Phần 1
ĐẶT VẤN ĐỀ
1.1. Đặt vấn đề
Quy hoạch sử dụng đất là hệ thống các biện pháp của Nhà nước để tổ
chức quản lý và sử dụng đất đai một cách đầy đủ, hợp lý, khoa học, và có hiệu
quả nhất thông qua việc phân bố quỹ đất đai nhằm nâng cao hiệu quả sản xuất
của xã hội, tạo điều kiện bảo vệ đất đai và môi trường.
Để thực hiện tốt công tác quản lý đất đai thì cần phải tiến hành công tác
quy hoạch sử dụng đất. Thông qua quy hoạch sử dụng đất, Nhà nước đề ra hệ
thống các biện pháp nhằm tổ chức sử dụng đất đai đầy đủ, hợp lý và có hiệu quả.
Thành phố Đà Nẵng thuộc địa bàn kinh tế trọng điểm của miền Trung,
có vị trí quan trọng trong quá trình phát triển của vùng. Trong đó,Hoà Vang là
huyện ngoại thành duy nhất của thành phố Đà Nẵng, có tiềm năng đất đai
phong phú và đa dạng, có điều kiện thuận lợi để phát triển mọi mặt về đời sống
kinh tế - xã hội và bảo vệ môi trường.
Quá trình đô thị hóa đã tạo ra nhiều nét khởi sắc trong sự phát triển kinh
tế - xã hội của huyện. Tuy nhiên đô thị hóa diễn ra nhanh làm thay đổi cơ cấu
kinh tế, hình thành khu công nghiệp vừa và nhỏ, khu tái định cư, diện tích đất
nông nghiệp ngày càng giảm, quá trình chuyển đổi mục đích sử dụng giữa các
loại đất diễn ra tương đối nhanh. Vì vậy làm cho quỹ đất phát triển cơ sở hạ
tầng, xây dựng các khu dân cư tăng lên nhanh chóng. Sự chuyển đổi này gây
những biến động không nhỏ về tình hình sử dụng đất, ảnh hưởng đến chất lượng của
việc thực hiện quy hoạch, kế hoạch sử dụng đất giai đoạn 2010 - 2015 của huyện.
Điều này đòi hỏi phải có những biện pháp nhằm thực hiện tốt hơn công
tác quy hoạch sử dụng đất nhằm đem lại hiệu quả cao trong công tác quản lý và
sử dụng đất trên địa bàn huyện.
Xuất phát từ những vấn đề trên, tôi tiến hành nghiên cứu đề tài: "Đánh
giá việc thực hiện quy hoạch sử dụng đất trên địa bàn huyện Hòa Vang,
thành phố Đà Nẵng giai đoạn 2011 - 2015 và đề xuất phương án điều chỉnh
quy hoạch sử dụng đất đến năm 2020".
1.2. Mục đích và yêu cầu của đề tài
1.2.1. Mục đích
Đánh giá kết quả thực hiện phương án quy hoạch sử dụng đất giai đoạn
2011 đến 2015 của huyện Hòa Vang, thành phố Đà Nẵng, để thấy được việc
1
thực hiện quy hoạch sử dụng đất đạt được như thế nào, từ đó làm cơ sở cho việc
đề xuất hướng quy hoạch cho giai đoạn tiếp theo phù hợp với thực tế hơn.
1.2.2. Yêu cầu
- Các số liệu, tài liệu thu thập để phục vụ đề tài nghiên cứu phải đảm bảo
tính chính xác, tin cậy và thống nhất với nhau.
- Nghiên cứu chi tiết, cụ thể, toàn diện trên tất cả các lĩnh vực để đánh giá
đúng tiến độ thực hiện quy hoạch trên địa bàn nghiên cứu.
- Những đề xuất, kiến nghị đưa ra phải có tính khả thi và phù hợp với
điều kiện thực tế của địa phương.
1.3. Ý nghĩa khoa học và thực tiễn
1.3.1. Ý nghĩa khoa học
Kết quả nghiên cứu của đề tài làm cơ sở khoa học cho việc xây dựng
phương án quy hoạch sử dụng đất phù hợp hơn với thực tiễn, từ đó vận dụng vào
các địa phương khác.
1.3.2. Ý nghĩa thực tiễn
Kết quả nghiên cứu của đề tài giúp cho việc thực hiện phương án quy hoạch
sử dụng đất trên địa bàn nghiên cứu được thực hiện tốt hơn trong kỳ kế tiếp.
1.4. Giới hạn về đối tượng và phạm vi nghiên cứu
1.4.1. Đối tượng nghiên cứu
- Các tài liệu liên quan đến công tác quy hoạch sử dụng đất trên địa bàn
nghiên cứu.
- Tình hình thực hiện các tiêu chí trong phương án quy hoạch sử dụng đất
huyện Hòa Vang giai đoạn 2011 - 2015, thể hiện trên toàn bộ diện tích đất tự
nhiên và các loại hình sử dụng đất trong ranh giới hành chính của huyện.
1.4.2. Phạm vi nghiên cứu
- Phạm vi không gian: Đề tài thực hiện nghiên cứu trên địa bàn huyện
Hòa Vang, thành phố Đà Nẵng.
- Phạm vi số liệu: Đề tài sử dụng số liệu của phương án quy hoạch sử
dụng đất giai đoạn 2011 đến 2015 của huyện Hòa Vang, thành phố Đà Nẵng và
các số liệu quản lý sử dụng đất, các số liệu kinh tế - xã hội từ năm 2011 đến năm
2015 để tiến hành nghiên cứu.
2
Phần 2
TỔNG QUAN CÁC VẤN ĐỀ NGHIÊN CỨU
2.1. Cơ sở lý luận của đề tài
2.1.1. Một số lý luận về sử dụng đất
2.1.1.1. Khái niệm đất đai và chức năng của đất đai
Theo định nghĩa của tổ chức FAO: “Đất đai là một tổng thể vật chất, bao
gồm cả sự kết hợp giữa địa hình và không gian tự nhiên của thực thể vật chất
đó”. Theo cách định nghĩa này đất đai là một phạm vi không gian, như một vật
mang những giá trị theo ý niệm của con người; đất đai thường gắn với một giá
trị kinh tế được thể hiện bằng giá tiền trên một diện tích đất đai khi có sự chuyển
quyền sử dụng [13].
Đất đai về mặt thuật ngữ khoa học có thể hiểu theo nghĩa rộng như sau:
Đất đai là một phần diện tích cụ thể của bề mặt trái đất, bao gồm các yếu tố cấu
thành môi trường sinh thái ngay trên và dưới bề mặt đất như: khí hậu, thổ
nhưỡng, dạng địa hình,địa mạo, mặt nước (hồ, sông suối, đầm lầy…), các lớp
trầm tích sát bề mặt cùng với nước ngầm, tập đoàn thực vật và động vật, trạng
thái định cư của con người, những kết quả hoạt động của con người trong quá
khứ và hiện tại để lại (san nền, hồ chứa nước hay hệ thống tiêu thoát nước,
đường xá, nhà cửa…) [4].
Nếu nhìn nhận đất đai trên phương diện từ vạt đất thì đất đai là một phần
diện tích cụ thể của bề mặt trái đất, bao gồm cả các yếu tố cấu thành môi trường
sinh thái ngay trên và dưới bề mặt đất [10].
Đất đai là điều kiện chung nhất (khoảng không gian lãnh thổ cần thiết) đối
với mọi quá trình sản xuất trong các ngành kinh tế quốc dân và hoạt động của
con người. Điều này có nghĩa - thiếu khoảnh đất (có vị trí, hình thể, quy mô diện
tích và yêu cầu về chất lượng nhất định) thì không một ngành nào, xí nghiệp nào
có thể bắt đầu công việc và hoạt động được. Nói khác đi - không có đất sẽ không
có sản xuất cũng như không có sự tồn tại của chính con người.
Đất đai đóng vai trò quyết định sự tồn tại và phát triển của xã hội loài
người, là cơ sở tự nhiên, là tiền đề cho mọi quá trình sản xuất. Các Mác đã nhấn
mạnh “Đất là mẹ, lao động là cha, sản sinh ra mọi của cải vật chất”.
Tuy nhiên vai trò của đất trong các ngành sản xuất cũng rất khác nhau.
Trong các ngành phi nông nghiệp, đất đai giữ vai trò là cơ sở không gian để thực
hiện các quá trình lao động, là kho tàng dự trữ trong lòng đất (các ngành khai
3
thác khoáng sản). Chất lượng sản phẩm được tạo ra từ các ngành phi nông
nghiệp không phụ thuộc vào đặc điểm, độ phì nhiêu của đất, chất lượng thảm
thực vật và các tính chất tự nhiên có sẵn trong đất. Trong nông nghiệp, đất đai
đóng một vai trò khác hẳn, đất tham gia trực tiếp vào quá trình sản xuất và làm
ra sản phẩm phục vụ đời sống của con người và xã hội. Năng suất và chất lượng
của sản phẩm phụ thuộc rất nhiều vào chất lượng đất. Đất nông nghiệp là yếu tố
đầu vào quan trọng tác động mạnh mẽ đến hiệu quả sản xuất nông nghiệp.
2.1.1.2. Những nhân tố ảnh hưởng đến việc sử dụng đất
Sử dụng đất là hệ thống các biện pháp nhằm điều hoà mối quan hệ người đất trong tổ hợp với các nguồn tài nguyên thiên nhiên khác và môi trường. Căn
cứ vào nhu cầu của thị trường sẽ phát hiện và quyết định phương hướng chung,
mục tiêu sử dụng hợp lý tài nguyên, phát huy tối đa tiềm năng đất đai nhằm đạt
hiệu quả kinh tế, xã hội, môi trường và sự phát triển bền vững. Vì vậy, phạm vi,
cơ cấu và phương thức sử dụng đất vừa bị chi phối bởi các điều kiện và quy luật
sinh thái tự nhiên vừa bị chi phối bởi các điều kiện, quy luật kinh tế - xã hội và
các yếu tố kỹ thuật.
