Tải bản đầy đủ (.doc) (131 trang)

LUẬN văn THẠC sĩ NÂNG CAO CHẤT LƯỢNG NGUỒN NHÂN lực TRONG sự NGHIỆP CÔNG NGHIỆP hóa , HIỆN đại hóa ở TỈNH THANH hóa

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (731.97 KB, 131 trang )

1

MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Trong thời đại ngày nay, con người được coi là một tài nguyên, một
nguồn lực. Bởi vậy, việc phát triển con người phát triển nguồn nhân lực trở
thành vấn đề chiếm vị trí trung tâm trong hệ thống phát triển các nguồn lực.
Chăm lo đầy đủ đến con người là yếu tố chắc chắn nhất cho sự phồn vinh
thịnh vượng của mọi quốc gia. Đầu tư vào con người là cơ sở chắc chắn nhất
cho sự phát triển bền vững. Ngay từ những năm 60 của thế kỷ XX, nhiều
nước đã tăng trưởng kinh tế thông qua quá trình công nghiệp hóa, hay nói
cách khác là thông qua việc phát triển của khoa học - công nghệ gắn liền với
việc phát triển nguồn nhân lực. Lịch sử phát triển kinh tế thế giới đã chứng
minh để đạt được sự tăng trưởng kinh tế cao và ổn định phải thông qua việc
nâng cao chất lượng đội ngũ lao động kỹ thuật - nâng cao chất lượng nguồn
nhân lực.
Việt Nam đang bước vào thời kỳ công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất
nước. Sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa đòi hỏi nguồn lao động với
chất lượng cao. Vận mệnh của đất nước, tương lai phát triển, khả năng đi lên
của Việt Nam đều phụ thuộc vào chính bản thân con người Việt Nam. Vì vậy,
để phát triển đất nước, chúng ta không thể không quan tâm đến việc phát triển
nguồn nhân lực và nâng cao chất lượng nguồn nhân lực.
Nâng cao chất lượng nguồn nhân lực là vấn đề mà mỗi quốc gia đều
phải quan tâm chăm sóc, bồi dưỡng, phát triển và tìm cách phát huy có hiệu
quả trên con đường phát triển văn minh tiến bộ của mình.
Nhận thức được tầm quan trọng của nguồn nhân lực nên Đại hội đại
biểu toàn quốc lần thứ IX của Đảng đã chỉ rõ: "Phát triển mạnh nguồn lực con
người Việt Nam với yêu cầu ngày càng cao" nhằm bảo đảm nguồn nhân lực


2



cả về số lượng và chất lượng, đáp ứng yêu cầu của sự nghiệp công nghiệp
hóa, hiện đại hóa [41, tr. 65].
Cũng như cả nước, tỉnh Thanh Hóa chỉ có thể thực hiện thành công
công nghiệp hóa, hiện đại hóa khi phát huy được cao độ nguồn lực con người.
Nghị quyết Đại hội Đại biểu Đảng bộ tỉnh Thanh Hóa lần thứ XV
(2001-2005) đã đề ra nhiệm vụ sau: "Phải chăm lo phát triển nguồn nhân lực
có chất lượng toàn diện, cả về sức khỏe thể chất, trình độ học vấn, nghề
nghiệp, phẩm chất đạo đức, tư tưởng chính trị, đời sống văn hóa tinh thần…"
nhằm đáp ứng nhu cầu công nghiệp hóa, hiện đại hóa của tỉnh nhà. Căn cứ
vào nhiệm vụ trên tỉnh Thanh Hóa phải lấy việc phát huy nguồn lực con
người làm yếu tố cơ bản cho sự phát triển kinh tế-xã hội. Thanh Hóa có thể
trở thành một tỉnh có nền công nghiệp hóa, hiện đại hóa hay không điều đó
còn tùy thuộc vào việc xây dựng và thực hiện chiến lược nâng cao chất lượng
nguồn nhân lực. Vì vậy, việc nâng cao chất lượng nguồn nhân lực trong công
nghiệp hóa, hiện đại hóa ở Thanh Hóa vừa là vấn đề cấp thiết vừa căn bản và
lâu dài đối với sự phát triển của tỉnh. Với ý nghĩa đó, tôi chọn vấn đề "Nâng
cao chất lượng nguồn nhân lực trong sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại
hóa ở tỉnh Thanh Hóa" làm đề tài luận văn thạc sĩ.
2. Tình hình nghiên cứu
Con người vừa là mục tiêu vừa là động lực của sự phát triển lịch sử,
do đó vấn đề con người, đặc biệt là vấn đề nhân tố con người luôn luôn là đối
tượng thu hút sự quan tâm của nhiều ngành khoa học. Thực tiễn ngày càng
chứng minh, sự phát triển bền vững của mỗi quốc gia phụ thuộc vào việc đầu
tư khai thác, phát huy có hiệu quả vai trò nhân tố con người.
Từ những nghiên cứu chung về con người, các nhà khoa học Xô Viết
trước đây đã đi sâu nghiên cứu về nhân tố con người và phát huy vai trò của
nhân tố con người. Đã có nhiều đề tài và công trình của các nhà khoa học Xô
viết đi sâu vào nghiên cứu mối quan hệ giữa nhân tố con người với các nhân



3

tố kinh tế, vật chất kỹ thuật trong cấu trúc nền sản xuất xã hội. Công trình
nghiên cứu của nữ viện sĩ GiaxlapxkaiA về công bằng xã hội và nhân tố con
người những năm 1986 - 1987 là một ví dụ tiêu biểu. Hội nghị khoa học giữa
các nhà khoa học Xô viết và Việt Nam tổ chức tại Hà Nội vào năm 1988, đã
tập trung trao đổi ý kiến và thảo luận xoay quanh chủ đề về nhân tố con người
và phát triển kinh tế - xã hội.
Ở nước ta các nhà khoa học đã có những hoạt động sôi nổi về nghiên
cứu vấn đề con người. Nhất là từ sau Đại hội Đảng lần thứ VIII, các nhà khoa
học đi sâu nghiên cứu về vấn đề nguồn lực con người, nguồn nhân lực chất
lượng cao trong sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước, nhiều
công trình nghiên cứu khoa học, nhiều bài viết đã thể hiện quan điểm coi con
người là nguồn tài nguyên vô giá và sự cần thiết phải đầu tư vào việc bảo
toàn, phát triển và nâng cao chất lượng nguồn tài nguyên này, lấy đó làm đòn
bẩy để phát triển kinh tế, để công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước. Những
bài viết, những công trình khoa học đó được đăng trên các sách báo, tạp chí,
đó là những bài viết về: "Xây dựng nền tảng tinh thần, tiềm lực văn hóa, tiếp
tục thực hiện chiến lược xây dựng và phát triển nguồn lực con người Việt
Nam" của nguyên Tổng Bí thư Lê Khả Phiêu (đăng trên Tạp chí phát triển
giáo dục 4/1998); "Tài nguyên con người trong quá trình công nghiệp hóa,
hiện đại hóa đất nước" của Nguyễn Quang Du (thông tin lý luận số 11/1994);
"Nguồn nhân lực trong công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước" của GS,TS
Nguyễn Trọng Chuẩn (Triết học số 2 - 1994); "Nguồn lực con người, nhân tố
quyết định của quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa" của Phạm Ngọc Anh
(Nghiên cứu lý luận, số 2 - 1995); "Phát triển nguồn nhân lực của Thanh Hóa
đến năm 2010 theo hướng công nghiệp hóa, hiện đại hóa" của TS Bùi Sĩ Lợi
(Nhà xuất bản chính trị, quốc gia Hà Nội 2002); "Mối quan hệ giữa phát triển
nguồn nhân lực và đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa" của Nguyễn

