Tải bản đầy đủ (.pdf) (89 trang)

Chính sách phòng ngừa tội phạm kinh tế từ thực tiễn thành phố hà nội

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (851.97 KB, 89 trang )

VIỆN HÀN LÂM
KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM
HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI

HOÀNG THU HƯƠNG

CHÍNH SÁCH PHÒNG NGỪA TỘI PHẠM KINH TẾ TỪ
THỰC TIỄN THÀNH PHỐ HÀ NỘI

Chuyên ngành: Chính sách công
Mã số: 60 34 04 02

LUẬN VĂN THẠC SĨ CHÍNH SÁCH CÔNG

NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC
PGS. TS NGUYỄN KHẮC BÌNH

Hà Nội, 2016


LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu của riêng tôi. Các số liệu
ghi trong luận văn là trung thực. Những kết luận khoa học của luận văn chưa
từng được công bố trong bất kỳ công trình nào khác.
TÁC GIẢ LUẬN VĂN

HOÀNG THU HƯƠNG


MỤC LỤC
MỞ ĐẦU…………………………………………………………………...



1

CHƯƠNG 1. LÝ LUẬN VỀ TỔ CHỨC THỰC HIỆN CHÍNH SÁCH
PHÒNG NGỪA TỘI PHẠM KINH TẾ…………………………………

8

1.1. Một số vấn đề lý luận về tổ chức thực thi chính sách công…………

8

1.2. Tổ chức thực hiện chính sách phòng ngừa tội phạm kinh tế………….

17

CHƯƠNG 2. THỰC TRẠNG VỀ TỔ CHỨC THỰC HIỆN CHÍNH
SÁCH PHÒNG NGỪA TỘI PHẠM KINH TẾ………………………… 44
2.1. Một số đặc điểm, tình hình kinh tế xã hội của Hà Nội trong giai đoạn
2013 - 2015……………………………………………………………….... 44
2.2. Tình hình tội phạm kinh tế trên địa bàn thành phố Hà Nội…………… 48
2.3. Các đặc điểm của tội phạm kinh tế trên địa bàn thành phố Hà Nội…… 53
2.4. Thực trạng tổ chức thực hiện chính sách phòng ngừa tội phạm kinh tế
của lực lượng Công an thành phố Hà Nội………………………………….

57

CHƯƠNG 3. MỘT SỐ GIẢI PHÁP HOÀN THIỆN TRONG TỔ
CHỨC THỰC HIỆN CHÍNH SÁCH PHÒNG NGỪA TỘI PHẠM
KINH TẾ CỦA CÔNG AN THÀNH PHỐ HÀ NỘI…………………… 65

3.1. Dự báo tình hình có liên quan đến tổ chức thực hiện chính sách phòng
ngừa tội phạm kinh tế của Công an thành phố Hà Nội…………………….. 65
3.2. Các giải pháp hoàn thiện tổ chức thực hiện chính sách phòng ngừa tội
phạm kinh tế trên địa bàn thành phố Hà Nội………………………………. 68
KẾT LUẬN………………………………………………………………... 77
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO

78

PHỤ LỤC

80


KÝ HIỆU CÁC CHỮ VIẾT TẮT

ANQG

An ninh quốc gia

BLHS

Bộ luật hình sự

BLTTHS

Bộ luật tố tụng hình sự

CAND


Công an nhân dân

CSND

Cảnh sát nhân dân

CSĐT

Cảnh sát điều tra

CSHS

Cảnh sát hình sự

CSKT

Cảnh sát kinh tế

CSKV

Cảnh sát khu vực

TTATXH

Trật tự an toàn xã hội

CSĐTTP về KT và CV - Cảnh sát điều tra về tội phạm
CATP Hà Nội

kinh tế và chức vụ - Công an

Thành phố Hà Nội


MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Đảng và Nhà nước ta luôn coi trọng nhiệm vụ đấu tranh phòng chống tội
phạm để bảo vệ ANQG và giữ gìn TTATXH trong toàn bộ sự nghiệp cách mạng,
xem đó là nhân tố quan trọng có ý nghĩa sống còn của cách mạng Việt Nam.
Sau hơn 30 năm đổi mới, đất nước ta nói chung, thành phố Hà Nội nói riêng
đã đạt được những thành tựu to lớn trên các mặt kinh tế, chính trị, văn hoá, xã hội,
đời sống của nhân dân không ngừng được nâng cao. Thế và lực của nước ta ngày
càng lớn mạnh trên trường quốc tế, vị thế của Thủ đô ngày càng được củng cố và
xứng đáng là trung tâm kinh tế, chính trị, văn hóa của cả nước. Bên cạnh đó, chúng
ta đang phải đối mặt với sự gia tăng không ngừng của các loại tội phạm, đặc biệt là
tội phạm kinh tế. Hậu quả mà chúng gây ra ngày càng lớn, không chỉ là thiệt hại về
kinh tế mà còn ảnh hưởng trên các mặt chính trị - xã hội, ảnh hưởng đến đường lối,
chủ trương, chính sách phát triển kinh tế của đất nước, gây bất bình và làm giảm
lòng tin của nhân dân vào sự lãnh đạo của Đảng và Nhà nước.
Trên địa bàn thành phố Hà Nội, tình hình tội phạm kinh tế đã và đang diễn ra
phức tạp, có xu hướng gia tăng cả về tính chất, mức độ phạm tội cũng như hậu quả,
tác hại gây ra cho xã hội. Trong đó, đáng lưu ý là tội phạm kinh tế xảy ra ở nhiều
lĩnh vực, diễn ra ngày càng phức tạp, tinh vi dưới nhiều hình thức, cấp độ khác
nhau, đã và đang gây ra những thiệt hại to lớn về kinh tế, xã hội. Do vậy, đấu tranh
phòng, chống tội phạm nói chung, tội phạm kinh tế nói riêng đặc biệt là công tác
phòng ngừa không để tội phạm kinh tế xảy ra, hạn chế ở mức thấp nhất hậu quả của
loại tội phạm này từ đó nâng cao năng lực lãnh đạo, uy tín của hệ thống chính trị;
đảm bảo cho đường lối chính sách của Đảng, pháp luật của Nhà nước được thực
hiện nghiêm túc; góp phần làm lành mạnh hoá môi trường đầu tư, hợp tác quốc tế,
bảo vệ tài sản, quyền và lợi ích hợp pháp của người dân là nhiệm vụ quan trọng của
toàn Đảng, toàn dân và của các cơ quan bảo vệ pháp luật hiện nay.