Theo nghiên cứu của Viện Điều tra quy hoạch đất đai có 3 nhóm nhân tố
ảnh hưởng đến sử dụng đất [11]:
* Nhân tố điều kiện tự nhiên
Quá trình sử dụng đất đai cần phải chú ý đến các đặc tính và tính chất đất
đai để xác định yếu tố hạn chế hay tích cực cho việc sử dụng đất hợp lý như chế
độ nhiệt, bức xạ, độ ẩm, yếu tố địa hình, thổ nhưỡng, xói mòn... Các đặc tính,
tính chất này được chia làm 2 loại:
- Điều kiện khí hậu:
Khí hậu là một thành phần rất quan trọng của hệ sinh thái đồng ruộng. Nó
cung cấp năng lượng chủ yếu cho quá trình tạo thành chất hữu cơ, mang lại năng
suất cho cây trồng.
- Điều kiện đất đai:
Các yếu tố địa hình, địa mạo, độ cao, độ dốc, hướng dốc, mức độ xói
mòn... thường dẫn tới sự khác nhau về đất đai và khí hậu, ảnh hưởng trực tiếp
đến sản xuất và hoạt động của các ngành.
Địa hình là yếu tố phức tạp ảnh hưởng đến nhiều yếu tố khác. Trước hết,
địa hình ảnh hưởng đến khí hậu, nếu có sự khác nhau về độ cao sẽ dẫn đến chế
độ nhiệt và chế độ ẩm khác nhau.
4
Ở vùng đồi núi, yếu tố quan trọng nhất của địa hình là độ dốc. Đối với đất
nông nghiệp, độ dốc kết hợp với yếu tố lượng mưa, tính chất đất sẽ quyết định
khả năng canh tác và hệ thống cây trồng phù hợp để khắc phục những yếu tố hạn
chế. Đối với ngành phi nông nghiệp, yếu tố địa hình quyết định những thuận lợi
hay khó khăn của việc thi công công trình hay khả năng lưu thông hàng hoá,
gián tiếp ảnh hưởng đến khả năng và quy mô sản xuất (ngành công nghiệp, tiểu
thủ công nghiệp...).
Thành phần cơ giới của đất quyết định các tính chất đất như chế độ nước,
nhiệt độ, không khí, dinh dưỡng và độ lún. Đất có thành phần cơ giới nhẹ:
thoáng khí, dễ thoát nước, giữ nước kém, ít chất dinh dưỡng và độ lún thấp; đất
thành phần cơ giới nặng: giữ nước và chất dinh dưỡng tốt nhưng thoát nước
chậm, hay bị úng, ít không khí, độ lún cao. Mỗi cây trồng chỉ sinh trưởng tốt ở
một điều kiện đất đai nhất định, một công trình có yêu cầu kỹ thuật về độ lún
khác nhau.
Mỗi vùng đất khác nhau có các điều kiện tự nhiên khác nhau, ảnh hưởng
trực tiếp đến quá trình sử dụng đất: khả năng sản xuất, xây dựng công trình, phát
triển các ngành. Do đó, để có phương án sử dụng đất hợp lý cần phải tuân thủ
theo quy luật tự nhiên, tận dụng tối đa những thuận lợi, khắc phục những hạn
chế để sử dụng đất mang lại hiệu quả sử dụng đất cao nhất.
* Nhân tố kinh tế - xã hội
Các nhân tố kinh tế - xã hội bao gồm các thể chế, chính sách, thực trạng
phát triển các ngành, điều kiện cơ sở hạ tầng: giao thông, thủy lợi, xây dựng...,
trình độ phát triển khoa học kỹ thuật, trình độ dân trí, dân số, lao động, việc làm
và đời sống văn hóa, xã hội.
Các điều kiện tự nhiên là cơ sở để xây dựng phương án sử dụng đất nhưng
các nhân tố kinh tế - xã hội sẽ quyết định phương án đã lựa chọn có thực hiện
được hay không. Phương án sử dụng đất được quyết định bởi khả năng của con
người và các điều kiện kinh tế - xã hội, kỹ thuật hiện có.
Các điều kiện tự nhiên của mỗi vùng thường ít có sự khác biệt nhưng hiệu
quả sử dụng đất thì có sự khác biệt lớn, nguyên nhân của vấn đề này là do điều
kiện kinh tế - xã hội: vốn, nhân lực, cơ sở hạ tầng... quyết định. Trong thực tế
càng minh chứng rõ vấn đề này, với điều kiện tự nhiên đồng nhất nhưng nếu
vùng nào có kinh tế phát triển, vốn đầu tư lớn, nhận thức và trình độ của người
lao động vùng nào cao hơn thì sử dụng đất sẽ có hiệu quả hơn.
Trình độ phát triển kinh tế - xã hội khác nhau dẫn đến trình độ sử dụng
5
đất khác nhau.
Từ những lý luận trên cho thấy, các điều kiện kinh tế - xã hội có tác động
không nhỏ tới việc sử dụng đất đai, thúc đẩy hoặc kìm hãm quá trình sử dụng
đất hiệu quả của con người. Vì vậy, khi lựa chọn phương cách sử dụng đất,
ngoài việc dựa vào quy luật tự nhiên thì các nhân tố kinh tế xã hội cũng không
kém phần quan trọng.
* Nhân tố không gian
Trong thực tế, bất kỳ ngành sản xuất nào (nông nghiệp, công nghiệp, xây
dựng, khai thác khoáng sản...) đều cần đến đất đai là điều kiện không gian cho
các hoạt động. Tính chất không gian bao gồm: vị trí địa lý, địa hình, hình dạng,
diện tích.
Đất đai không thể di dời từ nơi này đến nơi khác nên sự thừa thãi đất đai ở
nơi này không thể sử dụng để đáp ứng sự thiếu đất ở địa phương khác. Đất đai
phải khai thác tại chỗ, không thể chia cắt mang đi, nên không thể có hai khoanh
đất giống nhau hoàn toàn. Do đó, không gian là yếu tố quan trọng quyết định
hiệu quả của việc sử dụng đất.
Đặc điểm không thể chuyển dịch của đất đai dẫn đến những lợi thế hoặc
khó khăn cho vùng, lãnh thổ. Nếu những khoanh đất có vị trí tại khu trung tâm,
có nền kinh tế phát triển, thuận lợi giao thông, giao lưu buôn bán... thì hiệu quả
sử dụng đất của khoanh đất đó sẽ lớn hơn rất nhiều so với khoanh đất tại vùng
nông thôn, có nền kinh tế kém phát triển, không thuận tiện giao thông hay
những khoanh đất tại vùng đồng bằng, địa hình bằng phẳng sẽ cho hiệu quả của
sản xuất nông nghiệp cao hơn vùng đồi núi, địa hình phức tạp.
Bên cạnh đó, hình dạng của mảnh đất có ảnh hưởng rõ rệt đến hiệu quả sử
dụng đất trong cả nông nghiệp và phi nông nghiệp: làm đất, chăm sóc, vận
chuyển, thiết kế công trình...
Như vậy, các nhân tố không gian có ảnh hưởng tới quá trình sử dụng đất,
nó sẽ gián tiếp quyết định hiệu quả của việc sử dụng đất.
Từ những vấn đề nêu trên cho thấy, các yếu tố điều kiện tự nhiên và điều
kiện kinh tế xã hội tạo ra nhiều tổ hợp ảnh hưởng đến việc sử dụng đất đai.
Tuy nhiên mỗi yếu tố giữ vị trí và có tác động khác nhau. Trong đó, điều
kiện tự nhiên là yếu tố cơ bản để xác định công dụng của đất đai, có ảnh hưởng
trực tiếp, cụ thể và sâu sắc, nhất là đối với sản xuất nông nghiệp; Điều kiện kinh
tế sẽ kiềm chế tác dụng của con người trong việc sử dụng đất; Điều kiện xã hội
6
tạo ra những khả năng khác nhau cho các yếu tố kinh tế và tự nhiên tác động tới
việc sử dụng đất. Vì vậy, cần phải dựa vào quy luật tự nhiên và quy luật kinh tế xã hội để nghiên cứu, xử lý mối quan hệ giữa các nhân tố tự nhiên, kinh tế - xã
hội trong lĩnh vực sử dụng đất đai. Căn cứ vào yêu cầu của thị trường và của xã
hội, xác định mục đích sử dụng đất, kết hợp chặt chẽ yêu cầu sử dụng với ưu thế
tài nguyên của đất đai để đạt tới cơ cấu tổng thể hợp lý nhất, với diện tích đất đai
có hạn sẽ mang lại hiệu quả kinh tế, hiệu quả xã hội ngày càng cao và sử dụng
đất đai được bền vững.
Trong thực tế, mọi ngành sản xuất vật chất và phi vật chất (như các ngành
nông nghiệp, công nghiệp, khai khoáng, xây dựng, mọi hoạt động kinh tế và
hoạt động xã hội) đều cần đến đất đai như điều kiện không gian để hoạt động.
Không gian, bao gồm cả vị trí và mặt bằng. Đặc tính cung cấp không gian của
đất đai là yếu tố vĩnh hằng của tự nhiên ban phát cho xã hội loài người.
Không gian mà đất đai cung cấp có đặc tính vĩnh cửu, cố định vị trí khi sử
dụng và số lượng không thể vượt phạm vi quy mô hiện có. Do vị trí và không
gian của đất đai không bị mất đi và cũng không tăng thêm trong quá trình sử
dụng, nên phần nào đã giới hạn sức tải nhân khẩu và số lượng người lao động, có
nghĩa tác dụng hạn chế của không gian đất đai sẽ thường xuyên xảy ra khi dân số
và kinh tế xã hội luôn phát triển.
