VIỆN HÀN LÂM
KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM
HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI
NGUYỄN THỊ OANH
DỊCH VỤ CÔNG TÁC XÃ HỘI ĐỐI VỚI HỘ NGHÈO
DO PHỤ NỮ LÀM CHỦ
TỪ THỰC TIỄN THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH
Chuyên ngành : Công tác xã hội
Mã số : 60. 90. 01. 01
LUẬN VĂN THẠC SĨ CÔNG TÁC XÃ HỘI
NGƢỜI HƢỚNG DẪN KHOA HỌC:
PGS. TS. BÙI THỊ XUÂN MAI
HÀ NỘI - 2016
LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan rằng, luận văn Thạc sĩ Công tác xã hội với đề tài “Dịch vụ
công tác xã hội đối với hộ nghèo do phụ nữ làm chủ từ thực tiễn thành phố Hồ
Chí Minh” là công trình nghiên cứu của cá nhân tôi, được thực hiện dưới sự hướng
dẫn khoa học của PGS. TS Bùi Thị Xuân Mai.
Các số liệu, kết quả nghiên cứu được trình bày trong luận văn là trung thực,
được trích nguồn và trích dẫn đầy đủ.
Tôi xin chịu trách nhiệm về nghiên cứu của mình.
LỜI CẢM ƠN
Trong quá trình nghiên cứu, tôi đã nhận được rất nhiều sự quan tâm, giúp đỡ
của các thầy cô, của gia đình và bạn bè.
- Lời cảm ơn sâu sắc nhất, tôi xin gửi tới PGS. TS Bùi Thị Xuân Mai - một
người thầy, một trong những chuyên gia đầu ngành về CTXH. Tôi đã học được ở cô
rất nhiều, từ phương pháp nghiên cứu đến thái độ làm việc và hơn cả là đam mê
cống hiến cho ngành CTXH.
- Tôi vô cùng biết ơn bà Luwahati Pablo - Giám đốc Chương trình Việt
Nam của Tổ chức dịch vụ gia đình và cộng đồng quốc tế (CFSI). Thời gian làm
việc với bà đã giúp tôi trưởng thành hơn rất nhiều.
- Tôi xin gửi lời cám ơn chân thành tới Ban Giám đốc và các thầy/cô của
Học viện Khoa học xã hội Việt Nam (GASS) và Học viện xã hội Châu Á (ASI) những người đã cho tôi hành trang tri thức, kỹ năng và thái độ nghề nghiệp.
- Tôi xin trân trọng cảm ơn tới các sở, ban, ngành, đoàn thể, các tổ chức đã
tạo mọi điều kiện thuận lợi để chúng tôi hoàn thành việc thu thập số liệu phục vụ
luận văn này. Đồng thời, tôi cũng xin gửi lời cám ơn tới các anh chị đã tham gia
vào quá trình khảo sát trong nghiên cứu này.
- Cuối cùng, tôi xin gửi lời cảm ơn tới những người thân, bạn bè đã luôn
quan tâm, giúp đỡ tôi trong suốt quá trình thực hiện đề tài này.
Tôi rất mong nhận được ý kiến đóng góp của Quý thầy cô, các nhà khoa
học, các anh chị đồng nghiệp để tôi hoàn thiện những thiếu sót của luận văn.