Nhận thức đầy đủ vấn đề nêu trên, công tác đấu tranh phòng, chống tội phạm
nói chung, tội phạm kinh tế nói riêng của lực lượng CSKT - Công an TP Hà Nội

1


trong những năm qua đã có nhiều cố gắng, song tình hình tội phạm kinh tế trên địa
bàn thành phố Hà Nội vẫn đang diễn biến hết sức phức tạp. Công tác phòng ngừa
tội phạm kinh tế gặp rất nhiều khó khăn, vướng mắc. Quan hệ phối hợp giữa các lực
lượng trong điều tra phòng, chống tội phạm kinh tế đã và đang tồn tại những bất
cập; các văn bản pháp luật hướng dẫn về việc phòng ngừa, điều tra xử lý tội phạm
kinh tế không đầy đủ và chưa rõ ràng; trình độ Điều tra viên và trinh sát còn nhiều
hạn chế… dẫn đến hiệu quả phòng, chống loại tội phạm này chưa cao, chưa đáp ứng
được yêu cầu công tác đấu tranh và phòng chống tội phạm kinh tế trong bối cảnh
hội nhập quốc tế này càng sâu rộng.
Do vậy, những vấn đề về lý luận và thực tiễn nêu trên đang cần được nghiên
cứu, giải quyết để nâng cao hiệu quả phòng ngừa tội phạm kinh tế. Từ những vấn đề
trên, tôi lựa chọn nghiên cứu đề tài “Chính sách phòng ngừa tội phạm kinh tế từ
thực tiễn thành phố Hà Nội” làm luận văn thạc sĩ chuyên ngành Chính sách công.
2. Tình hình nghiên cứu đề tài
Đấu tranh phòng chống tội phạm nói chung, tội phạm kinh tế nói riêng là
những vấn đề đã được các nhà khoa học, các cán bộ thực tiễn quan tâm nghiên cứu.
Trong thời gian qua, ở nước ta đã có các cơ quan chức năng, các nhà chuyên môn
nghiên cứu về tội phạm kinh tế dưới nhiều góc độ, khía cạnh khác nhau. Đáng chú ý
là những công trình nghiên cứu sau:
“Tổ chức hoạt động nghiệp vụ trinh sát trong đấu tranh chống tội phạm
kinh tế ở nước ta hiện nay”, Phan Thị Hồng Nhung, Luận án tiến sĩ luật học, Học
viện Cảnh sát nhân dân, Hà Nội, năm 2005. (16)
“Điều tra các vụ án cố ý làm trái quy định của nhà nước về quản lý kinh tế
gây hậu quả nghiêm trọng trên địa bàn tỉnh Hà Tĩnh”, Nguyễn Tiến Nam, Luận văn

thạc sĩ luật học, Học viện Cảnh sát nhân dân, Hà Nội, năm 2003. (18)
“Hỏi cung bị can trong điều tra tội phạm kinh tế quy định của nhà nước về
quản lý kinh tế gây hậu quả nghiêm trọng của phòng Cảnh sát điều tra tội phạm về
trật tự quản lý kinh tế và chức vụ - Công an tỉnh Bình Định”, Nguyễn Hải Thông,
Luận văn thạc sĩ luật học, Học viện Cảnh sát nhân dân, Hà Nội, năm 2004. (17)

2


“Tổ chức phòng ngừa, đấu tranh chống tội phạm kinh tế”, Cục Cảnh sát
điều tra tội phạm về kinh tế và chức vụ - Bộ Công an, nhà xuất bản Công an nhân
dân, năm 2003. (4)
Đề tài khoa học cấp Bộ Công an “Nâng cao hiệu quả công tác phòng ngừa,
đấu tranh chống tội phạm về kinh tế trong lĩnh vực ngân hàng theo chức năng của
lực lượng Cảnh sát kinh tế”, Bộ Công an, năm 2015.
Tội phạm ở Việt Nam, thực trạng, nguyên nhân và giải pháp của tác giả Lê
Thế Tiệm, NXB Công an nhân dân 1994. Trong công trình này, các tác giả đã đưa
ra bức tranh tổng quát nhất về tình hình hình tội phạm ở Việt Nam, nguyên nhân và
các giải pháp phòng ngừa tình hình tội phạm ở Việt Nam những năm đầu đổi mới
và đặc biệt có những dự báo về tình hình tội phạm, các yếu tố tác động đến tình
hình tội phạm trong giai đoạn sau. Tuy công bố đã lâu nhưng cách tiếp cận, phương
pháp nghiên cứu về tình hình tội phạm, nguyên nhân, điều kiện của tội phạm nói
chung có giá trị để tham khảo tiếp cận tình hình tội phạm, nguyên nhân và các biện
pháp phòng ngừa tội phạm trong tình hình hiện nay.
Các nghiên cứu trên đều đưa ra những nhận định trong bối cảnh hội nhập
ngày càng sâu rộng thì cuộc đấu tranh phòng chống tội phạm kinh tế ngày càng
phức tạp và phải có những giải pháp mới để phù hợp với những thay đổi của đời
sống kinh tế xã hội của đất nước, vùng, địa phương. Trong đó ,các tác giả cũng nêu
lên công tác phòng ngừa tội phạm kinh tế có ý nghĩa rất lớn trong cuộc đấu tranh
chống tội phạm kinh tế ở nước ta hiện nay. Ngoài ra, vấn đề đấu tranh phòng, chống

các tội phạm kinh tế còn được đề cập trong một số giáo trình của Học viện Cảnh sát
nhân dân và bài báo đăng tải trên các Tạp chí Công an nhân dân, Tạp chí pháp
luật...
Chuyên ngành Chính sách công mới được đào tạo ở một số Học viện, trường
đại học. Do đó những nghiên cứu về Chính sách phòng ngừa tội phạm kinh tế dưới
quan điểm nhận thức của chính sách công chưa nhiều; đặc biệt là nghiên cứu chính
sách phòng ngừa tội phạm kinh tế trên địa bàn Thủ đô Hà Nội đến nay chưa có. Tác
giả hy vọng với nghiên cứu của đề tài này sẽ góp phần làm sinh động về thực tiễn tổ

3


chức thực thi chính sách phòng ngừa tội phạm nói chung trong đó có tội phạm kinh
tế trên địa bàn Hà Nội; góp phần vào việc bảo vệ và giữ gìn an ninh của Thủ đô Hà
Nội và cả nước trong tình hình mới.
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu đề tài
3.1. Mục đích nghiên cứu:
Trên nền tảng lý luận về chính sách phòng ngừa tội phạm kinh tế và thực tiễn
tổ chức thực hiện chính sách phòng ngừa tội phạm kinh tế trên địa bàn TP Hà Nội
để đề xuất giải pháp tổ chức thực hiện chính sách phòng ngừa tội phạm kinh tế trên
địa bàn thành phố Hà Nội trong giai đoạn hiện nay.
3.2. Nhiệm vụ nghiên cứu:
Để đạt được mục đích nêu trên, đề tài tập trung giải quyết những nhiệm vụ
sau đây:
- Xác lập những vấn đề lý luận về chính sách phòng ngừa tội phạm kinh tế.
- Đánh giá thực trạng tổ chức thực hiện chính sách phòng ngừa tội phạm kinh
tế của Công an TP Hà Nội trong những năm gần đây.
- Dự báo tình hình tội phạm kinh tế và đề xuất các giải pháp nhằm hoàn thiện
công tác tổ chức thực hiện chính sách phòng ngừa tội phạm kinh tế của Công an TP
Hà Nội trong giai đoạn hiện nay.

4. Đối tượng phạm vi nghiên cứu
4.1. Đối tượng nghiên cứu:
Giải pháp hoàn thiện tổ chức thực hiện chính sách phòng ngừa tội phạm kinh
tế của Công an TP Hà Nội.
4.2. Khách thể nghiên cứu:
Chính sách phòng ngừa tội phạm kinh tế của Công an thành phố Hà Nội.
4.3. Phạm vi nghiên cứu:
- Phạm vi nghiên cứu là tổ chức thực hiện chính sách phòng ngừa tội phạm
kinh tế của Công an TP Hà Nội.
- Thời gian nghiên cứu: Từ năm 2013 - đến năm 2015.

