghèo sau khi có đầu tư vào khu KT-QP, căn cứ vào chi phí đầu tư (suất
vốn đầu tư) cho xoá đói nghèo có tính đến điều kiện cụ thể của địa phương khu
KT-QP, chúng ta sẽ xác định được lợi ích của đầu tư cho xoá đói nghèo.
Thứ ba, nâng cao đời sống văn hóa tinh thần nhân dân
Với đặc điểm của vùng sâu, vùng xa, hẻo lánh, lại xa các trung tâm
văn hoá, cho nên đại đa số đồng bào các dân tộc rơi vào cảnh mù chữ, trình
độ dân trí thấp, kéo theo các tệ nạn xã hội, hủ tục lạc hậu. Bên cạnh đó,
trình độ sản xuất lạc hậu, năng suất lao động thấp kém, làm cho kinh tế ở
các khu vực này đã khó khăn lại càng khó khăn thêm. Tình hình đó đòi hỏi

các đơn vị quân đội cùng với chính quyền địa phương ở các khu KT-QP,
phải có những giải pháp để giúp đỡ đồng bào. Vừa bảo đảm nâng cao dân
trí, trình độ sản xuất; đời sống văn hóa tinh thần, xóa bỏ hủ tục lạc hậu, vừa
làm tốt công tác chăm sóc sức khỏe cộng đồng.
Đánh giá hiệu quả công tác này, chúng ta có thể căn cứ vào kết quả
phát triển và xu hướng đời sống kinh tế, văn hoá xã hội của đồng bào các dân
tộc trong khu vực ngày càng tăng lên; công tác xây dựng đời sống mới, hiệu quả
của hoạt động quân dân y kết hợp.
- Nhóm tiêu chí đánh giá hiệu quả về quốc phòng - an ninh
Thể hiện xây dựng nền quốc phòng toàn dân, an ninh nhân dân, làng xã
chiến đấu; xây dựng, huấn luyện lực lượng dân quân tự vệ, dự bị động viên;
xây dựng và luyện tập các phương án sẵn sàng chiến đấu của khu vực phòng
thủ, bảo vệ an ninh chính trị, trật tự an toàn xã hội, an ninh biên giới. Đó là sự
vững chắc của thế trận quốc phòng toàn dân, thế trận an ninh nhân dân; sự
yên tâm, gắn bó, lập nghiệp, sinh sống, trụ bám lâu dài của nhân dân...
Thứ nhất, xây dựng cơ sở chính trị xã hội
Đó là niềm tin vào sự lãnh đạo của Đảng, sự quản lý của Nhà nước, sự
điều hành của đội ngũ cán bộ chính quyền các cấp (đặc biệt đối với cấp cơ sở)
của cán bộ, chiến sĩ, đảng viên và quần chúng nhân dân; kết quả củng cố,
kiện toàn các tổ chức thuộc hệ thống chính trị, bao gồm: các tổ chức đảng,

22


chính quyền các cấp, các tổ chức quần chúng thuộc hệ thống chính trị
như: mặt trận tổ quốc, đoàn thanh niên, hội phụ nữ, hội nông dân, hội cựu
chiến binh…Các tổ chức này đạt được các tiêu chuẩn “vững mạnh” ở mức
độ nào; mối quan hệ giữa dân với cấp ủy, chính quyền, ý thức chấp hành chủ
trương, chính sách của Đảng, chính quyền các cấp, mối quan hệ giữa các giai
cấp, tầng lớp, dân tộc, tôn giáo ở khu KT-QP; kết quả của các phong trào thi