Đình Hòa (tạp chí triết học số 1 - 2004); "Phát triển nguồn nhân lực kinh
nghiệm thế giới và kinh nghiệm nước ta" (NXB chính trị quốc gia Hà Nội


4

1996); "Vấn đề con người trong sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa"
(NXB Chính trị Quốc gia, Hà Nội 1996); "Từ chiến lược phát triển giáo dục
đến chính sách phát triển nguồn nhân lực" (NXB Giáo dục - 2002)… Đặc
biệt là công trình khoa học cấp Nhà nước KX-05 "Nghiên cứu văn hóa, con
người, nguồn nhân lực đầu thế kỷ XXI" (11/2003). Đề tài này có những công
trình đáng chú ý như: "Ảnh hưởng của tiến bộ khoa học, kỹ thuật và công
nghệ đến việc nghiên cứu và phát triển con người và nguồn nhân lực những
năm đầu thế kỷ XXI" của TSKH Lương Việt Hải; "Phát triển nguồn nhân lực
Việt Nam đầu thế kỷ XXI" của TS Nguyễn Hữu Dũng; "Một số những thay đổi
của quản lý nguồn nhân lực Việt Nam trong quá trình chuyển đổi nền kinh tế
trong cơ chế thị trường" của TS Vũ Hoàng Ngân…
Như vậy, đã có nhiều công trình nghiên cứu về nguồn nhân lực trong
công nghiệp hóa, hiện đại hóa ở nước ta. Hầu hết các đề tài đã tập trung
nghiên cứu các phương diện khác nhau của sự phát triển con người Việt Nam
và đề xuất những giải pháp để phát huy nguồn lực con người, từ giáo dục-đào
tạo đến giải quyết việc làm, đổi mới cơ chế, chính sách nhằm phát huy nhân
tố con người, phát triển nguồn nhân lực ở nước ta. Ngoài những công trình đó
còn rất nhiều tác giả với những công trình nghiên cứu khác đã đề cập đến vấn
đề nguồn nhân lực cho công nghiệp hóa, hiện đại hóa ở nước ta bằng nhiều
cách tiếp cận khác nhau. Song những công trình đi sâu, phân tích nguồn nhân
lực cho công nghiệp hóa, hiện đại hóa ở Thanh Hóa chưa được đề cập nhiều,
đặc biệt là phân tích những điều kiện khả năng trong việc thực hiện nâng cao
chất lượng, nguồn nhân lực ở Thanh Hóa.
Qua luận văn này tác giả hi vọng đóng góp một cố gắng nhỏ bé, bước

đầu của mình vào sự nghiên cứu, phát triển con người và nguồn nhân lực cho
sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa ở Thanh Hóa, cũng như cả nước.
3. Mục đích và nhiệm vụ của đề tài
- Mục đích nghiên cứu:


5

Xuất phát từ tính cấp bách của đề tài và lịch sử nghiên cứu vấn đề,
chúng tôi xác định mục đích của đề tài là: Trên cơ sở phân tích thực trạng của
nguồn nhân lực Thanh Hóa hiện nay mà đề xuất một số giải pháp cấp bách
nhằm xây dựng nguồn nhân lực cho công nghiệp hóa, hiện đại hóa ở Thanh Hóa.
- Nhiệm vụ nghiên cứu:
Làm rõ quan điểm mácxít về vai trò của con người và nhân tố con
người trong lực lượng sản xuất, quan niệm về nguồn nhân lực, chất lượng nguồn
nhân lực và vai trò của nó trong công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước.
Đánh giá tình hình dân số, thực trạng nguồn nhân lực và việc nâng cao
chất lượng nguồn nhân lực ở Thanh Hóa. Từ đó, đề xuất phương hướng, giải
pháp nhằm nâng cao chất lượng nguồn nhân lực cho công nghiệp hóa, hiện
đại hóa ở tỉnh Thanh Hóa.
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
- Đối tượng nghiên cứu:
Luận văn nghiên cứu về lực lượng lao động của Thanh Hóa; không
những nghiên cứu về mặt số lượng mà còn tập trung nghiên cứu mặt chất
lượng - yếu tố quyết định sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa.
- Phạm vi nghiên cứu:
Luận văn tập trung nghiên cứu nguồn nhân lực trong sự nghiệp công
nghiệp hóa, hiện đại hóa ở tỉnh Thanh Hóa.
5. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu
- Cơ sở lý luận:

Luận văn dựa trên cơ sở lý luận của chủ nghĩa duy vật biện chứng,
chủ nghĩa duy vật lịch sử và tư tưởng Hồ Chí Minh, cùng các quan điểm của
Đảng và Nhà nước ta, các quan điểm khoa học hiện đại về nguồn nhân lực.
- Phương pháp nghiên cứu:


6

Luận văn sử dụng phương pháp lịch sử và lô gíc, quy nạp và diễn
dịch, phân tích và tổng hợp.
6. Đóng góp mới về khoa học của luận văn
Góp phần hệ thống hóa những luận điểm nghiên cứu có ý nghĩa lý
luận và phương pháp luận về nhân tố con người và nguồn nhân lực.
Làm rõ thực trạng nguồn nhân lực Thanh Hóa trong thời kỳ công
nghiệp hóa, hiện đại hóa.
Làm rõ một số khía cạnh chủ yếu về xu hướng biến đổi của nguồn
nhân lực trong thời kỳ công nghiệp hóa, hiện đại hóa ở Thanh Hóa.
Đưa ra một số phương hướng, giải pháp nhằm nâng cao chất lượng
nguồn nhân lực trong sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa ở Thanh Hóa.
Góp phần nâng cao nhận thức về việc thực hiện nâng cao chất lượng
nguồn nhân lực cho công nghiệp hóa, hiện đại hóa ở tỉnh Thanh Hóa. Đây là
việc làm của tất cả các cấp, các ngành của mọi người, của tỉnh và của cả
Trung ương.
7. Ý nghĩa thực tiến của luận văn
Góp phần đưa Nghị quyết của Đảng vào thực tiễn cuộc sống tại Thanh
Hóa.
Luận văn có thể làm tài liệu tham khảo cho việc nghiên cứu giảng dạy
và học tập ở các trường Đại học, Trung học chuyên nghiệp, các trung tâm đào
tạo, đồng thời làm tài liệu tham khảo cho cán bộ quản lý cấp tỉnh, cấp huyện.
8. Kết cấu của luận văn

Ngoài mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo, nội dung của
luận văn gồm 3 chương, 6 tiết.