4


5. Phương pháp luận và phương pháp nghiên cứu
5.1. Cách tiếp cận nghiên cứu:
Cơ sở phương pháp luận của việc nghiên cứu đề tài là Chủ nghĩa Mác Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh và quan điểm của Đảng, Nhà nước ta về đấu tranh
phòng chống tội phạm nói chung và tội phạm về kinh tế nói riêng. Luận văn vận
dụng cách tiếp cận đa ngành, liên ngành xã hội học và luận văn triệt để vận dụng
phương pháp nghiên cứu chính sách công. Đó là cách tiếp cận quy phạm chính sách
công về chu trình chính sách từ hoạch định đến tổ chức thực hiện và đánh giá chính
sách công có sự tham gia của các chủ thể chính sách.
5.2. Câu hỏi nghiên cứu:
- Những vấn đề lý luận về tổ chức thực hiện chính sách phòng ngừa tội phạm
kinh tế ở nước ta hiện nay là gì?
- Thực trạng thực hiện chính sách phòng ngừa tội phạm kinh tế của Công an
TP Hà Nội như thế nào? Những kết quả đạt được đã đáp ứng được mục tiêu chính
sách đã đề ra hay chưa? Những bất cập trong việc thực hiện chính sách phòng ngừa
tội phạm kinh tế của Công an TP Hà Nội là gì?
- Giải pháp nào đổi mới trong tổ chức thực hiện chính sách phòng ngừa tội

phạm kinh tế của Công an TP Hà Nội trong giai đoạn hiện nay?
5.3. Phương pháp nghiên cứu:
Đề tài sử dụng các phương pháp cụ thể là:
Nhóm phương pháp nghiên cứu lý luận
Tiến hành sưu tầm sách, báo, giáo trình, tạp chí, tài liệu khoa học... liên quan
tới đề tài, từ đó phân tích, tổng hợp và xây dựng nên cơ sở lý luận của đề tài.
Nhóm phương pháp nghiên cứu thực tiễn
- Phương pháp khảo sát bằng phiếu hỏi: Tiến hành xây dựng phiếu điều tra
dành cho đối tượng là chỉ huy cấp phòng, quận, huyện và chiến sĩ công an đang
công tác trong các đơn vị công an TP Hà Nội thuộc khối an ninh và cảnh sát kinh tế,
một số lãnh đạo khối nội chính thuộc thành phố Hà Nội.

5


- Phương pháp phỏng vấn: Tiến hành phỏng vấn các đối tượng là chỉ huy
cấp phòng, quận, huyện, thị xã và chiến sĩ công an đang công tác trong các đơn vị
công an TP Hà Nội thuộc khối an ninh và cảnh sát kinh tế nhằm thu thập thông tin
bổ sung, từ đó góp phần xây dựng cơ sở thực trạng của đề tài.
- Phương pháp quan sát: Tiến hành quan sát việc tổ chức thực hiện chính
sách phòng ngừa tội phạm kinh tế của Công an TP Hà Nội nhằm thu thập thông tin
trực tiếp để đánh giá thực trạng của hoạt động này, từ đó góp phần xây dựng cơ sở
thực trạng của đề tài.
- Phương pháp chuyên gia: Tiến hành xin ý kiến của các chuyên gia am hiểu
về vấn đề đề tài nghiên cứu, nhằm khảo sát tính cấp thiết và khả thi của các giải
pháp đề xuất và hoàn thiện cấu trúc của đề tài.
Nhóm phương pháp bổ trợ
- Phương pháp thống kê toán học: Tiến hành xử lý số liệu đã thu thập bằng
phần mềm Microsoft Excell 2013, nhằm thu lấy các thông tin đã được chọn lọc, góp
phần xây dựng cơ sở thực tiễn của đề tài.

- Phương pháp lưu trữ: Đề tài được lưu trữ bằng file mềm và văn bản.
6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn
6.1. Ý nghĩa lý luận:
- Đề tài vận dụng bổ sung lý thuyết khoa học chính sách công để làm phong
phú thêm những vấn đề đặt ra trong việc tổ chức thực hiện chính sách phòng ngừa
tội phạm kinh tế.
- Đề tài cung cấp những nghiên cứu, tư liệu, khảo sát thực tế tại Công an TP
Hà Nội qua đó góp phần làm phong phú thêm hệ thống lý luận của khoa học Chính
sách công.
- Có giá trị tham khảo cho các cơ quan hành chính nhà nước, cơ quan bảo vệ
pháp luật trong việc thiết lập hệ thống quản lý và thực thi chính sách công trong lĩnh
vực bảo vệ pháp luật.
6.2. Ý nghĩa thực tiễn:

6


Qua thực tiễn nghiên cứu đề tài góp phần chỉ ra những sơ hở, thiếu sót trong
quản lý kinh tế của Nhà nước bị tội phạm lợi dụng hoạt động; những địa bàn, tuyến,
lĩnh vực, ngành hàng, khâu công việc... thường bị xâm hại. Những kết luận và đề
xuất có thể giúp lực lượng CSKT cũng như các cơ quan bảo vệ pháp luật ở TP Hà
Nội và Công an các địa phương tham khảo, vận dụng nhằm hoàn thiện tổ chức thực
hiện chính sách phòng ngừa tội phạm kinh tế trong giai đoạn hiện nay. Mặt khác,
những nội dung mà đề tài nghiên cứu còn có thể được tham khảo, khai thác sử dụng
trong nghiên cứu, giảng dạy, biên soạn giáo trình, xây dựng quy trình phòng ngừa
tội phạm kinh tế trong các trường CAND.
7. Cơ cấu của luận văn
- Chương 1: Lý luận về tổ chức thực hiện chính sách phòng ngừa tội phạm
kinh tế.
- Chương 2: Thực trạng tổ chức thực hiện chính sách phòng ngừa tội phạm

kinh tế của Công an Thành phố Hà Nội.
- Chương 3: Các giải pháp hoàn thiện tổ chức thực hiện chính sách phòng
ngừa tội phạm kinh tế của Công an Thành phố Hà Nội.

7


Chương 1
LÝ LUẬN VỀ TỔ CHỨC THỰC HIỆN CHÍNH SÁCH
PHÒNG NGỪA TỘI PHẠM KINH TẾ
1.1. Một số vấn đề lý luận về tổ chức thực thi Chính sách công
1.1.1. Khái niệm về Chính sách công
Cho đến nay trên thế giới, cuộc tranh luận về định nghĩa Chính sách công vẫn
là một chủ đề sôi động và khó đạt được sự nhất trí rộng rãi. Từ thực tế chính sách
của các ngành, các địa phương và các quốc gia, cũng như qua những cuộc thảo luận
trên các diễn đàn nghiên cứu chính sách, chúng ta có thể chọn ra một số cách tiếp
cận quan trọng nhất để phân tích trước khi đi đến một khái niệm chung nhất về
Chính sách công.
Trong cuốn sách Khoa học chính trị, Michael G.Roskin định nghĩa "Chính trị
học là khoa học về đấu tranh và cạnh tranh quyền lực chính trị". Trong cuộc đấu
tranh đó, công cụ chính sách đóng một vai trò hết sức quyết định tới sự thành bại
của đường lối chính trị. Từ đó, chúng ta có thể hiểu: "Chính sách là tập hợp biện
pháp mà một chủ thể quyền lực đưa ra để định hướng xã hội thực hiện mục tiêu
chính trị của chủ thể quyền lực". [15, tr. 36]
Ví dụ, chính sách cấm vận của Mỹ đối với một quốc gia nào đó là tập hợp
những biện pháp đối xử của Chính phủ Mỹ đối với hàng loạt hoạt động của quốc gia
này nhằm mục đích đẩy nhanh hay kìm hãm sự phát triển của đất nước này trong
khuôn khổ ảnh hưởng của Mỹ, đồng thời khẳng định quyền lực của Mỹ trên trường
quốc tế.
Tuy nhiên, trong một số trường hợp, chính sách mang tính độc lập tương đối

với chính trị. Chẳng hạn, trong một quốc gia, dù Nội các bị đổ theo sự thay đổi về
quyền lực của các tập đoàn chính trị khác nhau, nhưng hàng loạt chính sách đối với
dân chúng vẫn không hề thay đổi, ví dụ: Chính sách thu nhập, chính sách thuế,
chính sách thương mại…
Từ tiếp cận xã hội học, chúng ta có thể hiểu: "Chính sách là tập hợp biện pháp
do chủ thể quản lý đưa ra, nhằm tạo lợi thế cho một (hoặc một số) nhóm xã hội,