đua phát triển kinh tế, cải thiện đời sống vật chất, tinh thần của nhân dân;
các phong trào xóa đói, giảm nghèo, đền ơn, đáp nghĩa; phong trào toàn
dân đoàn kết xây dựng đời sống văn hoá ở cơ sở; phong trào toàn dân bảo
vệ an ninh biên giới, bảo vệ an ninh quốc gia; phong trào toàn dân bảo vệ
Tổ quốc; kết quả phản ánh sự giác ngộ chính trị, tính tích cực chính trị, niềm
tin chính trị, hành động chính trị đúng đắn của các lực lượng tham gia xây
dựng cơ sở chính trị - xã hội của quân đội ở khu KT-QP; hệ thống chính trị ở
khu KT-QP được củng cố, kiện toàn, hoạt động có nền nếp, có hiệu lực, được
nhân dân tín nhiệm; khối đại đoàn kết toàn dân, các quan hệ giai cấp, dân tộc,
tôn giáo được xác lập bền vững, không có các xung đột, khiếu kiện, bùng phát
thành các điểm nóng; sự trụ vững của các điểm dân cư mới được thiết lập ở
khu KT-QP và sự tăng lên về số lượng các điểm dân cư đó; các phong trào
chính trị - xã hội phát triển mạnh mẽ, có tác dụng tích cực thúc đẩy các mặt
kinh tế, văn hóa, quốc phòng, an ninh ở khu KT-QP...
Thứ hai, xây dựng về thế trận, lực lượng và cơ chế vận hành hoạt động
QP-AN trong khu KT-QP.
Trên cơ sở tổ chức sản xuất, kinh doanh bố trí lại dân cư theo các đơn
vị làng, bản dọc tuyến biên giới theo kế hoạch của khu vực phòng thủ, hình
thành hệ thống làng, xã thuộc tuyến biên giới trong hệ thống làng, xã chiến
đấu của khu vực phòng thủ. Xây dựng kế hoạch phòng thủ gắn phương án tác
chiến của khu vực với xây dựng phương án phòng chống các hoạt động phá
hoại, gây bạo loạn của địch trong các khu dân cư. Tiến hành xây dựng lực
lượng dân quân tự vệ, lực lượng an ninh nhân dân và đăng ký quản lý dự bị động

23


viên. Tổ chức huấn luyện theo kế hoạch của cơ quan quân sự địa phương, phối hợp
cùng với bộ đội địa phương, lực lượng vũ trang địa phương để tuần tra canh gác nội
bộ khu KT-QP; trên tuyến biên giới thuộc địa bàn.

Thứ ba, công tác quy hoạch, ổn định, sắp xếp dân cư; sự yên tâm, gắn
bó, lập nghiệp, sinh sống, bám trụ lâu dài của nhân dân ở địa bàn khu KTQP
Khu KT-QP với tính đặc thù là được xây dựng ở vùng vùng sâu,
vùng xa, biên giới, hải đảo. Vì vậy, trong xây dựng thế trận QP-AN không
có gì hiệu quả hơn bằng việc sử dụng các nguồn lực tại chỗ, nhất là về
nhân lực. Yêu cầu đặt ra cho quá trình xây dựng phát triển khu KT-QP là
xây dựng các dự án ổn định dân cư; xây dựng bản, cụm bản dân cư mới
trên tuyến biên giới, đặc biệt là xoá tình trạng “vùng trắng” ở các khu vực
biên giới, xây dựng cơ sở hạ tầng, điều kiện sản xuất đồng bộ để nhân dân
yên tâm sản xuất và sinh sống.
Để đánh giá hiệu quả cần phải làm rõ đón nhận, di dời bao nhiêu hộ dân
so với kế hoạch; xóa bao nhiêu điểm “trắng dân”; số lượng nhân khẩu hàng năm,
trước và sau khi xây dựng khu KT-QP. Công tác đầu tư xây dựng cơ sở hạ tầng
như đất sản xuất, hệ thống điện, đường, trường trạm đã được quan tâm đúng
mức; các chính sách hỗ trợ, giúp đỡ nhân dân phát triển sản xuất, ổn định cuộc
sống khi tới nơi ở mới để bà con yên tâm, gắn bó lâu dài ở các khu KT-QP.
1.2.3. Các nhân tố ảnh hưởng đến hiệu quả KT-XH
của các khu KT-QP
Hiệu quả KT-XH của một doanh nghiệp hay bất kỳ tổ chức kinh tế nào
cũng chịu sự tác động của nhiều yếu tố. Tuỳ theo cách tác động khác nhau,
người ta có thể chia chúng thành các nhóm như: Nhóm yếu tố trực tiếp, nhóm
yếu tố gián tiếp; nhóm các yếu tố bên ngoài, nhóm các yếu tố bên trong;
nhóm các yếu tố khách quan, nhóm các yếu tố chủ quan. Đối với khu KT- QP,
do tính chất đặc thù nên có thể khái quát các nhân tố cơ bản có ảnh hưởng
trực tiếp đến hiệu quả KT-XH của Khu KT-QP là: điều kiện tự nhiên, xã hội

