Tải bản đầy đủ (.docx) (17 trang)

BÀI THU HOẠCH lịch sử ngoại giao việt nam tại trung tâm ATK (an toàn khu)

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (2.72 MB, 17 trang )

I. MỞ ĐẦU
Với mục đích học tập đi đôi với trải nghiệm thực tế, nhằm giúp sinh viên
có những hiểu biết sâu sắc hơn về môn Lịch sử ngoại giao Việt Nam. Trong 2
ngày 11và 12 tháng 4 vừa qua, khoa Quan hệ quốc tế, Học viện Báo chí và
Tuyên truyền đã tổ chức cho toàn bộ sinh viên của khoa đến tham quan thực
tế tại Trung tâm ATK (an toàn khu) nằm ở xã Phú Đình, huyện Định Hóa, tỉnh
Thái Nguyên và khu di tích lịch sử Tân Trào, tỉnh Tuyên Quang.
Giới thiệu chung vể 2 địa điểm tham quan :
Chúng ta đã từng biết đến một Thái Nguyên "xanh" với cái màu xanh
thẫm trải dài theo những cánh rừng cọ, đồi chè bát ngát; màu xanh mướt của
thảm cỏ, nương ngô; xen lẫn với cái xanh dương sẫm của những lũy tre ẩn
mình trong các thôn xóm, bản làng. Và bây giờ, chúng ta còn biết đến một
Thái Nguyên anh hùng với những khu di tích cách mạng nổi tiếng. Một trong
những khu di tích phải kể đến đó là Trung tâm ATK (an toàn khu) nằm ở xã
Phú Đình, huyện Định Hóa, tỉnh Thái Nguyên, là nơi Chủ tịch Hồ Chí Minh
và các vị lãnh đạo Đảng, Nhà nước đã sống và làm việc từ 1947-1954 để
lãnh đạo cuộc kháng chiến 9 năm chống thực dân Pháp. Điểm di tích lịch sử
ATK đã được Nhà nước xếp hạng quốc gia năm 1981.
Và Tân Trào- căn cứ địa của Cách mạng Việt nam trước Cách mạng
tháng Tám, thuộc huyện Sơn Dương, tỉnh Tuyên Quang (cách Tuyên Quang
hơn 40 km về phía Tây Bắc)
Tân Trào là một thung lũng nhỏ; thủ đô lâm thời của khu giải phóng, nơi
Đảng Cộng sản Việt nam tiến hành hội nghị toàn quốc của Đảng (13/8/1945)
quyết định tổng khởi nghĩa. Đại hội quốc dân họp ngày (16/8/1945) thông
qua 10 chính sách lớn của Việt Minh, bầu ra Chính phủ lâm thời do Bác Hồ
làm Chủ tịch và nơi quân giải phóng Việt Nam làm lễ ra quân.

1


II. HÀNH TRÌNH VÀ NHỮNG TRẢI NGHIỆM


2.1 Khu di tích ATK (An toàn khu) Định Hóa
Điểm đến đầu tiên: Trung tâm ATK (an toàn khu) nằm ở xã Phú Đình,
huyện Định Hóa, tỉnh Thái Nguyên.
Sáng ngày 11 tháng 4. Đúng 6h30p đoàn khởi hành từ Học viện Báo chí
và Tuyên truyền lên Thái Nguyên. Sau khoảng 3h30p thì đoàn đã có mặt tại
điểm đến đầu tiên trong tiến trình tham quan là Trung tâm ATK, Định Hóa,
Thái Nguyên.
Trước khi tham quan khu làm việc lịch này, chúng tôi được ghé qua khu
trưng bày chứng tích chiến tranh và nhà tưởng niệm Hồ Chí Minh làm lễ dâng
hương nghiêm trang, đầu đoàn là Phó khoa Quan hệ quốc tế: cô giáo Nguyễn
Thị Việt Nga

(Khu nhà trưng bày chứng tích chiến tranh và khu tưởng niệm Hồ Chí Minh)

2


Chụp ảnh lưu niệm trước khu tượng niệm Hồ Chủ Tịch – Định HóaThái Nguyên

3


Đường lên đồi Tỉn Keo – Nơi làm việc của Bác Hồ và Đảng ta.

Đây là nơi Chủ tịch Hồ Chí Minh và các nhà lãnh đạo Đảng, Nhà nước
Việt Nam đã sống và làm việc từ 1947 - 1954 để lãnh đạo cuộc kháng chiến 9
năm chống thực dân Pháp. An toàn khu Trung ương Định Hoá nằm ở trung
tâm căn cứ địa Việt Bắc, nơi có địa thế hiểm trở "tiến có thể đánh, lui có thể
giữ", có đầy đủ yếu tố địa lợi, nhân hoà, đã trở thành địa bàn hoạt động an
toàn của các cơ quan đầu não kháng chiến. Khu căn cứ này đặt tại huyện Định

Hóa nằm ở cực bắc tỉnh Thái Nguyên.

