Tải bản đầy đủ (.pdf) (91 trang)

Đầu tư, thương mại của Trung Quốc vào tỉnh Hải Dương (Việt Nam) Thực trạng và triển vọng

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (751.67 KB, 91 trang )

VIỆN HÀN LÂM
KHOA HỌC VIỆT NAM
HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI

NGHIÊM XUÂN TUẤN

ĐẦU TƯ, THƯƠNG MẠI CỦA TRUNG QUỐC VÀO TỈNH
HẢI DƯƠNG (VIỆT NAM): THỰC TRẠNG VÀ TRIỂN VỌNG

LUẬN VĂN THẠC SĨ CHÂU Á HỌC

Hà Nội, năm 2016


VIỆN HÀN LÂM
KHOA HỌC VIỆT NAM
HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI

NGHIÊM XUÂN TUẤN

ĐẦU TƯ, THƯƠNG MẠI CỦA TRUNG QUỐC VÀO TỈNH
HẢI DƯƠNG (VIỆT NAM): THỰC TRẠNG VÀ TRIỂN VỌNG

Chuyên ngành: Châu Á học

LUẬN VĂN THẠC SỸ CHÂU Á HỌC
Người hướng dẫn khoa học: TS. Hoàng Thế Anh

Hà Nội, năm 2016



LỜI CẢM ƠN
Lời đầu tiên tôi xin chân thành bày tỏ lòng cảm ơn sâu sắc đến Ban Giám
đốc, quý thày, cô khoa Quốc tế học, Học viện Khoa học xã hội đã tận tình
giảng dạy, giúp đỡ, tạo điều kiện tốt nhất để tôi hoàn thành luận văn này.
Tôi xin được bày tỏ sự trân trọng và lời cảm ơn sâu sắc đến TS Hoàng
Thế Anh, người đã tận tình giúp đỡ, hướng dẫn tôi trong suốt quá trình nghiên
cứu và thực hiện đề tài này.
Tôi xin trân trọng cảm ơn lãnh đạo, cán bộ các sở, ngành: Sở Công
thương, Sở Kế hoạch & Đầu tư, Sở Lao động, thương binh và xã hội, Ban
Quản lý các Khu Công nghiệp, Hội Doanh nghiệp trẻ tỉnh, một số doanh nhân
trên địa bàn tỉnh Hải Dương đã nhiệt tình cộng tác, cung cấp thông tin, số liệu
và tạo điều kiện thuận lợi cho tôi trong quá trình nghiên cứu thực tế để làm
luận văn.
Xin được trân trọng cảm ơn những người thân, bạn bè, đồng nghiệp đã
luôn chia sẻ, tạo điều kiện, giúp đỡ tôi học tập, nghiên cứu và hoàn thành luận
văn.
Mặc dù đã rất nỗ lực, cố gắng trong quá trình nghiên cứu, song luận
văn không tránh khỏi những thiếu sót, kính mong nhận được những lời chỉ
dẫn của các thầy giáo, cô giáo, ý kiến đóng góp trao đổi của các bạn đồng
nghiệp để luận văn được hoàn thiện hơn.
Trân trọng cảm ơn!
Hải Dương, ngày 26 tháng 7 năm 2016
Tác giả luận văn

Nghiêm Xuân Tuấn


LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan rằng, số liệu và kết quả nghiên cứu trong luận văn này
là trung thực và không trùng lặp với các đề tài khác. Tôi cũng xin cam đoan

rằng mọi sự giúp đỡ cho việc thực hiện luận văn này đã được cảm ơn và các
thông tin trích dẫn trong luận văn đã được chỉ rõ nguồn gốc.

Hải Dương, ngày 26 tháng 7 năm 2016
Tác giả luận văn

Nghiêm Xuân Tuấn


MỤC LỤC
MỞ ĐẦU……………………………………………………………………..1
Chương 1. CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ ĐẦU TƯ, THƯƠNG MẠI VÀ NHỮNG
NHÂN TỐ TÁC ĐỘNG ĐẾN ĐẦU TƯ, THƯƠNG MẠI CỦA TRUNG
QUỐC VÀO TỈNH HẢI DƯƠNG…………………………………………..11
1.1. Khái niệm cơ bản………………………………………………………..11
1.2. Những nhân tố tác động đến đầu tư, thương mại của Trung Quốc vào tỉnh
Hải Dương…………………………………………………………………...21
Chương 2. THỰC TRẠNG ĐẦU TƯ VÀ THƯƠNG MẠI CỦA TRUNG
QUỐC VÀO TỈNH HẢI DƯƠNG………………………………………….23
2.1. Khái quát đặc điểm tình hình kinh tế, xã hội tỉnh Hải Dương trong vòng 5
năm trở lại đây (giai đoạn 2010 - 2015)……………………………………..23
2.2. Thực trạng đầu tư, thương mại của Trung Quốc vào tỉnh Hải Dương (Việt
Nam)................................................................................................................25
Chương 3. TRIỂN VỌNG, PHƯƠNG HƯỚNG, GIẢI PHÁP VỀ ĐẦU TƯ,
THƯƠNG MẠI CỦA TRUNG QUỐC VÀO TỈNH HẢI DƯƠNG………...59
3.1. Dự báo về triển vọng, xu hướng đầu tư, thương mại của Trung Quốc tại
tỉnh Hải Dương………………………………………………………………59
3.2. Giải pháp tăng cường thu hút, nâng cao hiệu quả đầu tư…………….. 65
3.3. Giải pháp quan hệ thương mại hiệu quả………………………………..69
KẾT LUẬN …………………………………………………………............73

DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO……………………………………78


MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Cùng với quá trình đổi mới ở Việt Nam và cải cách mở cửa ở Trung
Quốc, kể từ khi hai nước bình thường hóa quan hệ năm 1991 đến nay, mối
quan hệ kinh tế giữa Việt Nam và Trung Quốc ngày càng phát triển. Trung
Quốc trở thành một trong những đối tác thương mại quan trọng của Việt Nam
và kim ngạch mậu dịch giữa hai nước đã liên tục gia tăng. Đến hết năm 2010,
kim ngạch mậu dịch hai nước đã đạt trên 30 tỷ USD và năm 2015, con số này
vượt 50 tỷ USD. Điều đáng nói là, nếu như 10 năm đầu sau bình thường hóa
quan hệ (1991 - 2001), kim ngạch xuất khẩu của Việt Nam sang thị trường
Trung Quốc là khá nhỏ bé so với kim ngạch xuất khẩu của Trung Quốc sang
thị trường Việt Nam, thì từ sau năm 2001, tình hình đã có những cải thiện
đáng kể. Việt Nam gia tăng nhanh kim ngạch xuất khẩu sang thị trường Trung
Quốc một cách đều đặn, bình quân mỗi năm tăng 13,75%. Hai nước dự tính
nâng kim ngạch thương mại song phương lên 100 tỷ USD vào năm 2017.
Quan hệ hợp tác đầu tư hai chiều Việt Nam - Trung Quốc cũng tăng
đáng kể, có sự chuyển hướng rõ rệt từ lĩnh vực khách sạn, nhà hàng và hàng
tiêu dùng sang công nghiệp chế biến, chế tạo. Cho đến nay th o bảng xếp
hạng, DI của Trung Quốc tại Việt Nam mới đứng thứ 9 101 nước và vùng
lãnh thổ có đầu tư tại Việt Nam, với 1.0 2 dự án còn hiệu lực, tổng vốn đăng
ký 7,9 0 tỷ USD. [15 tr.101]
Mặc dù vậy, quan hệ kinh tế giữa Việt Nam và Trung Quốc còn nhiều
những tồn tại, bất cập, như Việt Nam nhập siêu quá nhiều từ Trung Quốc, tỷ
lệ nhập siêu của Việt Nam, chủ yếu là nguyên vật liệu phụ trợ, linh kiện và
máy móc thiết bị, từ Trung Quốc tăng mạnh qua từng năm: , tỷ năm 2006;
11,5 tỷ năm 2009; 12,7 tỷ USD năm 2011; 16, tỷ USD năm 2012; và 23,7 tỷ
1



USD năm 2013. Nhập siêu của Việt Nam từ Trung Quốc trong bảy tháng đầu
năm 2015 tăng ,5 tỷ USD so với cùng kỳ năm 201 . Trung bình kim ngạch
nhập siêu là 2,16 tỷ USD tháng. Thặng dư thương mại nghiêng lệch về phía
Trung Quốc cộng với nhiều mặt hàng nhập vào Việt Nam từ Trung Quốc
chưa bảo đảm chất lượng có những ảnh hưởng tiêu cực đối với kinh tế Việt
Nam, làm cho kinh tế Việt Nam phụ thuộc kinh tế Trung Quốc. [17, tr60-61]
Hải Dương là tỉnh nằm ở đồng bằng sông Hồng, thuộc vùng kinh tế
trọng điểm Bắc bộ, cách thủ đô Hà Nội 57 km về phía đông, cách thành phố
Hải Phòng 45 km về phía tây. Phía tây bắc giáp tỉnh Bắc Ninh, phía bắc giáp
tỉnh Bắc Giang, phía đông bắc giáp tỉnh Quảng Ninh, phía đông giáp thành
phố Hải Phòng, phía nam giáp tỉnh Thái Bình và phía tây giáp tỉnh Hưng Yên.
Th o quy hoạch năm 2007, Hải Dương nằm trong Vùng thủ đô với vai trò là
một trung tâm công nghiệp của toàn vùng. Toàn tỉnh hiện có 11 Khu công
nghiệp và 33 cụm công nghiệp. Th o quy hoạch mới được phê duyệt thì đến
năm 2020 toàn tỉnh có 17 KCN. Trong hợp tác phát triển “Hai hành lang, một
vành đai kinh tế” giữa Việt Nam và Trung Quốc, Hải Dương nằm trên hai
tuyến hành lang kinh tế (Nam Ninh - Lạng Sơn - Hà Nội – Hải Phòng; Côn
Minh - Lào Cai – Hà Nội - Hải Phòng). [13]
Với những điều kiện địa lý và tự nhiên thuận lợi cho việc phát triển quan
hệ kinh tế với Trung Quốc, những năm qua đã có tổng số 2 dự án của Trung
Quốc đầu tư trực tiếp vào tỉnh Hải Dương; kim ngạch thương mại giữa Trung
Quốc với tỉnh Hải Dương cũng tăng lên nhanh chóng.
Tuy nhiên, tình hình đầu tư của các doanh nghiệp Trung Quốc, cũng như
thương mại giữa tỉnh Hải Dương với thị trường Trung Quốc còn chưa tương
xứng với tiềm năng, nhất là với những thuận lợi về điều kiện địa lý, vị trí
trung tâm của chiến lược “Hai hành lang, Một vành đai kinh tế” giữa Việt
Nam và Trung Quốc.
2



Hiện nay, th o thống kê, vốn DI của Trung Quốc đầu tư vào tỉnh Hải
Dương đứng 17 trên tổng số 63 tỉnh, thành của Việt Nam [15, tr117]. Làm thế
nào để Hải Dương có thể dễ dàng thu hút vốn đầu tư của các doanh nghiệp
Trung Quốc, nhất là các nguồn đầu tư có chất lượng, hiệu quả cao cũng như
nâng cao kim ngạch thương mại hai chiều giữa Trung Quốc với tỉnh Hải
Dương là câu hỏi được đặt ra không chỉ với các nhà lãnh đạo tỉnh Hải Dương,
mà còn là yêu cầu chung của tỉnh.
Xuất phát từ những phân tích trên đây, là một cán bộ công chức làm việc
tại tỉnh Hải Dương, học viên lựa chọn đề tài "Đầu tư, thương mại của Trung
Quốc vào tỉnh Hải Dương (Việt Nam): thực trạng và triển vọng” làm Luận
văn tốt nghiệp để nghiên cứu thực trạng đầu tư, thương mại của Trung Quốc
hiện nay ở tỉnh Hải Dương? Là việc làm có ý nghĩa khoa học và thực tiễn.
Bởi từ nghiên cứu này có thể so sánh mô hình đầu tư, thương mại của Hải
Dương với tình hình chung của cả nước trong quan hệ kinh tế với Trung
Quốc, tìm ra được những đặc trưng của Hải Dương. Từ đó đề xuất, kiến nghị
làm thế nào để thu hút ngày một nhiều các dự án, nhất là lựa chọn được
những dự án đầu tư có chất lượng từ Trung Quốc để giúp cho sự phát triển
kinh tế - xã hội của Hải Dương, cũng như nâng cao kim ngạch thương mại
của tỉnh Hải Dương với phía Trung Quốc.
2. Tình hình nghiên cứu đề tài
Nghiên cứu về quan hệ giữa Việt Nam – Trung Quốc, đặc biệt là
thương mại, đầu tư của Trung Quốc vào Việt Nam là một đề tài hấp dẫn đã
được rất nhiều tác giả quan tâm nghiên cứu, tìm hiểu ở nhiều khía cạnh khác
nhau. Có thể nêu ra một số công trình tiêu biểu như sau:
“Quan hệ kinh tế thương mại cửa khẩu biên giới Việt – Trung với việc
phát triển kinh tế hàng hóa ở các tỉnh vùng núi phía Bắc” do Phạm Văn Linh
chủ biên – Nhà xuất bản Thống kê, Hà Nội năm 1999. [21]. Tác giả đã làm rõ
3



