Tải bản đầy đủ (.pdf) (78 trang)

Dịch vụ công tác xã hội trong chăm sóc sức khỏe sinh sản đối với phụ nữ người dân tộc thiểu số từ thực tiễn huyện đức cơ, tỉnh gia lai

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (727.72 KB, 78 trang )

VIỆN HÀN LÂM
KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM
HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI

BÙI THỊ TÌNH

DỊCH VỤ CÔNG TÁC XÃ HỘI TRONG CHĂM SÓC SỨC KHỎE
SINH SẢN ĐỐI VỚI PHỤ NỮ NGƯỜI DÂN TỘC THIỂU SỐ
TỪ THỰC TIỄN HUYỆN ĐỨC CƠ, TỈNH GIA LAI

Chuyên ngành: Công tác xã hội
Mã số: 60 90 01 01

LUẬN VĂN THẠC SĨ CÔNG TÁC XÃ HỘI

Người hướng dẫn khoa học: PGS.TS. Phạm Hữu Nghị

HÀ NỘI, 2016


LỜI CAM ĐOAN

Tôi xin cam đoan kết quả nghiên cứu trong luận văn Thạc sĩ Công tác xã hội
về “Dịch vụ công tác xã hội trong chăm sóc sức khỏe sinh sản đối với phụ nữ
người dân tộc thiểu số từ thực tiễn huyện Đức Cơ, tỉnh Gia Lai” là công trình
nghiên cứu của cá nhân tôi, được thực hiện dưới sự hướng dẫn khoa học của
PGS.TS. Phạm Hữu Nghị.
Các số liệu, những kết luận nghiên cứu được trình bày trong luận văn này
trung thực.
Tôi xin chịu trách nhiệm về nghiên cứu của mình.
Học viên



Bùi Thị Tình


MỤC LỤC
MỞ ĐẦU ...................................................................................................................... 1
Chương 1: NHỮNG VẤN ĐỀ LÍ LUẬN VỀ DỊCH VỤ CÔNG TÁC XÃ HỘI
TRONG CHĂM SÓC SỨC KHỎE SINH SẢN ĐỐI VỚI PHỤ NỮ NGƯỜI
DÂN TỘC THIỂU SỐ ................................................................................................ 8
1.1. Khái niệm về chăm sóc sức khỏe sinh sản đối với phụ nữ người dân tộc
thiểu số ................................................................................................................. 8
1.2. Lý luận về dịch vụ công tác xã hội trong chăm sóc sức khỏe sinh sản đối
với phụ nữ người dân tộc thiểu số ....................................................................... 10
1.3. Thể chế về dịch vụ công tác xã hội trong chăm sóc sức khỏe sinh sản cho
phụ nữ người dân tộc thiểu số ............................................................................. 23
1.4. Các yếu tố ảnh hưởng đến dịch vụ công tác xã hội trong chăm sóc sức
khỏe sinh sản cho phụ nữ người dân tộc thiểu số ................................................ 28
Chương 2: THỰC TRẠNG DỊCH VỤ CÔNG TÁC XÃ HỘI TRONG CHĂM
SÓC SỨC KHOẺ SINH SẢN ĐỐI VỚI PHỤ NỮ NGƯỜI DÂN TỘC THIỂU
SỐ TẠI HUYỆN ĐỨC CƠ, TỈNH GIA LAI ............................................................ 34
2.1. Tình hình kinh tế, văn hóa, xã hội huyện Đức Cơ, tỉnh Gia Lai ảnh
hưởng đến dịch vụ công tác xãn hội trong chăm sóc sức khỏe sinh sản đối với
phụ nữ người dân tộc thiểu số ............................................................................. 34
2.2. Thực trạng dịch vụ công tác xã hội trong chăm sóc sức khỏe sinh sản của
phụ nữ người dân tộc thiểu số tại huyện Đức Cơ, tỉnh Gia lai ............................ 36
2.3. Ứng dụng công tác xã hội nhóm trong chăm sóc sức khỏe sinh sản đối
với phụ nữ người dân tộc thiểu số huyện Đức Cơ, tỉnh Gia Lai ......................... 42
Chương 3: ĐỊNH HƯỚNG VÀ GIẢI PHÁP NHẰM NÂNG CAO HIỆU QUẢ
DỊCH VỤ CÔNG TÁC XÃ HỘI TRONG CHĂM SÓC SỨC KHỎE SINH
SẢN ĐỐI VỚI PHỤ NỮ NGƯỜI DÂN TỘC THIỂU SỐ ....................................... 54

3.1. Định hướng nâng cao hiệu quả dịch vụ công tác xã hội trong chăm sóc
sức khỏe sinh sản đối với phụ nữ người dân tộc thiểu số .................................... 54
3.2. Giải pháp nâng cao hiệu quả dịch vụ công tác xã hội trong chăm sóc sức
khỏe sinh sản đối với phụ nữ người dân tộc thiểu số .......................................... 55
KẾT LUẬN .................................................................................................................. 63
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO ................................................................... 65
PHỤ LỤC ..................................................................................................................... 67


DANH MỤC CÁC BẢNG

Bảng 1: Trình độ học vấn của phụ nữ người dân tộc thiểu số
Bảng 2: Sử dụng dịch vụ
Bảng 3: Dịch vụ sinh đẻ
Bảng 4: Dịch vụ kế hoạch hóa
Bảng 5: Dịch vụ khám phụ khoa
Bảng 6: Nhu cầu sử dụng dịch vụ chăm sóc sức khỏe sinh sản


DANH MỤC CÁC TỪ VIẾT TẮT

Viết tắt

Viết đầy đủ

CTXH

Công tác xã hội

CSSKSS


Chăm sóc sức khỏe sinh sản

KHHGĐ

Kế hoạch hóa gia đình

SKSS

Sức khỏe sinh sản

SDD

Suy dinh dưỡng

SKTE

Sức khỏe trẻ em

LTQĐTD

Lây truyền qua đường tình dục


MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Trong bối cảnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước và hội nhập quốc tế
thì nguồn nhân lực là một trong những yếu tố quyết định sự phát triển của đất nước.
Đầu tư cho nguồn lực là nguồn đầu tư mang lại lợi ích cao nhất và mang tính bền
vững nhất. Trong thời gian qua, Đảng và Nhà nước ta đã ban hành nhiều chính sách