7

Chương 1

VAI TRÒ CỦA NGUỒN NHÂN LỰC TRONG SỰ NGHIỆP
CÔNG NGHIỆP HÓA, HIỆN ĐẠI HÓA Ở VIỆT NAM

1.1. QUAN ĐIỂM MÁCXÍT VỀ NGUỒN NHÂN LỰC VÀ CHẤT LƯỢNG
NGUỒN NHÂN LỰC

1.1.1. Từ quan điểm mácxít về con người đến nhân tố con người
và nguồn nhân lực
* Quan điểm về con người
Các nhà khoa học và chính trị từ cổ chí kim, từ Đông đến Tây, trong
suốt chiều dài của lịch sử luôn coi con người là vấn đề trung tâm của thế giới,
là trung tâm chú ý của mọi thời đại. Song các nhà tư tưởng trước Mác đã giải
thích con người một cách phiến diện, không coi con người là vị trí trung tâm
của quá trình hình thành phát triển của nhân loại. Họ lý giải sai lầm về bản
chất con người. Họ không thấy được bản chất con người là một bản chất xã
hội, không thấy được con người là một thực thể tự nhiên - xã hội. Chỉ đến
Mác và Ăng ghen thì việc nhận thức về con người mới có sự thay đổi về chất
so với trước. Mác đã xuất phát từ phạm trù thực tiễn để lý giải bản chất của
con người trong mối quan hệ giữa con người với tự nhiên, con người với con
người và những quy luật chi phối quan hệ đó. Cống hiến quan trọng của Mác
là đã vạch ra được những vai trò của các quan hệ xã hội trong những yếu tố
cấu thành bản chất con người. Theo Mác "Bản chất con người không phải là

cái gì trừu tượng cố hữu của một cá nhân riêng biệt, trong tính hiện thực của
nó bản chất con người là tổng hòa các mối quan hệ xã hội" [16 -11].
Bản chất con người là kết quả của sự tác động từ các nhân tố xã hội
mà trước hết là của hoạt động lao động sản xuất vật chất của đấu tranh xã hội
của con người. Thông qua quá trình này, con người cải tạo giới tự nhiên và xã


8

hội, đồng thời cải tạo chính bản thân mình. Như vậy, khi tác động vào giới tự
nhiên, cải tạo giới tự nhiên sáng tạo ra lịch sử, con người phát triển tư chất
năng khiếu, tài năng, phẩm chất, ý chí… đó là điều kiện để mỗi cá nhân trở
thành chủ thể của hoạt động sáng tạo, xây dựng thế giới mới. Họ là người sản
xuất trực tiếp, chủ thể của mọi sáng tạo, mọi nguồn của cải vật chất và văn
hóa, mọi nền văn minh của các quốc gia.
Tóm lại, chủ nghĩa Mác quan niệm con người vừa là động lực, vừa là
mục tiêu của sự phát triển kinh tế - xã hội.
Chủ tịch Hồ Chí Minh là người thấm nhuần một cách sâu sắc quan
điểm của Mác - Ăngghen về con người, và đã có những kiến giải rất sâu sắc
về vấn đề con người. Hồ Chí Minh không những nhận thức thấu đáo mà còn
vận dụng và phát triển sáng tạo quan niệm của Chủ nghĩa Mác-Lênin vào điều
kiện lịch sử cụ thể ở Việt Nam. Trong cuộc cách mạng giải phóng dân tộc của
nhân dân Việt Nam, Hồ Chí Minh khẳng định sự nghiệp giải phóng con
người, giải phóng dân tộc không tách rời nhau và đều nhằm mục đích đem lại
tự do, hạnh phúc cho con người. Nhân tố quyết định cho sự nghiệp giải phóng
con người không phải là ai khác chính lại là con người, quần chúng nhân dân,
là lực lượng quý nhất, vĩ đại nhất, bởi vì "Võ luận việc gì cũng do con người
làm ra và từ nhỏ đến to, từ gần đến xa đều như thế cả" [56 -113].
Hồ Chí Minh luôn coi việc chăm sóc, bồi dưỡng và phát triển con
người, coi con người vừa là mục tiêu, vừa là động lực phát triển của xã hội, là

nhân tố quyết định sự thành công của cách mạng. Do đó, Hồ Chí Minh luôn
quan tâm đến "sự nghiệp trồng người", "Vì lợi ích mười năm trồng cây, vì lợi
ích trăm năm trồng người" tư tưởng chiến lược về con người của Hồ Chí
Minh đã và đang được Đảng ta từng bước thực hiện.
Dưới ánh sáng của Chủ nghĩa Mác-Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh,
ngay từ khi mới ra đời tư tưởng giải phóng dân tộc của Đảng ta luôn gắn liền,
hòa quyện với tư tưởng giải phóng con người. Thời kỳ đó, vấn đề con người


9

được Đảng ta quan tâm trước hết là vấn đề giải phóng con người khỏi ách nô
lệ. Ngày nay, trong công cuộc công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước vấn đề
con người là vấn đề được Đảng ta quan tâm hàng đầu. Văn kiện Hội nghị Ban
chấp hành Trung ương lần thứ tư khóa VII đã khẳng định: "…Sự phát triển
con người đã trở thành tiêu chí ngày càng quan trọng trong việc xếp hạng các
nước trên thế giới"[15 - 6]. Phát triển con người, thực chất là mô hình con
người phát triển toàn diện. Mục tiêu con người phát triển toàn diện - hài hòa
không phải đến thời kỳ đổi mới mới được Đảng ta đặt ra, mà là mục tiêu
xuyên suốt của Đảng cộng sản Việt Nam.Từ khi Đảng ra đời cho đến nay,
cách nhìn toàn diện về phát triển con người của Đảng đã xây dựng nên quan
điểm phù hợp với xu thế đi lên của thời đại: Con người vừa là động lực, vừa
là mục tiêu của sự phát triển kinh tế - xã hội.
Để con người thực sự trở thành động lực của sự phát triển kinh tế - xã
hội thì chúng ta phải phát huy được nhân tố con người.
* Quan niệm về nhân tố con người
Nói tới nhân tố con người là nói tới vai trò, vị trí của con người trong
tổ chức quản lý xã hội thông qua hoạt động thực tiễn của nó trước hết là sản
xuất vật chất. Nói tới nhân tố con người cũng có nghĩa nói đến tính chất, ý
nghĩa của nó như là một động lực quan trọng nhất trong các nhân tố có quan

hệ với phát triển. Nhân tố con người là một nhân tố xã hội, thể hiện sức mạnh
tổng hợp của chủ thể người trong quan hệ với khách thể là xã hội mà hoạt
động thực tiễn của nó đem lại sự phát triển tiến bộ cho xã hội.
Vậy, nhân tố con người là toàn bộ những dấu hiệu riêng có, những
yếu tố, những mặt nói lên vai trò của con người như là chủ thể hoạt động
trong các lĩnh vực khác nhau của đời sống xã hội. Nhân tố con người bao hàm
toàn bộ tư chất, năng khiếu, tài năng, phẩm chất ý chí của con người để nó
đóng được vai trò là chủ thể hoạt động sáng tạo xây dựng xã hội.