2.1.1.3. Các xu thế phát triển sử dụng đất
Sử dụng đất đai là hệ thống các biện pháp nhằm điều hòa mối quan hệ
người - đất trong tổ hợp các nguồn tài nguyên khác và môi trường. Căn cứ vào
nhu cầu của thị trường sẽ phát hiện, quyết định phương hướng chung và mục
tiêu sử dụng hợp lý nhất tài nguyên đất đai, phát huy tối đa công dụng của đất
đai nhằm đạt tới hiệu ích sinh thái, kinh tế và xã hội cao nhất.
Hiện nay, việc sử dụng đất đai được phát triển theo 5 xu thế sau:
* Sử dụng đất phát triển theo chiều rộng và tập trung
Khi con người còn sống bằng phương thức săn bắn và hái lượm, chủ yếu
dựa vào sự ban phát của tự nhiên, vấn đề sử dụng đất hầu như không tồn tại.
Thời kỳ du mục, con người sống trong lều cỏ, những vùng đất có nước và đồng
cỏ bắt đầu được sử dụng. Khi xuất hiện ngành trồng trọt với những công cụ sản
xuất thô sơ, diện tích đất đai được sử dụng tăng lên nhanh chóng, năng lực sử
dụng và ý nghĩa kinh tế của đất đai cũng gia tăng.
Tuy nhiên trình độ sử dụng đất còn rất thấp, phạm vi sử dụng cũng rất hạn
7
chế, mang tính kinh doanh thô, đất khai phá nhiều nhưng thu nhập rất thấp.
Với sự tăng trưởng của dân số và phát triển của kinh tế, kỹ thuật, văn hóa
và khoa học, quy mô, phạm vi và chiều sâu của việc sử dụng đất ngày một nâng
cao. Yêu cầu sinh hoạt vật chất và tinh thần của người dân ngày càng cao, các
ngành nghề cũng phát triển theo xu hướng phức tạp và đa dạng dần, phạm vi sử
dụng đất càng mở rộng (từ cục bộ một vùng đã phát triển trên phạm vi cả thế
giới, thậm chí cả ở những vùng đất trước đây không thể sử dụng được).
Cùng với việc phát triển sử dụng đất theo không gian, trình độ tập trung
cũng sâu hơn nhiều. Đất canh tác cũng như đất sử dụng theo các mục đích khác
đều được phát triển theo hướng kinh doanh tập trung, với diện tích đất ít nhưng
hiệu quả sử dụng cao.
Tuy nhiên, để nâng cao sức sản xuất và sức tải của một đơn vị diện tích,
đòi hỏi phải liên tục nâng mức đầu tư về vốn và lao động, thường xuyên cải tiến
kỹ thuật và công tác quản lý.
* Cơ cấu sử dụng đất phát triển theo hướng phức tạp hóa và chuyên môn hóa
Khoa học kỹ thuật và kinh tế của xã hội phát triển, sử dụng đất từ hình
thức quảng canh chuyển sang thâm canh, kéo theo xu thế từng bước phức tạp
hóa và chuyên môn hóa cơ cấu sử dụng đất.
Tiến bộ khoa học kỹ thuật đã cho phép mở rộng khả năng kiểm soát tự
nhiên của con người, áp dụng các biện pháp bồi bổ và cải tạo sẽ nâng cao sức
sản xuất của đất đai, thoả mãn các loại nhu cầu của xã hội. Trước đây, việc sử
dụng đất rất hạn chế do kinh tế và khoa học kỹ thuật còn ở trình độ thấp, chủ
yếu sử dụng bề mặt của đất đai, nông nghiệp độc canh, đất lâm nghiệp, đồng cỏ,
mặt nước ít được sử dụng, khai thác khoáng sản còn hạn chế, xây dựng chủ yếu
chọn đất bằng. Khi khoa học kỹ thuật hiện đại phát triển, ngay cả đất xấu cũng
được khai thác triệt để, hình thức sử dụng đa dạng, ruộng nước phát triển... đã
làm cho vấn đề sử dụng đất ngày một phức tạp hơn theo hướng sử dụng toàn
diện, triệt để các chất dinh dưỡng, sức tải, vật chất cấu thành và sản phẩm của
đất đai để phục vụ lợi ích con người.
Hiện đại hóa nền kinh tế quốc dân và phát triển kinh tế hàng hoá, dẫn đến
sự phân công trong sử dụng đất theo hướng chuyên môn hóa.
Để sử dụng hợp lý đất đai, đạt được sản lượng và hiệu quả kinh tế cao
nhất cần có sự phân công và chuyên môn hóa theo khu vực. Cùng với việc đầu
tư, trang bị và ứng dụng các công cụ kỹ thuật, công cụ quản lý hiện đại sẽ nảy
8
sinh yêu cầu phát triển các vùng sản xuất nông nghiệp có quy mô lớn và tập
trung, đồng thời cũng hình thành các khu vực chuyên môn hóa sử dụng đất khác
nhau về hình thức và quy mô.
* Sử dụng đất theo hướng xã hội hóa và công hữu hóa
Đất đai là cơ sở vật chất và công cụ để con người sinh sống và xã hội tồn
tại. Vì vậy, việc chuyên môn hóa theo yêu cầu xã hội hóa sản xuất phải đáp ứng
nhu cầu của xã hội hướng tới lợi ích cộng đồng và tiến bộ xã hội.
Xã hội hóa sử dụng đất là sản phẩm tất yếu và là yêu cầu khách quan của
sự phát triển xã hội hóa sản xuất. Vì vậy, xã hội hóa sử dụng đất và công hữu
hóa là xu thế tất yếu. Muốn kinh tế phát triển và thúc đẩy xã hội hóa sản xuất
cao hơn, cần phải thực hiện xã hội hóa và công hữu hóa sử dụng đất.
* Sử dụng đất theo xu thế phát triển kinh tế hợp tác hóa, khu vực hóa, toàn
cầu hóa
Toàn cầu hóa đang là một trong những xu thế phát triển chủ yếu của quan
hệ quốc tế hiện đại. Cuộc cách mạng khoa học và công nghệ đã và đang thúc
đẩy mạnh mẽ quá trình chuyên môn hóa và hợp tác giữa các quốc gia, làm cho
lực lượng sản xuất được quốc tế hóa cao độ. Những tiến bộ của khoa học - công
nghệ, đặc biệt là lĩnh vực công nghệ thông tin, đã đưa các quốc gia gắn kết lại
gần nhau. Trước những biến đổi to lớn về khoa học, công nghệ này, tất cả các
nước trên thế giới đều thực hiện điều chỉnh cơ cấu kinh tế, điều chỉnh chính sách
theo hướng mở cửa, giảm và tiến tới dở bỏ hàng rào thuế quan và phi thuế quan,
làm cho việc trao đổi hang hóa, luân chuyển vốn, lao động và kỹ thuật trên thế
giới ngày càng thông thoáng hơn, mở đường cho kinh tế quốc tế phát triển.
Xu thế khu vực hóa cũng đã xuất hiện ở những năm 1950, đã và đang phát
triển mạnh mẽ cho tới ngày nay.
Xu thế toàn cầu hóa và khu vực hóa là sản phẩm của quá trình cạnh tranh,
giành giật thị trường gay gắt giữa các quốc gia và giữa các thực thể kinh tế quốc
tế. Với sự hợp tác quốc tế, những hàng rào cản trở giao lưu thương mại và đầu
tư ngày càng giảm đi, kinh tế thế giới ngày càng trở thành một thị trường chung.
Điều này đòi hỏi việc sử dụng đất để sản xuất ra các sản phẩm hàng hóa phải
được tính toán cụ thể về diện tích, mục đích sử dụng, phương thức sử dụng trên
cơ sở điều tra, phân tích thị trường nhằm đáp ứng được các yêu cầu chung của
thị trường khu vực và thị trường thế giới.
* Sử dụng đất trong cân bằng sinh thái và bảo vệ môi trường
9
Cân bằng sinh thái là một trong những vấn đề quan trọng hàng đầu quyết
định đến sự tồn tại mang tính bền vững của con người cũng như các loài sinh vật
khác. Con người cần phải hiểu rõ các hệ sinh thái và cân nhắc kỹ trước khi tác
động lên một thành phần nào đó của hệ, để không gây suy thoái, mất cân bằng
cho hệ sinh thái.
Đất đai là một thành phần quan trọng hàng đầu của môi trường sống, có
chức năng cân bằng sinh thái môi trường. Tuy nhiên chức năng này của đất đai
bị ảnh hưởng rất lớn bởi các hoạt động của con người trong đó có sử dụng đất.
Khi sử dụng đất con người đã trực tiếp hoặc gián tiếp tác động vào đất bằng
nhiều cách thức khác nhau. Điều này cũng đồng nghĩa với việc trực tiếp hoặc
gián tiếp tác động vào hệ sinh thái môi trường. Do vậy để hướng đến sự phát
triển bền vững của nền kinh tế xã hội, đảm bảo môi trường sống cho sự tồn tại
của con người và sinh vật thì sử dung đất trong hệ cân bằng sinh thái và bảo vệ
môi trường là một xu thế tất yếu [8].
2.1.1.4. Sử dụng đất và các mục đích kinh tế, xã hội, môi trường
Trong thời kỳ cuộc sống xã hội phát triển ở mức cao, việc sử dụng đất luôn
hướng tới mục tiêu kinh tế, nhằm đạt được lợi nhuận tối đa trên một đơn vị diện
tích đất nhất định (xây dựng các khu công nghiệp, khu chế xuất, chuồng trại chăn
nuôi quy mô lớn...). Bên cạnh đó, một phần diện tích đất không nhỏ được sử dụng
để phục vụ nhu cầu sinh hoạt, ăn ở cũng như thỏa mãn đời sống tinh thần của
con người (xây dựng nhà cửa, hệ thống giao thông, các công trình dịch vụ thể
dục thể thao, văn hóa xã hội...).