nhằm phát triển nguồn lực con người, trong đó chăm sóc sức khỏe sinh sản cho phụ
nữ vùng sâu, vùng xa luôn là vấn đề được Đảng và Nhà nước ta quan tâm.
Trong quá trình phát triển kinh tế - xã hội của đất nước, Đảng và nhà nước ta
đã có nhiều chính sách ưu tiên nhằm nâng cao đời sống, sức khỏe cho đồng bào các
dân tộc thiểu số ở vùng sâu, vùng xa cũng như đẩy mạnh sự phát triển toàn diện
vùng miền núi, hải đảo.
Tăng cường chăm sóc sức khỏe cho phụ nữ và trẻ em cả nước nói chung, cho
miền núi, hải đảo, vùng sâu vùng xa nói riêng đang là một vấn đề ưu tiên trong
chiến lược chăm sóc sức khỏe cộng đồng. Những nỗ lực trong việc triển khai các
chiến lược quốc gia cũng như các chương trình y tế đã đem lại những cơ hội khả
quan cho việc chăm sóc sức khỏe cho phụ nữ. Tuy nhiên trong thực tế, không thể có
sự phát triển đồng đều giữa các vùng: miền xuôi và miền núi, nông thôn và thành
thị, hải đảo và đất liền.
Chăm sóc sức khỏe sinh sản là một trong những mục tiêu và là nội dung công
tác quan trọng của Ủy ban dân số Gia đình và Trẻ em của Tổng cục Dân số - Kế
hoạch hóa gia đình. Đối với chiến lược dân số - kế hoạch hóa gia đình, chăm sóc
sức khỏe sinh sản là một bộ phận tối quan trọng. Nó có vai trò quyết định tới sự
thành công hay thất bại của chiến lược quốc gia này.
Tuy nhiên, ở mỗi địa phương, ở mỗi vùng và ở mỗi dân tộc khác nhau, công
tác dân số - kế hoạch hóa gia đình cũng khác nhau, kết quả thu được ở mỗi vùng,
mỗi tộc người cũng khác nhau.

1


Ở miền núi do điều kiên tự nhiên và xã hội có nhiều khó khăn như giao thông
đi lại khó khăn, các dịch vụ sức khỏe và thuốc men, trang thiết bị y tế còn thiếu, do
trình độ dân trí còn thấp (đặc biệt là phụ nữ) đã làm cho cơ hội chăm sóc sức khỏe
cho bà mẹ và trẻ em bị hạn chế. Đặc biệt ở vùng sâu, vùng xa, có mức sinh cao và
phong tục tập quán lạc hậu là những nguyên nhân gây nên tình trạng tử vong của sản

phụ và trẻ sơ sinh hoặc là ảnh hưởng lớn đến sức khỏe bà mẹ và trẻ em sau này. Bên
cạnh đó ở khu vực này hệ thống chăm sóc y tế và dịch vụ cung cấp các biện pháp
tránh thai tại đây còn có một khoảng cách khá xa so với tình hình chung của cả nước.
Mục tiêu giảm quy mô dân số của chương trình dân số thực hiện tại nơi này còn gặp
nhiều khó khăn, do vậy, những vấn đề liên quan đến nâng cao chất lượng dịch vụ
chăm sóc sức khỏe sinh sản đang là vấn đề đòi hỏi phải giải quyết lâu dài.
Trên thực tế thì có rất nhiều dịch vụ chăm sóc sức khỏe sinh sản cho phụ nữ,
tuy nhiên các dịch vụ này chưa mang tính bền vững, chưa làm cho chị em phụ nữ
nhận thấy được tầm quan trọng của việc chăm sóc sức khỏe sinh sản cho bản thân
mình, họ còn nghiêng về tuân theo những tập tục lạc hậu làm ảnh hưởng đến tính
bền vững của dân số nước ta.
Huyện Đức Cơ, tỉnh Gia Lai là một trong những huyện vùng biên giới, đời
sống của người dân hiện nay còn gặp nhiều khó khăn, đặc biệt là đồng bào người
dân tộc thiểu số chưa có điều kiện để tiếp cận với các dịch vụ chăm sóc sức khỏe,
đặc biệt là chăm sóc sức khỏe sinh sản ở phụ nữ.
Vì vậy, dựa trên thực tiễn xã hội, tôi chọn đề tài “Dịch vụ công tác xã hội trong
chăm sóc sức khỏe sinh sản đối với phụ nữ người dân tộc thiểu số từ thực tiễn
huyện Đức Cơ, tỉnh Gia Lai” làm luận văn ngành Công tác xã hội của mình.
2. Tình hình nghiên cứu đề tài
Nghiên cứu về chăm sóc sức khỏe sinh sản, được tiến hành rất sớm trên thế
giới, chủ yếu ở các quốc gia phát triển như Mỹ và Châu Âu. Ở Việt Nam, do chịu
ảnh hưởng mạnh mẽ của nền văn hóa phương Đông, đặc biệt là nho giáo, cho nên
các vấn đề sinh sản, tình dục, quan hệ nam nữ rất ít được đề cập đến. Vì vậy, có thể
nói, nghiên cứu về sức khỏe sinh sản là lĩnh vực mới được nghiên cứu ở nước ta.

2


Nghị quyết Hội nghị lần thứ IV của Ban chấp hành Trung ương Đảng khóa
VII, trên cơ sở đặt “ Công tác dân số kế hoạch hóa gia đình là một bộ phận quan

trọng của chiến lược phát triển đất nước”, vấn đề này được coi như là một trong
những vấn đề kinh tế - xã hội hàng đầu, một yếu tố cơ bản để nâng cao chất lượng
cuộc sống của từng người, từng gia đình và toàn xã hội.
Trong cuốn sách: “Phụ nữ, sức khỏe và môi trường” (Trung tâm nghiên cứu
Giới, gia đình và Môi trường trong phát triển) do nhà xuất bản chính trị quốc gia xuất
bản năm 2001 đã tập trung nghiên cứu vào vấn đề mối liên quan điều kiện, môi trường
làm việc với sức khỏe lao động nữ, đặc biệt quan tâm nghiên cứu sức khỏe sinh sản của
phụ nữ, nghiên cứu nhận thức, thái độ, hành vi phòng ngừa bảo vệ sức khỏe nói chung,
sức khỏe sinh sản nói riêng của phụ nữ.
Một công trình nghiên cứu đáng chú ý là “Phân tích tình hình phụ nữ và trẻ em
của UNICEP” đã phản ánh tình hình kinh tế xã hội của Việt Nam có ảnh hưởng đến hệ
thống chăm sóc sức khỏe và tình trạng sức khỏe của phụ nữ và trẻ em Việt Nam.
Tại Hội nghị dân số thế giới Cario (Ai Cập) và hội nghị phụ nữ thế giới lần
thứ tư được tổ chức ở Bắc Kinh (Trung Quốc) các đại biểu của nhiều quốc gia đã
nhất trí cho rằng bình đẳng giới và vấn đề về sức khỏe sinh sản của phụ nữ có mối
liên hệ mật thiết với nhau. Đây là một trong những vấn đề then chốt để đánh giá
những tiến bộ của từng quốc gia đối với vấn đề phụ nữ.
Thông tư liên tịch số 07/2016/TTTLT-BYT-BTC-BLĐTBXH ngày
15/04/2016 QUY định chi tiết nghị định số 39/2015/NĐ-CP ngày 27/04/2015 của
Chính phủ quy định chính sách hỗ trợ cho phụ nữ thuộc hộ nghèo là người dân tộc
thiểu số khi sinh con đúng chính sách dân số.
Từ những tài liệu trên, cũng đã đề cập các vấn đề chăm sóc sức khỏe sinh sản
cho phụ nữ. Đây là nguồn tài liệu tham khảo hữu ích đối với tôi trong quá trình thực
hiện luận văn. Tuy nhiên, những tài liệu trên chỉ nói về vấn đề chăm sóc sức khỏe sinh
sản cho phụ nữ nói chúng mà chưa nói đến vấn đề về dịch vụ công tác xã hội trong
chăm sóc sức khỏe sinh sản cho phụ nữ người dân tộc thiểu số.