MỤC LỤC
MỞ ĐẦU ....................................................................................................................1
CHƢƠNG 1: CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ DỊCH VỤ CÔNG TÁC XÃ HỘI ĐỐI VỚI
HỘ NGHÈO DO PHỤ NỮ LÀM CHỦ .................................................................11
1.1. Một số lý luận về nghèo, hộ nghèo do phụ nữ làm chủ...............................11
1.2. Một số lý luận về công tác xã hội, công tác xã hội với hộ nghèo do phụ nữ
làm chủ ...............................................................................................................16
1.3. Một số lý luận về dịch vụ công tác xã hội đối với hộ nghèo do phụ nữ làm
chủ.......................................................................................................................21
1.4. Các yếu tố ảnh hưởng đến dịch vụ công tác xã hội với hộ nghèo do phụ nữ
làm chủ ...............................................................................................................27
1.5. Cơ sở pháp lý về dịch vụ công tác xã hội với hộ nghèo do phụ nữ làm chủ .......29
CHƢƠNG 2: THỰC TRẠNG DỊCH VỤ CÔNG TÁC XÃ HỘI ĐỐI VỚI HỘ
NGHÈO DO PHỤ NỮ LÀM CHỦ TỪ THỰC TIỄN THÀNH PHỐ HỒ CHÍ
MINH........................................................................................................................32
2.1. Thông tin chung về địa bàn và khách thể nghiên cứu .................................32
2.2. Thực trạng đời sống, nhu cầu của hộ nghèo do phụ nữ làm chủ và đặc điểm
tâm lý của phụ nữ nghèo làm chủ hộ ..................................................................36
2.3. Thực trạng dịch vụ công tác xã hội đối với hộ nghèo do phụ nữ làm chủ.......45
2.4. Thực trạng các yếu tố ảnh hưởng đến dịch vụ công tác xã hội đối với hộ
nghèo do phụ nữ làm chủ ...................................................................................64
CHƢƠNG 3: ĐỊNH HƢỚNG VÀ GIẢI PHÁP BẢO ĐẢM VIỆC CUNG CẤP
DỊCH VỤ CÔNG TÁC XÃ HỘI ĐỐI VỚI HỘ NGHÈO DO PHỤ NỮ LÀM
CHỦ TỪ THỰC TIỄN THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH ......................................71
3.1. Định hướng bảo đảm việc cung cấp dịch vụ công tác xã hội đối với hộ
nghèo do phụ nữ làm chủ ...................................................................................71
3.2. Các giải pháp bảo đảm việc cung cấp dịch vụ công tác xã hội với hộ nghèo
do phụ nữ làm chủ ..............................................................................................72
KẾT LUẬN ..............................................................................................................80
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO ...............................................................81
PHỤ LỤC
DANH MỤC CÁC TỪ VIẾT TẮT
CTXH
Công tác xã hội
DVXH
Dịch vụ xã hội
LHPN
Liên hiệp phụ nữ
PNLC
Phụ nữ làm chủ
PVN
Phỏng vấn nhóm
PVS
Phỏng vấn sâu
Tp. HCM
Thành phố Hồ Chí Minh
UBND
Ủy ban nhân dân
XĐGN
Xóa đói giảm nghèo
DANH MỤC CÁC BẢNG BIỂU
Bảng 2.1. Tỷ lệ hộ nghèo theo giới tính của chủ hộ (%) ..........................................33
Bảng 2.2. Độ tuổi của chủ hộ (đơn vị:%) .................................................................35
Bảng 2.3. Tình trạng hôn nhân chủ hộ (đơn vị:%)....................................................35
Bảng 2.4. Nghề nghiệp của chủ hộ (đơn vị:%) .........................................................37
Bảng 2.5: Các nhu cầu của hộ nghèo do phụ nữ làm chủ .........................................40
Biểu đồ 2.1. Trình độ học vấn của chủ hộ ................................................................36
Biểu đồ 2.2. Thu nhập hộ gia đình (%) .....................................................................38
Biểu đồ 2.3. Nguồn thu nhập so với 5 năm trước (%) ..............................................39
Biểu đồ 2.4. Người đóng góp thu nhập nhiều nhất ...................................................39
Biểu đồ 2.5. Nhu cầu ưu tiên (%)..............................................................................41
Biểu đồ 2.6. Chủ động tìm kiếm sự giúp đỡ .............................................................43
Biểu đồ 2.7. Hiểu biết về nghề CTXH (%) ...............................................................65
MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Theo số liệu của Ngân hàng thế giới (WB) thì hiện nay trên thế giới có
khoảng 1.3 tỷ người sống dưới mức nghèo khổ, trong đó phần lớn là phụ nữ và trẻ
em. Phụ nữ chiếm số đông trong những người nghèo đói cũng là kết quả được khẳng
định qua Báo cáo phát triển con người của Chương trình phát triển Liên hợp quốc
(UNDP). Số liệu thống kê của UNDP cho thấy phụ nữ chiếm khoảng 70% tổng số
người nghèo trên thế giới - điều này tạo nên một nhận định rằng “nghèo đói mang
gương mặt phụ nữ”. Họ phải hứng chịu rủi ro đói nghèo cao hơn do có sự phân biệt
đối xử trong lực lượng lao động, thiếu quyền sở hữu và phải gánh trách nhiệm nặng
nề liên quan tới việc đồng áng, tự cung tự cấp, trách nhiệm trong gia đình và cộng
đồng. Những hộ gia đình có phụ nữ làm chủ đang trở nên phổ biến hơn và đặc biệt
dễ bị tổn thương trước đói nghèo [29, tr.18]. Qua các số liệu nói trên, chúng ta có
thể thấy rằng vấn đề phụ nữ nghèo không riêng của một quốc gia nào mà là vấn đề
của toàn cầu.
