Tải bản đầy đủ (.pdf) (48 trang)

Chiến trường cánh đồng chum – xiêng khoảng trong giai đoạn chiến tranh đặc biệt tăng cường (1969 1973) làm đề tài nghiên cứu

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (907.82 KB, 48 trang )

LỜI CẢM ƠN
Lời đầu tiên em xin bày tỏ lời cảm ơn chân thành và sâu sắc tới thầy giáo – ThS.
Đinh Ngọc Ruẫn đã tận tình chỉ đạo hướng dẫn, giúp đỡ em hồn thành khóa luận này.
Qua đây em cũng xin gửi lời cảm ơn tới các thầy cô trong khoa Sử - Địa, các bạn
sinh viên trong tập thể lớp K52 ĐHSP Lịch Sử đã tạo điều kiện và động viên giúp đỡ
em trong suốt thời gian hồn thành khóa luận. Đồng thời, em xin gửi lời cảm ơn tới
thư viện trường Đại học Tây Bắc và thư viện Khoa Sử - Địa là kho tư liệu q giá để
em có thể tìm hiểu các tư liệu có liên quan tới khóa luận.
Trong q trình thực hiện khóa luận, khơng thể tránh khỏi những thiếu xót, em
rất mong nhận được sự giúp đỡ, đóng góp ý kiến của các thầy cơ và các bạn để khóa
luận này được hoàn chỉnh hơn nữa.
Em xin chân thành cảm ơn!
Sơn La, tháng 5 năm 2015
Sinh viên
Lƣờng Thị Liên


MỤC LỤC
PHẦN MỞ ĐẦU .................................................................................................. 1
1. Lý do chọn đề tài ............................................................................................... 1
2. Lịch sử nghiên cứu vấn đề ................................................................................ 2
3. Đối tượng, nhiệm vụ, phạm vi nghiên cứu ....................................................... 3
3.1. Đối tượng nghiên cứu..................................................................................... 3
3.2. Nhiệm vụ nghiên cứu ..................................................................................... 3
3.3. Phạm vi nghiên cứu ........................................................................................ 4
4. Cơ sở tài liệu và phương pháp nghiên cứu........................................................ 4
4.1. Cơ sở tài liệu .................................................................................................. 4
4.2. Phương pháp nghiên cứu ................................................................................ 4
5. Đóng góp của đề tài........................................................................................... 4
6. Bố cục của đề tài ............................................................................................... 4
CHƢƠNG 1: KHÁI QUÁT VỀ CUỘC KHÁNG CHIẾN CHỐNG MĨ CỨU


NƢỚC CỦA NHÂN DÂN LÀO (1954 – 1975) ................................................. 5
1.1. Khái quát về tình hình Lào trước cuộc kháng chiến chống mĩ cứu nước
(1954 – 1975) ........................................................................................................ 5
1.1.1. Điều kiện tự nhiên, dân cư Lào ................................................................... 5
1.1.2. Lịch sử ......................................................................................................... 8
1.2. Khái quát về cuộc kháng chiến chống Mĩ cứu nước của nhân dân Lào (1954
– 1975)................................................................................................................... 9
1.2.1. Tình hình Lào sau hiệp định Giơnevơ (1954) ............................................. 9
1.2.1.1. Thuận lợi .................................................................................................. 9
1.2.1.2. Khó khăn ................................................................................................ 11
1.2.2. Các giai đoạn phát triển của cuộc kháng chiến chống Mĩ cứu nước. ....... 12
1.2.2.1. Giai đoạn 1954 – 1958 (Giai đoạn đấu tranh đòi thi hành hiệp định
Giơnevơ. Tiến tới hành lập Chính phủ Liên hiệp lần thứ nhất) .......................... 12
1.2.2.2. Giai đoạn 1959 – 1962 (Sự chuyển hướng đấu tranh của cách mạng Lào.
Hiệp định Giơnevơ 1962 về Lào. Việc thành lập chính phủ Liên hiệp lần thứ hai) . 14


1.2.2.3. Giai đoạn 1963 – 1968 (Đánh thắng cuộc chiến tranh đặc biệt của Mĩ,
xây dựng vùng giải phóng theo quy mô một quốc gia) ...................................... 15
1.2.2.4. Giai đoạn 1969 – 1973 (Quân dân Lào đánh bại chiến tranh đặc biệt
tăng cường thời Níchxơn) ................................................................................... 18
CHƢƠNG 2: CHIẾN TRƢỜNG CÁNH ĐỒNG CHUM XIÊNG KHOẢNG
TRONG CHIẾN TRANH ĐẶC BIỆT TĂNG CƢỜNG ( 1963 – 1973 ) ..... 22
2.1. Vị trí địa lý và vị trí chiến lược của Cánh đồng Chum – Xiêng Khoảng .... 22
2.1.1. Địa bàn Cánh Đồng Chum – Xiêng Khoảng............................................. 22
2.1.2. Vị trí chiến lược của Cánh đồng Chum – Xiêng Khoảng ......................... 24
2.2. Chiến trường Cánh đồng Chum – Xiêng Khoảng trong cuộc “chiến tranh
đặc biệt – tăng cường” (1969 – 1973) ................................................................. 27
2.2.1. Vài nét khái quát về chiến trường Cánh đồng Chum – Xiêng khoảng trong
giai đoạn chiến tranh đặc biệt (1959 – 1968) ...................................................... 27

2.2.2. Chiến trường Cánh Đồng Chum – Xiêng Khoảng trong chiến tranh “đặc
biệt tăng cường” ( 1969 – 1973 ) ........................................................................ 32
KẾT LUẬN ........................................................................................................ 43
TÀI LIỆU THAM KHẢO


PHẦN MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Lào là một quốc gia có vị trí chiến lược quan trọng và vô cùng hiểm yếu ở Đông
Dương và Đông Nam Á. Tầm quan trọng của Lào, được ngoại trưởng Mĩ Dulle nhận
định như sau: “Lào là một phòng tuyến sống mái của Mĩ ở Thái Bình Dương… và Lào
là một bức tường thành chống cộng sản, một pháo đài của “thế giới tự do”, một căn
cứ quân sự lí tưởng giữa nước cộng hòa dân chủ nhân dân Trung Hoa và một nước
Việt Nam dân chủ cộng hòa” [6;24], hay tổng thống Mĩ Aixenhao nói một cách khơng
úp mở rằng: “để mất Lào là mất cả Đông Dương” [6;24]. Do vậy, sau chiến tranh thế
giới thứ hai, cùng với Việt Nam Lào trở thành đối tượng xâm lược của Pháp và Mĩ.
Sau hiệp định Giơnevơ năm 1954 được kí kết, với sự thất bại của Pháp trên chiến
trường, hịa bình được lập lại ở Đơng Dương. Nhưng ngay sau đó Mĩ đã nhanh chóng
nhảy vào thế chân Pháp, xâm lược Đơng Dương bằng phương thức chủ nghĩa thực dân
kiểu mới. Từ năm 1959 trở đi, Mĩ bắt đầu tiến hành chiến lược “Chiến tranh đặc biệt”
ở Lào và sau đó leo thang thành “chiến tranh đặc biệt tăng cường” trong giai đoạn
(1969 – 1973).
Trong giai đoạn này, Mĩ đã biến khu vực Cánh đồng Chum – Xiêng Khoảng
thành một căn cứ quấn sự lớn và chủ chốt nhất nước Lào. Cánh đồng Chum – Xiêng
Khoảng có vị trí chiến lược mà cả ta và địch đều biết rõ nếu chiếm lĩnh được vùng này
là làm chủ toàn bộ thế trận, khống chế được toàn bộ chiến trường Lào. Tại khu vực
này đã diễn ra những trận đối đầu quyết liệt giữa phía lực lượng cách mạng Lào với
bọn đế quốc và tay sai phản cách mạng.
Dưới sự lãnh đạo của Đảng nhân dân cách mạng Lào, sự tài tình trong đường lối
chính trị và đường lối quân sự đúng đắn, sáng tạo của Đảng đã lãnh đạo quân, dân Lào

nói chung và quân, dân Xiêng Khoảng nói riêng đứng lên đấu tranh giành thắng lợi
trước sự đánh phá, tấn công lấn chiếm ác liệt của đế quốc Mĩ và bọn tay sai trên chiến
trường Cánh đồng Chum – Xiêng Khoảng. Những thắng lợi trên chiến trường Cánh
đồng Chum đã góp phần to lớn và có tính chất quyết định làm thất bại âm mưu chiến
lược “Chiến tranh đặc biệt – tăng cường” theo “Học thuyết Níchxơn” của Mĩ đề ra ở
Lào (1969 – 1973). Thắng lợi đó, cịn phải kể đến sự góp sức, ủng hộ và giúp đỡ nhiệt
tình của nhân dân Việt Nam trong cuộc đấu tranh giành thắng lợi.