3



3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
3.1. Mục đích nghiên cứu
Luận văn có mục đích làm sáng tỏ những vấn đề lý luận và thực tiễn về dịch
vụ công tác xã hội trong chăm sóc sức khỏe sinh sản đối với phụ nữ người dân tộc
thiểu số. Từ đó đưa ra định hướng và đề xuất giải pháp nâng cao chất lượng dịch vụ
công tác xã hội trong chăm sóc sức khỏe sinh sản cho phụ nữ người dân tộc thiểu số.
3.2. Nhiệm vụ nghiên cứu
Để đạt được mục đích nêu trên, luận văn cần giải quyết các nhiệm vụ sau đây:
- Làm sáng tỏ các khái niệm chăm sóc sức khỏe sinh sản, chăm sóc sức khỏe
sinh sản cho phụ nữ người dân tộc thiểu số; dịch vụ công tác xã hội trong chăm sóc
sức khỏe sinh sản cho phụ nữ người dân tộc thiểu số.
- Nghiên cứu lý luận về dịch vụ công tác xã hội trong chăm sóc sức khỏe sinh
sản cho phụ nữ người dân tộc thiểu số.
- Phân tích, đánh giá thực trạng dịch vụ công tác xã hội trong chăm sóc sức
khỏe sinh sản cho phụ nữ người dân tộc thiểu số tại huyện Đức Cơ, tỉnh Gia Lai.
- Nêu định hướng và đề xuất giải pháp nâng cao chất lượng dịch vụ công tác
xã hội trong chăm sóc sức khỏe sinh sản cho phụ nữ người dân tộc thiểu số.
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
4.1. Đối tượng nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu là dịch vụ công tác xã hội trong chăm sóc sức khỏe
sinh sản đối với phụ nữ người dân tộc thiểu số.
4.2. Khách thể nghiên cứu
Phụ nữ người dân tộc thiểu số sống trên địa bàn huyện Đức Cơ, tỉnh Gia Lai.
Cán bộ, công chức, viên chức thuộc chính quyền địa phương và các đoàn thể.
4.3. Phạm vi nghiên cứu
Nội dung nghiên cứu: Dịch vụ Công tác xã hội trong chăm sóc sức khỏe
sinh sản đối với phụ nữ người dân tộc thiểu số.
Thời gian thực hiện nghiên cứu: Từ tháng 2- 2016 đến tháng 8-2016.

4



Địa bàn nghiên cứu: Nghiên cứu được tiến hành trên địa bàn huyện Đức Cơ,
tỉnh Gia Lai.
5. Phương pháp luận và phương pháp nghiên cứu
5.1. Phương pháp luận
Nghiên cứu vấn đề lý luận theo quan điểm hệ thống: nghiên cứu hệ thống
những lý thuyết có liên quan trực tiếp đến đề tài, hệ thống các yếu tố có liên quan
đến CTXH đối với phụ nữ người dân tộc thiểu số, CTXH trong thực hiện dịch vụ
chăm sóc sức khỏe sinh sản đối với phụ nữ người dân tộc thiểu số.
5.2. Phương pháp nghiên cứu
5.2.1. Phương pháp phân tích tài liệu
Phương pháp phân tích tài liệu thứ cấp là phương pháp nghiên cứu dựa trên
các tư liệu, các văn bản, các tác phẩm (sách, báo, công trình nghiên cứu,…) liên
quan nhằm phục vụ cho quá trình nghiên cứu.
Trong quá trình nghiên cứu tôi sử dụng phương pháp phân tích tài liệu để:
+ Đọc, tìm hiểu và phân tích, đánh giá các tài liệu liên quan đến dịch vụ
chăm sóc sức khỏe sinh sản đối với phụ nữ người dân tộc thiểu số.
+ Đọc và phân tích các tài liệu, báo cáo của các cấp chính quyền địa phương
có liên quan đến đề tài.
5.2.2. Phương pháp thu thập thông tin
- Phương pháp điều tra bằng bảng hỏi.
Đây là phương pháp dùng trong điều tra xã hội học thực nghiệm. Là phương
pháp có thể thu thập được một lượng thông tin lớn mang tính đại chúng trong quá
trình điều tra và thu thập thông tin.
Với đề tài này, tôi đã lập ra một bảng hỏi anket với các chỉ báo, các con số định
lượng để thu thập thông tin từ các chị em phụ nữ người dân tộc thiểu số.
- Phương pháp phỏng vấn sâu.
Phương pháp phỏng vấn sâu là phương pháp thu thập thông tin cụ thể của xã
hội học thông qua việc tác động vào tâm lí xã hội trực tiếp giữa người đi hỏi và


5


người được hỏi nhằm thu thập những thông tin phù hợp với mục đích và nhiệm vụ
nghiên cứu của đề tài.
Đề tài tiến hành phỏng vấn sâu cán bộ dân số, cán bộ, nhân viên y tế ở các
trạm y tế trực thuộc xã.
- Phương pháp quan sát.
Kết hợp trong quá trình phỏng vấn.
Quan sát là phương pháp thu thập thông tin thực nghiệm mà thông qua các tri
giác nghe, nhìn để thu thập thông tin về các quá trình, các hiện tượng xã hội trên cơ
sở nghiên cứu của đề tài và mục đích của cuộc nghiên cứu.
Với đề tài này, tôi chú trọng quan sát đến cách ứng xử của chị em trong các
tình huống mà tôi đặt ra để có cái nhìn khách quan, sinh động về vấn đề nghiên cứu.
5.2.3. Phương pháp xử lí số liệu
Phương pháp xử lí số liệu thống kê: Sử dụng phần mềm SPSS.
Mục đích: Khai thác có hiệu quả các số liệu sau khi thực hiện bảng hỏi; rút ra
được những nhận xét, kết luận khoa học khách quan đối với vấn đề nghiên cứu.
5.2.4. Cách thức chọn mẫu
Địa bàn tác giả tiến hành phỏng vấn gồm có 4 địa điểm và được chia đều mẫu
ra làm 4 nơi, tương ứng với 4 xã trên địa bàn huyện Đức Cơ, tỉnh Gia Lai.
Tổng số phiếu điều tra mà tác giả tiến hành khảo sát là 300 đối tượng chị em
phụ nữ người dân tộc thiểu số.
6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của luận văn
6.1. Ý nghĩa lý luận
Đề tài góp phần vào việc ứng dụng các lí thuyết như: Thuyết hệ thống sinh
thái, thuyết vai trò, thuyết nhu cầu, thuyết về quyền con người, thuyết nhận thức –
hành vi con người và môi trường xã hội vào việc nghiên cứu để nghiên cứu đề tài
dịch vụ công tác xã hội trong chăm sóc sức khỏe sinh sản đối với phụ nữ người

dân tộc thiểu số.