8


giảm lợi thế của một (hoặc một số) nhóm xã hội khác, để thúc đẩy việc thực hiện
một (hoặc một số) mục tiêu xã hội mà chủ thể quyền lực đang hướng tới".[7, tr. 23]
Đương nhiên, khi nói đến một nhóm xã hội được ưu đãi, thì cũng có nghĩa là
có một số nhóm sẽ không được ưu đãi, thậm chí có nhóm còn bị thiệt hại và điều đó
dẫn đến một hệ lụy rất quan trọng về mặt xã hội là một chính sách luôn dẫn đến một
bất bình đẳng xã hội. Nhóm được ưu đãi không nhất thiết là nhóm chiếm số đông
trong xã hội. Chẳng hạn, chính sách lương ưu đãi dành cho công an và quân đội.
Xét từ tiếp cận nhân học và nhân học xã hội, chúng ta hiểu: Chính sách là
phương tiện tác động đến hàng loạt sinh hoạt văn hóa và xã hội của con người, từ
đây dẫn đến những phản ứng của xã hội đối với chính sách, và hơn nữa, là những
kiến tạo xã hội mới do chính sách dẫn đến. Ví dụ, chính sách thực hành một đường
lối kinh tế mở cửa đã dẫn đến những thay đổi rất căn bản trong các sinh hoạt xã hội
ở Việt Nam.
Với các cách tiếp cận trên đây, có thể đi đến khái niệm tổng quát về chính
sách như sau: Chính sách là những hành động ứng xử của chủ thể với các hiện
tượng tồn tại trong quá trình vận động phát triển nhằm đạt mục tiêu nhất định.
Từ khái niệm chung về chính sách, nhiều nhà nghiên cứu đã đưa ra những khái
niệm cụ thể về Chính sách công.
Một khái niệm đơn giản và dễ nhớ nhất là của Thomas R. Dye (1984); "Chính
sách công là cái mà Chính phủ lựa chọn làm hay không làm".(7, tr. 33)

Nhưng theo quan niệm của Charles O. Jones (1984) thì ông cho rằng: "Chính
sách công là một tập hợp các yếu tố gồm:
+ Dự định (intentions): Mong muốn của chính quyền;
+ Mục tiêu (goals): dự định được tuyên bố và cụ thể hóa;
+ Đề xuất (proposals): các cách thức để đạt được mục tiêu;
+ Các quyết định hay các lựa chọn (decisions ỏ choices);
+ Hiệu lực (effects)". (Giáo trình CSC, Học viện Chính sách Phát triển)
Tóm lại từ các khái niệm trên, chúng ta có thể đi đến một khái niệm chung
nhất về Chính sách công như sau: “Chính sách công là những hành động ứng xử
của Nhà nước với các vấn đề phát sinh trong đời sống cộng đồng, được thể hiện

9


bằng nhiều hình thức khác nhau, nhằm thúc đẩy xã hội phát triển theo định
hướng”.
1.1.2. Quy trình chính sách công
1.1.2.1. Khái niệm:
Quy trình chính sách được hiểu là quá trình luân chuyển các giai đoạn từ khởi
sự chính sách đến khi xác định được hiệu quả của chính sách trong đời sống xã hội.
Các giai đoạn của quy trình chính sách có liên hệ chặt chẽ với nhau theo nguyên
tắc: Giai đoạn trước là nền tảng cho giai đoạn tiếp theo và kết quả của giai đoạn
trước là thông tin cần và đủ cho giai đoạn tiếp theo.
Các học giả trên thế giới đã đưa ra nhiều mô hình về quy trình Chính sách
công (Public Policy Process). Về thực chất, khó có thể mô tả quy trình chính sách
một cách đơn giản và rõ ràng, nó vừa có tính liên tục, vừa có tính biến động. Quá
trình đó là liên tục bởi vì các chính sách của Nhà nước thường bắt nguồn từ những ý
đồ hay quyết định đã tồn tại trong quá khứ, chứ không phải từ chỗ không có gì.
Chính sách không chấm dứt đột ngột, nó luôn là tiền đề cho những ý tưởng mới
hoặc chính sách mới trong tương lai. Điều đó có nghĩa là, khó có thể tìm được sự

khởi đầu cũng như sự kết thúc của hầu hết chính sách. Quy trình chính sách đồng
thời cũng là biến động do tác động của nhiều yếu tố tham gia vào việc tạo ra chính
sách. Đương nhiên, một số chính sách hay thay đổi thường xuyên hơn và nhiều hơn
một số chính sách khác, nhưng rất khó xác định một chính sách nào đó hoàn toàn ổn
định trong một thời gian dài. Các chính sách cần được xem xét như là nó ở trong
một trạng thái tương đối ổn định, chứ không phải là nó xác định một cách vững
chắc.
Nghiên cứu chính sách theo quan điểm quy trình cũng có nghĩa là hoạt động
quản lý Nhà nước thông qua việc ban hành các chính sách công xảy ra mang tính
thường xuyên, các chính sách này ra đời tiếp theo các chính sách khác và trong quá
trình đó chính sách công luôn được hoàn thiện, bổ sung. Mặt khác, cách tiếp cận
chính sách theo quy trình (chu trình/quá trình) có thể giúp cho những ai quan tâm
đến chính sách có thể tiếp cận ở các góc độ khác nhau của chính sách và do đó dễ
dàng tham gia vào quy trình này. Đồng thời các nhà quản lý cũng tự xác định vai
trò, vị trí, năng lực và những hoạt động cần thiết khi tham gia vào từng giai đoạn

10


của quy trình chính sách. Họ tự biết họ phải làm gì, làm như thế nào khi nắm vững
bản chất của từng giai đoạn.
1.1.2.2. Các giai đoạn trong quy trình chính sách công:
Trên thực tế, tuy các mô hình quy trình chính sách công có khác nhau về chi
tiết, song nhìn chung có thể quy về 3 giai đoạn cơ bản của quy trình này là:
- Hoạch định chính sách: Trong giai đoạn này, các chính sách được nghiên
cứu đề xuất để Nhà nước phê chuẩn và ban hành công khai. Quá trình đề xuất chính
sách bao gồm việc xác định vấn đề cần ra chính sách, xác định các mục tiêu mà
chính sách cần đạt được và xác định các giải pháp cần thiết để đạt tới các mục tiêu
đó. Muốn xác định được vấn đề chính sách, cần phải thường xuyên quan sát và phân
tích tình hình thực tế để dự báo được những mâu thuẫn cơ bản cần giải quyết nhằm