1


Đến nay, đã có rất nhiều cơng trình nghiên cứu, tác phẩm viết về lịch sử Lào
trong giai đoạn kháng chiến chống Mĩ (1954 – 1975). Tuy nhiên, chưa có một trình
nghiên cứu khoa học nào đi sâu và làm rõ vấn đề chiến trường Cánh đồng Chum –
Xiêng Khoảng trong giai đoạn (1969 – 1973). Vì vậy, để đi sâu và làm rõ cụ thể vấn
đề này, tôi xin mạnh dạn lựa chọn “Chiến trường Cánh đồng Chum – Xiêng Khoảng
trong giai đoạn chiến tranh đặc biệt tăng cường (1969 -1973) làm đề tài nghiên cứu”.
2. Lịch sử nghiên cứu vấn đề
Chiến trường Cánh đồng Chum – Xiêng Khoảng trong kháng chiến chống Mĩ nói
chung và “chiến tranh đặc biệt tăng cường” nói riêng đã thu hút nhiều sự quan tâm của
nhiều nhà nghiên cứu. Chúng tôi xin điểm qua các cơng trình nghiên cứu có liên quan trực
tiếp hoặc gián tiếp đến đề tài chiến trường Cánh đồng Chum – Xiêng Khoảng.
Trước hết phải kể đến cuốn hồi kí: “Những ngày ở Cánh đồng Chum” của thiếu
tướng Nguyễn Bình Sơn – nguyên là một chiến sĩ quân tình nguyện. Ơng đã gắn bó
gần như tồn cuộc đời chiến đấu của mình trên chiến trường đất bạn – Lào từ đánh
Pháp sang đánh Mĩ. Ông đứng trên đất bạn với cương vị là chuyên gia tư lệnh quân
khu Cánh đồng Chum – Xiêng Khoảng trong những năm tháng đánh Mĩ ác liệt, tác giả
đã trân trọng những ngày tháng chiến đấu ở bạn và đã ghi lại thành những hồi ức. Tác
phẩm thể hiện tình cảm của tác giả trên chiến trường Lào thông qua những câu chuyện
kể về những trận đánh lớn nhỏ, những người bạn, những người đồng chí đã cùng kề

vai sát cánh cùng nhau gắn liền với những chiến công và không quên những hy sinh
mất mát của đồng chí, đồng đội để làm nên những chiến thắng. Tuy nhiên, cuốn hồi kí
vừa mới chỉ đề cập chung đến cuộc chiến tại Cánh đồng Chum – Xiêng Khoảng mà
chưa đi sâu vào những cuộc chiến cụ thể trong từng giai đoạn, đặc biệt là trong giai
đoạn chiến tranh đặc biệt – tăng cường (1969 – 1973). Bên cạnh đó, bên cạnh đó tác
phẩm chỉ là ý kiến của một phía là tác giả cho nên tính khách quan cịn hạn chế.
Tác phẩm “Lược sử nước Lào” của Phan Gia Bền, NXB Khoa học xã hội, Hà
Nội 1978. Đây là cuốn sách đầu tiên viết về lịch sử của nước Lào từ thời tiền sử cho
đến khi nước Cộng hòa dân chủ nhân dân Lào ra đời năm 1975. Tác phẩm có đề cập
đến lịch sử nước Lào trong cuộc chiến tranh đặc biệt tăng cường với những sự kiện
lịch sử quan trọng. Đồng thời các tác giả có đề cập đến cuộc chiến tranh ở Cánh đồng
Chum – Xiêng Khoảng. Tuy nhiên, do tác phẩm mang tính lược sử nên chưa đi sâu

2


vào tìm hiểu những trận đánh oanh liệt trên chiến trường Cánh Đồng Chum – Xiêng
Khoảng trong giai đoạn chiến tranh đặc biệt tăng cường (1969 – 1973).
Tác phẩm “Lịch sử nước Lào” tập II của Nguyễn Phi Hùng (Việt Nam) và TS.
Buasi Chalownsuc (Lào), NXB Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2006 đã trình bày về cuộc
đấu tranh chống đế quốc Mỹ xâm lược trong giai đoạn (1954 – 1975) khá chi tiết tác
phẩm có nói đến chiến trướng Cánh Đồng Chum – Xiêng Khoảng một cách sinh động.
Tuy nhiên, cũng giống như các tác phẩm trước tác giả cũng chỉ dừng lại ở mức độ khái
quát cuộc kháng chiến chưa đi sâu vào nghiên cứu và tìm hiểu cụ thể để làm rõ và nổi
bật những cuộc chiến của quân, dân Lào chống lại Mĩ và lực lượng tay sai cũng như
những trận đánh có tính chất quyết định trên chiến trường Cánh đồng Chum – Xiêng
Khoảng trong giai đoạn chiến tranh đặc biệt – tăng cường (1969 - 1973).
Gần đây, năm 2012 nhân dịp kỉ niệm 50 năm thiết lập quan hệ ngoại giao Lào –
Việt Nam (5/9/1962 – 5/9/2012), Chính phủ hai nước đã tổ chức cuộc thi “Tìm hiểu lịch
sử quan hệ đặc biệt Việt Nam – Lào” được đông đảo nhân dân hai nước hưởng ứng.

Cuộc thi đã thu hút được nhiều quan tâm, chú ý của đông đảo nhân dân hai nước và
cuộc thi đã nhận được nhiều bài thi phân tích khá sâu sắc về mối quan hệ Lào – Việt
Nam trong kháng chiến chống Pháp, chống Mĩ xâm lược. Nhưng cũng chưa đi tìm hiểu
sâu về cuộc chiến trong giai đoạn “Chiến tranh đặc biệt tăng cường” mà chỉ dừng ở
mức độ tìm hiểu sơ qua về liên minh chiến đấu của nhân dân Việt – Lào trong công cuộc
kháng chiến chống Pháp và Mĩ ở trên chiến trường lào cũng như tại khu vực Cánh đồng
Chum – Xiêng Khoảng.
Trên cơ sở tiếp thu và chọn lọc tài liệu tham khảo, tôi sẽ tập trung khai thác và phát
triển vấn đề một cách khái quát, cụ thể, chính xác hy vọng phần nào có thể tái hiện lại một
cách tương đối nội dung mà phạm vi đề tài đặt ra.
3. Đối tƣợng, nhiệm vụ, phạm vi nghiên cứu
3.1. Đối tƣợng nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu của đề tài là: “Chiến trường Cánh Đồng Chum – Xiêng
Khoảng trong giai đoạn chiến tranh đặc biệt – tăng cường” (1969 – 1973)
3.2. Nhiệm vụ nghiên cứu
Đề tài tập trung làm rõ các vấn đề:
Khái quát cuộc kháng chiến chống Mĩ cứu nước của nhân dân Lào (1954 – 1975).

3


Chiến trường Cánh đồng Chum – Xiêng Khoảng trong giai đoạn chiến tranh đặc
biệt – tăng cường (1969 – 1973).
3.3. Phạm vi nghiên cứu
Đề tài tập trung nghiên cứu tìm hiểu chiến trường Cánh đồng Chum trong giai
đoạn chiến tranh đặc biệt – tăng cường (1969 – 1973)
4. Cơ sở tài liệu và phƣơng pháp nghiên cứu
4.1. Cơ sở tài liệu
Về tư liệu sử dụng cho quá trình nghiên cứu đề tài, tôi tạm chia thành các nguồn
sau:

Các cuốn sách chính sử viết về lịch sử nước Lào, nhất là cuốn “Lịch sử nước Lào”
tập II
Các sách về tiểu sử của các nhà Cách mạng Lào hiện đại
Các sách báo đặc biệt là cuồn hồi ký của thiếu tướng Nguyễn Bình Sơn với tác
phẩm “Những ngày ở Cánh Đồng Chum”
4.2. Phƣơng pháp nghiên cứu
Để hoàn thành đề tài nghiên cứu tôi kết hợp nhiều phương pháp như: lôgic lịch
sử, so sánh, đối chiếu, phân tích, tổng hợp các vấn đề theo mối quan hệ biện chứng với
nhau.
5. Đóng góp của đề tài
Đề tài nghiên cứu hồn thành có ý nghĩa quan trọng sau đây:
Khái quát về cuộc kháng chiến chống Mĩ cứu nước của nhân dân lào trong giai đoạn
(1954 – 1975) và khái quát hóa về chiến trường Cánh đồng Chum – Xiêng Khoảng.
Đề tài nghiên cứu khẳng định thêm tình hữu nghị Việt –Lào cho các thế hệ tiếp
nối truyền thống vô giá này.
Là nguồn tư liệu phục vụ cho nghiên cứu và học tập các học phần: Lịch sử Đông
Nam Á và lịch sử phong trào giải phóng dân tộc.
6. Bố cục của đề tài
Ngồi phần mở đầu và kết luận,đề tài bao gồm hai chương cụ thể như sau:
Chương 1: Khái quát về cuộc kháng chiến chống Mĩ cứu nước của nhân dân Lào
(1954 – 1975)
Chương 2: Chiến trường Cánh đồng Chum – Xiêng Khoảng trong giai đoạn chiến
tranh đặc biệt tăng cường (1969 – 1973)

4


CHƢƠNG 1: KHÁI QUÁT VỀ CUỘC KHÁNG CHIẾN CHỐNG MĨ
CỨU NƢỚC CỦA NHÂN DÂN LÀO (1954 – 1975)
1.1. Khái quát về tình hình Lào trƣớc cuộc kháng chiến chống mĩ cứu nƣớc