10

Nhân tố con người bao gồm các nội dung sau:
Thứ nhất, đó là một chỉnh thể các giai cấp và tầng lớp xã hội khác
nhau, nhưng liên kết chặt chẽ với nhau, mà tác động qua lại và hoạt động của
các giai tầng ấy bảo đảm cho sự phát triển tiến bộ của xã hội.
Thứ hai, nhân tố con người được hiểu là những tiêu chí về số lượng,
chất lượng, nói lên khả năng của con người, của cộng đồng người như là một
tiềm năng cần bồi dưỡng, cần khai thác và phát huy. Đó là tiêu chí về số
lượng lao động, tình hình sức khỏe, trình độ học vấn, nghề nghiệp chuyên
môn.
Thứ ba, đó là những tiêu chí về nhân cách, về chức năng xã hội của
con người, những tiêu chí này nói lên mức độ, khả năng sáng tạo của cá nhân
trong hệ thống các quan hệ xã hội, gồm các năng lực chuyên môn, kỹ thuật
được đào tạo, lẫn thái độ lao động, ý thức xã hội chính trị và lập trường xã hội
của giai cấp công nhân.
Các nội dung trên của nhân tố con người có quan hệ biện chứng với
nhau. Việc phát huy nhân tố con người trong quá trình công nghiệp hóa, hiện
đại hóa phải tính đến đầy đủ những nội dung đó. Những sai lầm nghiêm trọng
của chủ nghĩa xã hội trong thời gian qua, ở các mức độ khác nhau đều có

nguyên nhân từ việc không tính đến một cách đầy đủ những nội dung của
nhân tố con người. Do vậy, trên thực tế đã dẫn đến không phát huy được
nguồn lực con người. Vì vậy, việc nhận thức một cách toàn diện những nội
dung của nhân tố con người có liên quan trực tiếp đến việc xác định một tổng
hợp những điều kiện, biện pháp thực tiễn mà quá trình quản lý kinh tế, xã hội
phải thực hiện nhằm nâng cao và phát huy nhân tố con người. Phát huy nhân
tố con người chính là quá trình đào tạo, bồi dưỡng làm tăng nhân tố con người
về thể lực, trí lực, phẩm chất, đạo đức... Là quá trình khai thác yếu tố đó trong


11

lao động, học tập, chiến đấu nhằm phục vụ cho sự nghiệp xây dựng đất nước
và bảo vệ tổ quốc.
Nhân tố con người không khai thác không phát huy được là lãng phí
lớn nhất. Vì vậy, trong công cuộc CNH, HĐH đất nước, Đảng ta phải từng bước
cụ thể hóa đường lối chính sách nhằm khơi dậy và phát huy nhân tố con người.
* Khái niệm nguồn nhân lực
Nguồn nhân lực hay còn gọi là nguồn lực con người, vốn người. Hiện
nay có nhiều quan niệm về khái niệm nguồn nhân lực.
Theo thuật ngữ trong lĩnh vực lao động của Bộ Lao động thương binh
và xã hội: "Nguồn nhân lực là tiềm năng về lao động trong một thời kỳ xác
định của một quốc gia, suy rộng ra có thể được xác định trên một địa phương,
một ngành hay một vùng. Đây là nguồn lực quan trọng nhất để phát triển kinh
tế xã hội"[5-13].
Theo khái niệm này, nguồn nhân lực được xác định bằng số lượng và
chất lượng của bộ phận dân số có thể tham gia vào hoạt động kinh tế - xã hội.
Theo quan niệm của các nhà khoa học Việt Nam thì nguồn nhân lực
được hiểu là:
- Theo nghĩa rộng: Nguồn nhân lực (HumanRersources) là tổng thể

các tiềm năng (lao động) của con người của một quốc gia, một vùng lãnh thổ,
một địa phương đã được chuẩn bị ở mức độ nào đó khả năng huy động vào
quá trình phát triển kinh tế - xã hội của đất nước hoặc một vùng, một địa
phương cụ thể [72-22].
Với cách tiếp cận này, nguồn nhân lực như một bộ phận cấu thành các
nguồn lực của quốc gia, như nguồn lực vật chất (trừ con người), nguồn tài
chính, nguồn lực trí tuệ ("chất xám")… Những nguồn lực này có thể được huy


12

động một cách tối ưu tạo thành động lực để phát triển kinh tế - xã hội, ta có
thể biểu đạt như sau:

Nguồn lực vật chất

Nguồn nhân lực

Nguồn lực tài chính

Phát triển
kinh tế xã hội

Hình 1.1.
Xuất phát từ khái niệm trên và qua hình 1 ta thấy nguồn lực phát triển
là một hệ thống, mỗi một nhân tố trong hệ thống đó đều có vai trò riêng, trong
đó nguồn lực con người nằm ở trung tâm hệ thống. Bởi vì, các nguồn lực tài
chính, nguồn lực vật chất, khoa học công nghệ... mà không được con người
phát hiện khai thác thì nó vẫn chỉ tồn tại ở dạng tiềm tàng mà thôi. Chính con
người thông qua hoạt động của mình làm phát triển các nguồn lực khác, sử

dụng nó để phát triển xã hội. Do đó, nguồn lực con người được coi là một thứ
tài nguyên quý giá nhất, một nguồn lực quan trọng nhất, là nguồn lực của mọi
nguồn lực. Vì vậy, thực chất chiến lược phát triển kinh tế - xã hội là chiến
lược phát triển con người và vì con người.


13

- Theo nghĩa hẹp: Nguồn nhân lực là toàn bộ lực lượng lao động
trong nền kinh tế quốc dân (hay còn gọi là dân số hoạt động kinh tế) nghĩa là
bao gồm những người trong một độ tuổi nhất định nào đó, có khả năng lao
động, thực tế đang có việc làm và những người thất nghiệp [72-24].
Với khái niệm trên và căn cứ ở Việt Nam thì lực lượng lao động Việt
Nam bao gồm: những người trong độ tuổi lao động, đang có việc làm; những
người ngoài độ tuổi lao động thực tế đang làm việc và những người thất
nghiệp, nghĩa là không bao gồm những người trong độ tuổi lao động, có khả
năng lao động nhưng đang đi học, đang làm nội trợ trong gia đình, không có
nhu cầu làm việc. Bộ luật lao động nước ta quy định độ tuổi lao động là từ 15
tuổi đến 60 tuổi đối với nam, và từ 15 tuổi đến 55 tuổi đối với nữ.
Qua tiếp cận các khái niệm trên ta có thể hiểu nguồn nhân lực là tổng
thể những yếu tố thuộc về thể chất, tinh thần, đạo đức, phẩm chất, trình độ tri
thức, vị thế xã hội v.v.. tạo nên năng lực của con người, của cộng đồng người
có thể sử dụng phát huy trong quá trình phát triển kinh tế - xã hội. Khi chúng
ta nói tới nguồn lực con người là ta nói tới con người với tư cách là chủ thể
hoạt động sáng tạo tham gia cải tạo tự nhiên, làm biến đổi xã hội.
Chúng ta cũng có thể hiểu đầy đủ hơn về nguồn nhân lực thông qua
khái niệm phát triển nguồn nhân lực. Trong sự nghiệp CNH, HĐH ở nước ta,
phát triển nguồn nhân lực được hiểu là gia tăng giá trị con người trên các mặt
đạo đức, trí tuệ, kỹ năng, tâm hồn, thể lực... làm cho con người trở thành
những lao động có những năng lực và phẩm chất mới ngày càng cao, để đủ

sức đáp ứng những yêu cầu to lớn của quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa
ở nước ta hiện nay. Do vậy, phát triển nguồn nhân lực còn bao hàm các mặt:
giáo dục và đào tạo, việc làm, sử dụng lao động, chăm sóc nâng cao đời sống
vật chất, tinh thần, xây dựng môi trường sống và lao động cho lực lượng lao
động. Phát triển nguồn nhân lực còn là các hoạt động (đầu tư) nhằm tạo ra