24


của khu KT-QP; vai trò của các đoàn KT-QP và các nguồn lực (đầu vào) cho

các hoạt động xây dựng và phát triển các khu KT-QP.
Một là, đặc điểm điều kiện tự nhiên, xã hội
Các khu KT-QP nằm trên một số xã miền núi, vùng đồng bào dân tộc
thiểu số, giáp biên giới với các nước Trung Quốc, Campuchia, Lào, được
triển khai ở những vùng đất còn hoang hoá, với địa hình phức tạp núi cao,
sông suối chia cắt. Nhìn chung, nơi đây kết cấu hạ tầng kinh tế, xã hội còn lạc
hậu, khí hậu khắc nghiệt. Ở các khu vực này, về kinh tế, chủ yếu là trồng trọt
và chăn nuôi, trình độ sản xuất, canh tác lạc hậu, tự cung, tự cấp; một số nơi
còn tình trạng du canh, du cư, phụ thuộc nhiều vào tự nhiên, mùa khô thiếu
nước cho sản xuất và sinh hoạt; hệ thống cơ cở hạ tầng chưa được đầu tư xây
dựng đồng bộ, giao thông khó khăn, nhiều khu vực chưa có đường giao thông
vào đến bản; đời sống đồng bào các dân tộc còn nhiều khó khăn, tỷ lệ hộ đói
nghèo cao. Đối với các khu KT-QP từ Quân khu 4 trở ra, chủ yếu là địa hình
đồi núi cao, dốc hiểm trở, bị chia cắt mạnh bởi hệ thống sông suối, khe, vực
và thung lũng. Đặc điểm này đã chi phối mạnh đến việc tổ chức sản xuất, ổn
định dân cư của địa phương cũng như địa bàn của các khu KT-QP. Vì vậy,
các khu KT-QP từ Quân khu 4 trở ra, thực hiện nhiệm vụ củng cố QP-AN là
chủ yếu, cùng với đó đầu tư xây dựng hạ tầng KT-XH, trực tiếp tổ chức và
giúp đỡ đồng bào vùng dự án phát triển sản xuất, xóa đói giảm nghèo. Địa bàn
các khu KT-QP từ Quân khu 5 trở vào dạng địa hình cao nguyên đất đỏ bazan
tương đối bằng phẳng, ít bị chia cắt nên có điều kiện sản xuất tập trung, phát
triển kinh tế gắn với củng cố QP-AN.
Mặt khác, ở địa bàn các khu KT-QP, văn hóa, xã hội chậm phát triển;
trình độ dân trí thấp, phong tục tập quán còn lạc hậu. Lĩnh vực QP-AN chưa
được củng cố vững chắc, tiềm ẩn nhiều nguy cơ mất ổn định, khó lường; các thế
lực thù địch triệt để lợi dụng địa hình và những khó khăn trên tuyến biên giới
của Việt Nam với các nước láng giềng, tăng cường hoạt động chống phá với
nhiều âm mưu, thủ đoạn nguy hiểm. Tội phạm ma túy, buôn bán người, tiền giả,

25



×