Ở Việt Nam, tuy chưa có số liệu thống kê người nghèo/hộ nghèo theo giới
tính nhưng theo báo cáo kết quả Đại hội phụ nữ toàn quốc lần thứ X, cả nhiệm kỳ đã
có tới 1.7 triệu lượt hộ nghèo do PNLC nhận sự trợ giúp từ Hội LHPN Việt Nam.
Trong Nghị quyết Đại hội phụ nữ toàn quốc lần thứ XI đã nhấn mạnh vai trò chủ
thể, tính chủ động và phát huy nội lực của phụ nữ trong phát triển kinh tế, nâng cao
chất lượng cuộc sống. Hội LHPN Việt Nam luôn coi nhiệm vụ hỗ trợ phụ nữ phát
triển kinh tế là nhiệm vụ trọng tâm, trong đó có hoạt động hỗ trợ hộ nghèo do PNLC
giảm nghèo bền vững.
Tp. HCM đã có riêng những mô hình thể hiện sự quan tâm thích đáng đối với
hộ nghèo do PNLC nhưng tỷ lệ hộ do PNLC nằm trong diện hộ nghèo còn chiếm
con số tương đối cao và có xu hướng tăng trong một số giai đoạn, cụ thể là tỷ lệ hộ
nghèo do PNLC/tổng số hộ nghèo năm 2010 là 47.2%, năm 2011 là 48.3%, năm
2012 là 48.99%, năm 2013 là 53%, năm 2014 là 49%. Như vậy, vấn đề hộ nghèo do
1
PNLC cần phải được nghiên cứu để có những chính sách hỗ trợ phù hợp nhưng hiện
nay vẫn chưa có một nghiên cứu nào về vấn đề này tại Tp. HCM.
Nhìn lại công tác giảm nghèo 23 năm qua của thành phố, ông Lê Thanh Hải Nguyên Bí thư Thành ủy Tp. HCM rất tự hào nhưng cũng đã thẳng thắn nhận xét
“Kết quả giảm nghèo ở thành phố chưa thật sự bền vững, nguy cơ tái nghèo đối với
một bộ phận dân cư vẫn còn khá cao”. Hội thảo“Nghiên cứu tiếp cận và thử nghiệm
phương pháp đo lường nghèo đa chiều tại Tp. HCM” cũng đã chỉ ra một số hạn chế
trong công tác giảm nghèo của thành phố như tình trạng nhận diện nghèo và phân
loại đối tượng chưa chính xác; chính sách hỗ trợ còn cào bằng và chưa đúng nhu
cầu; đồng thời, các chương trình và hoạt động hỗ trợ giảm nghèo trên địa bàn thành
phố bị chồng chéo về đối tượng và nội dung hỗ trợ có khi lại phân tán, manh mún,
làm cho hiệu quả giảm nghèo chưa cao, chưa toàn diện và bền vững. Trong giai
đoạn 2016 - 2020, thành phố sẽ chuyển đổi phương pháp tiếp cận đo lường nghèo từ
đơn chiều sang đa chiều, không chỉ quan tâm đến vấn đề thu nhập mà quan tâm và
hỗ trợ người nghèo toàn diện trên tất cả các bình diện liên quan đến sức khỏe, giáo
dục, hòa nhập xã hội, phát triển các kỹ năng, tăng cường năng lực… cho người
nghèo. [30] Để thực hiện tốt được các chính sách giảm nghèo theo hướng tiếp cận
đa chiều thì vai trò của nghề CTXH nói chung và hoạt động cung cấp dịch vụ
CXTH nói riêng là hết sức cần thiết. Trong đó, nhân viên CTXH sẽ giữ vai trò cầu
nối, làm việc với các nhóm đa ngành và điều phối các nguồn lực để đảm bảo rằng
các hộ nghèo, đặc biệt là các hộ nghèo do PNLC được tiếp cận các dịch vụ phù hợp
với đặc điểm và nhu cầu của mình.
Từ những lý do nêu trên, chúng tôi chọn nghiên cứu đề tài “Dịch vụ công tác
xã hội đối với hộ nghèo do phụ nữ làm chủ từ thực tiễn thành phố Hồ Chí Minh” để
có được đánh giá khách quan về thực trạng các dịch vụ CTXH cũng như các yếu tố
ảnh hưởng đến việc cung cấp dịch vụ CTXH với hộ nghèo do PNLC tại Tp. HCM;
từ đó đề xuất những biện pháp dưới góc độ CTXH nhằm đảm bảo việc cung cấp
dịch vụ CTXH đáp ứng nhu cầu thực tiễn và đảm bảo chất lượng.