4


Ngày 6/12/1953, tại đồi Tỉn Keo, Bộ Chính trị BCH TW đã họp thông
qua kế hoạch tác chiến - tấn công chiến lược Ðông Xuân 1953- 1954 để làm
nên chiến thắng Ðiện Biên Phủ.
Nhiều sắc lệnh quan trọng của Nước Việt Nam Dân chủ Cộng hoà được
ký ban hành tại đây, trong đó có luật về nghĩa vụ quân sự, sắc lệnh tổng động
viên... về giảm tô và cải cách ruộng đất...
Thủ đô ATK cũng là nơi diễn ra các hoạt động ngoại giao của nước ta
thời ấy.

(Đồi Tỉn Keo, lán Tỉn Keo nơi diễn ra “cuộc họp Tỉn Keo” của bộ chính
trị ngày 06/12/1953 do Bác Hồ chủ trì - cuộc họp quyết định mở chiến dịch
Điện Biên Phủ lịch sử)
Bên cạnh các di tích chính như đồi Tỉn Keo, Khuôn Tát, Nà Nom... cụm
di tích ATK còn có nhiều địa danh đi vào lịch sử như: đèo De, núi Hồng, nhà
ông Cao Nhật - một trong những cơ sở cách mạng đầu tiên của Xứ ủy Bắc Kỳ
thời kỳ 1939 -1945; rừng Mấn - nơi đặt trạm liên lạc của Xứ uỷ Bắc Kỳ và là
nơi mở lớp huấn luyện chính trị, quân sự. Đây cũng là nơi hoạt động của
5


Trường Chinh, Tổng bí thư của Ðảng khi đó và đồng chí Hoàng Quốc Việt.
Cụm di tích có chùa Mai Sơn - nơi Xứ uỷ Bắc Kỳ đặt nhà in đặc biệt, in báo
Cờ giải phóng và nhiều tài liệu quan trọng; đình Kha Sơn - nơi thành lập
chính quyền cách mạng đầu tiên của xã...
ATK hiện nay đã là một miền đất trù phú với những con đường nhựa

chạy dài theo triền núi. Nhưng đến nơi này, hình ảnh một vùng chiến khu xưa
vẫn còn hiện hữu rất rõ.
Chia tay với ATK Định Hoá, đoàn khởi hành đến thăm khu di tích lịch
sử Tân Trào- căn cứ địa của Cách mạng Việt nam trước Cách mạng tháng
Tám, thuộc huyện Sơn Dương, tỉnh Tuyên Quang (cách Tuyên Quang hơn 40
km về phía Tây Bắc)
Tân Trào là một thung lũng nhỏ; thủ đô lâm thời của khu giải phóng, nơi
Đảng Cộng sản Việt nam tiến hành hội nghị toàn quốc của Đảng (13/8/1945)
quyết định tổng khởi nghĩa. Đại hội quốc dân họp ngày (16/8/1945) thông qua
10 chính sách lớn của Việt Minh, bầu ra Chính phủ lâm thời do Bác Hồ làm
Chủ tịch và nơi quân giải phóng Việt Nam làm lễ ra quân.
Năm 1941, Hồ Chí Minh về nước và trực tiếp chỉ đạo phong trào cách
mạng lúc bấy giờ, nhưng khi thời cơ cách mạng chin muồi, cần một địa điểm
làm trung tâm cho tổng khởi nghĩa Cách mạng Tháng Tám, thì Bác Hồ lại
không chọn Cao Bằng, mặc dù ở Cao Bằng thì người cũng đưa ra một nhận
định rằng: “ Cao Bằng là mảnh đất chiến lược, dân thì có truyền thống cách
mạng từ lâu đời mà lại gần kề với biên giới, nhưng vì Cao Bằng quá xa với
đồng bằng nên việc liên lạc với cơ quan Trung Ương từ dưới xuôi lên rất khó
khăn. Vào thời điểm đó, Bác có chỉ đạo cho đồng chí Võ Nguyên Giáp là phải
tìm ngay trong vùng Tuyên Quang hoặc là Thái Nguyên, một địa điểm mà có
dân tốt, địa hình tốt, có thể làm trọng tâm liên lạc giữa miền xuôi và miền
ngược, thậm chí là ra cả nước ngoài. Sau khi xem xét khắp vùng Tuyên
Quang, Thái Nguyên, thấy mảnh đất Tân Trào, Tuyên Quang đáp ứng được
đầy đủ các yêu cầu của Bác, nên đồng chí Võ Nguyên Giáp đã chọn Tân Trào
6


làm nơi đặt “Đại bản doanh” của Hồ Chí Minh. Và trong cách mạng Tháng
Tám Tân Trào được xem như Thủ đô Lâm thời khu giải phóng và được ví như
hình ảnh Việt Nam ta thu nhỏ lúc bấy giờ.