vị trí, vai trò và tiềm năng kinh tế của các cửa khẩu biên giới Việt Trung,
phân tích sự tác động qua lại giữa các nhân tố ảnh hưởng tới quan hệ thương
mại ở các cửa khẩu đối với việc phát triển kinh tế hàng hoá, tìm ra giải pháp
thích hợp nhằm mở rộng thị trường, tăng cường trao đổi hàng hoá qua các cửa
khẩu biên giới, tạo đà cho việc đẩy mạnh công cuộc công nghiệp hóa – hiện
đại hóa ở khu vực này.
“Khuyến khích đầu tư – thương mại vào các khu kinh tế cửa khẩu Việt
Nam” của Nguyễn Mạnh Hùng – Nhà xuất bản Thống kê, Hà Nội năm
2000.[11]. Tác giả phân tích một số vấn đề lý luận, phương pháp luận, tình
hình thực tế và chính sách đầu tư, thương mại các khu kinh tế cửa khẩu Việt
Nam và góp phần vào công tác quy hoạch, xây dựng các kế hoạch hành động
tích cực.
Tác giả Phạm Văn Linh “Các khu kinh tế cửa khẩu biên giới Việt –
Trung và tác động của nó tới sự phát triển kinh tế hàng hóa ở Việt Nam”,
Nhà Xuất bản Chính trị quốc gia, Hà Nội năm 2001. [20]. Tác giả đã phân
tích vị trí, tầm quan trọng của khu kinh tế cửa khẩu trong quá trình hội nhập,
mở cửa kinh tế thị trường; đồng thời nêu thực trạng, quá trình hình thành và
những tác động của

khu kinh tế cửa khẩu (Lạng Sơn, Quảng Ninh, Cao

Bằng, Lào Cai). Trên cơ sở đó đề xuất các quan điểm và giải pháp chủ yếu
nhằm phát huy tác dụng tích cực của mô hình kinh tế mới này.
Năm 2007, Viện Khoa học xã hội Việt Nam và Ủy ban nhân dân thành
phố Hải Phòng ban hành kỷ yếu hội thảo “Phát triển hai hành lang, một vành
đai kinh tế Việt – Trung trong khuôn khổ hợp tác ASEAN – Trung Quốc”.[13].
Hội thảo với những phát biểu phân tích, lý giải về vị trí, vai trò và ý nghĩa của
hợp tác phát triển “Hai hành lang, một vành đai kinh tế” đối với sự phát triển

kinh tế của mỗi nước cũng như quan hệ kinh tế Việt – Trung trong khuôn khổ
hợp tác ASEAN – Trung Quốc.
4


“Thương mại Việt Nam – Trung Quốc hiện trạng và triển vọng”, đề tài
cấp viện Lê Tuấn Thanh, Trung tâm Khoa học Xã hội & Nhân văn Quốc gia,
năm 2003.[33]. Tác giả đã nghiên cứu tình hình phát triển kinh tế, thương mại
trong nội bộ của hai nước sau đó tác giả đưa ra cái nhìn tổng quan về triển
vọng cho thương mại Việt Nam – Trung Quốc trong tương lai
Nguyễn Đình Liêm với “Quan hệ Việt – Trung trước sự trỗi dậy của
Trung Quốc” [17], trong đó đã đề cập đến quan hệ giữa hai nước trên nhiều
lĩnh vực chính trị, kinh tế, văn hóa, xã hội, đồng thời nêu ra những thách thức,
khó khăn, đề xuất một số giải pháp trong quan hệ của Việt Nam trước sự trỗi
dậy của Trung Quốc.
“Quan hệ kinh tế thương mại Việt Nam – Trung Quốc từ khi bình
thường hóa quan hệ đến nay”, đề tài cấp Viện của Lê Tuấn Thanh – Phòng
Nghiên cứu Quan hệ Việt – Trung, Hà Nội năm 2006.[34]. Tác giả đã tìm
hiểu đặc điểm các giao dịch của quan hệ kinh tế thương mại song phương.
Trong thời gian từ khi bình thường hóa đến năm 2005. Đồng thời, cũng phân
tích những nhân tố gây trở ngại tiến trình khai thác kinh tế, thương mại song
phương và tìm hiểu mối quan hệ song phương trong thời gian tới thông qua
việc hai nước sẽ là thành viên của AC TA.
Nguyễn Minh Hằng: “Buôn bán qua biên giới Việt Trung: Lịch sử,
hiện trạng và triển vọng”[9] Nhà xuất bản Khoa học xã hội, Hà Nội năm
2011. Tác giả đã trình bày quá trình buôn bán qua biên giới Việt – Trung
trong lịch sử. Phân tích và đánh giá những mặt được và chưa được của quá
trình buôn bán biên giới Việt – Trung từ khi hai nước bình thường hóa quan
hệ và triển vọng của nó.
“Nghiên cứu về tình hình buôn bán biên giới ở vùng Tây Bắc - Việt

Nam” của Đỗ Tiến Sâm và Hà Thị Hồng Vân, Viện Khoa học Xã hội Việt
Nam, Hà Nội năm 2007.[31]. Các tác giả nghiên cứu về thực trạng phát triển
5


kinh tế, xã hội nói chung và hoạt động thương mại qua biên giới nói riêng,
nêu một số quan điểm và giải pháp nhằm phát triển kinh tế, xã hội ở