Tuy nhiên, trong quá trình sử dụng đất, các mục đích sử dụng đất nêu trên
luôn nãy sinh mâu thuẫn làm cho mối quan hệ giữa người và đất ngày càng căng
thẳng, những sai lầm liên tục của con người trong quá trình sử dụng đất (sai lầm
có ý thức hoặc vô ý thức) dẫn đến huỷ hoại môi trường nói chung và môi trường
đất nói riêng (các thảm hoạ sinh thái như lũ lụt, hạn hán, cháy rừng, sạt lở đất...
liên tục xảy ra với quy mô ngày càng lớn và mức độ ngày càng nghiêm trọng),
làm cho một số chức năng của đất bị yếu đi.
Sử dụng đất hợp lý, bền vững là hài hoà được các mục tiêu kinh tế - xã
hội và môi trường.
- Sử dụng đất và mục tiêu kinh tế
Sử dụng đất bao giờ cũng gắn với mục tiêu kinh tế. Các hộ nông dân khi
sử dụng đất luôn đặt ra mục tiêu làm ra sản phẩm để bán hoặc tự tiêu dùng, nếu
thấy việc đó không có lợi họ có thể thay đổi cây trồng để sản xuất có hiệu quả
hơn hoặc nếu việc canh tác không có lợi họ có thể bán phần đất của họ cho
10
người nông dân khác.
Trong khi đó cộng đồng luôn có những mối quan tâm kinh tế lâu dài trong
sử dụng đất, trước hết là đảm bảo các mục tiêu kinh tế lâu dài và cần thiết cho cả
cộng đồng, đó là vấn đề an toàn lương thực; Có đất để mở mang đô thị, xây dựng
cơ sở hạ tầng, xây dựng các khu cụm công nghiệp, bảo vệ môi trường và các
khu vui chơi giải trí...
Sử dụng đất và các mục tiêu kinh tế được xem là hợp lý có nghĩa là quá
trình xem xét cân nhắc để sử dụng đất hài hoà về mặt lợi ích của toàn thể cộng
đồng và các chủ sử dụng đất cụ thể.
- Sử dụng đất và mục tiêu xã hội
Sử dụng đất trước tiên liên quan đến nhu cầu thiết yếu của những người
sống trên mảnh đất đó. Đây là mục tiêu xã hội của bất cứ một Nhà nước nào
nhằm tạo ra hay duy trì các điều kiện có tác dụng giúp thoả mãn những nhu cầu
thiết yếu này. Việc tạo ra công ăn việc làm trong quá trình phát triển bền vững là
một phương pháp hữu hiệu nhằm cùng một lúc đạt được 3 mục tiêu: xã hội, kinh
tế và môi trường. Những nhu cầu thiết yếu này bao gồm các cơ sở vật chất công
cộng hoặc các phương tiện phục vụ cho sức khoẻ, giáo dục, định cư, thu nhập,...
ngoài ra còn tạo ra một ý thức về công bằng xã hội và kiểm soát chính tương lai
của họ.
Một mục tiêu xã hội nữa cần phải kể đến là mâu thuẫn giữa các thế hệ về
việc sử dụng đất. Đó là việc sử dụng đất của các thế hệ hiện tại không nghĩ đến
lợi ích của các thế hệ con cháu. Đất là điều kiện vật chất cần thiết để tồn tại và
tái sản xuất các thế hệ tiếp nhau của loài người. Vì vậy, trong sử dụng cần làm
cho đất tốt hơn cho các thế hệ mai sau.
- Sử dụng đất và mục tiêu môi trường
Đối với bất kỳ vùng đất nào trong sử dụng đất đai gắn với mục tiêu môi
trường thì điều quan trọng là phải phân biệt được mục tiêu chung và mục tiêu
riêng. Chính phủ các nước đều đưa ra các tiêu chuẩn và mục tiêu về môi trường.
Việc nhìn nhận “môi trường” không chỉ có nghĩa là một hệ thống các tiêu
chuẩn về hóa học. Đất nước, phong cảnh thiên nhiên ... là các tài sản có giá trị.
Vì thế, những vấn đề về môi trường chỉ có thể giải quyết một cách có hiệu quả
nếu nó được thực hiện kết hợp với các mục tiêu kinh tế - xã hội [6].
11
2.1.2. Cơ sở khoa học của quy hoạch sử dụng đất
2.1.2.1. Khái niệm về quy hoạch sử dụng đất
Theo viện tài nguyên đất Liên Xô (cũ): “Quy hoạch sử dụng đất là hệ
thống các biện pháp khai thác, sử dụng toàn diện có hiệu quả và bảo vệ tài
nguyên đất” [8].
Theo FAO: “Quy hoạch sử dụng đất là quá trình đánh giá tiềm năng đất
và nước một cách có hệ thống phục vụ việc sử dụng đất và kinh tế - xã hội nhằm
lựa chọn ra phương án sử dụng đất tốt nhất. Mục tiêu của quy hoạch sử dụng đất
là lựa chọn và đưa ra phương án đã lựa chọn vào thực tiễn để đáp ứng nhu cầu
của con người một cách tốt nhất nhưng vẫn bảo vệ được nguồn tài nguyên cho
tương lai. Yêu cầu cấp thiết phải làm quy hoạch là do nhu cầu của con người và
điều kiện thực tế sử dụng đất thay đổi nên phải nâng cao kỹ năng sử dụng đất”.
Như vậy, quy hoạch sử dụng đất là một hệ thống các biện pháp kinh tế, kỹ
thật và pháp chế của nhà nước về tổ chức sử dụng đất đầy đủ, hợp lý, có hiệu
quả cao thông qua việc phân phối và tái phân phối quỹ đất cả nước, tổ chức sử
dụng đất như một tư liệu sản xuất cùng với các tư liệu sản xuất khác gắn liền với
đất nhằm nâng cao hiệu quả sản xuất xã hội, tạo điều kiện bảo vệ đất và bảo vệ
môi trường.
Sử dụng đất đai đầy đủ, hợp lý, khoa học và có hiệu quả được hiểu là: mọi
loại đất đều được đưa vào sử dụng theo các mục đích nhất định; các đặc điểm
tính chất tự nhiên, vị trí, diện tích phải phù hợp với yêu cầu và mục đích sử
dụng; áp dụng thành tựu khoa học - kỹ thuật và các biện pháp tiên tiến; đáp ứng
đồng bộ cả ba lợi ích kinh tế - xã hội - môi trường.
Như vậy, về thực chất quy hoạch sử dụng đất đai là quá trình hình thành
các quyết định nhằm tạo điều kiện đưa đất đai vào sử dụng bền vững để mang
lại lợi ích cao nhất, thực hiện đồng thời hai chức năng: điều chỉnh các mối quan
hệ đất đai và tổ chức sử dụng đất như tư liệu sản xuất đặc biệt với mục đích
nâng cao hiệu quả sản xuất của xã hội kết hợp bảo vệ đất và môi trường.
2.1.2.2. Đặc điểm của quy hoạch sử dụng đất
Quy hoạch sử dụng đất thuộc loại quy hoạch có tính lịch sử xã hội, tính
khống chế vĩ mô, tính chỉ đạo, tính tổng hợp trung và dài hạn, là bộ phận hợp
thành quan trọng của hệ thống kế hoạch phát triển xã hội và kinh tế quốc dân.
Các đặc điểm của quy hoạch sử dụng đất được thể hiện như sau:
12
- Tính lịch sử xã hội
Trong quy hoạch sử dụng đất luôn nảy sinh quan hệ giữa người với đất
đai - yếu tố tự nhiên cũng như quan hệ giữa người với người và nó thể hiện đồng
thời hai yếu tố: thúc đẩy lực lượng sản xuất phát triển và thúc đẩy sự phát triển
của các mối quan hệ sản xuất. Do vậy, quy hoạch sử dụng đất luôn là một bộ
phận của phương thức sản xuất xã hội và lịch sử phát triển của xã hội chính là
lịch sử phát của quy hoạch sử dụng đất. Nói cách khác quy hoạch sử dụng đất có
tính lịch sử xã hội. Tính chất lịch sử của quy hoạch sử dụng đất xác nhận vai trò
lịch sử của nó trong từng thời kỳ xây dựng và hoàn thiện phương thức sản xuất
xã hội, thể hiện ở mục đích, yêu cầu, nội dung và sự hoàn thiện của phương án
quy hoạch sử dụng đất.
- Tính tổng hợp
Tính tổng hợp của quy hoạch sử dụng đất biểu hiện chủ yếu ở hai mặt:
+ Mặt thứ nhất: Đối với của quy hoạch sử dụng đất là khai thác, sử dụng,
cải tạo, bảo vệ...tài nguyên đất đai cho nhu cầu toàn bộ nền kinh tế quốc dân
(trong quy hoạch sử dụng đất thường đụng chạm đến việc sử dụng của tất cả các
loại đất chính).
+ Mặt thứ hai: Quy hoạch sử dụng đất đề cập đến nhiều lĩnh vực về khoa
học, kinh tế và xã hội như: khoa học tự nhiên, khoa học xã hội, dân số, đất đai,
sản xuất nông nghiệp, công nghiệp, môi trường và sinh thái...
Với đặc điểm này quy hoạch sử dụng đất lãnh trách nhiệm tổng hợp toàn
bộ nhu cầu sử dụng đất, điều hòa các mâu thuẫn về đất đai của các ngành, lĩnh
vực; xác định và điều phối phương hướng, phương thức phân phối sử dụng đất
phù hợp với mục tiêu kinh tế xã hội, đảm bảo cho nền kinh tế quốc dân luôn
phát triển bền vững, đạt tốc độ và ổn định.