6


Kết quả nghiên cứu của đề tài có thể được tham khảo đối với các cơ sở
nghiên cứu, đào tạo về công tác xã hội, đặc biệt là công tác xã hội trong lĩnh vực
chăm sóc sức khỏe sinh sản cho phụ nữ.
6.2. Ý nghĩa thực tiễn
Đề tài làm sáng tỏ thực trạng dịch vụ công tác xã hội trong chăm sóc sức
khỏe sinh sản đối với phụ nữ người dân tộc thiểu số, qua đó có thể thấy được nhu
cầu sử dụng dịch vụ công tác xã hội trong chăm sóc sức khỏe sinh sản của phụ nữ
người dân tộc thiểu số hiện nay.
Các kiến nghị của đề tài sẽ góp phần vào việc nâng cao hiệu quả dịch vụ
công tác xã hội trong chăm sóc sức khỏe sinh sản đối với phụ nữ người dân tộc
thiểu số.
7. Cơ cấu của luận văn
Nội dung gồm có 3 chương:
Chương 1: Những vấn đề lí luận về dịch vụ công tác xã hội trong chăm sóc
sức khỏe đối với phụ nữ người dân tộc thiểu số.
Chương 2: Thực trạng dịch vụ công tác xã hội trong chăm sóc sức khỏe sinh
sản đối với phụ nữ người dân tộc thiểu số tại huyện Đức Cơ, tỉnh Gia Lai.
Chương 3: Định hướng và giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả dịch vụ công
tác xã hội trong chăm sóc sức khỏe sinh sản đối với phụ nữ người dân tộc thiểu số.

7


Chương 1
NHỮNG VẤN ĐỀ LÍ LUẬN VỀ DỊCH VỤ CÔNG TÁC XÃ HỘI

TRONG CHĂM SÓC SỨC KHỎE SINH SẢN ĐỐI VỚI PHỤ NỮ
NGƯỜI DÂN TỘC THIỂU SỐ
1.1. Khái niệm về chăm sóc sức khỏe sinh sản đối với phụ nữ người dân
tộc thiểu số
 Khái niệm phụ nữ người dân tộc thiểu số
Phụ nữ/nữ giới là một khái niệm chung để chỉ một người, một nhóm người
hay toàn bộ những người trong xã hội mà một cách tự nhiên, mang những đặc điểm
giới tính được xã hội thừa nhận về khả năng mang thai và sinh nở khi cơ thể họ
hoàn thiện và chức năng giới tính hoạt động bình thường [21].
Dân tộc “thiểu số” là những dân tộc có số dân ít hơn so với dân tộc đa số trên
phạm vi lãnh thổ nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam [21].
Như vậy, phụ nữ người dân tộc thiểu số là khái niệm chung chỉ nữ giới một
dân tộc, một nhóm dân tộc có số dân ít hơn so với dân tộc đa số trên phạm vi lãnh
thổ nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam. Phụ nữ người dân tộc thiểu số cũng
mang những đặc điểm giới tính được xã hội thừa nhận về khả năng mang thai và
sinh nở khi cơ thể họ hoàn thiện và chức năng giới tính hoạt động bình thường.
 Khái niệm về sức khỏe
Từ xưa tới nay người ta thường quan niệm rằng sức khỏe có nghĩa là cơ thể
không có bệnh tật và ngành y tế là ngành chữa bệnh.
Theo quan điểm của chủ tịch Hồ Chí Minh thì sức khỏe bao gồm sự lành
mạnh cả về thể xác lẫn tinh thần. Người định nghĩa “Ngày nào cũng tập thể dục thì
khí huyết lưu thông, tinh thần đầy đủ, như vậy là sức khỏe”.
Tổ chức Y tế thế giới (WHO) đã nhấn mạnh đến khái niệm sức khỏe và đã đưa
ra một định nghĩa về sức khỏe là “một trạng thái thoải mái, đầy đủ về thể chất, tâm
thần và xã hội, sức khỏe không bó hẹp vào nghĩa không có bệnh hay thương tật”.

8


Khái niệm này được xây dựng trên quan điểm dự phòng, sức khỏe là yếu tố

cơ bản ảnh hưởng đến đời sống sinh hoạt, lao động, học tập của con người, ảnh
hưởng tới đời sống hoạt động sản xuất vật chất, tinh thần, sản xuất nòi giống của xã
hội. Không có sức khỏe thì không thể lao động có năng suất cao, ngược lại sức khỏe
phụ thuộc vào nhiều yếu tố. Nó là khái niệm tổng hợp, đòi hỏi sự tham gia, đóng
góp của toàn xã hội và sự tham gia của bản thân mỗi cá nhân, của mỗi cộng đồng
nhất định. Mỗi cá nhân phải có kiến thức, hiểu biết để hành động và ứng xử hợp lí,
tạo ra sức khỏe cho bản thân và gia đình.
Tại Hội nghị Alma- Ata năm 1978 của Tổ chức Y tế thế giới đưa ra định
nghĩa về sức khỏe như sau:“Sức khỏe là một tình trạng hoàn toàn thoải mái về thể
chất, tâm thần và xã hội biểu hiện không chỉ qua việc không mắc bệnh hoặc không
ốm yếu”.
 Khái niệm về sức khỏe sinh sản
Hội nghị quốc tế về dân số và phát triển ICPD tại Cairo (Ai Cập) 1994 đã
đưa ra định nghĩa về sức khỏe sinh sản như sau: “Sức khỏe sinh sản là một tình
trạng thoải mái hoàn toàn về thể chất, tinh thần và xã hội của tất cả những gì liên
quan tới hoạt động và chức năng của bộ máy sinh sản chứ không chỉ đơn thuần là
không có bệnh tật hoặc tàn phế trong bộ máy đó”. Điều này hàm ý là mọi người kể
cả nam và nữ đều có quyền nhận được thông tin và tiếp cận các dịch vụ chăm sóc
sức khỏe, các biện pháp KHHGĐ an toàn, hiệu quả, dễ dàng và thích hợp tùy theo
sự lựa chọn của họ đảm bảo cho phụ nữ trải qua thai nghén và sinh đẻ an toàn, tạo
cho các cặp vợ chồng những điều kiện tốt nhất để có những đứa con khỏe mạnh.
Cũng trong chương trình hành động của hội nghị đã nêu rõ: “SKSS là trạng
thái sung mãn hoàn toàn về thể chất, tinh thần, xã hội và không chỉ là không có
bệnh tật hay không bị tàn phế về tất cả những gì liên quan tới hệ thống, chức phận
và quá trình sinh sản”. Như thế, SKSS có nghĩa là mọi người có thể có cuộc sống’
tình dục an toàn hài lòng, họ có khả năng sinh sản, tự do quyết định sinh con hay
không, sinh con khi nào và sinh bao nhiêu con.
 Khái niệm chăm sóc sức khỏe sinh sản