tỉnh

thuộc vùng Tây Bắc bao gồm Điện Biên, Lào Cai, Sơn La, Hoà Bình.
Tác giả Khánh Linh với bài viết “Trung Quốc áp dụng chính sách xuất
khẩu mới cho Việt Nam” đã phân tích những chính sách xuất khẩu mới của
Trung Quốc đưa ra trong đó có việc áp dụng các chính sách này cho Việt
Nam; đánh giá hiệu quả của các chính sách này và những bài học kinh
nghiệm cho Việt Nam.
Tác giả Phương Linh “Việt Nam lệ thuộc hàng hóa Trung Quốc nhiều
nhất Đông Nam Á” [22] nêu ra thực trạng nhập khẩu của Việt Nam quá lớn từ
Trung Quốc, xuất khẩu cũng có nguy cơ lệ thuộc lớn vào thị trường Trung
Quốc và những ảnh hưởng từ việc lệ thuộc đó.
Nguyễn Phương Hoa: “Đầu tư trực tiếp của Trung Quốc tại Việt Nam
những năm qua”.[10]. Tác giả đã đánh giá đầu tư trực tiếp của Trung Quốc
tại Việt Nam trong những năm qua đã có những chuyển biến rõ rệt so với 9
năm đầu sau khi hai nước bình thường hóa quan hệ. Từ năm 2000, đầu tư của
Trung Quốc đã tăng nhanh chóng cả về số lượng, quy mô và địa bàn đầu tư.
Tuy nhiên, những dự án đầu tư vẫn chủ yếu còn nhỏ, hiệu quả đầu tư chưa
tương xứng với thực tế.
Ngoài ra, còn có một số bài viết nghiên cứu chuyên sâu về mối quan hệ
thương mại giữa Việt Nam và Trung Quốc như: “Phát triển thương mại hành
lang kinh tế Côn Minh- Lào Cai – Hà Nội- Hải Phòng” của tác giả Nguyễn

Văn Lịch, NXB thống kê, Hà Nội năm 2005 [18]; “Toàn văn của Hiệp định
Đối tác xuyên Thái Bình Dương TPP” bài viết trên Báo điện tử VN Expr ss
ngày 5 11 2015 [7]; “Dệt may cần đổi mới để hội nhập và hiệu quả”, Báo
Chính phủ, ngày

3 2016 [4]; Bài viết của Thủ tướng Chính phủ Nguyễn Tấn

Dũng “Hiệp định Đối tác xuyên Thái Bình Dương, cơ hội và thách thức 6


Hành động của chúng ta” [8]; “Nghiên cứu, đánh giá đầu tư trực tiếp của
Trung Quốc tại Việt Nam” đề tài nghiên cứu cấp Bộ của tác giả Nguyễn Đình
Liêm.[14] “Quan hệ Thương mại Việt – Trung từ năm 1991 - nay” của Phạm
Cao Phong (2000), Tạp chí nghiên cứu Trung Quốc [28]; “Mấy suy nghĩ về
vấn đề: Nâng cao quản lý nhà nước về quan hệ mậu dịch qua biên giới Việt –
Trung ở Lạng Sơn” của Nông Tiến Phong (1999), Tạp chí nghiên cứu Trung
Quốc [29]; “Hội chợ giao dịch hàng hoá biên giới Trung - Việt sẽ được tổ
chức vào tháng 10”, Đại sứ quán Trung Quốc (2003), Bản tin Trung Quốc;
“Cuộc hội thảo kinh tế thương mại Trung - Việt”, Đại sứ quán Trung Quốc
(2003), Bản tin Trung Quốc; Hiệp định hợp tác “Hội nghị Uỷ ban hợp tác
kinh tế - thương mại Chính phủ hai nước Trung - Việt lần thứ năm tổ chức tại
Hà Nội”, Đại sứ quán Trung Quốc (2005), Bản tin Trung Quốc; luận văn thạc
sỹ Đào Thị Hồng Duyên “Quan hệ thương mại qua biên giới giữa Việt Nam
và Trung Quốc – Thực tế ở Lạng Sơn”.
Các nghiên cứu đã tập trung khai thác nhiều góc độ trong quan hệ kinh
tế, thương mại giữa Việt Nam với Trung Quốc, những tác động tích cực và
tiêu cực từ các dự án đầu tư của các doanh nghiệp Trung Quốc tại Việt Nam.
Bên cạnh đó, cũng có những nghiên cứu đã đi sâu tìm hiểu về mối quan hệ
thương mại, xuất nhập khẩu hàng hóa giữa các địa phương đặc biệt vùng biên
giới với các tỉnh giáp ranh Việt Nam của Trung Quốc.

Tuy nhiên, cho đến thời điểm hiện nay chưa có đề tài nghiên cứu khoa
học nào đề cập đến trường hợp cụ thể về đầu tư, thương mại của Trung Quốc
vào tỉnh Hải Dương và đánh giá về những triển vọng, dự báo xu hướng. Vì
vậy, học viên đã mạnh dạn lựa chọn nghiên cứu vấn đề này nhằm mong muốn
có thể tìm ra cơ hội thúc đẩy quan hệ kinh tế thực chất của Hải Dương (Việt
Nam) với Trung Quốc, đồng thời làm thế nào để hạn chế những tác động tiêu
cực từ sự chuyển đổi phương thức phát triển kinh tế của Trung Quốc đ m lại.
7


3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
3.1. Mục đích nghiên cứu
Luận văn nhằm tìm hiểu thực trạng và phân tích tình hình đầu tư,
thương mại của Trung Quốc vào tỉnh Hải Dương, đồng thời đề ra những giải
pháp khắc phục những khó khăn, hạn chế, đồng thời đề xuất, kiến nghị những
giải pháp thúc đẩy quan hệ kinh tế của tỉnh Hải Dương với Trung Quốc, đặc
biệt là những thu hút đầu tư, thương mại của Trung Quốc vào tỉnh Hải Dương
(Việt Nam) đảm bảo hiệu quả, chất lượng. Bên cạnh đó, qua việc đánh giá
thực trạng thương mại của Trung Quốc với tỉnh Hải Dương cũng sẽ góp phần
tìm ra các giải pháp nâng cao kim ngạch thương mại xuất, nhập khẩu, nhất là
xuất khẩu hàng hóa sang thị trường Trung Quốc.
3.2. Nhiệm vụ nghiên cứu
- Làm rõ cơ sở lý luận, thực trạng tình hình thương mại, đầu tư của
Trung Quốc vào tỉnh Hải Dương (Việt Nam).
- Phân tích những nhân tố ảnh hưởng tới khả năng thu hút đầu tư,
thương mại của Trung Quốc vào tỉnh Hải Dương hiện nay;
- Từ thực trạng sẽ nêu ra những dự báo, đánh giá những triển vọng
trong đầu tư của Trung Quốc vào tỉnh Hải Dương và những triển vọng trong
quan hệ hợp tác thương mại giữa Hải Dương với Trung Quốc.
- Đề xuất giải pháp tăng cường hiệu quả việc thu hút đầu tư, thương

mại của Trung Quốc vào tỉnh Hải Dương .
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
4.1. Đối tượng nghiên cứu
- Đối tượng nghiên cứu của Luận văn là đầu tư của các doanh nghiệp
Trung Quốc, thương mại của Trung Quốc (ở đây là Trung Quốc lục địa,
không bao gồm Hồng Kông, Đài Loan, Ma Cao) tại tỉnh Hải Dương