- Tính dài hạn
Tính dài hạn của quy hoạch sử dụng đất thể hiện ở chỗ thời hạn của quy
hoạch sử dụng đất là 10 năm hoặc lâu hơn. Tính dài hạn của quy hoạch sử dụng
đất phụ thuộc vào dự báo xu thế biến động dài hạn của các yếu tố kinh tế xã hội
quan trọng như sự thay đổi về nhân khẩu, tiến bộ khoa học kỹ thuật, quá trình
ĐTH, công nghiệp hóa, hiện đại hóa nông nghiệp nông thôn... Quy hoạch dài
hạn nhằm đáp ứng nhu cầu đất để phát triển lâu dài kinh tế xã hội.
13
- Tính chiến lược và chỉ đạo vĩ mô
Với đặc tính dài hạn quy hoạch sử dụng đất chỉ dự kiến được các xu thế
thay đổi phương hướng, mục tiêu, cơ cấu và phân bố sử dụng đất với tính đại thể
chứ không dự kiến được các hình thức và nội dung cụ thể, chi tiết của sự thay đổi.
Do khoảng thời gian dự báo là tương đối dài nhưng lại phải chịu ảnh
hưởng của nhiều nhân tố kinh tế xã hội khó xác định, nên chỉ tiêu quy hoạch
thường là không cụ thể và chi tiết như trong kế hoạch ngắn và trung hạn, do vậy
nó chỉ có thể là một quy hoạch mang tính chiến lước chỉ đạo vĩ mô. Các chỉ tiêu
quy hoạch càng khái lược hóa quy hoạch càng ổn định.
- Tính chính sách
Quy hoạch sử dụng đất thể hiện rất rõ đặc tính chính trị và chính sách xã
hội. Khi xây dựng phương án phải quán triệt các chính sách và quy định có liên
quan đến đất đai của Đảng và Nhà nước, đảm bảo thực hiện cụ thể trên mặt bằng
đất đai các mục tiêu phát triển nền kinh tế quốc dân, phát triển ổn định kế hoạch
kinh tế xã hội, tuân thủ các quy định, các chỉ tiêu khống chế về dân số, đất đai
và môi trường sinh thái.
- Tính khả biến
Dưới sự tác động của nhiều nhân tố khó dự đoán trước, theo nhiều
phương diện khác nhau, quy hoạch sử dụng đất đai chỉ là một trong những giải
pháp biến đổi hiện trạng sử dụng đất sang trạng thái mới thích hợp hơn cho việc
phát triển kinh tế xã hội trong một thời kỳ nhất định. Khi xã hội phát triển, khoa
học kỹ thuật ngày càng tiến bộ, chính sách và tình hình kinh tế thay đổi, các dự
kiến của quy hoạch sử dụng đất không còn phù hợp thì việc chỉnh sửa, bổ sung
hoàn thiện quy hoạch và điều chỉnh biện pháp thực hiện là cần thiết. Điều này
thể hiện tính khả biến của quy hoạch [6].
2.1.2.3. Phân loại quy hoạch sử dụng đất
Hiện nay, có nhiều quan điểm khác nhau về cách phân loại quy hoạch, quy
hoạch sử dụng đất. Tuy nhiên, mọi quan điểm điều dựa trên cơ sở hoặc căn cứ
chung nhất:
- Nhiệm vụ đặt ra đối với quy hoạch;
- Số lượng và thành phần đối tượng nằm trong quy hoạch;
- Phạm vi lãnh thổ quy hoạch cũng như nội dung và phuơng pháp quy hoạch.
Đối với nước ta, Luật Đất đai năm 1993 (Điều 16,17,18) quy định: Quy
hoạch sử dụng đất được tiến hành theo lãnh thổ và theo ngành.
14
Quy hoạch sử dụng đất theo lãnh thổ có các dạng sau:
- Quy hoạch tổng thể sử dụng đất cả nước;
- Quy hoạch sử dụng đất các vùng;
- Quy hoạch sử dụng đất cấp tỉnh;
- Quy hoạch sử dụng đất cấp huyện;
- Quy hoạch sử dụng đất cấp xã.
Quy hoạch theo ngành:
Dựa trên cơ sở đánh giá khả năng thích nghi của đất mà phân cho các
ngành sử dụng và định hướng cho người sử dụng đất phù hợp với đặc điểm từng
ngành để có hiệu quả kinh tế cao. Hiện nay một số ngành đã triển khai lập quy
hoạch sử dụng đất của ngành mình như ngành nông nghiệp, giao thông, thuỷ
lợi… nhưng tiến hành còn chậm.
Hai loại quy hoạch này có liên quan chặt chẽ với nhau. Các ngành tuy có
khác nhau về mục đích sử dụng nhưng đều được phân bố trên cùng một lãnh thổ
cụ thể nào đó (tức là trên một lãnh thổ tồn tại một lúc nhiều ngành). Do đó, tuỳ
thuộc vào đặc điểm phân bố lực lượng sản xuất và sự phát triển của các ngành
mà mỗi dạng quy hoạch theo lãnh thổ hành chính có thể bao hàm toàn bộ hoặc
một số quy hoạch theo ngành [7].
2.1.2.4. Cơ sở pháp lý của lập và điều chỉnh quy hoạch sử dụng đất
Đất nước ta đang trong thời kỳ chuyển mình hoà nhập mạnh mẽ với nền
kinh tế thế giới. Đặc biệt sau khi chúng ta gia nhập tổ chức thương mại thế giới
WTO thì nền kinh tế của chúng ta có sự chuyển biến mạnh với sự đa dạng về
các ngành nghề. Nhu cầu sử dụng đất của các ngành cũng tăng lên, vì vậy đã gây
áp lực đến tài nguyên đất đai. Do đó, việc phân bổ sử dụng đất một cách hợp lý
cho từng lĩnh vực của các ngành là vấn đề quan tâm của Đảng và Nhà nước ta.
Điều này được thể hiện thông qua các văn bản pháp luật như Hiến pháp, Luật,
Nghị định, Thông tư và các văn bản dưới luật tạo cơ sở pháp lý cho quy hoạch
sử dụng đất.
Để phù hợp với thực tiễn khách quan về tình hình quản lý sử dụng đất
hiện tại và tương lai, trong điều kiện nước ta chuyển sang nền kinh tế thị trường
hàng hóa nhiều thành phần có sự quản lý của nhà nước, ngày 01/07/2014 Luật
đất đai 2013 chính thức có hiệu lực, trong đó đã quy định rõ việc lập quy hoạch
và kế hoạch sử dụng đất. Tại Điều 22 Luật đất đai 2013 quy định: “Quy hoạch
15
và kế hoạch sử dụng đất là một trong 15 nội dung của quản lý nhà nước về đất
đai” [12].
Ngoài các văn bản có hiệu lực pháp lý cao của Nhà nước, còn có các văn
bản dưới luật, các văn bản của ngành, của địa phương trực tiếp hoặc gián tiếp đề
cập đến vai trò, ý nghĩa, căn cứ, nội dung và phương pháp lập quy hoạch, kế
hoạch sử dụng đất đối với địa bàn nghiên cứu đó là:
- Nghị định 43/2014/NĐ-CP của Chính phủ về việc thi hành Luật Đất đai.
- Thông tư số 29/2014/TT-BTNMT ngày 2/6/2014của Bộ Tài nguyên &
Môi trường quy định chi tiết việc lập, điều chỉnh và thẩm định quy hoạch, kế
hoạch sử dụng đất.
- Nghị định 181/2004/NĐ-CP của Chính phủ về việc thi hành Luật Đất đai.
- Quy hoạch tổng thể phát triển kinh tế - xã hội huyện Hòa Vang đến năm 2020.
2.1.2.5. Trình tự, nội dung lập, điều chỉnh quy hoạch, kế hoạch sử dụng đất
* Nội dung lập,điều chỉnh quy hoạch, kế hoạch sử dụng đất [3].
Việc lập,điều chỉnh quy hoạch, kế hoạch sử dụng đất của cả nước theo
quy định tại Chương 3 điều 7 của Nghị định số 43/2004/NĐ-CP ngày 15 tháng 5
năm 2014 của Chính phủ về thi hành Luật đất đai có nội dung điều chỉnh được
thực hiện như sau:
1. Trách nhiệm xác định nhu cầu sử dụng đất trong việc lập, điều chỉnh
quy hoạch, kế hoạch sử dụng đất cấp quốc gia được quy định như sau:
a) Các Bộ, ngành xác định nhu cầu sử dụng đất và đề xuất các dự án của
ngành, lĩnh vực phụ trách theo từng đơn vị hành chính cấp tỉnh; Ủy ban nhân
dân cấp tỉnh xác định nhu cầu sử dụng đất của địa phương;
b) Các Bộ, ngành và Ủy ban nhân dân cấp tỉnh gửi nhu cầu sử dụng đất về
Bộ Tài nguyên và Môi trường trong thời hạn 45 ngày kể từ ngày nhận được văn
bản của Bộ Tài nguyên và Môi trường về việc đề nghị đăng ký nhu cầu sử dụng đất;
c) Bộ Tài nguyên và Môi trường tổng hợp, cân đối nhu cầu sử dụng đất và
dự kiến phân bổ các chỉ tiêu sử dụng đất cấp quốc gia đến từng vùng kinh tế - xã
hội và đơn vị hành chính cấp tỉnh.
2. Quy hoạch, kế hoạch sử dụng đất cấp tỉnh:
a) Trách nhiệm xác định nhu cầu sử dụng đất trong việc lập, điều chỉnh
quy hoạch, kế hoạch sử dụng đất cấp tỉnh:
16
Các sở, ngành xác định nhu cầu sử dụng đất và đề xuất các dự án sử dụng
đất thuộc chỉ tiêu sử dụng đất cấp tỉnh theo từng đơn vị hành chính cấp huyện;
Ủy ban nhân dân cấp huyện xác định nhu cầu sử dụng đất của địa phương.