2
2. Tình hình nghiên cứu của đề tài
Nghèo đói là vấn đề toàn cầu, không chỉ tồn tại ở các quốc gia có nền kinh tế
kém phát triển. Vấn đề nghèo đói luôn thu hút sự quan tâm của các nhà nghiên cứu
ở tất cả các quốc gia trên thế giới và ở hầu hết các ngành, các lĩnh vực khác nhau.
Do vậy, những nghiên cứu về người nghèo nói chung và phụ nữ nghèo nói riêng
không phải là mới trong bối cảnh nghiên cứu hiện nay.
2.1. Tình hình nghiên cứu trên thế giới
Các nghiên cứu Bài viết “Gender, poverty and globalization in India” của
tác giả Pande R. (2007) đề cập đến mối liên quan giữa giới, nghèo đói và toàn cầu
hóa. Tác giả cho rằng tại Ấn Độ quá trình toàn cầu hóa đã gây ra sự bất bình đẳng
trong phân phối các nguồn lực theo địa vị, giới và dòng tộc. Phụ nữ nghèo ở khu
vực nông thôn và trong các khu vực phi chính thức bị ảnh hưởng nặng nề nhất do
các làn sóng chuyển đổi kinh tế gần đây. [34]
Bài viết “Gender earnings and poverty reduction: post - communist
Uzbekistan” của tác giả Bhat B.A (2011) đề cập đến vấn đề thu nhập theo giới và
xóa đói giảm nghèo. Trong bài viết này, tác giả chỉ ra rằng ở Uzbekistan, phụ nữ có
ít của cải, địa vị xã hội, quyền lực và cơ hội để tự khẳng định mình so với đàn ông
có cùng vị trí xã hội. Quá trình nữ hóa nghèo đói ở Trung Á và Uzbekistan liên
quan mật thiết với những hạn chế về văn hóa và thể chất. Chính điều này tạo ra bức
trần cản trở sự tham gia của phụ nữ vào các hoạt động kinh tế. [33]
Cũng đề cập đến vấn đề phụ nữ nghèo nhưng tác giả Allahdadi F. (2011)
trong bài viết “Towards rural women’s empowerment and poverty reduction in
Iran” lại cung cấp một cách tiếp cận về trao quyền cho phụ nữ nông thôn trong hoạt
động giảm nghèo tại Iran. Nghiên cứu này đã khẳng định đóng góp to lớn của phụ
nữ trong công cuộc XĐGN ở nhiều vùng nông thôn tại các nước đang phát triển.
Tác giả đã chỉ ra rằng, việc trao quyền cho phụ nữ nông thôn bị giới hạn bởi những
rào cản văn hóa, hạn chế họ tiếp cận các dịch vụ giáo dục và y tế. Những đặc điểm
văn hóa đã gây ra những hạn chế rất nghiêm trọng đối với sự tự chủ, đi lại, và các
loại hình sinh kế sẵn có dành cho phụ nữ. [32]
3
2.2. Tình hình nghiên cứu trong nước
Bàn về vấn đề phụ nữ nghèo, tác giả Đỗ Thị Bình và Lê Ngọc Hân (1996)
trong cuốn sách “Phụ nữ nghèo nông thôn trong điều kiện kinh tế thị trường” đã mô
tả được bức tranh về phụ nữ nghèo ở nông thôn. Tác giả đã đánh giá được thực trạng
đời sống cũng như những khó khăn của phụ nữ nghèo nông thôn và đưa ra các
khuyến nghị khoa học làm cơ sở cho việc hoạch định chính sách XĐGN. [6]
Nghiên cứu về vấn đề phụ nữ làm chủ hộ, tác giả Vũ Mạnh Lợi (1996) đã
khái quát được bức tranh về hộ gia đình do PNLC ở Việt Nam, trong đó có chỉ ra
những yếu tố quyết định của hiện tượng chủ hộ là nữ bao gồm tuổi, tình trạng hôn
nhân, nơi ở, sự hiện diện của cha mẹ hay con cái đã trưởng thành trong hộ và số
năm đi học. Năm 2011 trong bài viết “Chủ hộ gia đình ở nông thôn Việt Nam là
ai?”, tác giả nghiên cứu sâu hơn về các nguyên nhân dẫn đến số lượng phụ nữ là
chủ hộ gia tăng, trong đó chỉ ra nguyên nhân lớn nhất là do sự biến đổi mạnh mẽ về
thiết chế hôn nhân và gia đình. Đồng thời, tác giả cũng nêu ra một số hiện tượng
đáng lưu ý như: tỷ lệ goá bụa ngày một cao ở phụ nữ lớn tuổi, di dân của nam giới
khiến nông thôn nhiều nữ giới, tình trạng ly thân, ly hôn ở các gia đình trẻ, xu
hướng phụ nữ trẻ quyết định lựa chọn cuộc sống làm mẹ đơn thân ngày một nhiều.