14

nguồn nhân lực với số lượng và chất lượng đáp ứng được nhu cầu phát triển
kinh tế-xã hội của đất nước, đồng thời bảo đảm sự phát triển của mỗi cá nhân.
1.1.2. Khái niệm chất lượng nguồn nhân lực
Chất lượng nguồn nhân lực là khái niệm tổng hợp bao gồm những nét
đặc trưng về trạng thái, thể lực, trí lực, kỹ năng, phong cách đạo đức, lối sống
và tinh thần của nguồn nhân lực. Nói cách khác là trình độ học vấn, trạng thái
sức khỏe, trình độ chuyên môn kỹ thuật, cơ cấu nghề nghiệp, thành phần xã
hội… của nguồn nhân lực, trong đó trình độ học vấn, kỹ năng nghề nghiệp là
tiêu chí quan trọng để đánh giá phân loại chất lượng nguồn nhân lực [72 - 71].
Chất lượng nguồn nhân lực thể hiện trạng thái nhất định của nguồn
nhân lực với tư cách là một khách thể vật chất đặc biệt, đồng thời là chủ thể
của mọi hoạt động kinh tế và các quan hệ xã hội. Chất lượng nguồn nhân lực
là tổng hợp những nét đặc trưng phản ánh bản chất, tính đặc thù liên quan trực
tiếp tới hoạt động sản xuất và phát triển con người.
Nói tới chất lượng nguồn nhân lực là nói tới nguồn lực con người,
nguồn lực lao động, không chỉ được biểu thị về số lượng mà còn biểu thị về
chất lượng, nó được thể hiện ở trình độ học vấn tay nghề, kỹ năng nghiệp vụ
của người lao động, thể hiện người lao động đã được đào tạo, thể hiện ở sức
khỏe của người lao động. Người lao động phải có sức khỏe tốt mới hoàn
thành tốt công việc của mình được; không những thế người lao động còn phải
có đạo đức, lối sống được thể hiện ra ở thái độ lao động, trách nhiệm trong

công việc mình làm.
Tóm lại, trong quá trình lao động sản xuất, nguồn lực lao động chất
lượng cao đã đem lại hiệu quả sản xuất tốt, đem lại năng suất chất
lượng thành phẩm cao. Thành quả lao động đó là sự kết tinh của sức lực và
trình độ tay nghề của người lao động, mặt khác nó còn là sự kết tinh của lòng
ham mê hăng say lao động, ý thức trách nhiệm của người lao động. TSKH
Lương Việt Hải đã khẳng định: "Trong thời đại cách mạng khoa học - kỹ


15

thuật và công nghệ thể lực là… một điều kiện tất yếu và tối cần thiết, là điều
kiện cần của mọi quá trình lao động, nhưng nó không còn là điều kiện đủ. Trí
tuệ, với năng lực tinh thần và những phẩm chất tâm lý đóng vai trò quan trọng
và quyết định năng suất, hiệu quả và giá trị xã hội của lao động"[46 – 380]. Vì
vậy, trình độ học vấn, tay nghề của người lao động là quan trọng, là quyết
định; song cũng không thể thiếu được ý thức đạo đức và sức khỏe của người
lao động. Có thể nói chất lượng nguồn nhân lực được kết hợp bởi 3 yếu tố:
Thể lực, trí lực và đạo đức lối sống.
+ Thể lực: là trạng thái sức khỏe của con người biểu hiện ở sự phát
triển sinh học, không có bệnh tật, có sức khỏe lao động trong hình thái lao động
ngành nghề nào đó, có sức khỏe để học tập làm việc lâu dài... thể lực yếu sẽ hạn
chế rất lớn đến sự phát triển trí lực của cá nhân và cộng đồng xã hội nói chung.
+ Trí lực: Là năng lực trí tuệ, tinh thần, là trình độ phát triển trí tuệ, là
học vấn chuyên môn kỹ thuật, là kỹ năng nghiệp vụ, tay nghề. Nó quyết định
phần lớn khả năng sáng tạo của con người, nó càng có vai trò quyết định
trong phát triển nguồn lực con người, đặc biệt trong thời đại ngày nay khi
khoa học kỹ thuật phát triển như vũ bão.
+ Lối sống đạo đức: Là sự phản ánh những chuẩn mực đạo đức xã hội.
Những giá trị từ chuẩn mực đó phản ánh bản chất của xã hội, lý tưởng đạo

đức của xã hội vươn tới, nhất là trong hoạt động, trong lối sống, nếp sống
hàng ngày. Lối sống đạo đức con người là sự thể hiện tính cách, tâm lý sự
giác ngộ, các giá trị văn hóa được kết tinh trong người lao động. Đạo đức gắn
liền với năng lực tạo nên những giá trị cơ bản của nhân cách chất lượng người
lao động, từ phương diện cá nhân đến phương diện xã hội và biểu hiện ra ở ý
thức lao động, thái độ lao động.
Ngoài thể lực, trí lực, đạo đức lối sống, cái làm nên chất lượng nguồn
nhân lực là kinh nghiệm sống, nhu cầu thói quen vận dụng tri thức tổng hợp
và kinh nghiệm của mình vào các hoạt động sáng tạo, tạo ra các giải pháp mới


16

đối với công việc như một sáng tạo văn hóa. Xét theo ý nghĩa đó, chất lượng
nguồn nhân lực bao gồm trong đó toàn bộ sự phong phú, sâu sắc của các năng
lực trí tuệ, năng lực thực hành, tổ chức và quản lý, tính tháo vát và sự uyển
chuyển của những phản ứng của con người trước hoàn cảnh dựa trên sức
mạnh của học vấn, kinh nghiệm, sự rộng mở các quan hệ xã hội, sự tiếp thu
tinh tế các ảnh hưởng văn hóa truyền thống từ gia đình tới xã hội. Nó kết hợp
với sức khỏe (thể lực) và dẫn dắt con người đi vào trường học thực tiễn của
sáng tạo và phát triển. Nói cách khác chất lượng nguồn nhân lực là một tập
hợp các chỉ số phát triển con người, là chất lượng văn hóa mà bản thân nó và
xã hội có thể huy động vào sự sáng tạo tiếp theo các giá trị văn hóa của toàn
xã hội, vì lợi ích của cá nhân và toàn xã hội.
Ở Việt Nam trong thời kỳ đổi mới, nguồn lực con người đã được phát
huy trên nhiều lĩnh vực, góp phần tạo nên nhiều thành tựu quan trọng, đưa đất
nước thoát khỏi khủng hoảng kinh tế-xã hội và chuyển sang thời kỳ phát triển
mới - thời kỳ CNH, HĐH.
Mặc dù nước ta đã thoát khỏi những khủng hoảng kinh tế xã hội, nhưng
nhìn chung nước ta vẫn là một nước nông nghiệp, tỷ trọng công nghiệp trong cơ

cấu kinh tế còn thấp, kỹ thuật lạc hậu, đặc biệt nguồn nhân lực với tư cách là
động lực của CNH, HĐH chưa đáp ứng được yêu cầu của sự nghiệp CNH,
HĐH. Số người được đào tạo và số người có tay nghề bậc cao còn thấp, số
người có trình độ học vấn từ cao đẳng trở lên còn ít. Đó là một khó khăn lớn cho
việc tiếp thu khoa học hiện đại, tiên tiến. Mặt khác sức khỏe của nhân dân còn
nhiều mặt yếu kém. Nói tóm lại, bước vào sự CNH, HĐH ở nước ta nói chung
và Thanh Hóa nói riêng, chỉ số phát triển con người chưa phù hợp với yêu cầu
của CNH, HĐH. Vì vậy, cần phải phát triển nguồn nhân lực hơn nữa, phải tạo
ra nguồn nhân lực với chất lượng cao đáp ứng yêu cầu CNH, HĐH đất nước.
1.2. VỊ TRÍ, VAI TRÒ CỦA NGUỒN NHÂN LỰC TRONG SỰ NGHIỆP
CÔNG NGHIỆP HÓA, HIỆN ĐẠI HÓA ĐẤT NƯỚC