(1954 – 1975)
1.1.1. Điều kiện tự nhiên, dân cư Lào
 Về điều kiện tự nhiên
Lào là một quốc gia nằm trên bán đảo Đông Dương. Nước Lào trải dài trên 8 độ
vĩ tuyến (từ 140-2205), với diện tích tự nhiên khoảng 236 800km và đường biên giới
chung 5 nước: Việt Nam ở phía đơng, Campuchia ở phía Nam, Thái Lan ở phía Tây,
Mianma và Trung Quốc ở phía bắc.
Lãnh thổ có đặc điểm hẹp theo chiều đơng – tây, nhưng trải dài theo hướng bắc –
nam. Địa hình được bao phủ bởi 90% là rừng, cao nguyên, đồi núi thoải dần từ bắc
xuống nam, đặc biệt là theo chiều từ đơng sang tây chia thành hai vùng:
Thượng Lào tính từ Xiêng Khoảng lên phía bắc. Đây là vùng núi non trùng điệp
không cao lắm (1500 đến 2500m) nhấp nhô như biển gợn sóng, chia cắt bằng cả một
hệ thống những vùng tương đối biệt lập.
Trung và Hạ Lào có địa hình tảng băng, nền đá ong kết tinh, gối đầu lên dài
Trường Sơn và và ngiêng thoải về lưu vực sơng MêKơng, biến MêKơng thành lịng
máng lớn thu nước các sông từ tản ngạn và hữu ngạn đổ về. Lớp địa chất khác nhau
phủ trên mặt đá ong cổ chia vùng này thành ba cao ngun có hình dạng và địa chất
khác nhau: cao nguyên đá vôi thấp vùng Khămmuộn (300 – 700), cao nguyên Xa
vẳnnạkhệt (300 – 400m) và cao nguyên Bôlôven. Phần lớn Trung và Hạ Lào là cao
nguyên và rừng rậm, nhưng cũng có những cánh đồng phù sa ven sông khá lớn (đồng
bằng Viêng Chăn 4000km vng, đồng bằng Chăm Pa Sắc 5000 km vng...)
Khí hậu ở Lào có đặc điểm chung của khu vực nhiệt đới gió mùa và sự luân lưu
của hai luồng gió ngược chiều trong một năm: Gió mùa đơng bắc lạnh và khơ, gió mùa
tây nam nóng và ẩm. Nhưng Lào là một xứ nội địa, có dãy Trường Sơn án ngữ, ngăn
cản ảnh hưởng điều hòa cũng như bão táp cuồng phong của Thái Bình Dương, nên
khác với Việt Nam khí hậu ở Lào có sự tương phản rõ rệt giữa hai mùa: Mùa mưa ở
Lào từ tháng 5 đến tháng 9 – 10 dương lịch là một mùa mưa tập trung, xối xả trong
vòng 4, 5 tháng, làm cho sông suối đấy nước, ào ào chở phù sa về xuôi, vào mùa mưa

5



từ mặt đất ẩm ướt làm cho tất cả giới thực vật vươn lên sức sống mãnh liệt. Vào mùa
khô ở Lào kéo dài 6, 7 tháng từ tháng 10 đến tháng 5, 6 dương lịch chịu ảnh hưởng của
gió mùa đông bắc khô và lạnh. Vào mùa này độ ẩm thấp, trời hanh, đất khô cằn nứt nẻ,
cây cối vàng lụi, mực nước ở các sơng suối thấp, chính điều này làm ảnh hưởng tới
hoạt động sinh sống của người dân.
Ở Lào mặc dù khả năng giao lưu bị hạn chế bởi thủy chế không đều bởi thủy chế
không đều, nhưng hệ thống sông MêKông chảy qua Lào đã đóng vai trị quan trọng
nối liền các địa phương tồn quốc bằng đường thủy, với chiều dài khoảng 1865km với
17 lưu phụ chính (Nậm Thà, Nậm U, Nậm Ngừm..) đây là hệ thốn sông lớn của Lào và
đồng thời là con đường biên giới tự nhiên giữu Lào với Thái Lan và Mianma. Trải qua
các giai đoạn hình thành và phát triển ở Lào, sông MêKông vẫn là trục tâm quan trọng
cả về chính trị, quân sự, xã hội, kinh tế, văn hóa từ thời cổ đại đén thời Pháp, Mĩ xâm
lược thống trị cho tận đến ngày nay. Sông MêKơng đối với tâm hồn người Lào có một
vị trí tình cảm đặc biệt sâu sắc, là nơi hội tụ của nhiều yếu tố khác nhau
Để hình thành nên một quốc gia thống nhất, một sự nghiệp chung – dựng nước và
giữ nước, một nền văn hóa dân tộc độc đáo. Cũng vậy, do trải qua vùng có địa hình
cao thấp phức tạp nên sông mê công chảy qua lào có nhiều thác ghềnh và ẩn chứa một
tiềm năng thủy điện dồi dào: “70% trong tổng chữ lượng 42 triệu kw là của dịng sơng
mê cơng có thể sản xuất 40 tỉ kw giờ điện mỗi năm. Các phụ lưu trên đất lào có tổng
cơng suất 10 triệu kw”.
Do trình độ kinh tế thấp kém, lạc hậu, con người còn chịu ảnh hưởng của tự nhiên
thì rừng là một chỗ dựa vững chắc của cư dân lào. Với những cánh rừng rộng rừng
nhiệt đới bạt ngàn “35.5%’’, rừng thông “7.1%’’, rừng tếch (0.5%...) bao phủ trên 60%
diện tích tự nhiên (khoảng 14 triệu ha) đã tạo nên thảm thực vật phong phú với nhiều
loại gỗ quý (Tếch, Trắc, Mun, Thông...) và nhiều lâm sản quý có giá trị lớn (Cánh kiến
trắng, Cánh kiến đỏ…). Rừng của Lào còn sở hữu một số động vât có giá trị cao như:
Bị tót, Trâu rừng, Sơn dương, đặc biệt là Voi, Voi một loài biểu tượng của nhân dân
Lào, cuộc sống chủ yếu của cư dân Lào dựa vào rừng do đó rừng có một vị trí đặc biệt

trong tâm tư tình cảm của người Lào, rừng là bạn, là nơi nương tựa, là niềm tin.
Về đất đai Ở Lào có thể phân ra làm 2 lạo đất chính: Đất feralit và đất phù sa
đồng bằng ven sông.

6


Đất feralit hình thành trên vùng đồi núi và cao nguyên (cách đồng Chum – Xiêng
khoảng, Khăm muộn, Bôloven,...) đất này thuận lợi cho việc trồng các loại cây công
nghiệp và dược liệu (Cao su, Cà phê, Sa nhân....), thuận tiện cho việc nuôi đại gia xúc.
Đất phù sa đồng bằng ven sông tương đối thuận lợi cho việc trồng các loại cây
cơng nghiệp.
Qua vài nét trên, có thể thấy Lào sở hữu tài nguyên phong phú, đa dạng, thuận
lợi cho việc phát triển kinh tế. Tuy nhiên địa bàn và vị trí của Lào cũng đem lại những
hạn chế nhất định như địa bàn tự nhiên phân tán, bị chia cắt bởi rừng núi, do đó khơng
thuận lợi cho việc mở rộng giao lưu và tập trung dân cư. Thêm vào đó, Lào là một
quốc gia khơng có biển, đây chính là ngun nhân của tình trạng phát triển tương đối
chậm về kinh tế, xã hội văn hóa thời cổ dại. Cũng vì vậy, mà ở đây nhà nước hình
thành muộn,trong quá trình mở rộng xâm lược, bành trướng của bọn đế quốc thực dân
Lào cũng ngẫu nhiên trở thành miếng mồi thuộc địa của chúng.
 Về dân cƣ
Lào là một quốc gia đa dân tôc (68 dân tộc anh em) với dân số khoảng 6.800.000
người (2009) căn cứ vào đặc điểm phong tục tập quán, ngôn ngữ, người ta chia dân cư
Lào thành 3 nhóm lớn:
Nhóm Lào Thơng: Tức là nhóm người Lào ở trên núi. Đại bộ phận tộc nguời Lào
Thơng sử dụng ngữ hệ Môn-Khơ me và thuộc loại hình nhân chủng Indonedieng.
Đây là nhóm tộc người có nguồn gốc lâu đời nên được gọi là người bản địa (ngày
nay chiếm 15% dân số), gồm nhiều nhánh như Khơ mú, Phọng, Đoi, Puộc, Tà Ôi... Họ
được coi là chủ nhân của nền văn minh cổ xưa ở Lào.
Hoạt động kinh tế chủ yếu của người LàoThơng là làm nương rẫy và làm nghề

rừng. Nhìn chung các tập người thuộc nhóm lào Thơng có trình độ phát triển, xã hội
còn thấp kém ở những những mức độ khác nhau.
Nhóm Lào Lùm: Là nhóm người cư trú ở vùng thấp như các vùng đồng bằng,
chiếm khoảng 60% dân số. Nhóm này có hiều tộc người như: Lào, Thái, Lự, Duôn,
Đăng... Nguồn gốc của họ gắn liền với các cuộc thiên di của người Thái ở phía bắc xuống.
Khoảng thế kỉ 8, Người Thái đến đây đã làm cho đân cư Lào tăng lên đông đảo.
Hoạt động kinh tế chủ yếu của bộ phận dân cư này và trồng núa nước, chăn ni.
Về đời sống tín ngưỡng họ chủ yếu theo đạo phật, do đó sư sãi nhà chùa có ảnh
hưởng tới đời sống xã hội. Ở Lào các nhà sư thoát li vật chất, mọi nhu cầu vật chất của