( Hình ảnh Lán Nà Nưa ( trước đây được gọi là lán Nà Lừa ))
Theo chỉ đạo của Bác và Tổng bộ Việt Minh, ngày 4/6/1945, Hội nghị cán
bộ toàn Khu được tổ chức tại Tân Trào. Hội nghị đã quyết định thành lập Khu
giải phóng; thống nhất các lực lượng vũ trang thành quân giải phóng; đề ra 10
chính sách lớn của Việt Minh. Tân Trào là Thủ đô lâm thời Khu giải phóng.
Một trong những chỉ thị của Bác khi đến Tân Trào là phải khẩn trương
mở trường đào tạo cán bộ. Sau đó, ngày 25/6/1945, Trường Quân chính kháng
Nhật khoá I khai giảng tại Khuổi Kịch, Tân Trào. Bác đến Trường thăm hỏi
tình hình học tập và sinh hoạt của học viên.
Khi ở lán Nà Lừa, điều kiện làm việc của Bác hết sức gian khổ và khó
khăn, những bữa ăn đạm bạc, chỉ có măng rừng chấm muối vừng, cơm chan
nước chè xanh. Trước hoàn cảnh sống và làm việc như vậy, cộng với sự khắc
nghiệt của núi rừng, sức khoẻ của Bác giảm sút. Cuối tháng 7/1945, giữa lúc
tình hình trong nước cũng như thế giới đang tiến triển có lợi cho cách mạng,
7


Bác ốm. Bác sốt liên miên, lúc tỉnh lúc mê, mọi người rất lo lắng, có người
vào rừng tìm lá thuốc về sắc nước cho Bác, có người ra sông Phó Đáy bắt
được con ba ba đem về cắt tiết nhỏ vào rượu cho Bác uống và cầu mong Bác
mau khỏi bệnh.
Đồng chí Võ Nguyên Giáp, lúc đó đang ở và làm việc tại gia đình ông
Hoàng Trung Dân dưới làng Tân Lập, hàng ngày lên lán Nà Lừa báo cáo tình
hình công việc với Bác. Một hôm, lên báo cáo công việc, thấy Bác rất yếu,
đồng chí xin phép ở lại với Bác. Đêm ấy, tỉnh lại sau cơn sốt, Bác nói với
đồng chí Võ Nguyên Giáp: “Lúc này thời cơ thuận lợi đã tới, dù hy sinh tới
đâu, dù phải đốt cháy cả dãy Trường Sơn cũng cương quyết giành cho được
độc lập”. Lúc khác Bác lại dặn: “ Lúc nào cũng phải chú trọng xây dựng chi
bộ, bồi dưỡng cán bộ đảng viên và các phần tử trung kiên, trong chiến tranh

du kích lúc phong trào lên ta phải hết sức phát triển, vừa phát triển vừa chú ý
xây dựng căn cứ cho thật vững chắc đề phòng lúc khó khăn mới có chỗ đứng
chân được”. Những lời dặn dò, khẳng định quyết tâm và tấm lòng khát khao
giành độc lập của Bác.
Hôm sau, đồng chí Võ Nguyên Giáp cử người báo cáo tình hình sức
khoẻ của Bác với Trung ương và tìm người chữa bệnh. Nhờ sự mách bảo của
nhân dân, có một cụ lang già đến chữa bệnh cho Bác. Sau khi xem mạch, cụ
lang vào rừng và đem về một thứ củ gì đó, đốt cháy, hoà vào cháo loãng mời
Bác uống. Sau một vài lần như vậy, Bác đỡ dần và tiếp tục làm việc ngay.
Cao trào kháng Nhật đang phát triển rất mạnh, cuộc chiến tranh Châu Á Thái Bình Dương sắp kết thúc. Bác chỉ thị tổ chức gấp Hội nghị cán bộ toàn
quốc của Đảng và Quốc dân Đại hội. Người nói với Thường vụ Trung ương:
“Nên họp ngay và không nên kéo dài Hội nghị, chúng ta phải tranh thủ từng
giây phút. Tình hình sẽ chuyển biến nhanh chóng, không thể để lỡ cơ hội”.
Ngày 13/8/1945, tại khu rừng Nà Lừa Hội nghị cán bộ toàn quốc của
Đảng khai mạc trong không khí hết sức khẩn trương. Hội nghị quyết định
phát động toàn dân tổng khởi nghĩa giành chính quyền trong cả nước. Uỷ ban
8