8


- Tình hình thương mại, đầu tư của Trung Quốc ở Việt Nam và chọn
trường hợp cụ thể của tỉnh Hải Dương như đã nêu để nghiên cứu.
4.2. Phạm vi nghiên cứu
Luận văn sẽ đi sâu phân tích rõ thực trạng và những thành tựu, nguyên
nhân hạn chế của đầu tư, thương mại của Trung Quốc vào tỉnh Hải Dương, từ
đó đề ra những giải pháp khắc phục những khó khăn, hạn chế, đồng thời đề
xuất, kiến nghị những giải pháp thúc đẩy trong thu hút đầu tư, thương mại của
Trung Quốc vào Hải Dương trong thời gian tới.
Địa bàn nghiên cứu: Nghiên cứu sẽ tiến hành thu thập thông tin tại Sở
Kế hoạch & Đầu tư tỉnh Hải Dương, Sở Công thương, Ban Quản lý các Khu
Công nghiệp tỉnh Hải Dương; Sở Lao động, thương binh và xã hội và một số
doanh nghiệp của Trung Quốc đầu tư tại Hải Dương, cũng như một số doanh
nghiệp của Hải Dương có hợp tác, trao đổi thương mại với Trung Quốc.
5. Phương pháp luận và phương pháp nghiên cứu
5.1. Phương pháp luận
Luận văn dựa trên các chủ trương, đường lối của Đảng, chính sách,
pháp luật của nhà nước về đổi mới; quan hệ hợp tác kinh tế. Các lý thuyết,
khái niệm về thương mại, đầu tư (đầu tư trực tiếp, đầu tư gián tiếp)… để hình
thành khung phân tích.
5.2. Phương pháp nghiên cứu

- Phương pháp nghiên cứu tài liệu: Luận văn sử dụng các phương pháp
nghiên cứu duy vật biện chứng, duy vật lịch sử, phương pháp tổng hợp, diễn
dịch, thu thập tài liệu, nghiên cứu và phân tích các thông tin có trong tài liệu
- Phương pháp thống kê sử dụng để phân tích số liệu; Phương pháp
khảo sát thực tế, phỏng vấn: được sử dụng để phỏng vấn một số doanh nghiệp
Trung Quốc tại Hải Dương và doanh nghiệp tỉnh Hải Dương có quan hệ
thương mại với Trung Quốc để tìm hiểu những thông tin nhằm góp phần
9


khẳng định những số liệu, những thông tin đã thu thập được trong quá trình
phân tích tài liệu và thu thập thông tin.
6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của luận văn
6.1. Ý nghĩa lý luận
Từ khái niệm đầu tư, thương mại đã có, áp dụng vào nghiên cứu trường
hợp đầu tư, thương mại của Trung Quốc tại tỉnh Hải Dương, học viên hy vọng
đối chiếu tìm ra những điểm mới, những điểm còn thiếu góp phần sửa chữa,
bổ sung khái niệm nêu trên.
6.2. Ý nghĩa thực tiễn
Nghiên cứu góp phần kiến nghị đối với Hải Dương. Với kết quả đạt
được và các giải pháp đề ra, đề tài có thể trở thành tài liệu tham khảo cho việc
nghiên cứu và ứng dụng tại tỉnh Hải Dương
7. Cơ cấu của luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận, tài liệu tham khảo, phụ lục, danh mục các
chữ viết tắt, danh mục các bảng, luận văn có kết cấu gồm 3 chương như sau:
Chương 1: Cơ sở lý luận về đầu tư, thương mại và những nhân tố tác
động đến đầu tư, thương mại của Trung Quốc vào tỉnh Hải Dương
Chương 2: Thực trạng đầu tư, thương mại của Trung Quốc vào tỉnh Hải
Dương
Chương 3: Triển vọng, phương hướng, giải pháp về đầu tư, thương mại

của Trung Quốc vào tỉnh Hải Dương

10


Chương 1
CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ ĐẦU TƯ, THƯƠNG MẠI VÀ NHỮNG NHÂN
TỐ TÁC ĐỘNG ĐẾN ĐẦU TƯ, THƯƠNG MẠI CỦA TRUNG QUỐC
VÀO TỈNH HẢI DƯƠNG
1.1. Khái niệm cơ bản:
1.1.1. Khái niệm
* Đầu tư trực tiếp nước ngoài
Tiếng Anh: Foreign Direct Investment, viết tắt là FDI, là hình thức đầu
tư dài hạn của cá nhân hay công ty nước này vào nước khác bằng cách thiết
lập cơ sở sản xuất, kinh doanh. Cá nhân hay công ty nước ngoài đó sẽ nắm
quyền quản lý cơ sở sản xuất kinh doanh này. [40]
Tổ chức Thương mại Thế giới (WTO) đưa ra định nghĩa như sau về DI:
Đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI) xảy ra khi một nhà đầu tư từ một nước
(nước chủ đầu tư) có được một tài sản ở một nước khác (nước thu hút đầu tư)
cùng với quyền quản lý tài sản đó. Phương diện quản lý là thứ để phân biệt
FDI với các công cụ tài chính khác. Trong phần lớn trường hợp, cả nhà đầu
tư lẫn tài sản mà người đó quản lý ở nước ngoài là các cơ sở kinh doanh.
Trong những trường hợp đó, nhà đầu tư thường hay được gọi là "công ty mẹ"
và các tài sản được gọi là "công ty con" hay "chi nhánh công ty". [41]
Th o khái niệm của Luật Đầu tư nước ngoài tại Việt Nam năm 19 7 :
Đầu tư trực tiếp nước ngoài là việc tổ chức, cá nhân nước ngoài đưa vào Việt
Nam vốn bằng tiền nước ngoài hoặc bất kỳ tài sản nào được Chính phủ Việt
Nam chấp thuận để hợp tác kinh doanh trên cơ sở hợp đồng hoặc thành lập xí
nghiệp Liên doanh hoặc doanh nghiệp 100% vốn nước ngoài th o quy định
của luật này.