9



Theo Hội nghị Y tế thế giới Alma- Ata thì chăm sóc sức khỏe là những chăm
sóc thiết yếu với kĩ thuật thích hợp được mang tới cho mỗi người trong mọi gia
đình, được cộng đồng chấp nhận và tham gia với những chi phí rẻ nhất. Do đó,
chăm sóc sức khỏe, là sự thường xuyên quan tâm làm một việc nào đó, chăm sóc
sức khỏe chính là hoạt động thường xuyên, liên tục để đạt đến một trạng thái hoàn
hảo về sức khỏe, đó là sự sảng khoái về thể chất, tinh thần và các quan hệ xã hội.
Hoạt động này có thể là tự bản thân chăm sóc hoặc là sự quan tâm, giúp đỡ của
người khác.
Trong Hội nghị Alma- Ata cũng đã nêu ra khái niệm về chăm sóc sức khỏe
ban đầu như sau: “Chăm sóc sức khỏe ban đầu là những sự chăm sóc thiết yếu xây
dựng trên những phương pháp và kĩ thuật thực hành, có cơ sở khoa học và chấp
nhận được về mặt xã hội; có thể phổ biến rộng rãi cho tất cả các cá nhân và gia đình
của cộng đồng xã hội cùng tham gia đầy đủ với một giá mà cộng đồng nước đó có
thể chịu đựng được ở một giai đoạn phát triển của họ và theo tinh thần tự giác, tự
nguyện”.
Chăm sóc sức khỏe sinh sản là một tổng thể các biện pháp, kĩ thuật và dịch
vụ góp phần nâng cao sức khỏe và hạnh phúc bằng cách phòng ngừa và giải quyết
những vấn đề về sức khỏe sinh sản, nó bao gồm: sức khỏe tình dục với mục đích đề
cao cuộc sống và các mối quan hệ riêng tư, tư vấn, chăm sóc liên quan đến vấn đề
sinh sản và các bệnh lây truyền qua đường tình dục.
Như vậy, chăm sóc sức khỏe sinh sản đối với phụ nữ người dân tộc thiểu số là
quá trình sử dụng các biện pháp, kĩ thuật và dịch vụ góp phần nâng cao, phòng ngừa
và giải quyết các vấn đề về sức khỏe sinh sản cho phụ nữ người dân tộc thiểu số.
1.2. Lý luận về dịch vụ công tác xã hội trong chăm sóc sức khỏe sinh sản
đối với phụ nữ người dân tộc thiểu số
Là con người xã hội, mỗi người đều có những nhu cầu, nhu cầu về vật chất
và nhu cầu về tinh thần. Các nhu cầu của con người thường đa dạng, phong phú và
phát triển. Nhu cầu của con người phản ánh mong muốn chủ quan hoặc khách quan

tùy theo hoàn cảnh sống, yếu tố văn hóa, nhận thức và vị trí xã hội của họ.

10


Theo thuyết nhu cầu của A.Maslow [14, tr.162], con người là một thực thể
sinh – tâm lí xã hội. Do đó, con người có nhu cầu cá nhân cần cho sự sống ( nhu cầu
về sinh học) và nhu cầu về xã hội. Theo đó, ông chia nhu cầu con người thành năm
thang bậc từ thấp đến cao:
Nhu cầu sống còn, nhu cầu an toàn, nhu cầu thuộc vào một nhóm nào đó, nhu
cầu được tôn trọng, nhu cầu được hoàn thiện.
Thuyết nhu cầu của A.Maslow làm căn cứ cho việc nhận định những nhu cầu
của con người nói chung. Tuy nhiên, đối với mỗi đối tượng cụ thể nhất là đối với
từng cá nhân cụ thể lại có những nhu cầu khác nhau, vì họ là những cá thể độc lập
với những đặc điểm riêng, nằm trong bối cảnh khác nhau.
Vận dụng lí thuyết nhu cầu của A.Maslow trong nghiên cứu tôi tìm hiểu nhu
cầu của phụ nữ người dân tộc thiểu số về dịch vụ công tác xã hội trong chăm sóc
sức khỏe sinh sản.
Xác định những nhu cầu đó như sau:
- Nhu cầu về thể chất:
Khám chữa bệnh: Khám và chữa bệnh liên quan đến bệnh phụ khoa.
Khám thai sản định kì.
Phòng chống lây nhiễm các bệnh qua đường tình dục.
Được cung cấp đầy đủ các loại thuốc uống.
Các biện pháp kế hoạch hóa gia đình.
- Nhu cầu về tinh thần:
Được chia sẻ những khó khăn, căng thẳng trong cuộc sống hôn nhân vợ
chồng.
Chia sẻ, động viên trong quá trình sinh đẻ.
Được tư vấn về các biện pháp kế hoach hóa gia đình, tư vấn tâm lí cho các

chị em phụ nữ trong quá trình mang thai, sau sinh.
Hỗ trợ tinh thần cho các chị em phụ nữ khi mắc các bệnh phụ khoa, bị vô
sinh.
Tư vấn cho chị em phụ nữ cách phòng, chữa bệnh vô sinh.

11


Được tham gia sinh hoạt nhóm, nhằm chia sẻ những kinh nghiệm về chăm
sóc sức khỏe của mình, rèn luyện các kĩ năng tự tin trình bày trước đám đông về
vấn đề sức khỏe sinh sản, được trang bị những kĩ năng để có thể tự chăm sóc cho
mình khi có những vấn đề xảy ra.
1.2.1. Khái niệm dịch vụ công tác xã hội trong chăm sóc sức khỏe sinh sản
đối với phụ nữ người dân tộc thiểu số
 Khái niệm dịch vụ
Theo Từ điển Tiếng Việt, dịch vụ là công việc phục vụ trực tiếp cho những
nhu cầu nhất định của số đông, có tổ chức và được trả công [22].
Định nghĩa về dịch vụ trong kinh tế học được hiểu là những thứ tương tự như
hàng hoá nhưng phi vật chất. Theo quan điểm kinh tế học, bản chất của dịch vụ là
sự cung ứng để đáp ứng nhu cầu như: dịch vụ du lịch, thời trang, chăm sóc sức
khoẻ…và mang lại lợi nhuận.
Philip Kotler định nghĩa dịch vụ: Dịch vụ là một hoạt động hay lợi ích cung ứng
nhằm để trao đổi, chủ yếu là vô hình và không dẫn đến việc chuyển quyền sở hữu. Việc
thực hiện dịch vụ có thể gắn liền hoặc không gắn liền với sản phẩm vật chất.
Tóm lại, có nhiều khái niệm về dịch vụ được phát biểu dưới những góc độ
khác nhau nhưng tựu chung thì:
Dịch vụ là hoạt động có chủ đích nhằm đáp ứng nhu cầu nào đó của con
người. Đặc điểm của dịch vụ là không tồn tại ở dạng sản phẩm cụ thể (hữu hình)
như hàng hoá nhưng nó phục vụ trực tiếp nhu cầu nhất định của xã hội.
 Khái niệm dịch vụ xã hội

Dịch vụ xã hội là hoạt động cung cấp, đáp ứng nhu cầu cho các cá nhân,
nhóm người nhất định nhằm bảo đảm các giá trị và chuẩn mực xã hội [22].
 Công tác xã hội
Công tác xã hội là một nghề chuyên môn thông qua các dịch vụ xã hội nhằm
giúp đỡ cá nhân, nhóm, cộng đồng phục hồi hay tăng cường chức năng xã hội góp
phần đảm bảo nền an sinh xã hội [15].