khởi nghĩa được thành lập, 23h ngày 13/8/1945, ra bản quân lệnh số I, hạ lệnh
toàn dân đứng dậy giành chính quyền.
Ngày 15/8/1945, sau khi được tin Nhật chính thức đầu hàng quân Đồng
Minh vô điều kiện, Bác Hồ đã đề nghị Hội nghị nên kết thúc sớm để đại biểu
còn kịp về các địa phương lãnh đạo khởi nghĩa. Ngày 16 và 17/8, Bác dự
Quốc dân Đại hội tại đình Tân Trào, được Đại hội bầu làm Chủ tịch Uỷ ban
dân tộc giải phóng Việt Nam.
Ngày 22/8, Bác Hồ rời căn lán Nà Lừa về Hà Nội theo đường Đèo Khế,
Cù Vân (Thái Nguyên). Bác cử một số đồng chí ở lại Tân Trào, trong đó có
đồng chí Phạm Văn Đồng, Lê Giản, Hoàng Văn Thái, Trần Thị Minh Châu...
So với cả cuộc đời hoạt động cách mạng của Bác, ba tháng Người sống

và làm việc tại Tân Trào là một khoảng thời gian rất ngắn. Nhưng chính từ
căn lán đơn sơ trên khu rừng Nà Lừa, với những nhận định đúng đắn, những
quyết sách kịp thời, táo bạo về thời cơ cách mạng, Bác Hồ đã chỉ đường cho
toàn dân vươn tới một bước ngoặt có ý nghĩa lịch sử vĩ đại. Từ bước ngoặt đó,
dân tộc Việt Nam đã chấm dứt những ngày tháng nô lệ, bước sang kỷ nguyên
độc lập, tự do.

9


Trước khi rời Lán Nà Nưa, mỗi chúng tôi vẫn không quên chụp ảnh lưu niệm.

2.2 Khu di tích lịch sử Tân Trào – Tuyên Quang.
Rời Lán Nà Nưa, Chúng tôi được ghé thăm đình Hồng Thái, đình Tân
Trào và Cây đa Tân Trào, mà tôi vẫn nhớ như in những câu thơ trong bài
thơ Việt Bắc của nhà thơ Tố Hữu:
“Mái đình Hồng Thái, cây đa Tân Trào”, cảm thấy háo hức khi được
đến tham quan trực tiếp những địa danh nổi tiếng này…

10


Đoàn đang trên đường ghé qua cây đa Tân Trào…

Cây đa Tân Trào cách đình Tân Trào khoảng 500 mét về phía Đông.
Dưới bóng cây đa này, chiều 16 tháng 8 năm 1945, Việt Nam Giải phóng
quân đã làm lễ xuất quân trước sự chứng kiến của nhân dân Tân Trào và 60
đại biểu. Võ Nguyên Giáp đọc bản Quân lệnh số 1 và ngay sau đó hành quân
về giải phóng Hà Nội.
Sau nhiều năm trôi qua, do tuổi thọ và thời tiết khắc nghiệt, cây đa đã

dần yếu, tuy nhiên những khoảnh khắc lịch sử quan trọng tại cây đa này sẽ
mãi là hình ảnh đẹp trong long mỗi người dân Việt biết đến nó.

11


(Hình ảnh cây đa Tân Trào)
Tiếp đó, chúng đoàn chúng tôi được tham quan đình Hồng Thái và đình Tân Trào..

Hình ảnh đình Hồng Thái

12


Đình Hồng Thái cách đình Tân Trào gần 1 km trên đường đi Sơn Dương,
đình được xây dựng tại địa phận của làng Cả, xã Tân Trào. Năm 1919, đình
có tên là đình Làng Cả hay đình Kim Trận. Đình Hồng Thái còn là trạm giao
liên và là nơi huấn luyện quân sự trong suốt thời kỳ kháng chiến. Đình còn là
điểm dừng chân của các đại biểu toàn quốc về dự Quốc dân Đại hội, là trạm
thường trực của "An toàn khu của Trung ương đóng ở Tân Trào".