[19] [20]
Tác giả Trịnh Thị Ngọc Lan (2013) đã có một nghiên cứu sâu hơn về hộ
nghèo do PNLC trong đề tài luận văn thạc sỹ “Tác động của chính sách xóa đói
giảm nghèo đối với hộ nghèo do phụ nữ làm chủ”. Tác giả nghiên cứu tác động của
chính sách XĐGN đối với hộ nghèo do PNLC thông qua việc phân tích thực trạng tổ
chức, triển khai thực hiện các chính sách XĐGN cũng như những thuận lợi và khó
khăn trong quá trình thực hiện. Bên cạnh đó, tác giả cũng phân tích được sự thay đổi
trong đời sống vật chất và tinh thần của các hộ nghèo do PNLC dưới tác động của
chính sách XĐGN và đưa ra các khuyến nghị về chính sách và với các chủ thể triển
khai thực hiện chính sách XĐGN với hộ nghèo do PNLC. [16]
Những nghiên cứu nêu trên đều là những nghiên cứu tiếp cận từ hướng
nghiên cứu xã hội học và chủ yếu liên quan đến phụ nữ nghèo và phụ nữ làm chủ
4
hộ. Hiện tại chưa có nhiều nghiên cứu khoa học trực tiếp liên quan đến hộ nghèo do
PNLC. Đặc biệt là chưa có nghiên cứu nào liên quan đến dịch vụ CTXH với hộ
nghèo do PNLC cũng như chưa có những hướng tiếp cận vai trò của nhân viên
CTXH trong việc hỗ trợ nhóm đối tượng này. Mặc dù vậy, đã có nhiều nghiên cứu
về DVXH và dịch vụ CTXH.
Trong cuốn sách “Phát triển dịch vụ xã hội ở nước ta đến năm 2020 - Một số
lý luận và thực tiễn”, tác giả Trần Hậu, Đoàn Minh Huấn (2012) đã luận giải bản
chất kinh tế - xã hội của DVXH, cơ sở lý luận của phát triển DVXH, phân loại
DVXH và chức năng của DVXH đối với sự phát triển xã hội ở nước ta; làm rõ vai
trò và giới hạn của các chủ thể nhà nước và ngoài nhà nước trong tham gia tổ chức
cung ứng DVXH; phân tích kinh nghiệm phát triển DVXH ở một số nước trên thế
giới và thực trạng phát triển DVXH ở nước ta và những vấn đề đang đặt ra hiện nay;
đề xuất phương hướng, giải pháp chủ yếu nhằm phát triển DVXH và đổi mới quản
lý phát triển DVXH ở nước ta đến năm 2020. [13]
Cùng bàn về các DVXH, tác giả Bùi Thị Xuân Mai (2014) trong bài viết
“Thực trạng mạng lưới dịch vụ xã hội ở Việt Nam - những khuyến nghị giải pháp”
lại đi sâu nghiên cứu nhu cầu và thực trạng mạng lưới các cơ sở cung cấp DVXH
hiện nay ở Việt Nam. Qua đó, tác giả ra các giải pháp nhằm phát triển hệ thống
DVXH, trong đó đề cập đến giải pháp phát triển mô hình mạng lưới của các cơ sở
vừa tham gia quản lý nhà nước vừa tham gia cung cấp dịch vụ tại xã/phường. [23]
Nhóm tác giả Nguyễn Thị Thái Lan, Đỗ Ngọc Bích, Chu Thị Huyền Yến
(2016) trong bài viết“Chuyên nghiệp hóa các dịch vụ công tác xã hội ở Việt Nam:
thực trạng và nhu cầu” tại Hội thảo khoa học quốc tế ở Tp. HCM đề cập đến dịch
vụ CTXH với khía cạnh chuyên nghiệp hóa. Trong đó, nhóm tác giả đã phân tích
thực trạng, nhu cầu chuyên nghiệp hóa dịch vụ CTXH ở Việt Nam và đề xuất phát
triển dịch vụ CTXH nhằm đáp ứng nhu cầu thực tiễn và đảm bảo chất lượng. [17]
Cũng nghiên cứu ở khía cạnh chuyên nghiệp hóa các dịch vụ CTXH nhưng
tác giả Hà Thị Thư (2016) lại nghiên cứu trên nhóm đối tượng yếu thế. Bài viết “Sự
chuyên nghiệp trong dịch vụ công tác xã hội đối với nhóm đối tượng yếu thế” của
5
tác giả một lần nữa khẳng định nhu cầu dịch vụ CTXH ở Việt Nam ngày càng cao.