duy trì sự tồn tại và phát triển của xã hội.
- Thực thi chính sách: Đây là giai đoạn thực hiện các mục tiêu chính sách
công trên thực tế. Nói cách khác, đây là giai đoạn vận dụng những giải pháp định
trước để đạt được các mục tiêu chính sách. Chính trong giai đoạn này, chính sách
được biến thành kết quả thực tế. Giai đoạn này bao gồm các hoạt động triển khai,
phối hợp thực hiện, kiểm tra đôn đốc và hiệu quả chính sách cùng các biện pháp tổ
chức thực thi để chính sách phát huy tác dụng trong cuộc sống.
- Đánh giá chính sách: Đây là một giai đoạn quan trọng trong quy trình chính
sách. Trong giai đoạn này, người ta tiến hành so sánh các kết quả của chính sách
công với các mục tiêu đề ra, phân tích hiệu quả kinh tế - xã hội đạt được thông qua
việc thực thi chính sách trên thực tế.
1.1.3. Tổ chức thực thi chính sách công
1.1.3.1. Khái niệm:
Chính sách được hoạch định ra xuất phát từ yêu cầu khách quan của thực tế, từ
những nhu cầu của xã hội. Trải qua rất nhiều thời kỳ, từ năm 1930 đến 1960, các
nhà nghiên cứu quy trình chính sách hầu như chỉ tập trung tìm tòi về việc hoạch
định Chính sách công. Song cho đến tận ngày nay, người ta vẫn khó có thể khẳng
định rằng, một chính sách đề ra là tốt hay xấu. Điều đó chỉ có thể được đánh giá
bằng thực tế là chính sách đó được xã hội chấp nhận hay không. Chỉ có thực tiễn là
phán xét chính xác nhất chính sách nào là tích cực và chính sách nào là tiêu cực.

11


Trong thập kỷ 70, các nhà nghiên cứu đã chuyển trọng tâm sang giai đoạn thực thi
chính sách.
Theo nguyên lý triết học, chính sách là một dạng thức vật chất đặc biệt nên nó
cũng cần thực hiện những chức năng để tồn tại. Song muốn thực hiện được chức
năng, chính sách phải tham gia vào quá trình vận động như các vật chất khác. Nghĩa
là sau khi ban hành, chính sách phải được triển khai trong đời sống xã hội. Do vậy,

tổ chức thực thi chính sách là tất yếu khách quan để duy trì sự tồn tại của công cụ
chính sách theo yêu cầu quản lý Nhà nước và cũng là để đạt mục tiêu đề ra của
chính sách. Với cách tư duy này có thể đi đến khái niệm về tổ chức thực thi chính
sách như sau:
"Tổ chức thực thi chính sách là toàn bộ quá trình chuyển hóa ý chí của chủ
thể trong chính sách thành hiện thực với các đối tượng quản lý nhằm đạt được
mục tiêu định hướng của Nhà nước".[76, tr. 9]
Trong quá trình thực thi chính sách, các nguồn lực vật chất, tài chính, khoa
học công nghệ và con người được đưa vào các hoạt động có tính định hướng để đạt
được các mục tiêu đã đề ra. Nói cách khác, đây là quá trình kết hợp giữa con người
với các nguồn lực vật chất, tài chính, khoa học công nghệ nhằm sử dụng các nguồn
lực này một cách có hiệu quả theo những mục tiêu đề ra.
Chủ thể thực thi chính sách trước hết quan trọng nhất là các cơ quan hành
chính Nhà nước, bởi vì đây chính là các cơ quan có nhiệm vụ quản lý và tổ chức
triển khai các công việc hàng ngày của Nhà nước. Tuy nhiên, các cơ quan lập pháp
và tư pháp cũng như các tổ chức Đảng, đoàn thể cũng có vai trò quan trọng trong
việc huy động và tổ chức lực lượng tham gia triển khai chính sách.
1.1.3.2. Vị trí của thực thi chính sách:
Tổ chức thực thi chính sách là một khâu hợp thành quy trình chính sách, nếu
thiếu vắng giai đoạn này thì quy trình chính sách không thể tồn tại. Tổ chức thực thi
chính sách là trung tâm kết nối các giai đoạn trong quy trình chính sách thành một hệ
thống. Trên thực tế, giai đoạn thực thi chính sách được coi là giai đoạn tổng hợp của cả
3 giai đoạn của quy trình chính sách: hoạch định chính sách, thực thi chính sách và
đánh giá chính sách. Nhiều chính sách do các cơ quan Trung ương đề ra và giao cho
địa phương thực hiện, nhưng khi chính sách về đến địa phương, người ta phải tiến hành

12


nghiên cứu áp dụng nó phù hợp với thực tế của địa phương. Điều đó có nghĩa là giai

đoạn thực thi chính sách lại bao hàm cả nội dung hoạch định chính sách. Hơn nữa,
trong quá trình thực hiện chính sách, người ta phải tiến hành đánh giá chính sách để có
thể điều chỉnh kịp thời cho phù hợp với mục tiêu. Vì vậy, giai đoạn thực thi chính sách
lại bao gồm cả những công việc thuộc về đánh giá chính sách.
So với các khâu khác trong quy trình chính sách, tổ chức thực thi chính sách
có vị trí đặc biệt quan trọng, vì đây là bước hiện thực hóa chính sách trong đời sống.
Chúng ta biết rằng, nếu đưa vào thực thi một chính sách tốt, không những mang lại
lợi ích to lớn cho các nhóm đối tượng thụ hưởng, mà còn góp phần làm tăng uy tín
của Nhà nước trong quá trình quản lý xã hội. Tuy nhiên, để có được một chính sách
tốt các nhà hoạch định phải trải qua một quá trình nghiên cứu, tìm kiếm rất công
phu. Nhưng dù tốt đến đâu thì chính sách cũng trở thành vô nghĩa nếu nó không
được đưa vào thực hiện. Luận giải trên đây cho chúng ta nhận thức đầy đủ về vị trí
quan trọng của thực thi chính sách, từ đó có ý thức tự giác trong việc tổ chức thực
thi chính sách công.
1.1.3.3. Ý nghĩa của việc thực thi chính sách:
Thực thi chính sách công là giai đoạn có ý nghĩa quyết định đối với việc
thành công hay thất bại của một chính sách. Cụ thể, hoạt động này mang lại những
ý nghĩa to lớn sau đây:
- Tổ chức thực thi chính sách là giai đoạn biến ý đồ chính sách thành hiện
thực
Trong nền kinh tế nhiều thành phần hoạt động theo cơ chế thị trường có định
hướng XHCN, mỗi thành phần kinh tế có một vai trò nhất định đối với sự nghiệp
phát triển kinh tế xã hội của đất nước, trong đó kinh tế Nhà nước giữ vai trò chủ
đạo. Để quản lý điều hành, Nhà nước có thái độ ứng xử một cách thích hợp với mỗi
vấn đề phát sinh thuộc các thành phần kinh tế khác nhau. Trong quản lý xã hội,
công cụ được Nhà nước dùng để chuyển tải thái độ ứng xử của mình với các đối
tượng quản lý và chính sách. Tùy theo yêu cầu quản lý phát triển của nền kinh tế ở
từng thời kỳ, Nhà nước chủ động ban hành các chính sách để thể hiện ý chí trong
quan hệ với các thành phần kinh tế theo định hướng. Như vậy, thực thi chính sách là
giai đoạn biến ý đồ chính sách thành hiện thực.