12


 Khái niệm dịch vụ công tác xã hội trong chăm sóc sức khỏe sinh sản
Dịch vụ chăm sóc sức khỏe sinh sản được xem như là tập hợp các phương
pháp tư vấn, kỹ thuật, dịch vụ tham gia vào bảo đảm sức khỏe sinh sản thông qua
phương pháp dự phòng và giải quyết các vấn đề sức khỏe sinh sản. Dịch vụ chăm
sóc sức khỏe sinh sản còn bao hàm cả những vấn đề đảm bảo cuộc sống tình dục
lành mạnh, an toàn và hòa hợp. Hệ thống cung cấp dịch vụ chăm sóc sức khỏe sinh
sản được thực hiện ở các tuyến bao gồm 7 nội dung sau:
Về kế hoạch hóa gia đình: Thực hiện đa dạng hóa các biện pháp tránh thai,
cung cấp rộng rãi các biện pháp tránh thai mới, đồng thời cung cấp đầy đủ bao cao
su để kết hợp phòng chống các bệnh lây truyền qua đường tình dục, kể cả
HIV/AIDS.
Đảm bảo cung cấp các dịch vụ chăm sóc các bà mẹ trước, trong và sau khi
sinh, chăm sóc sơ sinh trẻ em. Chú trọng chăm sóc sau sinh để giúp bà mẹ phòng
chống các bệnh tật sau sinh, hướng dẫn cách nuôi con, đồng thời tư vấn về
KHHGĐ.
Thực hành nạo phá thai an toàn, chăm sóc tư vấn sau phá thai xử lý tốt các 12
biến chứng nếu có.
Dự phòng và điều trị các bệnh nhiễm khuẩn đường sinh sản thông thường,
các bệnh lây truyền qua đường tình dục, HIV/AIDS. Tổ chức các đội lưu động để
phát hiện và điều trị các bệnh nhiễm khuẩn đường sinh sản, lây truyền qua đường

tình dục tại vùng sâu, vùng xa, vùng cao, vùng khó khăn.
Phát hiện và điều trị sớm các ung thư đường sinh sản. Đảm bảo chăm sóc
SKSS người cao tuổi.
Dự phòng và điều trị vô sinh thông qua việc phát hiện và điều trị sớm các
bệnh liên quan đến vô sinh như các bệnh nhiễm khuẩn đường sinh sản và lây truyền
qua đường tình dục.
Chăm sóc SKSS vị thành niên: Tổ chức các điểm hoặc trung tâm tư vấn gắn với
cung cấp các dịch vụ chăm sóc SKSS vị thành niên phù hợp với đặc điểm tâm lý và
gần gũi, đáng tin cậy để hướng dẫn cũng như giải quyết các vấn đề về chuyên môn như

13


cung cấp các phương tiện tránh thai thích hợp, bao cao su phòng chống các bệnh lây
truyền qua đường tình dục, nạo phá thai an toàn.
Chương trình chăm sóc sức khỏe sinh sản gồm nhiều nội dung, do vậy chất
lượng dịch vụ sức khỏe sinh sản sẽ được thiết kế theo hướng thoả mãn nhu cầu của
khách hàng; nhu cầu đó ngày một tăng thêm cho nên chất lượng dịch vụ cũng phải
không ngừng tăng lên và phải xuất phát từ mong muốn của người sử dụng dịch vụ.
Nhiều nghiên cứu cho thấy, có khoảng cách giữa người cung cấp và người sử dụng.
Do vậy, chất lượng dịch vụ sức khỏe sinh sản phải quan tâm nhiều hơn đến triển
vọng của người sử dụng dịch vụ trong khuôn khổ toàn diện của hệ thống dịch vụ
sức khoẻ sinh sản.
Dịch vụ sức khỏe sinh sản được cung cấp cần phải đặc biệt quan tâm đến phụ
nữ, và họ là đối tượng có số lượng lớn nhất của chương trình và cũng là nhóm có
những vấn đề lớn nhất về sức khoẻ cả về dịch vụ y tế nói chung và dịch vụ sức khỏe
sinh sản nói riêng.
Cải thiện chất lượng dịch vụ chăm sóc sức khỏe sinh sản sẽ mang đến sự an toàn
và hiệu quả cao làm khách hàng hài lòng và sử dụng lâu dài dịch vụ.
Đáp ứng được nhu cầu của khách hàng với chất lượng cao luôn phải là mục

tiêu hàng đầu của các đơn vị cung cấp dịch vụ chăm sóc, có như vậy thì chương
trình chăm sóc sức khỏe sinh sản sẽ hoàn thành được những mục tiêu cơ bản, không
những chỉ làm giảm tỷ lệ sinh, giảm tỷ lệ gia tăng dân số mà còn làm giảm được cả
tỷ lệ tử vong và bệnh tật do sinh sản gây ra, góp phần nâng cao sức khỏe phụ nữ.
Động viên vai trò của nam giới, tăng cường trao đổi ý kiến giữa nam và nữ
tạo ra bình đẳng về giới trong mọi lĩnh vực của cuộc sống xã hội cũng như của gia
đình và cuộc sống cá nhân.
Như vậy, dịch vụ công tác xã hội trong chăm sóc sức khỏe sinh sản đối với
phụ nữ người dân tộc thiểu số được hiểu các dịch vụ có sử dụng các tri thức, kỹ
năng, phương pháp của công tác xã hội vào việc chăm sóc sức khỏe sinh sản cho
phụ nữ người dân tộc thiểu số trên cơ sở phù hợp với phong tục, tập quán, đặc điểm

14


dân tộc của phụ nữ từng vùng miền nhằm giúp đỡ họ phục hồi, tăng cường các
chức năng xã hội của mình, đáp ứng các nhu cầu về chăm sóc sức khỏe cho phụ nữ.
1.2.2. Nguyên tắc dịch vụ công tác xã hội trong chăm sóc sức khỏe sinh
sản đối với phụ nữ người dân tộc thiểu số
Cũng như các ngành chuyên môn khác, trong dịch vụ công tác xã hội trong
chăm sóc sức khỏe sinh sản đối với phụ nữ người dân tộc thiểu số cũng có những
nguyên tắc hoạt động riêng của mình. Các nguyên tắc này định hướng các hoạt
động cho nhân viên xã hội trong quá trình giúp đỡ đối tượng được tốt hơn.
Cụ thể:
 Tạo điều kiện để phụ nữ tham gia giải quyết vấn đề
Đây là một trong những nguyên tắc cơ bản trong hoạt động của nhân viên xã
hội. Vấn đề khó khăn của đối tượng chỉ có thể được giải quyết khi có sự tham gia
của đối tượng. Vấn đề là của đối tượng, họ hiểu hoàn cảnh và khả năng của mình
hơn ai hết nếu được sự trợ giúp. Vì vậy, họ cần là người tham gia chủ yếu từ khâu
đánh giá vấn đề tới ra quyết định, lựa chọn giải pháp, thực hiện giải pháp cũng như

lượng giá kết quả của giải pháp đó.
Khi phụ nữ có vấn đề về việc chăm sóc sức khỏe sinh sản, thì bản thân họ là
người hiểu rõ nhất vấn đề của mình, vì vậy việc lựa chọn phương pháp nào là quyết
định của họ, vì vấn đề của họ còn phụ thuộc vào tình hình sức khỏe, tình hình kinh
tế, hoàn cảnh gia đình của họ, cũng như phong tục tập quán nơi mà họ sinh sống.
 Tôn trọng quyền tự quyết của phụ nữ người dân tộc thiểu số.
Quyền quyết định lựa chọn giải pháp nào tùy thuộc vào đối tượng. Nhân viên
xã hội cần tôn trọng quyết định đối tượng đưa ra, không áp đặt ý kiến cá nhân trong
việc lựa chọn giải pháp cho vấn đề thay cho vấn đề của đối tượng. Trong trường hợp
quyết định của đối tượng có nguy cơ tổn hại tới tính mạng của bản thân đối tượng hay
của người khác thì nhân viên xã hội cũng không cần phải chấp thuận quyết định của
đối tượng mà cần thông báo cho đối tượng về quy định của pháp luật.
 Đảm bảo tính khác biệt của mỗi trường hợp