17

1.2.1. Nguồn nhân lực - nhân tố quyết định sự thắng lợi công
nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước
Theo quan điểm duy vật biện chứng về xã hội thì sản xuất vật chất là
nhân tố quyết định sự tồn tại và phát triển xã hội, trong quá trình sản xuất ấy
thì lực lượng sản xuất là yếu tố quyết định. Quá trình sản xuất vật chất của
nhân loại đã hình thành mối quan hệ tất yếu khách quan và phổ biến, đó là
mối quan hệ giữa con người với tư cách là chủ thể của quá trình lao động sản
xuất, với giới tự nhiên. Lực lượng sản xuất chính là biểu hiện quan hệ giữa
con người với giới tự nhiên. Theo Mác lực lượng sản xuất là một thể thống
nhất giữa "một bên là con người và lao động của con người; bên kia là tự
nhiên và vật liệu của tự nhiên thế là đủ" [18-271]. Nhưng với tư cách là chủ
thể của quá trình lao động, con người không thỏa mãn với những gì đã có sẵn
trong tự nhiên mà con người kết hợp lao động của mình với những cái có sẵn
tạo ra những cái không có sẵn trong tự nhiên nhằm đáp ứng nhu cầu đời sống
của mình. Vậy, lao động là hoạt động có tính mục đích của con người nhằm

tạo ra các loại sản phẩm vật chất và tinh thần cho xã hội.
Theo Mác: "Lao động trước hết là một quá trình diễn ra giữa con người
và tự nhiên, quá trình đó bằng hoạt động của chính mình con người làm trung
gian điều tiết và kiểm tra sự trao đổi chất giữa họ và tự nhiên " [19-20]. Nói đến
sản xuất ra vật chất cho xã hội tồn tại và phát triển là phải nói đến hoạt động lao
động của con người. Tức là nói đến người lao động; người lao động với sức
khỏe, tri thức, kỹ năng, kinh nghiệm lao động, tiến hành lao động nhằm thực
hiện những nhu cầu đáp ứng những lợi ích của mình trong những điều kiện
kinh tế-lịch sử nhất định. Mác khẳng định: "Do có được những lực lượng sản
xuất mới, loài người đã thay đổi phương thức sản xuất của mình và do thay
đổi phương thức sản xuất, cách làm của mình, loài người đã thay đổi tất cả
những quan hệ xã hội của mình" [20 - 125]. Như vậy, loài người làm nên lịch
sử xã hội của mình bằng chính sức lực của mình, bằng chính nguồn nhân lực.


18

Lênin cũng đã đánh giá "lực lượng sản xuất hàng đầu của toàn thể
nhân loại là công nhân, là người lao động" [80 - 430].
Trong chiến lược ổn định và phát triển kinh tế - xã hội đến năm 2000,
Đảng ta đã phân tích các nguồn lực để phát triển kinh tế - xã hội ở nước ta hiện
nay và khẳng định: " Nguồn lao động dồi dào, con người Việt Nam có truyền
thống yêu nước cần cù, sáng tạo... đó là nguồn lực quan trọng nhất" [81 - 5].
Đối với nước ta hiện nay, bước vào CNH, HĐH thì "Nguồn nhân lực"
chính là "Nguồn lực con người". Chính vì nguồn lực con người là nội lực
quan trọng nhất cho sự phát triển nên Đảng ta đã "lấy việc phát huy nguồn lực
con người làm yếu tố cơ bản cho sự phát triển nhanh và bền vững..." [40-85].
Việt Nam phát triển đất nước trong xu thế toàn cầu hóa và hội nhập
kinh tế thế giới. Vì vậy đòi hỏi Việt Nam phải tiến hành CNH, HĐH trong đó
lấy việc phát triển con người làm trung tâm. Công nghiệp hóa, hiện đại hóa là

quá trình phát triển kinh tế - xã hội từ thực trạng một nền sản xuất với năng
suất chất lượng và hiệu quả thấp, dựa vào sản xuất nông nghiệp, sử dụng lao
động thủ công là chủ yếu chuyển sang một nền sản xuất có năng suất, chất
lượng và hiệu quả cao dựa trên sản xuất công nghiệp và những thành tựu mới
của khoa học - công nghệ. CNH, HĐH cũng chính là một quá trình chuyển
dịch cơ cấu kinh tế theo hướng tăng nhanh các ngành có hàm lượng khoa học
- công nghệ cao, có giá trị tăng cao. Thực chất của CNH là sự phát triển công
nghệ, là quá trình chuyển nền sản xuất xã hội cả nông nghiệp, công nghiệp và
dịch vụ từ trình độ công nghệ thấp lên trình độ công nghệ tiên tiến, hiện đại.
Trong giai đoạn hiện nay, CNH, HĐH còn bao gồm những yếu tố của nền
kinh tế tri thức. Như vậy, thực chất CNH, HĐH chính là quá trình xây dựng
cơ sở vật chất-kỹ thuật của nền sản xuất hiện đại, xây dựng cái cốt vật chất
của chủ nghĩa xã hội. Do đó, Đảng cộng sản Việt Nam đã khẳng định CNH,
HĐH: Đó không chỉ đơn giản là tăng thêm tốc độ và tỉ trọng của sản xuất
công nghiệp trong nền kinh tế, mà là quá trình chuyển dịch cơ cấu gắn với đổi


19

mới căn bản về công nghệ, tạo nền tảng cho sự tăng trưởng nhanh, hiệu quả
cao và lâu bền của toàn bộ nền kinh tế quốc dân.
Công nghiệp hóa phải đi đôi với hiện đại hóa, kết hợp những bước
tiến tuần tự về công nghệ với tranh thủ đi tắt, đón đầu, hình thành những mũi
nhọn phát triển theo trình độ tiên tiến của khoa học công nghệ thế giới [3227].
Muốn đạt những yêu cầu trên chúng ta phải nỗ lực và sáng tạo rất cao,
phải biết tiếp cận và vận dụng những thành tựu mới về khoa học và công nghệ
của nhân loại, phải sử dụng và phát huy đến mức tối đa lợi thế vốn có của
nguồn lực con người Việt Nam; và hơn nữa biến nguồn lực con người thành
động lực thúc đẩy sự nghiệp CNH, HĐH đất nước.
Chỉ có nguồn nhân lực với những con người có năng lực phát triển

toàn diện, nắm bắt nhanh chóng toàn bộ hệ thống sản xuất trong thực tiễn, đáp
ứng được nhu cầu khai thác và sử dụng các nguồn lực tự nhiên cho sự phát
triển xã hội, chúng ta mới có thể đưa sự nghiệp CNH, HĐH đến thắng lợi.
Chính vì vậy, cần phải có nguồn nhân lực và nguồn nhân lực chất lượng cao
để đáp ứng công cuộc CNH, HĐH đất nước.
Để thực hiện CNH, HĐH đất nước cần thiết phải có một hệ thống
nguồn lực. Trong chiến lược ổn định và phát triển kinh tế - xã hội đến năm
2000, Đảng ta đã đưa ra các nguồn lực như: Nguồn vốn, tài nguyên thiên
nhiên, cơ sở vật chất -kỹ thuật, vị trí địa lý, nguồn nhân lực và nguồn lực
nước ngoài… các nguồn lực này có quan hệ biện chứng và cùng tham gia vào
quá trình CNH, HĐH, nhưng mỗi nguồn lực có vai trò vị trí và mức độ tác
động riêng của chúng. Trong tổng thể các nguồn lực đó thì nguồn nhân lực có
vị trí trung tâm và giữ vai trò quyết định sự thắng lợi của sự nghiệp CNH,
HĐH đất nước. Ta có sơ đồ sau:


20

Nguồn nhân
lực

Nguồn
lực
nước
ngoài

Sự nghiệp

Nguồn
tài

nguyên
thiên
nhiên

công nghiệp
hoá hiện đại
hoá ở Việt
Nam
Các
Nguồn

nguồn

cơ sở

lực
khác:

vật chất
- kỹ

Đất

thuật

đai...
đai,vị
Nguồn vốn

trí địa



Hình 1.2: Sơ đồ tổng thể các nguồn lực tác động đến quá trình


21

CNH,HĐH ở nước ta hiện nay
Sơ đồ trên (hình 2) hiển thị sự tác động lẫn nhau giữa các nguồn lực,
các nguồn lực này có mối quan hệ chặt chẽ, cùng tham gia vào quá trình CNH,
HĐH nhưng mức độ tác động và vai trò của chúng đối với toàn bộ quá trình
CNH, HĐH không giống nhau, trong đó nguồn nhân lực là yếu tố quyết định.
Vai trò quyết định của nguồn nhân lực biểu hiện ở những điểm cơ bản sau:
Thứ nhất, các nguồn lực như vốn, tài nguyên thiên nhiên, cơ sở vật
chất kỹ thuật, vị trí địa lý… là những khách thể chịu sự khai thác cải tạo của
con người, và phục vụ cho nhu cầu lợi ích của của con người. Các nguồn lực
này tự nó chỉ tồn tại dưới dạng tiềm năng, muốn phát huy một cách tích cực
trong quá trình CNH, HĐH thì phải kết hợp với nguồn lực con người, thông
qua hoạt động có ý thức của con người.
Ở một số nước, điều kiện tự nhiên thuận lợi là nhân tố làm cho đất
nước giàu mạnh, bởi vì con người biết tái tạo tự nhiên; còn ở một số nước
khác, điều kiện tự nhiên cũng tương tự, hoặc còn thuận lợi hơn, thì đất nước
lại nghèo nàn, ngày càng kiệt quệ nguồn tài nguyên vì ở những nước này con
người chỉ biết tước đoạt tài nguyên thiên nhiên, biến nó thành hoang mạc.
Qua thực tế đó cho thấy vị trí địa lý, tài nguyên thiên nhiên có ảnh hưởng trực
tiếp đến sự phát triển của đất nước, chúng đều phụ thuộc vào khả năng sử
dụng của con người. Còn vốn - tiền tệ cũng là nhân tố quan trọng cho sự phát
triển của bất cứ nước một nào. C. Mác đã có lý khi cho rằng: tiền tệ chỉ trở
thành tư bản thông qua sức lao động của công nhân, nhờ vậy nó tạo ra giá trị
lớn hơn giá trị ban đầu. Trong thời đại mở cửa, nhiều nước có thể thu hút vốn

từ nước ngoài. Nhưng vốn ấy chỉ có thể phát huy tác dụng tích cực nếu con
người sử dụng hợp lý vốn đó để phát triển nền sản xuất. Vì vậy, nguồn vốn
chỉ trở thành động lực quan trọng và cấp thiết cho sự nghiệp công nghiệp hóa,
hiện đại hóa khi được con người sử dụng đúng mục đích và có hiệu quả.


22

Từ sự phân tích vai trò quyết định của nguồn nhân lực trong mối quan
hệ với các nguồn lực khác, như vị trí địa lý, tài nguyên thiên nhiên, vốn, các
nguồn lực khác… thì nguồn nhân lực là nguồn lực duy nhất, biết tư duy có trí
tuệ và ý thức để sử dụng các nguồn lực khác và gắn các nguồn lực lại với
nhau tạo thành sức mạnh tổng hợp cùng tác động vào quá trình công nghiệp
hóa, hiện đại hóa đất nước.
Thứ hai, nguồn nhân lực có vai trò quyết định trong các nhân tố, các
nguồn lực của sự phát triển lịch sử. Trước hết là do năng lực sáng tạo, trí tuệ
của bản thân con người và cộng đồng người theo chiều hướng tiến bộ của lịch
sử. Từ thế kỷ XVI, nhà triết học Ph.Bêcơn đã đưa ra nhận định: Tri thức là
sức mạnh, khoa học tăng quyền lực của con người đối với tự nhiên. Đến giữa
thế kỷ XIX, trên cơ sở phân tích vai trò của khoa học trong sự phát triển xã
hội, C.Mác kết luận: Việc biến khoa học thành lực lượng sản xuất trực tiếp là
một quy luật khách quan của sự phát triển xã hội. Điều đó đã trở thành hiện
thực. Những năm đầu thế kỷ XX tỷ lệ lao động chân tay trong sản phẩm là
9/10 đến những năm 90 tỷ lệ đó giảm xuống chỉ còn 1/5 nhưng khối lượng
sản phẩm đạt gần gấp 50 lần so với 80 năm về trước. Con người với trí tuệ lao
động đã và đang là tài sản quý giá nhất, là nguồn lực quan trọng nhất quyết định
sự phát triển của mỗi quốc gia. Vì vậy, so với các nguồn lực khác thì "chỉ có con
người là nguồn lực chủ yếu, lâu bền trong sự phát triển của đất nước và cũng chỉ
có tri thức con người là một nguồn lực vô hạn có khả năng tái sinh và tự tái sinh
không bao giờ cạn kiệt. Nếu không có con người đủ trí tuệ và năng lực khai

thác thì các nguồn lực khác cũng sẽ không được sử dụng có hiệu quả" [82 75].
Mặt khác vai trò quyết định của nguồn nhân lực đối với các nguồn lực
khác là do nguồn nhân lực mà cốt lõi trí tuệ là nguồn lực vô hạn, luôn đổi mới
không ngừng và phát triển về chất, còn các nguồn lực khác như đất đai, tài
nguyên, vốn… thì có hạn, khai thác mãi đến lúc cũng phải cạn kiệt. Vậy,
nguồn nhân lực là nguồn lực quan trọng nhất có vai trò quyết định đối với các