Tác giả cũng đã phân tích vai trò của dịch vụ CTXH với nhóm đối tượng yếu thế và
chỉ ra hai khía cạnh của sự chuyên nghiệp là “con người chuyên nghiệp” và “môi
trường chuyên nghiệp”. [26]
Các nghiên cứu trên là những tài liệu tham khảo quý giá và vô cùng hữu ích
cho chúng tôi trong quá trình thực hiện đề tài. Chúng tôi sẽ sử dụng các giả thuyết
nghiên cứu, kết quả và kết luận trong các nghiên cứu kể trên để so sánh, bàn luận và
làm rõ trong nghiên cứu của mình.
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
3.1. Mục đích nghiên cứu
Tìm hiểu một số vấn đề lý luận về dịch vụ CTXH đối với hộ nghèo do PNLC
và thực trạng dịch vụ CTXH đối với hộ nghèo do PNLC từ thực tiễn Tp. HCM, trên
cơ sở đó đề xuất những biện pháp dưới góc độ CTXH nhằm đảm bảo việc cung cấp
dịch vụ CTXH với hộ nghèo do PNLC nói chung và tại Tp. HCM nói riêng.
3.2. Nhiệm vụ nghiên cứu
Để đạt được mục tiêu đề ra, đề tài cần giải quyết được các nhiệm vụ sau:
Hệ thống hóa những khái niệm về hộ nghèo do PNLC, CTXH với hộ nghèo
do PNLC và dịch vụ CTXH đối với hộ nghèo do PNLC.
Đánh giá thực trạng đời sống, nhu cầu của hộ nghèo do PNLC và thực trạng
dịch vụ CTXH đối với hộ nghèo do PNLC.
Phân tích các yếu tố ảnh hưởng đến dịch vụ CTXH với hộ nghèo do PNLC.
Đề xuất các biện pháp dưới góc độ CTXH nhằm đảm bảo việc cung cấp dịch
vụ CTXH đối với hộ nghèo do PNLC nói chung và tại Tp. HCM nói riêng.
4. Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu
4.1. Đối tượng nghiên cứu: Dịch vụ CTXH đối với hộ nghèo do PNLC từ
thực tiễn Tp. HCM.
6
4.2. Phạm vi nghiên cứu
Phạm vi nghiên cứu về đối tượng: Đề tài tập trung nghiên cứu các loại hình
dịch vụ CTXH và công tác quản lý cơ sở cung cấp dịch vụ CTXH đối với hộ nghèo
do PNLC từ thực tiễn Tp. HCM.
Phạm vi nghiên cứu về khách thể: 70 hộ nghèo do PNLC tại quận 9; 10 hộ
cận nghèo do PNLC tại quận 5; 20 nhân viên, cộng tác viên CTXH.
Phạm vi nghiên cứu về không gian: Đề tài thực hiện nghiên cứu thực địa tại
quận 9, tuy nhiên có triển khai nghiên cứu tại quận 5 để so sánh đối chứng.
Phạm vi nghiên cứu về thời gian: Đề tài nghiên cứu trong khoảng thời gian từ
năm 2013 - 2015.
5. Phƣơng pháp luận và phƣơng pháp nghiên cứu
5.1. Phương pháp luận
Phương pháp luận là hệ thống lý luận về phương pháp nghiên cứu, phương
pháp nhận thức và cải tạo hiện thực, là hệ thống chặt chẽ các quan điểm, nguyên lý
chỉ đạo việc tìm kiếm, xây dựng lựa chọn và vận dụng các phương pháp. Tất cả
những nguyên lý nào có tác dụng gợi mở, định hướng, chỉ đạo đều là những lý luận
và nguyên lý có ý nghĩa phương pháp luận.
Nghiên cứu trên cơ sở duy vật biện chứng: Từ những đánh giá thực trạng
dịch vụ CTXH với hộ nghèo do PNLC, tác giả hệ thống hóa khái niệm về hộ nghèo,
hộ nghèo do PNLC, CTXH, CTXH với hộ nghèo do PNLC, dịch vụ, dịch vụ CTXH
và dịch vụ CTXH đối với hộ nghèo do PNLC; và đề xuất các biện pháp dưới góc độ
CTXH nhằm đảm bảo việc cung cấp dịch vụ CTXH đối với hộ nghèo do PNLC nói
chung và tại Tp. HCM nói riêng.