13


- Tổ chức thực thi chính sách để từng bước thực hiện mục tiêu chính sách
và mục tiêu chung
Mục tiêu chính sách có liên quan đến nhiều hoạt động chính trị, kinh tế, xã hội
theo những cấp độ khác nhau. Tuy nhiên trong cùng một thời điểm không thể giải
quyết tất cả các vấn đề liên quan và cũng không thể bỏ qua giai đoạn của mỗi quá
trình. Thực thi chính sách để giải quyết các vấn đề trong mối quan hệ biện chứng
với những mục tiêu cơ bản nhất để thúc đẩy quá trình vận động của cả hệ thống đến
mục tiêu chung.
Ví dụ : nhằ m phá t triể n Tâ y Nguyê n, Tâ y Nam Bộ , Tâ y Bắ c, Bộ
Giá o dụ c và Đà o tạ o đ ã có nhiề u chí nh sá ch đ à o tạ o nguồ n nhâ n lự c cho 3
Tâ y; trong đ ó có chí nh sá ch giao cho mộ t số trư ờ ng đ ạ i họ c trọ ng đ iể m ở
thà nh phố đ ặ t lớ p tạ i cơ sở giá o dụ c ở cá c đ ị a phư ơ ng thuộ c khu vự c 3 Tâ y
đ à o tạ o nguồ n nhâ n lự c tạ i chỗ phụ c vụ c cô ng cuộ c xâ y dự ng kinh tế và giữ
gì n an ninh quố c phò ng củ a khu vự c 3 Tâ y.
- Thực thi chính sách là để khẳng định tính đúng đắn của chính sách
Chính sách đúng đắn là chính sách đáp ứng đầy đủ các tiêu chuẩn của một
chính sách tốt. Tuy nhiên, một chính sách được coi là tốt thì giá trị của nó cũng chỉ
mới dừng lại ở phương diện nguyện vọng, mong muốn mà thôi. Tính chuẩn mực
của chính sách ở giai đoạn này cũng mới chỉ là sự thừa nhận của chủ thể ban hành
chính sách. Một khi chính sách được triển khai thực hiện rộng rãi trong đời sống xã
hội, thì tính đúng đắn của nó được khẳng định ở mức cao hơn, tức là được cả xã hội
thừa nhận, nhất là các đối tượng thụ hưởng chính sách.
- Qua thực thi giúp cho chính sách ngày càng hoàn chỉnh
Chính sách được hoạch định bởi tập thể nên không thể tránh khỏi sự ảnh
hưởng của ý chí chủ quan. Bên cạnh đó các quá trình kinh tế, xã hội lại thường
xuyên vận động. Phát triển trong khi chính sách được hoạch định lại dựa chủ yếu

vào thực trạng của môi trường sống và có khoảng cách khá lớn về thời gian kể từ
khi hoạch định cho đến lúc tổ chức thực thi. Do ảnh hưởng của ý chí chủ quan và sự
vận động phát triển của môi trường nên giữa chính sách và thực tế xã hội trong giai
đoạn tổ chức thực thi chắc chắn có khoảng cách cần được lấp đầy bằng những điều

14


chỉnh về chính sách hay các biện pháp tổ chức thực thi chính sách. Những điều
chỉnh, bổ sung về mục tiêu hay biện pháp chính sách trong quá trình thực thi chính
là hoạt động hoàn chỉnh của những chính sách đang có và góp phần rút kinh nghiệm
cho việc hoạch định các chính sách kỳ sau.
1.1.3.4. Những yêu cầu cơ bản đối với tổ chức thực thi chính sách công:
- Yêu cầu thực hiện mục tiêu
Mục tiêu chính sách phải được thực hiện cụ thể, rõ ràng, chính xác. Đây là yêu
cầu quan trọng đầu tiên để thu hút mọi hoạt động thực thi chính sách theo một định
hướng. Thực thi chính sách là những hoạt động cụ thể của các cơ quan quản lý nhà
nước và các đối tượng chính sách nhằm đạt được những mục tiêu trực tiếp. Ứng với
mỗi mục tiêu trực tiếp này là những chương trình, dự án cụ thể. Kết quả thực thi
chính sách theo quá trình hoạt động trong từng thời kỳ, được lượng hóa bằng những
thước đo cụ thể. Tổng hợp kết quả thực hiện mục tiêu của các chương trình, dự án
và các hoạt động thực thi khác thành mục tiêu chung của chính sách. Theo nguyên
lý vận động đó, muốn thực hiện thành công các chính sách, Nhà nước phải xác định
mục tiêu của từng chính sách thật cụ thể, rõ ràng và chuẩn xác.
- Yêu cầu đảm bảo tính hệ thống
Tổ chức thực thi chính sách là một bộ phận cấu thành trong quy trình chính
sách. Nó kết hợp chặt chẽ với các bộ phận khác trong quy trình tạo nên một hệ
thống thống nhất. Ngay quá trình tổ chức thực thi cũng bao gồm nhiều bước hợp
thành một hệ thống, vì thế khi tiến hành tổ chức thực thi chính sách cần thiết phải
bảo đảm tính hệ thống trong mỗi quá trình. Nội dung của tính hệ thống bao gồm:

- Hệ thống mục tiêu và biện pháp của chính sách;
- Hệ thống trong tổ chức bộ máy thực thi chính sách;
- Hệ thống trong điều hành, phối hợp thực hiện;
- Hệ thống trong sử dụng công cụ chính sách với các công cụ quản lý khác.
Nói như vậy không có nghĩa là chúng ta thực hiện một cách máy móc lộ trình
và phương thức thực thi chính sách của Nhà nước. Tùy theo điều kiện cụ thể mà
tiến hành thực hiện các bước cho hợp lý. Chẳng hạn, việc vận động thực thi chính

15


sách không nhất thiết chỉ có các cơ quan quản lý nhà nước, mà còn có nhiều tổ chức
chính trị, chính trị - xã hội khác cùng tham gia mới đạt kết quả tốt.
- Yêu cầu các cơ quan nhà nước phải đảm bảo tính khoa học, hợp lý và
pháp lý trong tổ chức thực thi chính sách công
Yêu cầu này đòi hỏi hệ thống bộ máy quản lý nhà nước phải gọn nhẹ, đủ năng
lực tổ chức thực hiện chính sách theo quy trình khoa học. Tính khoa học thể hiện
trong quá trình tổ chức thực thi chính sách là việc phối hợp nhịp nhàng giữa cơ
quan quản lý chính sách, việc thu hút các nguồn lực hướng mạnh vào thực hiện mục
tiêu chính sách, hình thành các chương trình, dự án để thực hiện có hiệu quả một
chính sách… Quy trình thực thi chính sách lại chịu ảnh hưởng của nhiều yếu tố khi
nó được triển khai vào đời sống xã hội. Bởi vậy tính khoa học của quá trình tổ chức
thực thi chính sách phải thể hiện được sức sống để tồn tại trong thực tế như: mục
tiêu cụ thể của chính sách phải phù hợp với mục tiêu phát triển của địa phương
trong từng thời kỳ; các biện pháp thực hiện mục tiêu chính sách phải tương ứng với
trình độ nhận thức và tài nguyên của vùng, miền, địa phương… Như vậy, không thể
thực hiện các bước theo quy trình khoa học một cách máy móc. Tùy vào tình hình
thực tế mà lựa chọn cách thức tổ chức thực thi chính sách cho phù hợp. Tuy vậy,
quá trình vận dụng vẫn phải tuân theo các nguyên tắc pháp lý để đảm bảo tính tập
trung, thống nhất trong chấp hành chính sách. Tính pháp lý được thể hiện trong tổ

chức thực thi chính sách là việc chấp hành các chế định về thực thi chính sách như:
trách nhiệm, quyền hạn của các tổ chức, cá nhân được giao thực thi chính sách, thủ
tục giải quyết các mối quan hệ trong thực thi chính sách, cưỡng chế thực hiện chính
sách trong những trường hợp cần thiết.
- Yêu cầu đảm bảo lợi ích thật sự cho các đối tượng thụ hưởng
Trong xã hội có nhiều nhóm lợi ích, các nhóm lợi ích lại biến động theo không
gian và thời gian. Tùy theo tính chất của mỗi chế độ xã hội mà các nhóm lợi ích sẽ
thụ hưởng khác nhau. Nhà nước thường ra tay bảo vệ và chuyển lợi ích đến các đối
tượng thụ hưởng trong xã hội bằng chính sách. Để công cụ này phát huy tác dụng,
cần phải có sự hưởng ứng thực hiện một cách tự giác trên cơ sở lòng tin của dân