7


nhà chùa được nhân dân đóng góp.
Nhóm Lào Xủng (người Lào ở vùng dẻo cao): Nhóm tộc người này có nguồn gốc
từ phía bắc di cư đến Lào từ khoảng 2 - 3 thế kỉ gần đây. Nguyên nhân của những cuộc
thiên di đó chủ yếu để tìm đất canh tác và một phần là do chiến tranh, sự phân biệt đối
xử của phong kiến Trung Quốc. HIện nay họ sống chủ yếu ở vùng bắc Lào chiếm
khoảng 10% dân số, sử dụng ngôn ngữ thuộc ngữ hệ Tạng Miến. Nhóm Lào Xủng bao
gồm nhiều tộc người khác nhau như: Cọ, Dao, Mèo... trong đó người cọ có số dân
đơng hơn cả.
Loại hình kinh tế chủ yếu hiện nay thuộc nhóm Lào Xủng làm nương rẫy, du
canh với các loại cây trồng chính như: Lúa nương, ngơ, thuốc phiện.
Về tín ngưỡng: Các tộc người thuộc nhóm Lào Xủng đều theo tín ngưỡng vạn
vật hữu linh và thờ cúng tổ tiên. Bên cạnh đó cịn có sự du nhập của các tôn giáo hiện
đại như đạo Phật, Công giáo vào một số tộc người.
Về xã hội: Nhìn chung gia đình của những tộc người Lào Xủng đều là gia đình
nhỏ phụ hệ. Quan hệ dòng họ rất chặt chẽ, vai trò của các tộc trưởng rất quan trọng.
Ba nhóm dân cư chủ yếu khơng phải có mặt cùng một lúc trên đất Lào. Hơn nữa
ngôn ngữ, phong tục tập quán cũng nhiều điểm khác, nhưng họ không xung đột với

nhau gay gắt mà đoàn kết, giúp đỡ nhau như anh em có chung nguồn gốc.
1.1.2. Lịch sử
Các cơng cụ bằng đá được phát hiện ở Hủa Phăn và Luôngphabang chứng minh
cho sự hiện diện của con người thời tiền sử trong lãnh thổ Lào ít nhất cách ngày nay
40 nghìn năm. Thời tiền sử ở Lào được đặc trưng bởi sự tiếp xúc với nền văn minh
Trung Hoa và Ấn Độ. Tuy nhiên, trước thế kỷ XIV, lịch sử nước Lào chưa được ghi
chép rõ ràng. Khoảng thế kỷ X đầu cơng ngun, ở Đơng Nam Á hình thành một loạt
các tiểu quốc, nhưng ở Lào chưa có đủ điều kiện để hình thành nhà nước. Đến năm
1353, vua Pha Ngừm thống nhất các tiểu quốc (Hủa Phăn, Viêng Chăn, Chăm Pa
Sắc…) thành lập vương quốc Lan Xang, đóng đơ ở Lngphabang, lịch sử thành văn
chính thức được cơng nhận ở Lào. Vua Pha Ngừm đã thiết lập chế độ phong kiến tập
quyền và đây chính là thời kỳ phát triển rực rỡ nhất của lịch sử phong kiến Lào.
Vương quốc Lan Xang được mở rộng bởi người kế vị vua Pha Ngừm, đáng chú ý là
thời vua Xệt-tha-thi-lát, ông đã rời đô từ LuôngPhabang về Viêng Chăn.

8


Nửa sau thế kỷ XVI, vương quốc Lan Xang bị Miến Điện xâm lược ba lần. Nhân
dân Lào kiên cường nổi dậy khởi nghĩa chống ách thống trị của Miến Điện và giành
độc lập vào năm 1581. Sau đó dưới thời vua Xu-li-nha-vông-xả (1637 – 1694), Lan
Xang được khôi phục về mọi mặt, đây cũng là thời kỳ vàng son của nước Lào. Sau khi
vua Xu-li-nha-vông-xả qua đời, các thế lực phong kiến nổi lên tranh giành quyền lực.
Năm 1713, Lan Xang bị chia thành ba vương quốc LuôngPhabang, Viêng Chăn và
Chăm Pa Sắc. Tất cả các cuộc chiến tranh và nổi dậy trong nước làm suy yếu vương
quốc, tạo cơ hội cho kẻ xâm lược nước ngoài mới xâm nhập. Năm 1778, Xiêm đưa
quân sang đánh Lào, ngay sau đó Lào bị phong kiến Xiêm đơ hộ. Nhân dân Lào dưới
sự lãnh đạo của Chảu A Nụ đã vùng lên chống ách đô hộ của phong kiến Xiêm.
Hiệp ước Pháp – Xiêm đã giúp cho Pháp chiếm đóng và cai trị phần lãnh thổ phía
Đơng Lào từ năm 1893 đến năm 1945. Lào được sáp nhập vào Liên Bang Đông

Dương năm 1983. Trong thời kỳ thuộc Pháp, ở Lào đã nổ ra nhiều cuộc khởi nghĩa vũ
trang dưới sự lãnh đạo của Khi-vo-lả-lạt (1900 – 1901), Phò-cà-đuộc (1901 – 1903),
Chậu-phạ-pat-chay (1918 – 1922), Ông Kẹo và Ông Com-ma-đam (1901 – 1937)…
nhưng đều bị đàn áp. Với bản hiệp ước Pháp – Xiêm, Lào cịn bị mất vùng I Xản
(Đơng Bắc Thái Lan hiện nay) vào tay Xiêm. Trong chiến tranh thế giới thứ hai (1939
– 1945), Nhật thay chân Pháp cai trị ở Đông Dương. Sau khi Nhật đầu hàng Đồng
minh, ngày 12 tháng 10 năm 1945, Lào tuyên bố độc lập.
Lịch sử Lào từ khi dựng nước đến khi độc lập trải qua nhiều thay đổi nhưng với
sức mạnh đồn kết tồn dân thì đất nước Lào vẫn tồn tại và phát triển vững chắc. Đây
là điều kiện để nhân dân Lào tiếp tục chiến đấu chống thực dân Pháp, đế quốc Mĩ
những năm tiếp theo của thế kỷ XX.
1.2. Khái quát về cuộc kháng chiến chống Mĩ cứu nƣớc của nhân dân Lào
(1954 – 1975)
1.2.1. Tình hình Lào sau hiệp định Giơnevơ (1954)
1.2.1.1. Thuận lợi
Sau hiệp định Giơnevơ được kí kết, phía Pa Thét Lào đã nêu cao thiện chí,
nghiêm chỉnh thi hành các điều khoản của hiệp định, lực lượng kháng chiến hoàn tất
cuộc tập kết về hai tỉnh Hủa Phăn và Phong Sa Lỳ. Gần 10.000 cán bộ, chiến sĩ và
những người kháng chiến ưu tú được chọn trong tổng số 100.000 người trực tiếp tham
gia cơng tác tại các đồn thể cứu quốc của Neo Lào Itxala từ 10 tỉnh về tập kết tại 2

9


tỉnh Hủa Phăn và Phong Xa Lỳ đúng thời hạn quy định là ngày 20/11/1954. Trước đó,
ngày 15/11/1954, qn tình nguyện Việt Nam đã rút khỏi nước Lào trước thời hạn quy
định của hiệp định Giơnevơ 1954 về Đơng Dương.
Có thể đánh giá rằng, cuộc tập kết một bộ phận quan trọng lực lượng kháng chiến
về hai tỉnh Hủa Phăn và Phong Xa Lỳ để xây dựng, củng cố, phát triển cách mạng Lào
từ cuối năm 1954 đến năm 1957 là một sự kiện có ý nghĩa chiến lược trong lịch sử

kháng chiến lâu dài chống đế quốc xâm lược và tay sai của nhân dân Lào.
Cùng với việc thực hiện nghiêm chỉnh những quy định của hiệp định Giơnevơ,
những người kháng chiến Lào còn ra sức xây dựng lực lượng về mọi mặt để có vùng
tập kết vững mạnh. Các lực lượng vũ trang có bước trưởng thành nhanh chóng. Để đáp
ứng yêu cầu nhiệm vụ trong giai đoạn mới, lực lượng kháng chiến phải gấp rút xây
dựng 10 tiểu đoàn bộ binh, một số binh chủng và những bộ phận quan trọng khác được
huấn luyện, tổ chức chỉ huy và trang bị tốt.
Bộ đội địa phương cũng được cải tiến về tổ chức và trang bị, có thể đáp ứng yêu
cầu tác chiến ở địa phương. Dân quân du kích được củng cố và phát triển mạnh mẽ, trở
thành lực lượng nịng cốt trong việc giữ gìn trật tự an ninh, bảo vệ bản mường.
Đồng thời, để đáp ứng cho đòi hỏi của cách mạng Lào trong giai đoạn mới, nhất
là trước những diễn biến phức tạp của tình hình thế giới và trong nước, một vấn đề
quan trọng đặt ra là phải thành lập được một chính đảng độc lập của mình.
Tháng 2/1951, Đại hội đại biểu lần thứ II của Đảng Cộng Sản Đông Dương đã ra
nghị quyết về việc thành lập ở mỗi nước Đông Dương một chính Đảng độc lập để trực
tiếp lãnh đạo cách mạng trong tình hình mới. Thi hành nghị quyết trên, ngay trong quá
trình kháng chiến chống Pháp, những người cách mạng Lào trung kiên đã tích cực
chuẩn bị cho việc thành lập chính đảng cách mạng ở nước mình.
Trên cơ sở chuẩn bị đó, ngày 22/3/1955 tại Sầm Nưa, Đại hội thành lập Đảng
nhân dân Lào được khai mạc. Về dự Đại hội có 25 đảng viên xuất sắc đại diện cho 400
Đảng viên cả nước. Qua 15 ngày làm việc, Đại hội đã nghe báo cáo của các đại biểu và
thơng qua báo cáo chính trị, thơng qua nghị quyết thành lập Đảng nhân dân Lào, điều
lệ của Đảng, chính sách cơ bản và cương lĩnh hành động của Đảng. Đại hội còn bầu ra
Ban chấp hành Trung ương gồm 5 người do đồng chí Cayxỏn Phơmvihẳn làm Tổng bí
thư.