Nghiên cứu vấn đề lý luận trong hệ thống: Nghiên cứu hệ thống những lý
thuyết có liên quan trực tiếp đến đề tài, hệ thống các yếu tố có liên quan như quan
điểm của Đảng và nhà nước về hệ thống an sinh xã hội, chính sách dành cho người
nghèo, phương pháp tiếp cận đa chiều, quan điểm phát triển nghề CTXH trong đó
có quan điểm về phát triển dịch vụ CTXH tại Việt Nam.
7
5.2. Phương pháp nghiên cứu
Với nội dung nghiên cứu của đề tài, chúng tôi đã sử dụng kết hợp nhiều
phương pháp trong quá trình nghiên cứu để đảm bảo các thông tin thu được khách
quan và đảm bảo tính khoa học. Các phương pháp chúng tôi đã sử dụng trong
nghiên cứu này bao gồm:
* Phương pháp điều tra bảng hỏi
Đề tài thực hiện việc phỏng vấn bằng bảng câu hỏi trực tiếp đối với hộ nghèo
do PNLC để thu thập thông tin.
Số lượng mẫu là 70 hộ nghèo do PNLC được lựa chọn theo tiêu chí là đối
tượng thụ hưởng của khách thể nghiên cứu.
* Phương pháp phỏng vấn sâu
Bên cạnh phương pháp điều tra bảng hỏi, chúng tôi cũng tiến hành thu thập
thông tin bằng phương pháp PVS nhằm khảo sát sâu hơn những vấn đề mà phương
pháp bảng câu hỏi chưa hướng tới được. Đối tượng PVS bao gồm: 20 nhân viên,
cộng tác viên CTXH và 10 phụ nữ nghèo làm chủ hộ.
* Phương pháp phân tích tài liệu có sẵn
Phương pháp phân tích tài liệu là phương pháp sử dụng các kỹ thuật chuyên
môn nhằm thu thập thông tin, số liệu, tài liệu từ các nguồn tài liệu đã được công bố
hoặc rút ra từ các nguồn tài liệu những thông tin cần thiết phục vụ cho quá trình
nghiên cứu. Trong phạm vi nghiên cứu, đề tài sử dụng các thông tin có sẵn từ các
cuộc nghiên cứu, các bài viết, tài liệu, giáo trình… đã được công bố có nội dung liên
quan đến vấn đề mà đề tài nghiên cứu như giáo trình nhập môn CTXH, lý thuyết
CTXH, tài liệu hội thảo “Nghiên cứu tiếp cận và thử nghiệm phương pháp đo lường
nghèo đa chiều tại Tp. HCM”, kỷ yếu hội thảo “Nâng cao chất lượng đào tạo CTXH
với chuyên nghiệp hóa các dịch vụ CTXH”, báo cáo nghiệm thu đề tài “Các giải
pháp giảm hộ nghèo, tăng hộ khá ở Tp. HCM giai đoạn 2014 - 2020”…
* Phương pháp quan sát
Phương pháp quan sát là phương pháp thu thập thông tin của nghiên cứu xã
hội học thực nghiệm thông qua các tri giác như nghe, nhìn để thu thập các thông tin
8
từ thực tế xã hội nhằm đáp ứng mục tiêu nghiên cứu của đề tài. Chúng tôi sử dụng
phương pháp quan sát khi nghiên cứu đề tài nhằm thu thập, bổ sung thông tin còn
thiếu và kiểm tra đối chiếu, so sánh các thông tin từ việc quan sát để đánh giá độ tin
cậy của các thông tin thông qua việc quan sát hoàn cảnh sống, thái độ, biểu hiện thể
chất/tâm thần của người được điều tra.
* Phương pháp thảo luận nhóm
Chúng tôi đã tiến hành thảo luận nhóm đối với nhóm phụ nữ cận nghèo làm
chủ hộ để có cơ sở so sánh thực trạng dịch vụ CTXH giữa hộ nghèo do PNLC và hộ
cận nghèo do PNLC.
* Phương pháp chuyên gia
Ngoài các phương pháp nghiên cứu nêu trên, chúng tôi còn sử dụng phương
pháp chuyên gia để đánh giá về thực trạng dịch vụ CTXH đối với hộ nghèo do
PNLC từ thực tiễn Tp. HCM, từ đó tìm ra biện pháp tối ưu cho việc cung cấp các
dịch vụ này.