Hình ảnh đình Tân Trào
Đình Tân Trào là một đình nhỏ được xây dựng vào năm 1923 theo kiểu
nhà sàn, cột gỗ, ba gian hai chái, mái lợp lá cọ, sàn lát ván, để đáp ứng nhu
cầu tín ngưỡng và là nơi hội họp, sinh hoạt văn hoá của dân làng. Đình thờ 8
vị thành hoàng làng đại diện cho các thần sông, thần núi của làng Tân Lập, xã
Tân Trào. Dưới mái đình này, ngày 16 tháng 8 năm 1945 đã họp Quốc dân
Đại hội để quyết định lệnh tổng khởi nghĩa, 10 chính sách lớn quy định quốc
kỳ, quốc ca và cử ra một chính phủ lâm thời.


13


Chụp ảnh lưu niệm tại địa điểm này.
Sau khi ghé thăm khu di tích Tân Trào đoàn chúng tôi được nghỉ ngơi và
tham quan hồ thủy điện Thác Bà – Yên Bái, như là một món quà dành cho
toàn đoàn sau chuyến đi thực tế. Đoàn chúng tôi khép lại cuộc hành trình và
trở về Hà Nội vào chiều ngày 12-4. Một chuyến đi đầy ý nghĩa và thu nhận
được rất nhiều kiến thức cần thiết cho môn Lịch sử ngoại giao Việt Nam.

14


III.ĐÁNH GIÁ:
3.1 Đánh giá về kiến thức lịch sử ngoại giao rút ra sau chuyến đi:
Qua chuyến đi thực tế, nhìn thấy tận mắt những hiện vật lịch sử, những
chứng tích chiến tranh và những địa điểm làm việc, hoạt động cách mạng của
Hồ Chí Minh và Đảng ta; qua sự giới thiệu đầy đủ của các hướng dẫn viên du
lịch, chúng tôi càng hiểu rõ được quá trình hoạt động cách mạng gian khổ của
Hồ Chí Minh và Đảng Cộng Sản Việt Nam. Việc lựa chọn các căn cứ địa, hay
kế sách đánh giặc, tận dụng thời cơ và sự ủng hộ của quốc tế,…( Đó là các
căn cứ địa Cách mạng đều được đặt ở nơi rừng núi cách xa đường lớn và gần
với nhân dân. Nơi mà có dân tốt, địa hình tốt, có thể làm trọng tâm liên lạc
giữa miền xuôi và miền ngược, thậm chí là ra cả nước ngoài. Thuận lợi cả cho
ngoại giao. Điều đó vừa tránh được sự phát hiện của địch, vừa có thể dễ dàng
liên lạc với nhân dân, thuận lợi để nhận sự viện trợ và giúp đỡ nhanh nhất.
“Gần nước, gần dân, xa đường quốc lộ, thuận đường tiến, tiện đường thoái”).
Chúng ta thấy được sự nhanh nhạy trước thời cuộc, sự khéo léo và cẩn trọng
trong chiến lược, sự thông minh và quyết đoán của Hồ Chí Minh trong cách
mạng, trong kháng chiến và ngoại giao. Chính nhờ đó, mà giúp cách mạng

Việt Nam vượt qua những thắng lợi này đến thắng lợi khác, làm cơ sở cho độc
lập, tự do của Tổ quốc.
3.2 Cảm nhận cá nhân:
Cuộc hành trình với những trải nghiệm thú vị đã giúp cho bản thân tôi có
được nhiều kiến thức về lịch sử Cách mạng Việt Nam. Nếu như từ trước đến
nay chúng tôi chỉ được học các kiến thức lịch sử đó qua sách vở thì qua chuyến
đi thực tế này, chúng tôi thấy được tận mắt những di tích đã từng là nơi diễn ra
các sự kiện đó. Đây là một cách nhằm giúp bổ sung kiến thức nhanh chóng, sâu
rộng và khó quên, vì thế, cần có nhiều hơn nữa những chuyến đi thực tế như
vậy cho những môn lịch sử vô vàn kiến thức khó nhớ này.
Bản thân tôi, rút ra được nhiều bài học quý báu của Bác Hồ và Đảng ta,
học hỏi được ý chí và lòng quyết tâm của những thế hệ đi trước trong những
15


thời điểm gian khổ nhất của đất nước. Tôi càng cảm thấy có động lực để học
tập tốt, rèn luyện tốt hơn. Và tôi thực sự nhận thức rõ được trách nhiệm của
bản thân – là một thanh niên của thế kỷ XXI, sẵn sàng trước mọi nhiệm vụ
giữ gìn và bảo vệ Tổ quốc.

16


MỤC LỤC

17




×