10


Đảng ra đời đã tranh thủ thời cơ thuận lợi do thắng lợi của cuộc kháng chiến

chống Pháp đem lại, kịp thời tổ chức, củng cố và xây dựng, phát triển lực lượng cách
mạng, tạo ra những nhân tố mới, cơ sở mới nhằm đáp ứng nhu cầu cấp bách của cuộc
đấu tranh chống đế quốc Mĩ xâm lược và bọn tay sai bán nước trong thời kỳ mới.
Đảng ra đời là một bước ngoặt quan trọng của lịch sử dân tộc Lào. Từ đây giai
cấp công nhân và nhân dân các dân tộc thơng qua chính đảng vơ sản của mình trực tiếp
nắm lấy vận mệnh cách mạng Lào.
Mặc dù vùng giải phóng mới chỉ có hai tỉnh, dân thưa thớt, kinh tế kém phát triển
nhưng lại liền kề với miền Bắc Việt Nam xã hội chủ nghĩa, nên có thể tranh thủ được sự chi
viện và giúp đỡ từ miền Bắc Việt Nam và các nước xã hội chủ nghĩa anh em khác.
1.2.1.2. Khó khăn
Sau khi hiệp định Giơnevơ được kí kết, đế quốc Mĩ nhảy vào thay chân thực dân
Pháp để thực hiện chủ nghĩa thực dân mới của mình ở khu vực này, đồng thời ngăn
chặn phong trào cách mạng ở Đông Nam Á.
Như vậy sau hiệp định Giơnevơ, cách mạng Lào vừa phải giải quyết những mâu
thuẫn của thời đại, vừa phải giải quyết những mâu thuẫn chủ yếu mới nảy sinh. Đó là
mâu thuẫn giữa nhân dân Lào với đế quốc Mĩ và tay sai.
Chiến tranh thế giới thứ hai kết thúc làm thay đổi tương quan lực lượng giữa các
nước. Trong khi các nước phương Tây Anh, Pháp… suy yếu về kinh tế và quân sự thì
Mĩ lại vươn lên mạnh mẽ. Đất nước khơng bị chiến tranh tàn phá, thậm chí cịn giàu
lên sau chiến tranh ( kiếm lời tới 114 tỉ USD).
Lúc này, sự tương quan lực lượng giữa cách mạng Lào và bọn phản cách mạng
rất chênh lệch, khơng có lợi cho phía cách mạng Lào.
Mĩ từng bước can thiệp sâu vào tình hình cuộc chiến tranh ở Đơng Dương thơng
qua việc viện trợ ồ ạt tiền và vũ khí cho quân đội Pháp. Chi phí của Mĩ trong ngân
sách chiến tranh Đông Dương của Pháp ngày càng tăng qua các năm. “Nếu năm 1950
mới chỉ chiếm 19%, thì đến năm 1952 tăng lên 35%, năm 1953 là 43%, đến năm 1954
lên tới 73%. Mặc dù Mĩ ra sức chi viện cho Pháp nhưng Pháp đã liên tiếp thất bại với
đỉnh cao là trận Điện Biên Phủ. Mĩ tham gia hiệp định Giơnevơ nhưng không ký vào
các văn bản của hiệp định. Với hành động này, Mĩ đã trực tiếp phá hoại kết quả của
hiệp định Giơnevơ và đồng thời đã chuẩn bị cho các hành động tiếp theo trong cuộc

chiến tranh với Đông Dương.

11


Chỉ hai ngày sau hiệp định Giơnevơ được ký kết, Bộ trưởng ngoại giao Mĩ Đa –
lét tuyên bố: Mĩ khơng liên quan gì đến vấn đề Đơng Dương. Những cam kết ở hiệp
định Giơnevơ chỉ liên quan đến những nước khác, có thể coi đây là bức thơng điệp mở
đầu cho hành động xâm lược trực tiếp của Mỹ vào Đông Dương.
Lợi dụng kẽ hở của hiệp định Giơnevơ về vấn đề Lào đó là việc khơng tun bố
hủy bỏ các hiệp định giữa Mĩ và chính quyền Vương quốc Lào trước đó. Chẳng hạn
như hiệp định Mĩ kí với chính phủ Vương quốc Lào năm 1950 về việc giúp Lào dài
hạn trong lĩnh vực kinh tế và quân sự. Vì vậy, ngay trong thời gian Pháp có 300 ngày
để rút quân khỏi Lào theo quy định của hiệp định Giơnevơ, Mĩ đã tiến hành các biện
pháp giúp đỡ cho lực lượng tay sai của mình cải tổ Chính phủ Vương quốc, gạt bỏ
người thân Pháp ra khỏi Chính phủ. Quá trình cải tổ cũng đồng thời là quá trình giải
thể Chính phủ Vương quốc.
Sau khi Bộ trưởng Quốc phòng (Phủi xa – na – ni – con) từ chức, thủ tướng Phu
– ma buộc phải tuyên bố giải tán Chính phủ Vương quốc Lào vào ngày 17/11/1954.
Một Chính phủ mới thân Mĩ (chính phủ Kà Tay) được dựng lên thay thế. Để mau
chóng ổn định tình hình, chúng cịn ra sức viện trợ đơla, vũ khí cho chính quyền tay
sai hoạt động hòng phá và trấn áp lực lượng cách mạng và những người có tư tưởng
yêu nước.
Như vậy, sau hiệp định Giơnevơ ở Lào đã hình thành nên 2 vùng có chính quyền
khác nhau: Ở hai tỉnh tập kết là chính quyền cách mạng, phục vụ lợi ích của nhân dân
Lào; ở 10 tỉnh là chính quyền phản cách mạng, phục vụ lợi ích của giai cấp phong
kiến, tư sản mại bản và ngoại bang.
Xuất phát từ thực tế lịch sử trên nên những người kháng chiến Lào phải nỗ lực
không ngừng, tận dụng những điều kiện trong nước, quốc tế và phát huy những lợi thế
có sẵn trong cuộc kháng chiến chống Pháp trước đó để có thể hồn thành nhiệm vụ của

mình một cách xuất sắc.
1.2.2. Các giai đoạn phát triển của cuộc kháng chiến chống Mĩ cứu nước.
1.2.2.1. Giai đoạn 1954 – 1958 (Giai đoạn đấu tranh đòi thi hành hiệp định
Giơnevơ. Tiến tới hành lập Chính phủ Liên hiệp lần thứ nhất)
Trong điều kiện mới, Đảng và mặt trận Lào Itxala chủ trương tranh thủ các khả
năng thuận lợi nhằm tạo điều kiện giải quyết những vấn đề chính trị bằng con đường

12


hịa bình thương lượng. Tình hình Lào sau hiệp định Giơnevơ cho phép sử dụng biện
pháp này:
Thứ nhất, trong điều kiện lịch sử lúc đó, Chính phủ Kà Tay chưa thể công khai từ
chối việc thi hành hiệp định. Dư luận quốc tế và trong nước không chấp nhận một thái
độ trắng trợn như vậy.
Mặt khác, lực lượng so sánh giữa hai bên cũng chưa cho phép chính quyền tay sai
thực hiện những biện pháp quá mạo hiểm. Ưu thế của chính quyền tay sai dựa trên vũ
khí và đơla Mĩ khơng dễ gì có thể vượt qua được Pa Thét Lào – những người từng trải
qua cuộc kháng chiến chống Pháp, đã trở thành một tổ chức cách mạng vững vàng, có
vùng tập kết, có quân đội.
Đồng thời Ban chấp hành Trung ương của Đảng nhân dân Lào vẫn không quên
nêu cao tinh thần cảnh giác, chuẩn bị mọi mặt để có thể chuyển sang đấu tranh vũ
trang khi cần thiết.
Dưới sự lănh đạo của Đảng, phong trào đấu tranh chính trị ở 10 tỉnh của Chính
phủ Vương quốc dâng cao dưới nhiều hình thức: Hợp pháp, nửa hợp pháp, bất hợp
pháp và đều nhằm vào mục tiêu đòi Chính phủ thực thi hiệp định Giơnevơ. Bên cạnh
đó, giai đoạn này còn chứng kiến phong trào đấu tranh vũ trang chống lại các cuộc
hành quân lấn chiếm hai tỉnh tập kết của những người cách mạng, giữ vững căn cứ
cách mạng.
Đường lối đúng đắn của Neo Lào Hắc Sạt là cơ sở thuận lợi để Đảng đẩy mạnh

hoạt động đấu tranh hiệp thương nhằm cô lập cao độ đế quốc Mĩ và bọn phản động tay
sai. Bất chấp những hành động chống phá của đế quốc Mĩ cũng như các lực lượng thù
địch. Hiệp ước về việc thành lập một chính phủ Liên hiệp dân tộc đã được ký kết ngày
22/7/1957. Đến ngày 19/11/1957, Quốc hội thông qua cơ cấu tổ chức và thành phần
của chính phủ Liên hiệp dân tộc. Thành phần bao gồm đại diện của cả ba phái, trong
đó phía Pa Thét Lào có 2 trong tổng số 12 Bộ trưởng. Đây là một thắng lợi to lớn của
nhân dân các bộ tộc Lào và phía lực lượng cách mạng. Qua đó khẳng định được sự
đúng đắn trong đường lối đấu tranh mà Đảng nhân dân Lào lựa chọn. Nó cũng đồng
thời khẳng định được vị trí của lực lượng cách mạng trên trường chính trị quốc gia.
Như vậy, với các hình thức đấu tranh khác nhau (quân sự, chính trị kết hợp với
đàm phán, hiệp thương) quân dân Lào đã từng bước đánh bại âm mưu của đế quốc Mĩ