16


chúng vào chính sách của Nhà nước. Kết quả trên có được chỉ khi chính sách thật sự
mang lại lợi ích cho mỗi đối tượng thực hiện và toàn xã hội.
1.2. Tổ chức thực hiện chính sách phòng ngừa tội phạm kinh tế
1.2.1. Khái niệm tội phạm kinh tế
Bất kỳ nhà nước nào cũng đề ra những quy định để quản lý nền kinh tế của đất
nước. Quy định của Nhà nước về quản lý kinh tế rất đa dạng, có thể điều chỉnh hoạt
động của toàn bộ nền kinh tế quốc dân, nhưng cũng có thể điều chỉnh hoạt động kinh
tế trên phạm vi từng địa phương, từng ngành kinh tế. Vì thế, nó có thể mang tính phổ
biến chung cho toàn bộ hệ thống, nhưng có thể chỉ có tính riêng, đặc thù cho từng
lĩnh vực kinh tế cụ thể. Quy định của Nhà nước về quản lý kinh tế được cơ quan Nhà
nước có thẩm quyền ban hành dưới các hình thức văn bản quy phạm pháp luật điều
chỉnh các quan hệ về kinh tế (Hiến pháp, luật, pháp lệnh, nghị quyết, lệnh, quyết
định, nghị định, chỉ thị, thông tư...). Các văn bản quy phạm pháp luật này phải đảm
bảo tính hợp hiến, hợp pháp và tính thống nhất của hệ thống pháp luật.
Ngay từ khi mới hình thành, Nhà nước Việt Nam dân chủ Cộng hòa đã ban
hành nhiều quy định về quản lý kinh tế. Nó có tác dụng tích cực trong quản lý kinh

tế, cũng như trong phát hiện đấu tranh với các loại tội phạm kinh tế theo quy định
của Nhà nước về quản lý kinh tế. Cụ thể các văn bản đó là:
- Ngày 21/10/1970, Uỷ ban thường vụ Quốc hội nước Việt Nam dân chủ
cộng hoà đã thông qua Pháp lệnh “Trừng trị các tội xâm phạm tài sản xã hội chủ
nghĩa”. Điều 12 - Pháp lệnh này quy định: Tội cố ý làm trái nguyên tắc, chính sách,
chế độ, thể lệ về kinh tế tài chính gây thiệt hại đến tài sản xã hội chủ nghĩa. Trong
đó, cấu thành cơ bản quy định: Kẻ nào lợi dụng chức vụ, quyền hạn cố ý làm trái
nguyên tắc, chính sách, chế độ và thể lệ về kinh tế, tài chính, gây thiệt hại đến tài
sản xã hội chủ nghĩa thì bị phạt tù từ 6 tháng đến 7 năm. Mục đích tư lợi không phải
là dấu hiệu bắt buộc của tội phạm. Hình phạt nặng nhất của tội này là 20 năm tù
trong trường hợp gây hậu quả đặc biệt nghiêm trọng. Pháp lệnh này được thực thi
trong thời gian từ năm 1970 đến năm 1985.

17


- Ngày 09/7/1985, Hội đồng Nhà nước công bố Bộ luật Hình sự được Quốc
hội nước CHXHCN Việt Nam thông qua ngày 27/6/1985, đây cũng là BLHS Việt
Nam đầu tiên được ban hành. Khi BLHS này có hiệu lực thi hành thì cũng là lúc sự
nghiệp đổi mới bắt đầu. Sự thay đổi các mặt của đời sống xã hội, trong đó đổi mới
về kinh tế giữ vai trò quan trọng không chỉ là cơ sở mà còn là đòi hỏi cấp bách đối
với sự thay đổi của pháp luật nói chung cũng như của Luật hình sự nói riêng. Tại bộ
luật này các tội xâm phạm trật tự quản lý kinh tế được quy định tại chương VII với
tên là “Các tội phạm về kinh tế”. BLHS năm 1985 với ý nghĩa là nguồn duy nhất
trong đó quy định tội phạm và hình phạt được xây dựng trên cơ sở kinh tế xã hội
của nền kinh tế bao cấp và trên cơ sở thực tiễn của tình hình tội phạm thời kỳ đó.
Do vậy, có thể nói ngay khi ra đời BLHS đã ở trong tình trạng không phù hợp với
chủ trương đổi mới cũng như những đòi hỏi của đổi mới. Để đáp ứng và phục vụ
công cuộc đổi mới Luật hình sự buộc phải có những thay đổi mang tính phát triển.
Sự phát triển này được thể hiện trong những sửa đổi, bổ sung của BLHS.

- Quốc hội khóa X, tại kỳ họp thứ 6 ngày 21/12/1999 đã thông qua BLHS
năm 1999, có hiệu lực thi hành kể từ ngày 01/7/2000 đã đánh dấu bước nhảy vọt
trong việc xây dựng và hoàn thiện pháp luật Hình sự Việt Nam, đáp ứng đòi hỏi của
tình hình mới về công tác đấu tranh phòng chống tội phạm. Tội phạm kinh tế được
quy định tại chương XVI - Các tội xâm phạm trật tự quản lý kinh tế, BLHS năm
1999. Việc thay đổi tên chương, không chỉ đơn thuần về tên gọi, mà có ý nghĩa rất
quan trọng về nội dung và bản chất của các tội phạm về kinh tế. BLHS năm 1999
chỉ quy định những hành vi xâm phạm trật tự quản lý kinh tế trong chương này, còn
các hành vi xâm phạm khác thuộc về lĩnh vực kinh tế tùy từng trường hợp mà quy
định tại chương các tội phạm xâm phạm sở hữu hay các tội phạm về chức vụ, các
tội phạm về môi trường…
Do tính chất và đặc điểm của các tội xâm phạm trật tự quản lý kinh tế luôn
luôn bị chi phối bởi những chính sách của Đảng và Nhà nước trong từng giai đoạn
dài ngắn khác nhau, có hành vi hôm trước là tội phạm nhưng hôm sau không còn là
tội phạm nữa, thậm chí còn được coi là công trạng. Vì vậy, BLHS chỉ quy định