Các sở, ngành và Ủy ban nhân dân cấp huyện gửi nhu cầu sử dụng đất về
Sở Tài nguyên và Môi trường trong thời hạn 30 ngày kể từ ngày nhận được văn bản
của Sở Tài nguyên và Môi trường về việc đề nghị đăng ký nhu cầu sử dụng đất.
Sở Tài nguyên và Môi trường dự kiến phân bổ các chỉ tiêu sử dụng đất
cấp quốc gia và xác định danh mục các dự án trong quy hoạch, kế hoạch sử
dụng đất cấp quốc gia đến từng đơn vị hành chính cấp huyện; tổng hợp, cân đối
nhu cầu sử dụng đất và dự kiến phân bổ các chỉ tiêu sử dụng đất cấp tỉnh đến
từng đơn vị hành chính cấp huyện.
b) Chỉ tiêu sử dụng đất trong quy hoạch sử dụng đất cấp tỉnh gồm chỉ tiêu
sử dụng đất theo loại đất và chỉ tiêu sử dụng đất theo khu chức năng.
Chỉ tiêu sử dụng đất theo loại đất gồm chỉ tiêu sử dụng đất theo loại đất
do quy hoạch sử dụng đất cấp quốc gia phân bổ cho cấp tỉnh và chỉ tiêu sử dụng
đất theo loại đất do cấp tỉnh xác định. Chỉ tiêu sử dụng đất theo loại đất do cấp
tỉnh xác định gồm đất trồng cây lâu năm; đất trồng cây hàng năm khác; đất ở tại
nông thôn; đất ở tại đô thị; đất xây dựng trụ sở cơ quan; đất xây dựng trụ sở của
tổ chức sự nghiệp; đất xây dựng cơ sở ngoại giao; đất cụm công nghiệp; đất
thương mại, dịch vụ; đất cơ sở sản xuất phi nông nghiệp; đất sử dụng cho hoạt
động khoáng sản; đất phát triển hạ tầng cấp tỉnh; đất cơ sở tôn giáo; đất làm
nghĩa trang, nghĩa địa, nhà tang lễ, nhà hỏa táng.
Chỉ tiêu sử dụng đất theo khu chức năng gồm khu sản xuất nông nghiệp;
khu lâm nghiệp; khu bảo tồn thiên nhiên và đa dạng sinh học; khu phát triển
công nghiệp; khu đô thị; khu thương mại - dịch vụ; khu dân cư nông thôn.
c) Trong trường hợp cần thiết mà phải thay đổi về quy mô, địa điểm và số
lượng dự án, công trình trong cùng một loại đất nhưng không làm thay đổi về
chỉ tiêu và khu vực sử dụng đất theo chức năng sử dụng trong quy hoạch sử
dụng đất đã được phê duyệt thì Ủy ban nhân dân cấp tỉnh có trách nhiệm trình
Hội đồng nhân dân cùng cấp thông qua, chỉ đạo cập nhật vào quy hoạch, kế
hoạch sử dụng đất cấp huyện để tổ chức thực hiện.
3. Quy hoạch, kế hoạch sử dụng đất cấp huyện:
a) Trách nhiệm xác định nhu cầu sử dụng đất trong việc lập, điều chỉnh
quy hoạch, kế hoạch sử dụng đất cấp huyện:
17
Các phòng, ban cấp huyện xác định nhu cầu sử dụng đất và đề xuất các dự
án sử dụng đất thuộc danh mục chỉ tiêu sử dụng đất cấp huyện theo từng đơn vị
hành chính cấp xã; Ủy ban nhân dân xã, phường, thị trấn (sau đây gọi là Ủy ban
nhân dân cấp xã) xác định nhu cầu sử dụng đất của địa phương.
Các phòng, ban cấp huyện và Ủy ban nhân dân cấp xã gửi nhu cầu sử
dụng đất về Phòng Tài nguyên và Môi trường trong thời hạn 30 ngày kể từ ngày
nhận được văn bản của Phòng Tài nguyên và Môi trường về việc đề nghị đăng
ký nhu cầu sử dụng đất.
Phòng Tài nguyên và Môi trường xác định các chỉ tiêu sử dụng đất cấp
tỉnh và các dự án trong quy hoạch, kế hoạch sử dụng đất cấp tỉnh đã phân bổ cho
cấp huyện đến từng đơn vị hành chính cấp xã; tổng hợp, cân đối nhu cầu sử
dụng đất và dự kiến phân bổ các chỉ tiêu sử dụng đất cấp huyện đến từng đơn vị
hành chính cấp xã.
b) Chỉ tiêu sử dụng đất trong quy hoạch sử dụng đất cấp huyện gồm chỉ
tiêu sử dụng đất theo loại đất và chỉ tiêu sử dụng đất theo khu chức năng.
Chỉ tiêu sử dụng đất theo loại đất gồm chỉ tiêu sử dụng đất theo loại đất
do quy hoạch sử dụng đất cấp tỉnh phân bổ cho cấp huyện và chỉ tiêu sử dụng
đất theo loại đất do cấp huyện, cấp xã xác định. Chỉ tiêu sử dụng đất theo loại
đất do cấp huyện, cấp xã xác định gồm đất nông nghiệp khác; đất sản xuất vật
liệu xây dựng, làm đồ gốm; đất phát triển hạ tầng cấp huyện, cấp xã; đất sinh
hoạt cộng đồng, khu vui chơi, giải trí công cộng; đất tín ngưỡng; đất sông, ngòi,
kênh, rạch, suối và mặt nước chuyên dùng; đất phi nông nghiệp khác.
Chỉ tiêu sử dụng đất theo khu chức năng gồm khu vực chuyên trồng lúa
nước; khu vực chuyên trồng cây công nghiệp lâu năm; khu vực rừng phòng hộ,
rừng đặc dụng, rừng sản xuất; khu công nghiệp, cụm công nghiệp; khu đô thị thương mại - dịch vụ; khu du lịch; khu ở, làng nghề, sản xuất phi nông nghiệp
nông thôn.
4. Trong quá trình tổ chức lập quy hoạch, kế hoạch sử dụng đất quốc
phòng, an ninh, Bộ Quốc phòng, Bộ Công an có trách nhiệm phối hợp với Ủy
ban nhân dân cấp tỉnh xác định vị trí, diện tích các loại đất sử dụng vào mục
đích quốc phòng, an ninh quy định tại Điều 61 của Luật Đất đai tại địa phương.
5. Bộ Tài nguyên và Môi trường quy định chi tiết về trình tự, nội dung
lập, điều chỉnh quy hoạch, kế hoạch sử dụng đất.
18
2.2. Cơ sở thực tiễn của đề tài
2.2.1. Quy hoạch sử dụng đất ở một số nước trên thế giới
Quy hoạch sử dụng đất đai được thừa nhận trên thế giới cũng như ở Việt
Nam là khâu nghiên cứu về đất đai nhằm đưa đất vào sử dụng một cách có hiệu
quả.
Ở các quốc gia phát triển như Đức, Mỹ quy hoạch sử dụng đất luôn gắn
liền với việc giải quyết các yêu cầu về môi trường, đảm bảo sử dụng đất hiệu
quả bền vững. Vì vậy, quy hoạch sử dụng đất tại các nước này có tính khả thi
cao. Những nguyên tắc về sử dụng đất được thông qua ở thành phố NewYork từ
năm 1916 đến những năm 30 và hầu hết các Bang của nước Mỹ tuân thủ theo
nguyên tắc này. Đến những năm 70, các Bang này gặp phải một số vấn đề về
môi trường và sự bảo tồn các di tích lịch sử, nên đòi hỏi phải có những nguyên
tắc và tầm nhìn xa hơn. Từ đòi hỏi trên, Luật đất đai mới của Mỹ đã hình thành
hệ thống quy hoạch sử dụng đất mới.
Ở Đức: Điển hình là thành phố Berlin, hệ thống quy hoạch sử dụng đất đã
được xây dựng từ rất sớm. Chỉ vài năm sau khi có sự thống nhất toàn vẹn lãnh
thổ đất nước, năm 1994, hệ thống quy hoạch sử dụng đất được xây dựng với bản
đồ tỉ lệ 1:50.000. Sau đó, việc điều chỉnh và cập nhật những biến động đất đai
cho phù hợp với sự thay đổi của nền kinh tế, xã hội và mục tiêu của Chính phủ
được tiến hành thường xuyên. Do đó, hệ thống quy hoạch sử dụng đất ở thành
phố Berlin nói riêng, của Đức nói chung có hiệu quả cao, đảm bảo sử dụng đất
hiệu quả, tiết kiệm và bền vững, tạo đà cho sự phát triển nền kinh tế.
Ở Pháp: quy hoạch sử dụng đất đai được xây dựng theo hình thức mô
hình hóa nhằm đạt hiệu quả kinh tế cao trong việc sử dụng tài nguyên, môi
trường và lao động, áp dụng bài toán quy hoạch tuyến tính có cấu trúc và sản
xuất hợp lý, thúc đẩy phát triển kinh tế .
Ở Angiêri: Quy hoạch sử dụng đất đai ở Angiêri được xây dựng trên
nguyên tắc nhất thể hoá, liên hợp hóa và kỹ luật đa phía. Trong toàn bộ quá trình
quy hoạch có sự tham gia đầy đủ của các địa phương liên quan, các tổ chức ở
cấp Chính phủ, tổ chức nhà nước, các cộng đồng và các tổ chức nông gia…Ở
nước này, Chính phủ có trách nhiệm ngay từ đầu với những quan hệ ở tầm vĩ mô
còn công chúng người có liên quan tới các hành vi lập quy hoạch giữ một vị trí
quan trọng.
19
Ở Nam Phi: Ở Nam Phi đã thiết lập đồ án quy hoạch mặt bằng ở cấp quốc
gia do chính phủ thiết kế với sự tham gia của chính quyền các tỉnh. Đồ án quy
hoạch cấp quốc gia này được xem là căn cứ cho chính quyền cấp tỉnh soạn thảo
các đồ án chi tiết hơn với sự phối hợp của các đơn vị chính quyền cấp thấp hơn.