15


Con người có những nhu cầu cơ bản giống nhau, nhưng mỗi người do hoàn
cảnh khác nhau. Mỗi người lại có những tính cách khác nhau và những mong muốn,
nguyện vọng không giống nhau. Mỗi gia đình cũng có những đặc điểm riêng với
nếp sống, truyền thống gia đình. Việc cá biệt hóa trường hợp của đối tượng giúp
nhân viên xã hội đưa ra phương pháp giúp đỡ thích hợp với từng trường hợp cụ thể.
Việc đảm bảo tính khác biệt trong trợ giúp đối tượng thể hiện ở việc tìm hiểu và
phát hiện những nét đặc thù của trường hợp đó, linh hoạt trong giải quyết vấn đề,
không áp dụng cách giải quyết giống nhau cho các trường hợp. Giải pháp cho mỗi
trường hợp cần được cân nhắc trên cơ sở nhu cầu, đặc điểm, khả năng và nguồn lực
mà họ có.
 Đảm bảo tính riêng tư, kín đáo các thông tin về trường hợp của đối
tượng.
Kín đáo hay giữ bí mật thông tin là một trong những nguyên tắc cơ bản

không chỉ ngành công tác xã hội sử dụng mà rất nhiều các ngành khác cũng sử
dụng. Nó thể hiện sự tôn trọng những vấn đề riêng tư của đối tượng và không được
chia sẻ những thông tin của đối tượng với người khác khi chưa có sự đồng ý của đối
tượng. Đảm bảo tính riêng tư của trường hợp còn thể hiện ở việc bảo mật lưu trữ hồ
sơ. Khi tham vấn hay phỏng vấn cần đảm bảo không gian yên tĩnh và riêng tư cho
cuộc trò chuyện, nhân viên xã hội tránh trao đổi hay hỏi chuyện về những vấn đề
mang tính tế nhị của đối tượng ở những chỗ đông người.
Ngoài ra, còn có một số các nguyên tắc như sau: nguyên tắc chấp nhận thân
chủ, nguyên tắc lắng nghe…Các nguyên tắc này sẽ định hướng cho nhân viên xã
hội làm việc tốt hơn trong quá trình thực hiện dịch vụ công tác xã hội trong chăm
sóc sức khỏe sinh sản cho phụ nữ người dân tộc thiểu số.
1.2.3. Phương pháp dịch vụ công tác xã hội trong chăm sóc sức khỏe sinh
sản đối với phụ nữ người dân tộc thiểu số
Dịch vụ công tác xã hội trong chăm sóc sức khỏe sinh sản đối với phụ nữ
người dân tộc thiểu số được triển khai dưới nhiều phương pháp khác nhau, đó là:
 Phương pháp công tác xã hội cá nhân

16


Phương pháp công tác xã hội cá nhân là một trong những phương pháp được
áp dụng trong dịch vụ công tác xã hội trong chăm sóc sức khỏe sinh sản cho phụ nữ
người dân tộc thiểu số. Đây là một trong những phương pháp được áp dụng rộng rãi
và phổ biến nhất trong quá trình thực hiện hoạt động.
Khái niệm: Công tác xã hội cá nhân là một phương pháp chuyên nghiệp được
các nhân viên xã hội sử dụng trong qúa trình hỗ trợ cá nhân vượt qua khó khăn
trong việc thực hiện các chức năng xã hôi của họ thông qua mối quan hệ tương tác
một- một [12].
Trong quá trình triển khai dịch vụ công tác xã hội trong chăm sóc sức khỏe
sinh sản cho phụ nữ người dân tộc thiểu số, thì phương pháp công tác xã hội cá

nhân được thực hiện dưới hình thức đó là: phụ nữ người dân tộc thiểu số sẽ làm việc
với cán bộ nhân viên xã hội thông qua mối quan hệ một - một.
 Phương pháp công tác xã hội nhóm.
Ngoài phương pháp công tác xã hội cá nhân thì phương pháp công tác xã hội
nhóm cũng là một trong những phương pháp được áp dụng.
Công tác xã hội nhóm đối với đối tượng là phụ nữ người dân tộc thiểu số là
một phương pháp can thiệp chính của công tác xã hội. Đây là một tiến trình trợ giúp
mà trong đó các thành viên trong nhóm được tạo cơ hội và môi trường có các hoạt
động tương tác lẫn nhau, chia sẻ những mối quan tâm hay những vấn đề chung,
tham gia vào các hoạt động nhóm nhằm đạt được mục tiêu chung của nhóm và
hướng đến giải quyết những mục đích của cá nhân thành viên giải tỏa những vấn đề
khó khăn. Trong hoạt động công tác xã hội nhóm, một nhóm các chị em phụ nữ
được thành lập, sinh hoạt thường kì dưới sự điều phối của nhân viên xã hội (trong
trường hợp trưởng nhóm là thành viên của nhóm).
Tác giả Toseland và Rivas cho rằng, có nhiều cách tiếp cận với công tác xã
hội nhóm và mỗi cách tiếp cận có những điểm mạnh và ứng dụng thực hành cụ thể:
‘ Công tác xã hội nhóm là hoạt động có mục đích với các nhóm nhiệm vụ và trị liệu
nhỏ, nhằm đáp ứng nhu cầu tình cảm xã hội và hoàn thành nhiệm vụ. Hoạt động này

17


hướng trực tiếp tới cá nhân các thành viên trong nhóm và tới toàn thể nhóm trong
một hệ thống cung cấp dịch vụ.
Trong Từ điển công tác xã hội của Barker, công tác xã hội nhóm được định
nghĩa là: “Một định hướng và phương pháp can thiệp công tác xã hội, trong đó các
thành viên chia sẻ những mối quan tâm và những vấn đề chung họp mặt thường
xuyên và tham gia vào các hoạt động được đưa ra nhằm đạt được những mục tiêu
cụ thể” [26].
Nói tóm lại, từ những định nghĩa và phân tích trên có thể đưa ra kết luận:

Công tác xã hội nhóm là một phương pháp của công tác xã hội nhằm trợ giúp các
thành viên trong nhóm được tạo cơ hội và môi trường hoạt động tương tác, chia sẻ
những mối quan tâm hay những vấn đề chung khi tham gia vào các hoạt động nhóm
để đạt tới mục tiêu chung của nhóm và hướng đến giải quyết giải quyết những mục
đích của cá nhân thành viên.
Vai trò của công tác xã hội nhóm: Công tác xã hội nhóm có ý nghĩa vô cùng
quan trọng và tác dụng rất lớn trong hoạt động trợ giúp cá nhân, gia đình hay nhóm
đối tượng cần can thiệp. Nó không chỉ có ý nghĩa là phương pháp bổ sung cho các
phương pháp khác trong can thiệp của công tác xã hội mà còn là phương thức giúp
cho các cá nhân xây dựng và hoàn thiện nhân cách, tăng cường khả năng thích nghi
xã hội, tương tác nhóm và năng lực ứng phó với các vấn đề xã hội một cách hiệu
quả. Qua các hoạt động nhóm , giúp cho các thành viên nhóm được thỏa mãn nhu
cầu cá nhân của mình. Thông qua môi trường sinh hoạt nhóm, các thành viên nhóm
được đáp ứng nhu cầu giao tiếp nhóm.
Nhiệm vụ của công tác xã hội viên trong công tác xã hội nhóm đó là tạo môi
trường thuận lợi cho các thành viên trong nhóm có cơ hội được thể hiện tối đa tiềm
năng phát triển năng lực, được bộc lộ cảm xúc và diễn tả những tình cảm, suy tư
của mình. Giúp các thành viên hỗ trợ lẫn nhau và cùng giải quyết vấn đề. Giúp các
thành viên nhóm thay đổi thái độ, hành vi, cảm xúc của chính mình và hiểu được
người khác. Giúp các thành viên nhóm tăng cường sự gắn bó, chấp nhận nhau, tạo

18


sự tương tác giữa các thành viên, không khí thoải mái để thực hiện mục đích nhóm
đã đặt ra.


Phương pháp phát triển cộng đồng:
Phát triển cộng đồng là một quá trình chuyển biến xã hội trong cộng đồng mà


thông qua đó con người trưởng thành và phát triển trong phạm vi tiềm năng vốn có
của họ. Đó là những nỗ lực có kế hoạch, có tổ chức nhằm giúp cho những cá nhân
có được những thái độ và quan niệm phù hợp, kĩ năng tốt để họ tham gia tích cực và
dân chủ vào việc đưa ra các giải pháp cải thiện có hiệu quả các vấn đề chung theo
thứ tự ưu tiên được xác định.
Phương pháp phát triển cộng đồng là phương pháp lấy con người làm trung
tâm và quan tâm trước tiên đến nhân phẩm và tiềm năng của họ. Phương pháp phát
triển cộng đồng tạo điều kiện cho các thành viên trong cộng đồng được tham gia
vào mọi phương diện liên quan tới quá trình phát triển.
Trong quá trình triển khai dịch vụ CTXH trong CSSKSS cho phụ nữ người dân
tộc thiểu số thì phương pháp phát triên cộng đồng là một trong những phương pháp
thiết thực, giúp cho phụ nữ họ tự tham gia vào quá trình giải quyết vấn đề của mình.
1.2.4. Nội dung dịch vụ công tác xã hội trong chăm sóc sức khỏe sinh sản
đối với phụ nữ người dân tộc thiểu số
Nội dung dịch vụ công tác xã hội trong chăm sóc sức khỏe sinh sản đối với
phụ nữ người dân tộc thiểu số được mô tả theo nội dung hoạt động của các thiết chế
trong lĩnh vực này.
 Ở thôn/bản:
Ở thôn/bản cần nắm được: Phụ nữ trong lứa tuổi sinh đẻ; số thai phụ có
nguy cơ, số sinh, số tai biến sản khoa, số chết mẹ; số trẻ em < 1 tuổi, dưới 5 tuổi,
số trẻ em suy dinh dưỡng, số trẻ em được tiêm chủng đầy đủ; phát hiện thai nghén
sớm, vận động các bà mẹ đi khám thai đủ 3 lần, đẻ tại cơ sở y tế; tuyên truyền vận
động vệ sinh phụ nữ, vệ sinh thai nghén, dinh dưỡng hợp lý, loại trừ các tập tục có
hại cho sức khoẻ bà mẹ và trẻ em; vận động nuôi con bằng sữa mẹ, hướng dẫn cách
cho trẻ bú đúng và ăn bổ sung; lập danh sách trẻ tiêm chủng, tuyên truyền vận động

19



bà mẹ cho con đi tiêm chủng đúng lịch; vận động kế hoạch hoá gia đình; kết hợp
với trạm ytế xã quản lý SKTE theo các chương trình; quản lý sử dụng túi thuốc thôn
bản; huy động các phương tiện chuyển viện an toàn khi cần; báo cáo số liệu hàng
tháng cho trạm y tế theo quy định.
Về chuyên môn y tế, phát hiện xử trí ban đầu các trường hợp cấp cứu sản, nhi
thông thường, các tác dụng phụ của thuốc tránh thai và chuyển lên tuyến trên;
định kỳ thăm khám sản phụ và trẻ sơ sinh sau đẻ; hỗ trợ đỡ đẻ thường và đỡ đẻ rơi
trong các trường hợp không kịp đến trạm y tế, hướng dẫn và sử dụng gói đẻ sạch;
phối hợp hoạt động với các chương trình khi có yêu cầu; phân phối bao cao su và
thuốc tránh thai dựa vào bảng kiểm từ lần thứ hai; phát hiện, xử trí tiêu chảy cấp,
viêm đường hô hấp cấp và chuyển tuyến kịp thời.Sử dụng các bài thuốc nam thông
thườngchữa bệnh tại nhà cho các trẻ bị ho, cảm, ỉa chảy thông thường (không dùng
thuốc kháng sinh); cân đo, ghi biểu đồ tăng trưởng trẻ em theo qui định và hướng
dẫn bà mẹ sử dụng biểu đồ; phát hiện sớm các trường hợp suy dinh dưỡng trẻ em
dưới 5 tuổi cho trạm y tế xã.
 Trạm y tế xã
Trạm y tế xã cần nắm được: Số sinh, số chết, số chết bà mẹ, trẻ em dưới 1
tuổi, dưới 5 tuổi trong xã và nguyên nhân; Số lượng các đối tượng như đã qui định
cho y tế thôn bản và thêm : Số sơ sinh sống, số sơ sinh < 2500g, số vị thành niên;
Số thai phụ được khám thai từ 1 đến 3 lần trở lên, số phụ nữ được tiêm phòng uốn
ván, số mũi tiêm, số sinh được cán bộ được đào tạo đỡ, số sinh tại cơ sở y tế, số nạo
hút thai nói chung và số nạo hút thai tuổi vị thành niên; Số cặp vợ chồng áp dụng kế
hoạch hoá gia đình theo từng biện pháp tránh thai, số cặp vợ chồng vô sinh, hiếm,
muộn; Số bị bệnh lây truyền qua đường tình dục, nhiễm khuẩn đường sinh sản;
Thống kê và định kỳ báo cáo theo mẫu của Bộ y tế lên Trung tâm y tế huyện, phối
hợp hoạt động với các chương trình khi có yêu cầu; Giáo dục và tư vấn về sức khoẻ
sinh sản; Quản lý, giám sát hoạt động của y tế thôn bản; Quản lý số người nhiễm
HIV/AIDS trong địa bàn.

20



×