18


những dấu hiệu đặc trưng của tội phạm còn hành vi cụ thể xâm phạm đến trật tự
quản lý kinh tế nào, do ai quy định lại phải căn cứ vào các văn bản của Nhà nước
thuộc lĩnh vực quản lý kinh tế mới xác định được.
Tội phạm kinh tế không những xâm phạm vào sự ổn định của hoạt động
quản lý kinh tế mà còn gây thiệt hại nghiêm trọng về vật chất cho xã hội. Vì vậy,
chế tài áp dụng đối với loại tội phạm này còn quy định người phạm tội có thể bị tịch
thu một phần hoặc toàn bộ tài sản, cấm đảm nhiệm chức vụ hoặc công việc nhất
định từ 1 đến 5 năm.
Từ quy định trên có thể xác định:“Các tội xâm phạm trật tự quản lý kinh tế
là những hành vi nguy hiểm cho xã hội, có lỗi, xâm hại nền kinh tế quốc dân, gây
thiệt hại cho lợi ích của Nhà nước, lợi ích hợp pháp của tổ chức, quyền và lợi ích

của công dân thông qua việc xâm phạm trật tự quản lý kinh tế trên các lĩnh vực sản
xuất, kinh doanh, lưu thông hàng hóa, quản lý tài sản, tài chính, tài nguyên của đất
nước”.
1.2.2. Dấu hiệu pháp lý của tội phạm kinh tế
- Mặt khách thể của tội phạm:
Khách thể là trật tự quản lý kinh tế của đất nước. Cụ thể, nó thể hiện ở trên
nhiều lĩnh vực khác nhau như: sản xuất, lưu thông, kinh doanh hàng hóa, quản lý tài
chính, tiền tệ, tài nguyên, quản lý đất đai, quản lý và bảo vệ rừng… Ngoài ra, trật tự
quản lý kinh tế còn được thể hiện ở những quy định, chế độ, nguyên tắc, chính sách
liên quan đến nhiều lĩnh vực khác nhau. Xâm phạm trật tự quản lý kinh tế ảnh
hưởng đến hoạt động phát triển kinh tế của đất nước, khách thể trực tiếp của mỗi tội
phạm được thể hiện cụ thể trong từng điều luật.
- Mặt khách quan của tội phạm:
Các tội xâm phạm trật tự quản lý kinh tế đều được thực hiện bằng những
hành vi nguy hiểm, ảnh hưởng tới sự phát triển của nền kinh tế của đất nước. Hầu
hết các tội phạm được biểu hiện bằng những hành động cụ thể, bằng các thủ đoạn
khác nhau. Đa số các tội phạm kinh tế có cấu thành tội phạm vật chất, nghĩa là các
tội phạm này được coi là hoàn thành kể từ khi thực hiện hành vi nào đó được quy

19


định cụ thể trong từng điều luật với một số lượng, giá trị cụ thể được quy định ngay
trong điều luật, với số lượng lớn, gây hậu quả nghiêm trọng , hoặc đã bị xử lý kỷ
luật, đã bị xử phạt hành chính về hành vi được quy định trong điều luật mà còn vi
phạm.
- Chủ thể của tội phạm:
Chủ thể của tội phạm kinh tế trước hết phải đủ các dấu hiệu về năng lực
trách nhiệm hình sự và đạt độ tuổi theo quy định tại Điều 12, 13 của BLHS. Theo
đó, người từ đủ 14 đến dưới 16 tuổi chịu trách nhiệm hình sự về tội phạm kinh tế

thuộc các trường hợp rất nghiêm trọng, đặc biệt nghiêm trọng (khoản 2, 3 Điều 165
BLHS); người từ đủ 16 trở lên chịu trách nhiệm hình sự về tất cả các tội.
Ngoài các điều kiện chung, chủ thể của tội phạm kinh tế (trừ những người
là đồng phạm) phải thỏa mãn dấu hiệu đặc trưng là người có chức vụ, quyền hạn.
Người có chức vụ, theo quy định tại Điều 277 BLHS là “người do bổ nhiệm,
do bầu cử, do hợp đồng hoặc do hình thức khác, có hưởng lương hoặc không hưởng
lương, được giao thực hiện một công vụ nhất định và có quyền hạn nhất định khi
thực thi công vụ”.
- Mặt chủ quan của tội phạm:
Tội phạm kinh tế được thực hiện do lỗi cố ý. Động cơ, mục đích của các tội
phạm xâm phạm trật tự quản lý kinh tế mang tính vụ lợi nhưng không phải là dấu
hiệu bắt buộc trong cấu thành tội phạm trừ trường hợp điều luật quy định.
1.2.3. Nhận thức cơ bản về hoạt động phòng ngừa tội phạm kinh tế
Thực tế đã chỉ ra rằng: Phòng ngừa tội phạm là vấn đề cơ bản, có ý nghĩa
khoa học và thực tiễn rất quan trọng đối với công tác đấu tranh phòng, chống tội
phạm. Tiến hành phòng ngừa với tinh thần tích cực, chủ động, toàn diện và thường
xuyên, bền bỉ, lâu dài nhằm ngăn chặn, loại trừ nguyên nhân và điều kiện nảy sinh
tội phạm; hạn chế thiệt hại về vật chất và tinh thần cho xã hội, đảm bảo ANTT, giữ
vững sự ổn định của xã hội và cuộc sống bình yên của nhân dân.
Phòng ngừa tội phạm được thể hiện ở việc cải thiện các điều kiện xã hội, loại
trừ các nguyên nhân và điều kiện tội phạm, làm xuất hiện các điều kiện tích cực cho

20


quá trình hình thành nhân cách của con người. Công tác phòng ngừa tội phạm
nghiên cứu các vấn đề về: Tình trạng phạm tội, nguyên nhân, điều kiện của tình
trạng phạm tội và nhân thân người phạm tội. Mục đích cuối cùng của phòng ngừa
tội phạm là tìm ra các biện pháp ngăn chặn, không cho tội phạm phát sinh, phát
triển, từng bước hạn chế, đẩy lùi và tiến tới loại bỏ tội phạm ra khỏi đời sống xã hội.

Giống như các loại tội phạm nói chung, tội phạm kinh tế là hiện tượng tiêu
cực của xã hội và các biện pháp phòng ngừa, mục đích của việc phòng ngừa cũng
có những đặc tính chung. Phòng ngừa tội phạm kinh tế là hoạt động mang tính tổng
hợp của nhiều biện pháp, do nhiều lực lượng tiến hành, trong đó lực lượng Cảnh sát
kinh tế là nòng cốt.
Phòng ngừa tội phạm kinh tế phải được sự lãnh đạo chặt chẽ thống nhất của
các cơ quan Nhà nước, sự ủng hộ và tham gia tích cực của các tổ chức xã hội, của
toàn thể nhân dân và được thực hiện bằng những kế hoạch cụ thể, chi tiết, với sự
tham gia của các cơ quan chuyên môn. Việc xây dựng chương trình phòng ngừa tội
phạm kinh tế cũng cần phải được thực hiện trên cơ sở các đặc điểm kinh tế, tâm lý
xã hội và các đặc điểm truyền thống của từng vùng, miền của từng địa phương.
Dựa trên khái niệm phòng ngừa tội phạm nói chung và các đặc điểm riêng có
của hoạt động phòng ngừa tội phạm kinh tế, có thể hiểu: Phòng ngừa tội phạm kinh
tế là tổng thể các hoạt động, biện pháp nghiệp vụ của lực lượng Cảnh sát kinh tế
tiến hành theo quy định của pháp luật, của ngành Công an, có sự tham gia và phối
hợp chặt chẽ với nhiều cơ quan chức năng, tổ chức xã hội và công dân, nhằm mục
đích ngăn chặn tội phạm, loại trừ những nguyên nhân, điều kiện phát sinh tội
phạm; đồng thời hạn chế tối đa thiệt hại khi tội phạm xảy ra, không để tội phạm
tiếp diễn hoặc tái phạm.[6, tr. 45]
Như vậy, dựa vào khái niệm trên và thực tiễn công tác phòng ngừa, đấu tranh
với các loại tội phạm kinh tế, có thể thấy phòng ngừa tội phạm kinh tế có những đặc
điểm sau:
- Lực lượng Cảnh sát kinh tế được xác định là chủ thể trong công tác đấu
tranh phòng, chống tội phạm về kinh tế:

21


×