11


Th o quan điểm về đầu tư trực tiếp nước ngoài của Việt Nam theo quy
định tại khoản 1 điều 2, Luật đầu tư nước ngoài được sửa đổi bổ sung năm
2000: “Đầu tư trực tiếp nước ngoài là việc nhà đầu tư nước ngoài đưa vào
Việt Nam vốn bằng tiền nước ngoài hoặc bất kỳ tài sản nào để tiến hành các
hoạt động đầu tư theo quy định của luật này”.
* Đầu tư gián tiếp nước ngoài
Viết tắt là FPI (Foreign Portfolio Investment) là hình thức đầu tư gián
tiếp xuyên biên giới. Nó chỉ các hoạt động mua tài sản tài chính nước ngoài
nhằm kiếm lời. Hình thức đầu tư này không kèm th o việc tham gia vào các
hoạt động quản lý và nghiệp vụ của doanh nghiệp giống như trong hình thức
Đầu tư trực tiếp nước ngoài. [42]
1.1.2. Khái niệm thương mại
Th o định nghĩa của từ điển Bách khoa thư, Thương mại là hoạt động
trao đổi của cải, hàng hóa, dịch vụ, kiến thức, tiền tệ… giữa hai hay nhiều đối
tác và có thể nhận lại một giá trị nào đó (bằng tiền thông qua giá cả) hay bằng
hàng hóa, dịch vụ khác như trong hình thức thương mại hàng đổi hàng
(barter). Trong quá trình này, người bán là người cung cấp của cải, hàng hóa,
dịch vụ... cho người mua, đổi lại người mua sẽ phải trả cho người bán một giá
trị tương đương nào đó. [43]
Thị trường là cơ chế để thương mại hoạt động được. Dạng nguyên thủy
của thương mại là hàng đổi hàng (barter), trong đó người ta trao đổi trực tiếp
hàng hóa hay dịch vụ mà không cần thông qua các phương tiện thanh toán. Ví
dụ, một người A đổi một con bò lấy 5 tấn thóc của người B chẳng hạn. Hình
thức này còn tồn tại đến ngày nay do nhiều nguyên nhân (chẳng hạn do bên
bán không tin tưởng vào tỷ giá hối đoái của đồng tiền sử dụng để thanh toán).
Trong hình thức này không có sự phân biệt rõ ràng giữa người bán và người

mua, do người bán mặt hàng A lại là người mua mặt hàng B đồng thời điểm.
12


Vì thế tiền được hình thành như một phương tiện trao đổi đa năng để
đơn giản hóa thương mại. Nếu như trước kia tiền thường được liên kết với các
phương tiện trao đổi hiện thực có giá trị ví dụ như đồng tiền bằng vàng thì
tiền ngày nay thông thường là từ vật liệu mà chính nó không có giá trị (tiền
giấy). Trong trao đổi quốc tế người ta gọi các loại tiền khác nhau là tiền tệ.
Giá trị của tiền hình thành từ trị giá đối ứng mà tiền đại diện cho chúng. Ngày
xưa vàng và bạc là các vật bảo đảm giá trị của tiền tại châu Âu. Ngày nay việc
này không còn thông dụng nữa và tiền là tượng trưng cho giá trị của hàng hóa
mà người ta có thể mua được. Chính vì thế mà khi đưa thêm tiền giấy hay tiền
kim loại vào sử dụng thì tổng giá trị của tiền lưu thông trong một nền kinh tế
không được nâng cao thêm mà chỉ dẫn đến lạm phát.
Thương mại tồn tại vì nhiều lý do. Nguyên nhân cơ bản của nó là sự
chuyên môn hóa và phân chia lao động, trong đó các nhóm người nhất định
nào đó chỉ tập trung vào việc sản xuất để cung ứng các hàng hóa hay dịch vụ
thuộc về một lĩnh vực nào đó để đổi lại hàng hóa hay dịch vụ của các nhóm
người khác. Thương mại cũng tồn tại giữa các khu vực là do sự khác biệt giữa
các khu vực này đ m lại lợi thế so sánh hay lợi thế tuyệt đối trong quá trình
sản xuất ra các hàng hóa hay dịch vụ có tính thương mại hoặc do sự khác biệt
trong các kích thước của khu vực (dân số chẳng hạn) cho phép thu được lợi
thế trong sản xuất hàng loạt. Vì thế, thương mại th o các giá cả thị trường
đ m lại lợi ích cho cả hai khu vực. Thuật ngữ Thương mại cần được diễn giải
th o nghĩa rộng để bao quát các vấn đề phát sinh từ mọi quan hệ mang tính
chất thương mại dù có hay không có hợp đồng. Các quan hệ mang tính
thương mại bao gồm các giao dịch sau đây: “Bất cứ giao dịch nào về thương
mại nào về cung cấp hoặc trao đổi hàng hóa hoặc dịch vụ; thỏa thuận phân
phối; đại diện hoặc đại lý thương mại, ủy thác hoa hồng; cho thuê dài hạn;

xây dựng các công trình; tư vấn; kỹ thuật công trình; đầu tư; cấp vốn; ngân
13


hàng; bảo hiểm; thỏa thuận khai thác hoặc tô nhượng; liên doanh các hình
thức khác về hợp tác công nghiệp hoặc kinh doanh; chuyên chở hàng hóa hay
hành khách bằng đường biển, đường không, đường sắt hoặc đường bộ.". [43]
Ngoài ra còn có nhiều định nghĩa khác nhau về thương mại. Khái niệm
thương mại th o Luật Thương mại 1997 được hiểu th o nghĩa hẹp, bao gồm
1 hành vi điều chỉnh các quan hệ mua bán hàng hoá và dịch vụ liên quan
trực tiếp đến mua bán hàng hoá. Thậm chí đối tượng của việc mua bán hàng
hoá cũng bị giới hạn ở các động sản, chủ yếu là các máy móc, thiết bị, nguyên
liệu, vật liệu phục vụ sản xuất, tiêu dùng, các động sản khác được lưu thông
trên thị trường, nhà ở dùng để kinh doanh dưới hình thức cho thuê, mua bán
(Điều 5 Luật Thương mại 1997). Các bất động sản như nhà máy, công trình
xây dựng (không phải là nhà ở), các quyền tài sản như cổ phần, cổ phiếu, trái
phiếu, các hành vi liên quan trực tiếp đến mua bán hàng hoá như vận chuyển
hàng, thanh toán tiền mua hàng qua hệ thống ngân hàng… cũng không thuộc
phạm vi điều chỉnh của Luật thương mại 1997. Trong khi đó, ở các nước trên
thế giới, khái niệm thương mại ngày càng được mở rộng ra với một nội hàm
rộng lớn, bao gồm tất cả các hoạt động nhằm mục đích tìm kiếm lợi nhuận.
Chẳng hạn như, Bộ luật thương mại số

của Nhật Bản ngày 9 3 1 99, thuật

ngữ thương mại được dùng để chỉ những hoạt động mua bán nhằm mục đích
lợi nhuận và hầu hết các dịch vụ trên thị trường như dịch vụ vận tải, cung ứng
điện hay khí đốt, uỷ thác, bảo hiểm, ngân hàng. Luật Thương mại của
Philippin tuy không đưa ra các hành vi thương mại cụ thể mà quy định phạm
vi điều chỉnh là các hoạt động nhằm thúc đẩy sự trao đổi hàng hoá và dịch vụ

với mục đích thu lợi nhuận. Bộ luật thương mại của Thái Lan cũng đưa ra
khái niệm thương mại khá rộng không chỉ bao gồm việc mua bán hàng hoá
mà cả các hoạt động thuê tài sản, thuê mua tài sản, tín dụng, thế chấp, đại
diện, môi giới, bảo hiểm, công ty, hợp danh…
14