Các đồ án quy hoạch tiếp theo được xây dựng với sự tham gia của các chủ sử
dụng đất[5].
2.2.2. Tình hình quy hoạch đất đai ở Việt Nam qua các thời kỳ
* Thời kỳ 1975 - 1980
Thời kỳ này Chính phủ đã lập quy hoạch trong cả nước, kết quả đạt được
là cuối năm 1980 đã xây dựng xong các phương án quy hoạch phân vùng nông
nghiệp, lâm nghiệp, công nghiệp chế biến nông sản của cả nước, trong đó coi
quy hoạch đất nông nghiệp, lâm nghiệp là luận chứng quan trọng để phát triển.
Tuy nhiên, hạn chế lớn nhất trong quy hoạch đất đai thời kỳ này là số hiệu điều
tra cơ bản về thống kê đất đai, về thổ nhưỡng, điều kiện tự nhiên chưa đầy đủ.
Tính khả thi chưa cao vì chưa tính đến khả năng về đầu tư.
* Thời kỳ 1981 - 1986
Để thực hiện Nghị quyết của Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ V “Xúc tiến
công tác điều tra cơ bản lập tổng sơ đồ phát triển và phân bố lực lượng, nghiên
cứu chiến lược kinh tế, xã hội dự thảo kế hoạch triển vọng, kế hoạch cho 5 năm
sau (1986 - 1990)”. Chủ tịch hội đồng Bộ trưởng đã yêu cầu các ngành, các địa
phương, các cơ quan khoa học tập trung chỉ đạo chương trình lập tổng sơ đồ
phát triển và phân bố lực lượng sản xuất ở nước ta trong thời kỳ 1986 - 2000
(lập quy hoạch, kế hoạch sản xuất vùng trọng điểm, khu công nghiệp, du lịch,
xây dựng thành phố).
Trong thời kỳ này kết quả đã được nâng lên một bước về nội dung và cơ
sở khoa học của quy hoạch sử dụng đất đai. Tuy nhiên trong thời kỳ này quy
hoạch sử dụng đất cấp xã chưa được đề cập đến, còn quy hoạch cấp huyện, cấp
tỉnh và cả nước đã được đề cập đến nhưng chưa đầy đủ.
* Thời kỳ từ năm 1987 đến năm 1993
Ngày 29/12/1987 Quốc hội khoá VIII thông qua Luật Đất đai và chủ tịch
Hội đồng Nhà nước công bố ngày 08/11/1988. Đây là Luật đất đai đầu tiên được
ban hành và dành một số điều cho quy hoạch như xác định vai trò, vị trí của
công tác quy hoạch và quản lý sử dụng đất trong nền kinh tế quốc dân. Tuy
nhiên Luật đất đai 1988 chưa nêu ra nội dung của quy hoạch sử dụng đất đai.
20
Ngày 15/4/1991 Tổng cục Quản lý ruộng đất (nay là Bộ Tài nguyên Môi
trường) đã ra thông tư 106/QH-KHKĐ xây dựng quy hoạch sử dụng đất đai
tương đối cụ thể và hoàn chỉnh ở các cấp.
Ngày 18/2/1992 Tổng cục Quản lý ruộng đất đã kịp thời hoàn thành tài
liệu hướng dẫn lập quy hoạch phân bổ đất đai cấp xã. Do đó công tác quy hoạch
sử dụng đất đai được đẩy mạnh một bước, đặc biệt là công tác quy hoạch sử
dụng đất cấp xã được thực hiện.
* Thời kỳ từ 1993 đến năm 2003
Ngày 15/10/1993 Luật đất đai sửa đổi được công bố và có hiệu lực. Trong
luật này, các điều khoản nói về quy hoạch đã được cụ thể hóa hơn so với Luật
đất đai 1988. Luật đất đai 1993 tăng cường quyền hạn của cơ quan quyền lực
Nhà nước trong việc quy hoạch và kế hoạch sử dụng đất.
Từ nhận thức rõ tầm quan trọng của Quản lý Nhà nước về đất đai nói
chung và quy hoạch sử dụng đất nói riêng trong thời kỳ này Luật đất đai được
sửa đổi vào năm 1988 và năm 2001. Đồng thời trong cùng thời gian để tăng
cường công tác quy hoạch sử dụng đất trong phạm vi cả nước và căn cứ theo đề
nghị của Tổng cục trưởng Tổng cục Địa chính, Chính phủ ra Nghị định số
68/NĐ-CP ngày 01/10/2001 về quy hoạch, kế hoạch sử dụng đất đai. Để thực
hiện Nghị định 68 ngày 01/11/2001 có Thông tư số: 1842/TT-TCĐC hướng dẫn
thi hành Nghị định 68 của Tổng cục Địa chính.
Trong giai đoạn này Tổng cục Địa chính cho triển khai lập quy hoạch sử
dụng đất đai cả nước và các tỉnh, các huyện. Hầu hết các địa phương trong cả
nước đã lập quy hoạch, kế hoạch sử dụng đất.
* Thời kì từ 2003 đến năm 2013
Để góp phần nâng cao hiệu quả sử dụng đất, cũng như đảm bảo quyền
quản lý đất đai của Nhà nước theo Hiến pháp Nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa
Việt Nam. Tại kì họp thứ 4 Quốc hội khoá XI đã thông qua Luật đất đai 2003
thay cho Luật đất đai 2001 và luật có hiệu lực từ ngày 01/07/2004. Trong đó quy
hoạch, kế hoạch sử dụng đất được nhấn mạnh trong Chương 2 Mục 2 của Luật
đất đai.
Để thực hiện Luật đất đai 2003 Chính phủ ban hành Nghị định 181/NĐCP về việc hướng dẫn thi hành luật, trong đó Chương III Điều 12 cũng ghi cụ
thể nội dung quy hoạch sử dụng đất.
21
Để công tác lập quy hoạch, kế hoạch sử dụng đất được thống nhất trong
cả nước Bộ Tài nguyên và Môi trường ban hành các Thông tư số 30/2004/TTBTNMT ngày 01/11/2004 về việc hướng dẫn, điều chỉnh và thẩm định quy
hoạch, kế hoạch sử dụng đất, Thông tư số 28/2004/TT-BTNMT ngày
01/11/2004 về việc hướng dẫn thực hiện thống kê, kiểm kê đất đai và xây dựng
bản đồ hiện trạng sử dụng đất. Bộ Tài nguyên và Môi trường cũng ban hành
Quyết định số 04/2007/QĐ-BTNMT về việc ban hành quy trình lập và điều
chỉnh quy hoạch, kế hoạch sử dụng đất.
*Từ khi có luật 2013 cho đến nay
Để góp phần nâng cao hiệu quả sử dụng đất, cũng như đảm bảo quyền
quản lý đất đai của Nhà nước theo Hiến pháp Nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa
Việt Nam. Tại kì họp thứ 6 Quốc hội khoá XIII đã thông qua Luật đất đai 2013
thay cho Luật đất đai 2003 và luật có hiệu lực từ ngày 01/07/2014. Trong đó quy
hoạch, kế hoạch sử dụng đất được nhấn mạnh trong Chương IV của Luật đất đai
2013.
Để thực hiện Luật đất đai 2013 Chính phủ ban hành Nghị định 43/NĐ-CP
về việc hướng dẫn thi hành luật, trong đó Chương III Điều 7 cũng ghi cụ thể nội
dung quy hoạch sử dụng đất.
Để công tác lập quy hoạch, kế hoạch sử dụng đất được thống nhất
trong cả nước Bộ Tài nguyên và Môi trường ban hành các Thông tư số
29/2014/TT-BTNMT ngày 02/06/2014 về việc hướng dẫn, điều chỉnh và thẩm
định quy hoạch, kế hoạch sử dụng đất.
2.2.3. Kết quả lập quy hoạch, kế hoạch sử dụng đất các cấp ở Việt Nam
* Công tác lập quy hoạch sử dụng đất
- Quy hoạch sử dụng đất cả nước:
Quốc hội Nước cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam khóa IX, kỳ họp
thứ 11 đã thông qua quy hoạch, kế hoạch sử dụng đất đai cả nước đến năm
2010 (Nghị quyết số 01/1997/QH9 về kế hoạch sử dụng đất đai trong cả nước
5 năm, từ năm 1996 - 2000) và giao trách nhiệm cho các ngành, các tỉnh,
thành phố lập quy hoạch, kế hoạch sử dụng đất của ngành mình, địa phương
mình trình cấp có thẩm quyền phê duyệt. Năm 2000 Chính phủ đã chỉ đạo
Tổng cục Địa chính (nay là Bộ Tài nguyên và Môi trường) xây dựng quy
hoạch sử dụng đất đến năm 2010 và kế hoạch sử dụng đất đến năm 2007 của
cả nước trình Quốc hội khóa XI.
22
Đối với đất quốc phòng, an ninh: Chính phủ đã chỉ đạo Tổng cục Địa
chính phối hợp với Bộ quốc phòng, Bộ công an và UBND các tỉnh, thành phố
trực thuộc Trung ương tiến hành rà soát quy hoạch sử dụng đất đối với tất cả các
đơn vị trực thuộc Bộ quốc phòng và Bộ công an, đến nay đã hoàn thành trên
phạm vi cả nước.
Quy hoạch sử dụng đất cấp tỉnh: đến nay đã có 61 tỉnh, thành phố trực
thuộc Trung ương (thời điểm cuối năm 2003) hoàn thành lập quy hoạch sử dụng
đất đến năm 2010, trong đó 59 tỉnh, thành phố đã được Thủ tướng Chính phủ
phê duyệt.