13


và tay sai, buộc chúng phải thi hành hiệp định Giơnevơ mà đỉnh cao là việc thành lập
Chính phủ Liên hiệp (1957).
Qua việc thành lập chính phủ Liên hiệp lần thứ nhất đã làm cho uy tín, ảnh hưởng
của cách mạng ngày càng sâu rộng trong nhân dân các bộ tộc Lào. Đồng thời cịn tranh
thủ được sự đồng tình, ủng hộ của dư luận quốc tế.
1.2.2.2. Giai đoạn 1959 – 1962 (Sự chuyển hướng đấu tranh của cách mạng Lào.
Hiệp định Giơnevơ 1962 về Lào. Việc thành lập chính phủ Liên hiệp lần thứ hai)
Với việc thành lập chính phủ Liên hiệp dân tộc, Mĩ và tay sai không chịu chấp
nhận, do đó đã tìm mọi cách giúp đỡ cho phái hữu Viêng Chăn chống phá lại chính
phủ Liên hiệp. Bằng những hoạt động bạo lực phản cách mạng, đế quốc Mĩ và tay sai
đã chính thức triển khai chiến tranh đặc biệt ở Lào. Sự chống phá này đã dẫn tới việc
giải tán chính phủ Liên hiệp dân tộc lần thứ nhất sau sáu tháng tồn tại.
Sau khi lên nắm chính quyền, Mĩ và tay sai đã thi hành những chính sách cực kỳ
phản động cả chính sách đối nội và đối ngoại.
Trước tình hình mới, Đảng nhân dân Lào đã kịp thời tổ chức Hội nghị Ban Chấp

hành Trung ương lần thứ nhất (tháng 6/1959). Hội nghị nhận định tình hình và đề ra
chủ trương chuyển hướng đấu tranh sang đấu tranh vũ trang kết hợp đấu tranh chính
trị, phát động nhân dân cả nước nổi dậy chống đế quốc Mĩ và tay sai. Cách mạng Việt
Nam cũng kịp thời cử một số cán bộ và một số đơn vị quân tình nguyện sát cánh cùng
nhân dân Lào chống lại kẻ thù. Một lần nữa liên minh chiến đấu giữa hai dân tộc Lào –
Việt lại được phát huy.
Dưới sự lãnh đạo của Neo Lào Hắc Sạt, phong trào đấu tranh của nhân dân Lào
đã diễn ra mạnh mẽ dưới nhiều hình thức: Mít tinh, biểu tình, đấu tranh vũ trang kết
hợp với đấu tranh chính trị, đàm phán, hiệp thương… giành được nhiều thắng lợi to
lớn, làm phá vỡ từng mảng lớn chính quyền cơ sở địch.
Do bị thất bại liên tiếp trên chiến trường Lào và sự sa lầy của Mĩ ở miền Nam Việt
Nam. Cùng với nó là sự lên án mạnh mẽ của dư luận trong và ngoài nước đã buộc Mĩ và
phái hữu Lào phải đồng ý ngừng bắn và mở hội nghị quốc tế Giơnevơ. Mục đích của
chúng là tranh thủ thời gian hịa hỗn để củng cố lại lực lượng quân đội phái hữu.
Trước khi hội nghị Giơnevơ về Lào khai mạc ngày 16/5/1961, trên thực tế đã có
những cuộc gặp giữa đại diện chính trị và quân sự 3 phái tại Hin Hợp (8/5/1961) và tại
bản Na Môn (11/5/1961). Hội nghị Giơnevơ có sự tham gia của 14 phái đoàn.

14


Ngày 12/6/1962, đại biểu ba phái ký kết văn kiện thành lập chính phủ Liên hiệp
dân tộc lần thứ hai tại Cánh Đồng Chum. Theo nội dung của hiệp định thì thành phần
tham gia của ba phái trong chính phủ ngang nhau (cùng có 4 thành viên), ngồi ra là
các thành viên khơng đảng phái. Chính phủ mới cịn đưa ra thông cáo nêu rõ đường lối
đối nội, đối ngoại của mình. Thơng cáo xác định sẽ đưa nước Lào tiến theo con đường
đối ngoại hịa bình trung lập, tơn trọng 5 nguyên tắc mà hội nghị Băng – kốc đúng cam
kết. Cịn về chính sách đối nội, chính phủ sẽ đảm bảo quyền tự do ,dân chủ, cho mọi
người Lào không phân biệt bộ tộc, đảng phái, tầng lớp… So với Chính phủ Liên hiệp
lần thứ nhất thì đến chính phủ Liên hiệp lần thứ hai, thế và lực của cách mạng Lào đã

có bước phát triển mạnh mẽ. Từ hai tỉnh tập kết miền núi ít người, cách mạng Lào đã
có vùng giải phóng rộng lớn chiếm 2/3 diện tích cả nước là một bộ phận trong chính
phủ Liên hiệp với vị trí và tiếng nói có trọng lượng.
Đến ngày 23/7/1962, 14 nước tham gia hội nghị quốc tế về Lào tại Giơnevơ đã
ký kết hai văn kiện: Tuyên bố về nền trung lập của Lào và nghị định thư kèm theo
tuyên bố đó.
Hiệp định Giơnevơ (1962) về Lào đánh dấu một bước thất bại của Mĩ cũng như
bọn phản động quốc tế và tay sai trong việc triển khai chiến lược chiến tranh đặc biệt.
Âm mưu chia rẽ khối đoàn kết dân tộc và phá hoại liên minh chiến đấu giữa các dân
tộc Đông Dương của chúng cũng không thực hiện được.
1.2.2.3. Giai đoạn 1963 – 1968 (Đánh thắng cuộc chiến tranh đặc biệt của Mĩ,
xây dựng vùng giải phóng theo quy mơ một quốc gia)
Việc ký kết hiệp định Giơnevơ năm 1962 và tham gia thành lập chính phủ Liên
hiệp dân tộc lần 2 chỉ là bước lùi tạm thời của đế quốc Mĩ và tay sai. Vì vậy, phản ứng
của họ sau khi chính phủ Liên hiệp lần hai ra đời là hết sức mạnh mẽ và quyết liệt. Dã
tâm biến Lào thành căn cứ quân sự và thuộc địa của Mĩ vẫn không hề thay đổi. Trên
thực tế chúng tiếp tục đẩy mạnh chiến tranh đặc biệt ở Lào để phối hợp chặt chẽ với
cuộc chiến tranh đặc biệt ở chiến trường chính miền Nam Vệt Nam. Qua đó nhằm đẩy
lùi cách mạng thế giới nói chung và phong trào giải phóng dân tộc ở 3 nước Đơng
Dương nói riêng phục vụ cho chiến lược toàn cầu phản ứng linh hoạt của Mĩ.
Đẩy mạnh chiến tranh đặc biệt, Mĩ và tay sai ráo riết thực hiện những chính sách
về kinh tế, chính trị, văn hóa, quân sự để đàn áp phong trào đấu tranh của nhân dân
Lào, chi phối nền kinh tế và văn hóa Lào.

15


Như vậy, mặc dù tham gia vào việc kí kết hiệp định Giơnevơ (1962) về Lào,
nhưng với bản chất đế quốc, Mĩ đã không chừa một biện pháp và thủ đoạn nào để phá
hoại nền hịa bình, trung lập mà nhân dân các bộ tộc Lào lựa chọn.