Ở Việt Nam thuật ngữ “thương mại” được sử dụng khá rộng rãi trong đời
sống xã hội và trong nhiều các văn bản quy phạm pháp luật, song cho đến nay
chưa có định nghĩa chính thức trong một đạo Luật Thương mại. Pháp lệnh
trọng tài thương mại ra đời và có hiệu lực ngày 1 7 2003 nêu rõ: “Hoạt động
thương mại là việc thực hiện một hay nhiều hành vi thương mại của cá nhân,
tổ chức kinh doanh bao gồm mua bán hàng hóa, cung ứng dịch vụ; phân
phối; đại diện, đại lý thương mại; ký gửi; thuê; cho thuê; thuê mua; xây
dựng; tư vấn; kỹ thuật; li - xăng; đầu tư; tài chính, ngân hàng; bảo hiểm;
thăm dò, khai thác; vận chuyển hàng hoá, hành khách bằng đường hàng
không, đường biển, đường sắt, đường bộ và các hành vi thương mại khác theo
quy định của pháp luật”. Song có thể nói, khái niệm thương mại được hiểu
th o nghĩa rộng này mới chỉ được tồn tại trong một văn bản pháp quy mang
tính chất tố tụng (luật hình thức) mà chưa tồn tại trong văn bản quy phạm
pháp luật có giá trị pháp lý cao mang tính nội dung.
1.2. Những nhân tố tác động đến đầu tư, thương mại của Trung Quốc vào
tỉnh Hải Dương
1.2.1. Nhân tố thuận lợi
* Về điều kiện địa lý:
Hải Dương có những điều kiện thuận lợi trong quan hệ giao thương với
các tỉnh của Trung Quốc, đặc biệt là khả năng thu hút đầu tư, thương mại từ
Trung Quốc. Như đã nói ở phần mở đầu, Hải Dương nằm ở trung tâm các tỉnh
đồng bằng sông Hồng, tam giác phát triển kinh tế Hà Nội – Hải Phòng –
Quảng Ninh; vị trí trung tâm “Hai hành lang, một vành đai kinh tế” (Nam

Ninh - Lạng Sơn - Hà Nội – Hải Phòng; Côn Minh - Lào Cai – Hà Nội - Hải
Phòng).

15


* Về chính sách phát triển kinh tế, thu hút đầu tư:
Trong những năm qua, cấp ủy Đảng và chính quyền tỉnh Hải Dương đã
nỗ lực trong việc đẩy mạnh cải cách hành chính, minh bạch thông tin, đồng
hành cùng doanh nghiệp, các nhà đầu tư trong quá trình triển khai dự án và
sản xuất, kinh doanh đã được cộng đồng doanh nghiệp, các nhà đầu tư ghi
nhận. Điều này thể hiện qua việc chỉ số PCI của Hải Dương năm 201 đã tăng
10 bậc so với năm 2013. Từ vị trí 1 lên 31 và xếp thứ 6 11 địa phương vùng
Đồng bằng sông Hồng.
Đây cũng là thứ hạng tốt nhất của Hải Dương trong vòng 5 năm trở lại
đây. Th o đó, chất lượng điều hành đã chuyển từ nhóm trung bình năm 2013
lên nhóm khá trên bản đồ PCI của cả nước. Trong đó, một số chỉ số thành
phần đã có những sự thay đổi đáng kể, như tính minh bạch tăng từ ,6 điểm
lên 5, 3 điểm, đào tạo lao động tăng từ 5,61 điểm lên 6,1 điểm, gia nhập thị
trường và hỗ trợ doanh nghiệp đã có dấu hiệu chuyển biến tốt, đạt mức khá lần lượt là ,35 điểm và 5,7 điểm.
Hải Dương đã biết phát huy tốt lợi thế của tỉnh với vị trí nằm ở trung
tâm của vùng đồng bằng sông Hồng, vùng kinh tế trọng điểm Bắc Bộ, đồng
thời là vệ tinh trong không gian phát triển vùng Thủ đô, có hạ tầng giao thông
phát triển. Huy động và sử dụng hiệu quả các nguồn lực; từng bước chuyển
đổi mô hình tăng trưởng th o hướng phát triển nhanh các ngành có lợi thế, có
giá trị gia tăng cao; chú trọng nâng cao năng lực cạnh tranh cấp tỉnh và cải
thiện môi trường đầu tư. Phát triển kinh tế nhanh đi đôi với phát triển văn hóa;
cải thiện, nâng cao đời sống nhân dân và gìn giữ, bảo vệ môi trường. Nâng
cao hiệu quả hoạt động đối ngoại và hội nhập quốc tế. Tăng cường pháp chế
xã hội chủ nghĩa, xây dựng, củng cố quốc phòng, quân sự địa phương; giữ

vững an ninh chính trị, trật tự an toàn xã hội.

16


* Về công nghiệp, thương mại, dịch vụ:
Hải Dương đang tiếp tục đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa nông
nghiệp, nông thôn; tái cơ cấu các ngành trong sản xuất nông nghiệp đi đôi với
đổi mới phương thức tổ chức sản xuất th o hướng sản xuất hàng hóa tập
trung, quy mô lớn, thực phẩm sạch, chất lượng cao. Bên cạnh đó, tỉnh còn chú
trọng phát triển sản xuất th o quy mô công nghiệp, hình thành các vùng sản
xuất tập trung có hạ tầng đồng bộ, sản xuất th o mô hình sản xuất sản phẩm
sạch; hình thành vùng “nông nghiệp đô thị” gắn sản xuất với cung ứng sản
phẩm cho các đô thị lớn. Quy hoạch và xây dựng các khu chăn nuôi tập trung,
xa khu dân cư.
Trên lĩnh vực thương mại, dịch vụ, tỉnh Hải Dương phấn đấu giá trị
tăng thêm các ngành dịch vụ tăng bình quân 7% – 7,2% năm [3, tr.3]. Tăng
cường và nâng cao hiệu quả hoạt động xúc tiến thương mại; phát triển đồng
bộ các loại thị trường có tổ chức, kết hợp chặt chẽ giữa xây dựng, phát triển
với quản lý thị trường dịch vụ bảo đảm cạnh tranh lành mạnh, chống độc
quyền; phát triển thị trường lao động, thị trường khoa học và công nghệ, thị
trường tài chính, thị trường bất động sản; tỉnh còn tập trung phát huy các lợi
thế do Hiệp định đối tác kinh tế chiến lược xuyên Thái Bình Dương (TPP),
Hiệp định thương mại tự do Việt Nam – EU sau khi được ký kết mang lại,
nhằm thúc đẩy xuất khẩu.
* Về du lịch:
Hải Dương nằm trong Trung tâm du lịch Bắc Bộ (Hà Nội - Hải Phòng Quảng Ninh), các tỉnh này đều có những điểm du lịch hấp dẫn, hàng năm thu
hút một lượng lớn khách du lịch trong nước và nước ngoài, sự giao lưu giữa 3
địa danh này tạo nên hoạt động du lịch sôi động và đều có sự lưu thông qua
Hải Dương. Hệ thống giao thông đường bộ và đường thuỷ thuận lợi tạo điều