Năm 2007 theo báo cáo của 63 tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương vẫn
còn 72 đơn vị cấp huyện chưa tổ chức triển khai, thuộc các tỉnh, thành phố như
Gia Lai còn 14/16 đơn vị; Cần Thơ còn 8/8 đơn vị; Hải Phòng còn 07/13 đơn vị;
An Giang còn 09/11 đơn vị; Quảng Nam còn 04/17 đơn vị; Đắk Nông còn 04/08
đơn vị; Đà Nẵng còn 03/08 đơn vị,... chưa hoàn thành việc lập quy hoạch sử
dụng đất [ 1].
Quy hoạch sử dụng đất cấp huyện, cả nước hiện có 223 huyện, quận, thị
xã, thành phố thuộc 40 tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương đã hoàn thành quy
hoạch sử dụng đất (chiếm 35,7% tổng số đơn vị cấp huyện); có 146 huyện, thị
khác thuộc 38 tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương đang triển khai quy hoạch
sử dụng đất (chiếm 23,4% tổng số đơn vị cấp huyện). Đánh giá chung công tác
quy hoạch sử dụng đất cấp huyện còn chậm (59,10% số đơn vị cấp huyện đã và
đang lập quy hoạch sử dụng đất), trong đó chủ yếu mới lập quy hoạch sử dụng
đất của các huyện, còn quy hoạch sử dụng đất đô thị của hầu hết các tỉnh, thành
phố chưa được lập.
Kết quả kiểm tra năm 2006, cả nước có 5.954/10.777 đơn vị hành chính
cấp xã (chiếm 55%) đã lập quy hoạch sử dụng đất đến năm 2010; 1.652 đơn vị
cấp xã (chiếm 15%) đang triển khai; còn 3.171 đơn vị cấp xã (chiếm 30%) chưa
triển khai công tác lập quy hoạch, kế hoạch sử dụng đất [2].
Bộ trưởng Bộ Tài nguyên và Môi trường Nguyễn Minh Quang cho biết,
sau 5 năm thực hiện Quy hoạch sử dụng đất đến năm 2020 và kế hoạch sử dụng
đất 5 năm (2011-2015) cấp quốc gia theo Nghị quyết số 17/2011/QH13 ngày
22/11/2011 của Quốc Hội khóa 13 đã đạt được những kết quả tích cực, góp phần
quan trọng vào phát triển kinh tế - xã hội, công tác quản lý đất đai từng bước đi
vào nề nếp, sử dụng đất đai hiệu quả cao hơn. Tuy nhiên, trong quá trình tổ chức
thực hiện cũng còn có những hạn chế và phát sinh các vấn đề cần điều chỉnh cho
phù hợp với tình hình thực tế và yêu cầu phát triển kinh tế - xã hội, quốc phòng
23
an ninh trong giai đoạn mới. Thủ tướng Chính phủ đã giao Bộ Tài nguyên và
Môi trường chủ trì, phối hợp với các Bộ, ngành và các địa phương lập phương
án điều chỉnh quy hoạch sử dụng đất đến năm 2020, lập kế hoạch sử dụng đất kỳ
cuối (2016-2020) cấp quốc gia.
Theo quy định tại Điều 46 Luật Đất đai, quy hoạch sử dụng đất được điều
chỉnh khi có sự điều chỉnh chiến lược phát triển kinh tế - xã hội, quốc phòng, an
ninh của quốc gia. Quy hoạch sử dụng đất đến năm 2020 cấp quốc gia được xây
dựng dựa trên các chỉ tiêu phát triển kinh tế - xã hội trong Nghị quyết Đại hội XI
của Đảng. Một số chỉ tiêu, định hướng phát triển kinh tế - xã hội đã có sự điều
chỉnh, bổ sung tại Đại hội XII của Đảng, đặt ra yêu cầu cần thiết phải điều chỉnh
Quy hoạch sử dụng đất đáp ứng cho việc tổ chức thực hiện Nghị quyết Đại hội
XII của Đảng.
Quy hoạch sử dụng đất đến năm 2020 cấp quốc gia được lập theo quy
định của Luật Đất đai 2003, có một số nội dung chưa phù hợp với quy định của
Luật Đất đai 2013. Do đó, Luật Đất đai 2013 (khoản 1 Điều 51) đã quy định: đối
với quy hoạch, kế hoạch sử dụng đất đã được cơ quan nhà nước có thẩm quyền
quyết định, phê duyệt trước ngày Luật Đất đai 2013 có hiệu lực thi hành thì phải rà
soát, điều tra bổ sung để điều chỉnh quy hoạch, kế hoạch sử dụng đất cho phù hợp
với quy định của Luật này khi lập kế hoạch sử dụng đất 05 năm (2016-2020).
* Công tác lập kế hoạch sử dụng đất
Cấp tỉnh: thực hiện Luật đất đai năm 1993 và hướng dẫn của Tổng cục
Địa chính (nay là Bộ Tài nguyên và Môi trường), UBND các tỉnh, thành phố,
trực thuộc Trung ương đã chỉ đạo xây dựng kế hoạch sử dụng đất hàng năm và
kế hoạch sử dụng đất 5 năm trình Chính phủ xét duyệt, làm căn cứ cho việc giao
đất, cho thuê đất, thu hồi đất và chuyển mục đích sử dụng đất ở địa phương. Kết
quả lập kế hoạch sử dụng đất đai hàng năm của các tỉnh, thành phố trực thuộc
Trung ương được thực hiện từ năm 1995 đến nay đã đi vào nề nếp.
2.2.4. Khái quát về tình hình thực hiện quy hoạch sử dụng đất ở Việt Nam
Tuy kết quả lập quy hoạch, kế hoạch sử dụng đất của các cấp trong những
năm qua là khả quan, nhưng cũng phải thừa nhận rằng quy hoạch sử dụng đất ở
nước ta còn yếu. Sự yếu kém ở đây không chỉ ở khâu lập quy hoạch mà còn yếu
ở trong khâu thực hiện quy hoạch. Đối với rất nhiều dự án quy hoạch sử dụng
đất, việc lập quy hoạch được tiến hành rất nhanh, nhưng khi đưa vào thực hiện
thì lại rất chậm hoặc không thực hiện được đúng kỳ quy hoạch. Bởi lẽ những
quy hoạch như vậy không được tính toán đến khả năng thực hiện, cả về nguồn
vốn đầu tư cũng như sự hạn chế về tầm nhìn của cán bộ làm quy hoạch, các nhà
quản lý ở địa phương. Đây chính là một trong những nguyên nhân gây ra các
24
phương án quy hoạch không khả thi, một trong những vấn đề nổi cộm hiện nay
của nước ta.
Một thực tế hiện nay ở các thành phố lớn, các khu đô thị lớn, các trung
tâm công nghiệp, đã có rất nhiều dự án, quy hoạch sử dụng đất được lập và được
phê duyệt nhưng lại chưa thực hiện được, điển hình là các thành phố lớn như Hà
Nội, thành phố Hồ Chí Minh, Đà Nẵng,...
Công tác lập quy hoạch, kế hoạch sử dụng đất cấp huyện còn chậm so với
yêu cầu tại Chỉ thị số 09/2007/CT-TTg của Thủ tướng Chính phủ, chưa có sự
chuyển biến tích cực.
Tình trạng quy hoạch không thực hiện được, dự án không thực hiện được
diễn ra ngày càng nhiều, gây nên những hậu quả nghiêm trọng cho kinh tế - xã
hội, làm chậm sự phát triển của đất nước.
Kết quả thực hiện quy hoạch sử dụng đất đã góp phần tăng cường hiệu
lực, hiệu quả quản lý và sử dụng đất đai, phục vụ phát triển kinh tế, xã hội, quốc
phòng an ninh trong quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước:
+ Quy hoạch sử dụng đất theo cơ chế quản lý nền kinh tế thị trường định
hướng xã hội chủ nghĩa, gắn với sự chuyển dịch cơ cấu sử dụng đất, phân công
lao động, thúc đẩy quá trình công nghiệp hóa nông nghiệp, hiện đại hóa nông
thôn, nâng cao hiệu quả sử dụng đất, góp phần đảm bảo an ninh lương thực quốc
gia, đồng thời đưa nước ta vào nhóm những nước hàng đầu thế giới về xuất khẩu
gạo; diện tích đất rừng tự nhiên được khôi phục cùng diện tích trồng mới tăng đã
nâng độ che phủ đất từ 28% năm 1990 lên 32% năm 1995, 35% năm 2000 và
44% năm 2007;
+ Quy hoạch sử dụng đất, đã góp phần tạo lập quỹ đất, thu hút đầu tư để
phát triển cơ sở hạ tầng kỹ thuật, xã hội đáp ứng yêu cầu phát triển các ngành
giao thông, công nghiệp, nông nghiệp, xây dựng, dịch vụ; khoa học kỹ thuật,
giáo dục, y tế, văn hóa, thể dục thể thao...thực hiện công nghiệp hóa-hiện đại
hóa đất nước[5].
2.2.5. Khái quát tình hình thực hiện quy hoạch, kế hoạch sử dụng đất trên địa
bàn thành phố Đà Nẵng
Ngay từ khi chia tách tỉnh, lập nên thành phố Đà Nẵng một đô thị loại I
trực thuộc Trung ương năm 1997, nhận thấy quy hoạch sử dụng đất thuộc tỉnh
Quảng Nam - Đà Nẵng (cũ) đã không còn phù hợp với sự phát triển của thành
phố nữa. Căn cứ tình hình thực tế tại địa phương cũng như định hướng phát triển
kinh tế - xã hội, thành phố đã tiến hành lập: “Quy hoạch sử dụng đất thành phố
Đà Nẵng thời kì 1997 - 2003”. Sau một thời gian thực hiện, đến năm 2003 do có
sự điều chỉnh chiến lược phát triển kinh tế - xã hội, nên Đà Nẵng xây dựng
25