23

nguồn lực khác, nên chúng ta phải chú trọng, bồi dưỡng, đào tạo nguồn nhân
lực nhằm nâng cao chất lượng nguồn nhân lực tạo động lực thúc đẩy quá trình
CNH, HĐH nhanh chóng đi đến thắng lợi.
Thứ ba, con người với tất cả những phẩm chất tích cực của mình bao
gồm trí tuệ, kinh nghiệm, năng động, thích ứng, sáng tạo… thì tự mình có thể
trở thành động lực phát triển của toàn xã hội. Trí thông minh, tài năng sáng
tạo, nhạy cảm với cái mới, ý chí tự lực tự cường là những tiềm năng to lớn
của dân tộc Việt Nam, là sản phẩm của quá trình phát triển lâu dài của dân
tộc, là nguồn lực to lớn cho sự phát triển đất nước. Những đức tính đó đã
được thể hiện và nhân lên trong quá trình đấu tranh dựng nước và giữ nước
của dân tộc Việt Nam. Ngày nay công cuộc đổi mới của đất nước đòi hỏi
nguồn nhân lực - lực lượng cơ bản, chủ yếu của sự nghiệp CNH, HĐH phải
thực sự là chủ thể sáng tạo có khả năng nắm bắt nhanh và thích nghi với cái
mới để vận dụng vào thực tiễn đầy khó khăn thách thức trên bước đường
CNH, HĐH của nước ta. Những kỳ tích của sự CNH, HĐH đều phụ thuộc vào
trí tuệ, sự thông minh, tinh thần chủ động sáng tạo của nguồn lực con người
Việt Nam. Do đó trong số các nguồn lực thì động lực chủ yếu của sự nghiệp
CNH, HĐH chính là nguồn nhân lực. Đảng cộng sản Việt Nam chỉ rõ: Những
nguồn lực làm cơ sở cho việc thực hiện thành công sự nghiệp CNH, HĐH đất
nước là nguồn lực con người. Đảng ta khẳng định "nguồn lao động dồi dào,

con người Việt Nam có truyền thông yêu nước cần cù, sáng tạo, có nền tảng
văn hóa giáo dục, có khả năng nắm bắt nhanh khoa học và công nghệ… đó là
nguồn lực quan trọng nhất " [32 - 5]. Để sự nghiệp CNH, HĐH thành công
chúng ta phải biết phát huy sức mạnh tổng hợp của các nguồn lực, trong đó
"lấy việc phát huy nguồn lực con người làm yếu tố cơ bản cho sự phát triển
nhanh và bền vững "[40 - 85].
Nguyên phó thủ tướng Nguyễn Khánh cũng đã khẳng định: "Con
người là chủ thể của mọi sáng tạo, mọi nguồn của cải vật chất và văn hóa của
mọi quốc gia… Từ một nước nông nghiệp lạc hậu bắt đầu đi vào CNH, HĐH


24

ta chưa có những chỉ số cao về phát triển con người như mong muốn…Vì
vậy, cùng với việc tạo ra nguồn lực vật chất, tài chính và phát huy nguồn lực
đó, điều quan trọng nhất hiện nay là chăm lo phát triển nguồn lực con người
Việt Nam, tạo ra lực lượng lao động với trình độ mới, khả năng mới phù hợp
với yêu cầu đẩy nhanh sự nghiệp CNH, HĐH đất nước"[51 - 1].
Như vậy, trong số các nguồn lực thì nguồn nhân lực giữ vị trí trung
tâm của quá trình CNH, HĐH mặc dù tất cả các nguồn lực đều rất cần cho công
cuộc CNH, HĐH nhưng xét đến cùng thì các nguồn lực đó sẽ vô nghĩa nếu thiếu
nguồn lực con người. Tuy nhiên con người mà chúng ta cần đến để đáp ứng các
đòi hỏi của sự nghiệp này có những điểm khác biệt với các đòi hỏi của giai đoạn
trước. Trong thời đại hiện nay, khi nền kinh tế thế giới đang từng bước chuyển
sang kinh tế dựa trên cơ sở tri thức thì vai trò và tầm quan trọng của trí tuệ con
người tăng lên gấp bội. Để tiến hành CNH, HĐH đất nước, để không bị tụt
hậu về kinh tế, chúng ta phải nhanh chóng nâng cao năng lực trí tuệ, trình độ
học vấn, vốn văn hóa, kỹ năng và trình độ nghề nghiệp cho người lao động.
1.2.2. Nâng cao chất lượng nguồn nhân lực - động lực thúc đẩy
quá trình công nghiệp hóa, hiện đạo hóa đất nước

Trong thời đại hiện nay, sự phát triển nhanh chóng của khoa học công
nghệ góp phần đắc lực cho sự phát triển kinh tế - xã hội. Cách mạng khoa học
công nghệ dẫn đến việc sử dụng những công cụ, phương tiện hiện đại, phức
tạp, các ngành công nghiệp có hàm lượng khoa học cao ngày càng phát triển
đòi hỏi người lao động phải có tri thức, hoàn thiện kỹ năng, kỹ xảo, mở rộng
trình độ hiểu biết để tiếp thu và vận dụng có hiệu quả các thành tựu khoa học
- công nghệ vào sự phát triển kinh tế - xã hội. Khoa học công nghệ càng tiến
về phía trước, càng đòi hỏi phải có một sự phát triển cao về trí tuệ của người
lao động để không ngừng tạo ra tri thức mới, thúc đẩy tiến trình CNH, HĐH
nước nhà nhanh chóng đi tới thắng lợi.


25

Trong thời đại chúng ta, cuộc cạnh tranh khốc liệt đang diễn ra giữa
các cường quốc đế quốc và giữa các quốc gia trong cộng đồng thế giới về
thực chất cũng là cuộc cạnh tranh về trí tuệ. Trong điều kiện như vậy để tiến
hành thành công sự nghiệp CNH, HĐH chúng ta phải tạo điều kiện và môi
trường để phát triển nguồn lực con người có trí tuệ cao với tính cách là nguồn
lực của mọi nguồn lực. Ăng ghen cho rằng: "Một dân tộc muốn đứng vững
trên đỉnh cao của khoa học thì không thể không có tư duy lý luận" [17- 489],
nghĩa là không thể thiếu trí tuệ ở trình độ cao.
Trong thời đại mà khoa học trở thành lực lượng sản xuất trực tiếp, có
người đã lầm tưởng rằng khoa học là yếu tố hoàn toàn độc lập trong lực lượng
sản xuất và tách khỏi con người. Chính quan niệm này đã dẫn đến tình trạng
không đầu tư đúng mức cho những con người làm khoa học mà chỉ quan tâm
đến các yếu tố khác ngoài con người. Vì vậy, muốn cho khoa học và công
nghệ cùng với giáo dục và đào tạo trở thành nền tảng và động lực đẩy mạnh
CNH, HĐH đất nước thì phải đầu tư vào con người. Đầu tư để tạo dựng
nguồn lực khoa học và công nghệ - nguồn nhân lực chất lượng cao. Chỉ có

trên cơ sở tạo ra một đội ngũ những người lao động phát triển cả về trí lực và
thể lực, cả về khả năng lao động, về tính tích cực chính trị - xã hội, về đạo
đức, tình cảm trong sáng thì chúng ta mới có nguồn lực quan trọng nhất, bền
vững nhất trong CNH, HĐH đất nước. Song với thực tiễn của một đất nước
cơ sở vật chất còn nghèo nàn, đời sống xã hội chưa cao, chúng ta không thể
một sớm một chiều CNH, HĐH đất nước ngay mà phải tạo ra một nguồn lực
bên trong đó là: Lực lượng lao động xã hội. Do đó phải nhanh chóng bồi
dưỡng nâng cao chất lượng lao động, tạo ra được những người lao động vừa
có thể lực vừa có trí lực và tâm lực để thực hiện mục tiêu CNH, HĐH đất
nước.
Xuất phát từ thực tế đó và do nhận thức được xu hướng đầu tư và phát
triển của các nước trên thế giới, bắt đầu từ Đại hội Đảng lần thứ VI, đặc biệt
là Đại hội Đảng lần thứ VII Đảng ta đã nhận thức ngày càng đầy đủ hơn về


×