17


kiện cho Hải Dương dễ dàng liên kết với các tỉnh trong vùng du lịch Bắc Bộ,
nối tour, tuyến du lịch, mở rộng khai thác thị trường.
Hải Dương vừa có đồng bằng, vừa có trung du và rừng núi với cảnh
quan và hệ sinh thái, đặc biệt là vùng núi phía bắc (Chí Linh, vùng núi An
Phụ, Kinh Môn), nổi tiếng là khu Côn Sơn, núi An Phụ, dãy núi đá vôi Dương
Nham và động Kính Chủ cùng quần thể các hang động, khu đa dạng sinh học
thuộc các xã Duy Tân, Minh Tân, Tân Dân đã tạo nên một sức mạnh tổng hợp
khi khai thác phát triển du lịch.
Về tài nguyên du lịch nhân văn, thế mạnh của Hải Dương là nền văn
hoá lúa nước lâu đời gắn với những lễ hội dân gian, nghề truyền thống, nếp
sống yên bình, nét văn minh cộng đồng. Đồng thời, Hải Dương còn là nơi có
nhiều danh lam thắng cảnh, có truyền thống hiếu học và còn lưu giữ nhiều di
tích lịch sử có giá trị của dân tộc. Các di tích lịch sử văn hoá có kiến trúc độc
đáo, có sự giao thoa giữa kiến trúc phương Đông và phương Tây là điều kiện
thuận lợi để phát triển loại hình du lịch văn hoá - lịch sử.
Nguồn tài nguyên du lịch phân bố tương đối đồng đều trên toàn tỉnh tạo
thuận lợi cho đầu tư phát triển du lịch, tổ chức các cụm du lịch, các chương
trình du lịch.
1.2.2. Nhân tố khó khăn, hạn chế
Bên cạnh những điều kiện thuận lợi, tỉnh Hải Dương vẫn còn không ít
những khó khăn trong việc thu hút đầu tư, thương mại từ các nước, đặc biệt là
từ Trung Quốc.
* Khó khăn chung:
Mặc dù có nhiều điều kiện, tiềm lực phát triển kinh tế, song Hải Dương
chưa phát huy hết lợi thế của mình. Đến nay, nông nghiệp vẫn là ngành chiếm
tỷ lệ lớn trong cơ cấu kinh tế của tỉnh (16,5%) (3, tr4). Một số chỉ tiêu kinh tế

chưa đạt mục tiêu đề ra, kinh tế tăng trưởng chưa bền vững, khả năng cạnh
18


tranh và hội nhập kinh tế quốc tế thấp. Một số hạn chế trên lĩnh vực giáo dục đào tạo, văn hoá, y tế chưa được khắc phục triệt để. Kết quả giảm nghèo chưa
bền vững, đời sống vật chất và tinh thần của một bộ phận nhân dân còn khó
khăn. Công tác quản lý tài nguyên môi trường còn chưa thật tốt.
* Hạn chế trong thu hút đầu tư, thương mại:
Đặt trong bối cảnh các địa phương lân cận như Hải Phòng, Quảng Ninh
đang được hưởng lợi từ những dự án hạ tầng giao thông lớn, quy mô quốc gia
và đồng bộ từ đường bộ đến đường biển, cảng biển, đường sắt, thì Hải Dương
đã mất dần lợi thế vốn có này. Ngoài ra, Hải Phòng và Quảng Ninh còn có các
khu kinh tế, nên các chính sách ưu đãi mà nhà đầu tư được hưởng cũng hơn
hẳn so với các khu công nghiệp.
Cùng với tình trạng suy thoái kinh tế mấy năm qua trong cả nước, tình
hình thu hút đầu tư tỉnh Hải Dương cũng có xu hướng giảm. Cụ thể: giai đoạn
2006-2010, mỗi năm thu hút được 1 dự án; giai đoạn 2011-2013, mỗi năm
thu hút được 69 dự án. Số lượng dự án thu hút giảm là do ảnh hưởng của suy
thoái kinh tế toàn cầu. [3, tr5]
Ngoài ra, có nguyên nhân do tỉnh chọn lọc các dự án trong khâu đầu
vào, nên chất lượng dự án cơ bản được nâng lên và số vốn đăng ký bình
quân dự án tăng lên đáng kể, đặc biệt là số lượng dự án với số vốn đăng ký bổ
sung tăng mạnh. Mặc dù vậy, đến nay, Hải Dương vẫn chưa thu hút được
những tập đoàn kinh tế lớn có tầm ảnh hưởng lớn đến phát triển kinh tế - xã
hội của địa phương. Bên cạnh đó, so với các quốc gia khác trong khu vực và
trên thế giới thì Trung Quốc mặc dù có nhiều lợi thế về địa lý, dân đông, tiềm
lực kinh tế lớn nhưng DI của Trung Quốc đầu tư tại Hải Dương chưa ở mức
cao (đứng thứ 17 55 tỉnh, thành có vốn đầu tư của Trung Quốc), chưa tương
xứng với vị thế của nền kinh tế lớn thứ hai thế giới.


19


Bên cạnh đó, sau sự kiện Trung Quốc hạ đặt giàn khoan Hải Dương –
9 1 trong vùng đặc quyền kinh tế và thềm lục địa của Việt Nam, cùng với
hàng loạt những động thái của Trung Quốc nhằm thực hiện ý đồ “trỗi dậy” và
“bành trướng” đã tác động sâu sắc đến quan hệ giao thương với Việt Nam,
trong đó có tỉnh Hải Dương.

20


×