Đối phó với hành động của Mĩ và phái hữu, Ban chấp hành Trung ương Đảng
họp hội nghị lần thứ 12 (khóa I) để đánh giá tình hình và đề ra chủ trương, phương
hướng phá tan âm mưu địch. Hội nghị nhận định: “Do âm mưu phá hoại của địch mà
chính phủ liên hiệp ba phái chỉ cịn là hình thức pháp lý mà thôi…”. Trên cơ sở nhận
định như vậy, Hội nghị xác định nhiệm vụ trước mắt của cách mạng Lào là phải đấu
tranh bảo vệ chính phủ Liên hiệp, đấu tranh đòi thực hiện hiệp định Giơnevơ (1962) về
Lào và đề ra những công tác cụ thể để thực hiện nhiệm vụ đó. Quán triệt tinh thần của
hội nghị Trung ương, các lực lượng vũ trang Pa Thét Lào hợp tác với lực lượng trung
lập yêu nước có sự phối hợp chiến đấu của quân tình nguyện Việt Nam đã luôn giữ
vững thế chủ động, đập tan các cuộc hành quân lấn chiếm của địch, bảo vệ được vùng
giải phóng.
Thất bại liên tiếp trong các cuộc tấn công lấn chiếm vùng giải phóng, những âm
mưu chia rẽ khối đồn kết giữa Neo Lào Hắc Sạt với lực lượng trung lập u nước
cũng khơng đạt kết quả. Điều đó chứng tỏ chiến lược chiến tranh đặc biệt mà Mĩ triển
khai ở Lào lâm vào tình trạng bế tắc, bị động. Để cứu nguy cho sự thất bại của chiến
lược chiến tranh đặc biệt, từ giữa năm 1964, đế quốc Mĩ đã đẩy mạnh leo thang chiến
tranh xâm lược Lào. Đó là giai đoạn tiến hành cuộc “Chiến tranh đặc biệt tăng cường”
của chính quyền Giơn xơn. Với chiến lược này, chúng sử dụng đông đảo quân ngụy
phái hữu, lực lượng đặc biệt, lính đánh th Thái Lan, qn ngụy Sài Gịn, do cố vấn
Mĩ chỉ huy, cộng với việc tận dụng tối đa ưu thế không quân và hậu cần của Mĩ.
Thông qua việc triển khai công thức trên, Mĩ nuôi tham vọng sẽ làm suy yếu lực lượng
cách mạng, thu hẹp và chia cắt vùng giải phóng, ngăn chặn vùng giải phóng, nguồn chi
viện lớn của hậu phương miền Bắc Việt Nam cho chiến trường rồi giành lại thế chủ
động trên chiến trường.
Đối phó với cuộc chiến tranh xâm lược đang lan rộng ra khắp chiến trường Đông
Dương, tháng 5/1965 Ban Chấp hành Trung ương Đảng Nhân dân Lào họp Hội nghị
lần thứ 13 để nhận định, đánh giá tình hình và kịp thời đề ra nhiệm vụ cho cách mạng
Lào trong những năm tới. Hội nghị khẳng định lại mục tiêu chính trị trước mắt của
cách mạng Lào là “hịa bình, trung lập, độc lập, dân chủ, thống nhất và thịnh vượng.


16


Tuy nhiên, đó là một phần của nội dung cách mạng dân tộc dân chủ… đấu tranh cho
mục tiêu chính trị trước mắt chỉ giành được thắng lợi khi so sánh lực lượng giữa ta và
địch có sự thay đổi thật sự có lợi cho cách mạng. Tuyệt đối khơng ảo tưởng chờ đợi
vào việc đàm phán hịa bình” [7;202].
Qn triệt nghị quyết của hội nghị Trung ương lần thứ 13, quân đội và nhân dân
các bộ tộc Lào đã phát huy truyền thống bất khuất, đồn kết một lịng bẻ gãy các kế
hoạch chiến tranh đặc biệt tăng cường của đế quốc Mĩ và lực lượng tay sai, tiêu biểu là
qua các chiến dịch như: Xam Xón, Phu Cút, Cánh đồng Chum - Xiêng Khoảng…
Trong quá trình triển khai chiến đấu, các lực lượng vũ trang Pa Thét Lào có sự hiệp
đồng chiến đấu tuyệt đẹp với lực lượng vũ trang trung lập yêu nước cũng như các đơn
vị tình nguyện Việt Nam. Sự hiệp đồng chiến đấu này góp phần làm nên nhiều chiến
cơng vang dội.
Khơng thực hiện được âm mưu tiêu diệt lực lượng cách mạng thông qua các lần
hòa hợp lần thứ nhất (1957), và lần thứ hai vào đầu những năm 1960, Mĩ và tay sai
càng đẩy mạnh chia rẽ khối đoàn kết dân tộc Lào. Để thực hiện được điều này, chúng
cố tình duy trì cái gọi là “vương quốc Lào” hịng đối lập với Pa Thét Lào. Trên thực tế
ở Lào đã hình thành hai vùng đối lập nhau về chính trị, kinh tế, xã hội. Đó là vùng giải
phóng của lực lượng cách mạng Lào và vùng do chính quyền Mĩ chiếm giữ.
Với tình hình trên, Hội nghị trung ương Đảng nhân dân Lào lần thứ 13 (5/1965)
đề ra nghị quyết về việc xây dựng vùng giải phóng theo quy mơ một quốc gia. Tiếp
theo đó, Hội nghị trung ương Đảng nhân dân Lào lần thứ 14 (5/1966) đã ra một số
nghị quyết chỉ thị quan trọng về xây dựng kinh tế, tài chính trong vùng giải phóng.
Thực hiện nghị quyết của Đảng vùng giải phóng của cách mạng Lào khơng
ngừng lớn mạnh về mọi mặt, đạt được nhiều thành tựu trong cơng cuộc xây dựng kinh
tế, chính trị, xã hội. Như vậy, trải qua 5 năm (1963 – 1968), quân dân Lào từng bước
đánh bại: Chiến tranh đặc biệt rồi chiến tranh đặc biệt tăng cường của Mĩ bắn rơi và
phá hủy nhiều máy bay và phương tiện kỹ thuật chiến tranh khác… Vùng giải phóng

chiếm 2/3 đất đai cả nước được củng cố và xây dựng mọi mặt như một quốc gia. Liên
minh chiến đấu giữa Neo Lào HăcSạt với lực lượng trung lập yêu nước cũng như sự
phối hợp chiến đấu với quân dân Việt Nam ngày càng được củng cố và phát triển
mạnh mẽ.

17


1.2.2.4. Giai đoạn 1969 – 1973 (Quân dân Lào đánh bại chiến tranh đặc biệt
tăng cường thời Níchxơn)
Trên chiến trường Lào mặc dù gặp thất bại nặng nề trong cuộc chiến tranh dưới
thời Giônxơn, nhưng sau khi lên làm Tổng thống Níchxơn vẫn chủ trương tiếp tục
“Chiến tranh đặc biệt tăng cường” lên một quy mô và mức độ chưa từng có, âm mưu
thâm độc hơn thời Giơnxơn.
Để đạt được mục tiêu đề ra, ở giai đoạn đầu của chiến tranh đặc biệt tăng cường
(1969 – 1970), Mĩ và tay sai tiến hành hàng loạt các trận đánh vào vùng giải phóng.
Dưới sự chỉ đạo của Đảng nhân dân Lào cùng với Neo Lào Hắc Sạt và các lực
lượng yêu nước cùng với quân đội Việt Nam đã đánh bại các cánh quân tấn công của
Mĩ và lực lượng tay sai trên nhiều chiến trường, đặc biệt là ở khu vực Cánh Đồng
Chum – Xiêng Khoảng.
Khi thực hiện mỗi bước leo thang chiến tranh theo “Học thuyết Níchxơn”, đế
quốc Mĩ và tay sai hi vọng sẽ giành lại thế chủ động trên chiến trường, để mặc cả trên
bàn thương lượng theo ý đồ của chúng. Nhưng càng leo thang chiến tranh, càng bị thất
bại nặng nề hơn.
Lúc cuộc kháng chiến chống Mĩ giành được những thắng lợi liên tiếp về qn sự,
chính trị trên cả nước, thì một sự kiện chính trị đã diễn ra ở Lào đầu năm 1972, đó là
Đại hội đại biểu tồn quốc lần thứ II của Đảng Nhân dân Lào. Đây là một sự kiện
mang ý nghĩa lịch sử trọng đại đối với cách mạng và nhân dân các bộ tộc Lào.
Với việc ký kết hiệp định Pari về Việt Nam(27/1/1973), quân đội Mĩ và chư hầu
phải rút khỏi Nam Việt Nam. Cũng trong khi đó, lực lượng cách mạng và nhân dân

Lào đã liên tiếp đập tan các cuộc tấn công lấn chiếm vùng giải phóng của quân đội
phái hữu, nhân dân Lào đã nổi dậy khắp nơi giành độc lập dân tộc. Ngày 21/2/1973,
Hiệp định Viêng Chăn về lập lại hịa bình và thực hiện hòa hợp dân tộc ở Lào được ký
kết. Hiệp định này đã đảm bảo các quyền cơ bản của dân tộc và quyền tự quyết của
nhân dân Lào, cơng nhận vùng giải phóng của các lực lượng u nước, chấm dứt chiến
tranh, chấm dứt sự liên quan về qn sự với nước ngồi, thành phố Viêng Chăn và
LngPhabang là hai thành phố trung lập, chính phủ Liên hiệp dân tộc lâm thời và Hội
động quốc gia chính trị liên hiệp được thành lập với thành phần hai bên ngang nhau.
Từ đây, cách mạng Lào chuyển sang một giai đoạn mới, giai đoạn phát triển và chuyển
hóa lực lượng mọi mặt để tiến đến thắng lợi hoàn toàn.

18


1.2.2.5. Giai đoạn 1973 – 1975 ( Giai đoạn dưới sự lãnh đạo của Đảng nhân
dân cách mạng Lào, Quân, dân Lào đã tiến công và nổi dậy đồng loạt giành chính
quyền trong cả nước. Thành lập nước Cộng hịa dân chủ nhân dân Lào ngày 2
tháng 12 năm 1975)
Sau hiệp định Viêng Chăn được kí kết năm 1973, tình hình ở Lào có sự chuyển
biến có lợi cho cách mạng, đế quốc Mĩ và bọn tay sai phản động cực hữu trong phái
Viêng Chăn đã tìm cách chống phá. Mĩ tiếp tục viện trợ riêng cho quân đội và cảnh sát
phái hữu để bộ máy phản động của chúng tiếp tục thi hành chính sách khủng bố, đàn
áp nhân dân. Nhưng do tương quan lực lượng đã thay đổi có lợi cho cách mạng, nên
những hoạt động phá hoại của bọn đế quốc Mĩ và tay sai chỉ là những hành động tuyệt
vọng.
Trước tình hình đó, tháng 11 năm 1974, Trung ương Đảng ra nghị quyết về tình
hình và hoạt động ở vùng trung lập và vùng tạm kiểm soát của phái hữu ở Viêng Chăn
đã bịt hu hẹp, chỉ chạy dọc theo sông Mê Công và lại bị phâ chia thành hai khu vực
trung lập (Viêng Chăn và Lngphabang) và vùng tạm kiểm sốt của chính quyền
Viêng Chăn. Ở trong hai khu vực này đều có hai cơ sở Đảng và cơ sở Neo Lào

HắcSạt.
Trên cơ sở nhận định và đánh giá tình hình đầy đủ. Nghị quyết Trung ương Đảng
đã đề ra nhiệm vụ cho hai khu vực trung lập và tạm kiểm soát của phái hữu Viêng
Chăn như: “Đi đôi với việc thực hiện nhiệm vụ cơ bản là bảo vệ và xây dựng vùng giải
phóng thành chỗ dựa cho cách mạng cả nước, còn phải ra sức động viên phong trào
cách mạng ở hai khu vực nói trên với nhịp độ khẩn trương, tranh thủ mọi lúc mọi nơi
phối hợp với các hình thức đấu tranh, nhất là hình thức đấu tranh của nhân dân với
phong trào đấu tranh pháp lý và đấu tranh ở trong chính phủ liên hiệp… để đưa phong
trào cách mạng cả nước tiến lên.” [5;237]
Đến cuối năm 1974, dựa vào mục tiêu đấu tranh cách mạng của nhân dân, cương
lĩnh chính trị 18 điểm của Neo Lào Hắcsạt về đối nội (12 điểm) và đối ngoại (6 điểm)
được hội đồng quốc gia chính trị hiệp thương thơng qua (28/5/1974) và chính phủ hiệp
thương ký chấp nhận (28/5/1974) là cơ sở pháp lý hồn chỉnh có tính chất quyết định
cho phong trào đấu tranh hợp pháp của nhân dân, quần chúng.
Dưới ánh sáng của Nghị quyết Trung ương Đảng tháng 11 năm 1974, phong trào
đấu tranh ngày càng lan rộng và sục sơi. Từ đấu tranh hịa bình, cơng lí, địi quyền dân

19


sinh, dân chủ tiến đến nổi dậy đấu tranh giành chính quyền từng phần, từng bộ phận.
Dựa vào những điều của Cương lĩnh 18 điểm, các tầng lớp nhân dân trong vùng kiểm
soát của phái Viêng Chăn đã nổi dậy đấu tranh mạnh mẽ và liên tục đòi lật đổ bọn
phản động phái hữu Viêng Chăn. Những cuộc nổi dậy đấu tranh trên đây có ý nghĩa rất
quan trọng, cho thấy tình hình cách mạng Lào đã đến lúc phát triển sơi sục, báo hiệu
tình thế cách mạng đã bước sang giai đoạn chín muồi.
Trong thời gian này, quân đội và nhân dân Campuchia đã giải phóng đất nước
ngày 17 tháng 4 năm 1975 và ngày 30 tháng 4 năm 1975, quân đội và nhân dân Việt
Nam đã giải phóng hoàn toàn miền Nam Việt Nam. Trước “thời cơ lịch sử ngàn năm
có một” và theo quan điểm “có lực lượng mới tạo được thời cơ và mới lợi dụng được

thời cơ; ngược lại thời cơ lại nhân lên và tạo ra lực lượng mới, thời cơ cũng là lực
lượng” Đảng nhân dân cách mạng Lào “hạ quyết tâm khởi nghĩa giành chính quyền
đầu tháng 5 năm 1975”.
Sau thất bại ngày 17 tháng 4 năm 1975 ở Campuchia và ngày 30 tháng 4 năm
1975 ở Việt Nam, trước sự nổi dậy tổng tiến cơng bằng ba địn chiến lược của Lào, Mĩ
đã nhận thấy rằng “sự thất bại ở Lào là điều không thể tránh được”, nên vừa đến nhận
chức chỉ huy bộ phận tình báo Mĩ (CIA) ở Lào được một ngày (30/4/1975), trước sự
kiện ngày 2 tháng 5, Kêam vội vã triệu tập bọn tay sai đầu sỏ vào ngày mùng 2 tháng 5
năm 1975, ra chỉ thị buộc những tên “lộ mặt” phải rút lui ngay. Việc làm này của Mĩ
nhằm “tháo ngòi nổ”để ngăn chặn sự bùng nổ đấu tranh của nhân dân Lào. Tuy nhiên,
bọn tay sai vẫn chưa chịu rời bỏ quyền lợi riêng của chúng cho rằng: “Tình hình Lào
khơng giống với Campuchia và Việt Nam, chưa có gì khẩn cấp mà phải rút lui vội vã”.
Như vậy, chỉ trong vòng 30 ngày đêm lịch sử, kể từ những ngày đầu tháng năm,
Đảng nhân dân cách mạng Lào đã "nắm vững thời cơ lịch sử hiếm có do thắng lợi lớn
lao trọn vẹn của cách mạng Việt Nam và Campuchia tạo nên” đã lãnh đạo nhân dân
Lào “lật đổ chính quyền thực dân kiểu mới của đế quốc Mĩ ở Lào, giành chính quyền
trong cả nước về tay nhân dân mà không phải trải qua chiến tranh đổ máu”. Thắng lợi
của nhân dân các dân tộc Lào là thắng lợi toàn vẹn và triệt để, đưa cách mạng Lào
bước sang kỉ nguyên mới.
Đại hội đại biểu của nhân dân Lào họp trong hai ngày 1 và tháng 12/1975 đã nhất
trí thơng qua quyết định xóa bỏ chế độ quân chủ và thiết lập chế độ Cộng hòa dân chủ
nhân dân Lào, cử chủ tịch nước và thành lập chính phủ mới. Với những quyết định

20


lịch sử quan trọng này, Đại hội đại biểu toàn quốc nhân dân Lào tuyên bố kết thúc một
giai đoạn đấu tranh cách mạng dài 30 năm, xác nhận thắng lợi huy hoàng của cách
mạng, mở ra một kỉ nguyên mới cho lịch sử nước Lào. Đó là, kỉ nguyên “nước Lào
tiến nhanh và vững chắc trên con đường độc lập, tự chủ, thống nhất và thịnh vượng,

đảm bảo cho nhân dân các dân tộc có cuộc sống ấm no, tự do, hạnh phúc mãi mãi”.

21


CHƢƠNG 2: CHIẾN TRƢỜNG CÁNH ĐỒNG CHUM
XIÊNG KHOẢNG TRONG CHIẾN TRANH ĐẶC BIỆT
TĂNG CƢỜNG ( 1963 – 1973 )
2.1. Vị trí địa lý và vị trí chiến lƣợc của Cánh đồng Chum – Xiêng Khoảng
2.1.1. Địa bàn Cánh Đồng Chum – Xiêng Khoảng
Trên bản đồ nước Cộng hoà Dân chủ Nhân dân Lào, Cánh đồng Chum – Xiêng
khoảng nổi lên là một cao nguyên rộng lớn giữa vùng Đông Bắc. Tỉnh Xiêng Khoảng
tiếp giáp tỉnh Nghệ An (Việt Nam) với đường biên giới dài 160km về phía Đơng, Sầm
Nưa (Hủa Văn - căn cứ địa của Mặt trận Lào Yêu nước trong kháng chiến) và Lng
Phabăng (100km) về phía Bắc, Viêng Chăn (150km) về phía Tây Nam và
Bơlykhămxay (70km) về phía Nam.

(Nguồn: vi.wikipedia.org)
Xiêng Khoảng là một tỉnh nằm ở đơng bắc Lào, nơi bắt đầu của dãy Trường Sơn,
biên giới giữa 2 nước Lào - Việt Nam. Diện tích 15.880 km2. Dân số 262.000 người
(năm 2004). Mật độ trung bình 17 người/km2. Độ cao 1200m so với mực nước biển.
Khí hậu mát mẻ, có nhiều núi cao. Cánh đồng Chum nằm giữa trung tâm tỉnh Xiêng
Khoảng có các dịng sơng lớn Nặm Ngừm, Nặm Nơn, Nặm Mặt và nhiều khe suối
nhỏ, nguồn nước trong suốt. Xiêng Khoảng có 7 huyện. Các dân tộc Thái, Hmông,

22


×