6. Ý nghĩa của luận văn
6.1. Ý nghĩa lý luận
Kết quả nghiên cứu đề tài “Dịch vụ công tác xã hội đối với hộ nghèo do phụ
nữ làm chủ từ thực tiễn thành phố Hồ Chí Minh” làm phong phú thêm hệ thống lý
luận của CTXH với phụ nữ có hoàn cảnh đặc biệt, hẹp hơn là CTXH với phụ nữ
nghèo. Đề tài cũng góp thêm cơ sở lý luận cho các chương trình, chính sách hỗ trợ
phụ nữ phát triển kinh tế và giảm nghèo bền vững của Hội LHPN Việt Nam.
Những thông tin thu thập được từ luận văn là nguồn tài liệu tham khảo cho
các nghiên cứu sau này về lĩnh vực nghèo, chính sách hỗ trợ người nghèo và hướng
tiếp cận nghèo đa chiều có lồng ghép giới.
6.2. Ý nghĩa thực tiễn
Kết quả nghiên cứu đề tài làm sáng tỏ thực trạng dịch vụ CTXH với hộ nghèo
do PNLC từ thực tiễn Tp. HCM. Đây là nguồn tham khảo cho nhân viên, cộng tác
viên CTXH trong hoạt động giảm nghèo của Tp. HCM. Đề tài cũng góp thêm các
9
thông tin, số liệu thực tế cho các giảng viên đang giảng dạy môn CTXH với phụ nữ
có hoàn cảnh đặc biệt, trong đó có phụ nữ nghèo.
Đề tài cũng đã góp phần một phần nhỏ trong việc khẳng định sự cần thiết của
những người thực hành CTXH đối với công tác giảm nghèo, đặc biệt là giảm nghèo
theo hướng tiếp cận đa chiều. Đó cũng chính là một trong số những mục tiêu được
thể hiện trong Đề án 32 về phát triển nghề CTXH giai đoạn 2010 - 2020.
Qua việc nghiên cứu thực trạng dịch vụ CTXH, tác giả đã đóng góp một vài ý
tưởng trong việc cung cấp dịch vụ CTXH với hộ nghèo do PNLC. Những ý tưởng
này được rút ra từ những phát hiện trong quá trình nghiên cứu để đưa ra những định
hướng và giải pháp đảm bảo việc cung cấp dịch vụ CTXH cho hộ nghèo do PNLC.
7. Cơ cấu của luận văn
Ngoài các phần mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo, phụ lục thì
nội dung của đề tài gồm 3 chương:
- Chương 1: Cơ sở lý luận về dịch vụ công tác xã hội đối với hộ nghèo do
phụ nữ làm chủ
- Chương 2: Thực trạng dịch vụ công tác xã hội đối với hộ nghèo do phụ nữ
làm chủ từ thực tiễn thành phố Hồ Chí Minh
- Chương 3: Định hướng và giải pháp bảo đảm việc cung cấp dịch vụ công
tác xã hội đối với hộ nghèo do phụ nữ làm chủ từ thực tiễn thành phố Hồ Chí Minh.
10
CHƢƠNG 1
CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ DỊCH VỤ CÔNG TÁC XÃ HỘI ĐỐI VỚI HỘ NGHÈO
DO PHỤ NỮ LÀM CHỦ
1.1. Một số lý luận về nghèo, hộ nghèo do phụ nữ làm chủ
1.1.1. Khái niệm nghèo và hộ nghèo
1.1.1.1. Khái niệm nghèo
Nghèo là một vấn đề toàn cầu, được xã hội quan tâm vì đang càng ngày càng
trở nên phức tạp do sự thay đổi mạnh mẽ trong đời sống kinh tế - xã hội, trong đó
nổi lên các vấn đề phân hóa giàu nghèo, phân tầng theo thu nhập, phân tầng theo
mức sống xã hội, đặc biệt là ở các đô thị lớn.
Theo Tuyên bố Liên Hợp Quốc tháng 6/2008: Nghèo là sự phủ nhận quyền
lựa chọn và cơ hội, là sự vi phạm nhân phẩm con người. Nghèo là thiếu năng lực tối
thiểu để tham gia hiệu quả vào các hoạt động xã hội. Nghèo có nghĩa là không đủ
ăn, đủ mặc, không được đi học, không được khám bệnh, không có đất đai để trồng
trọt hoặc không có nghề nghiệp để nuôi sống bản thân, không được tiếp cận tín
dụng. Nghèo cũng có nghĩa là không an toàn, dễ bị bạo hành, không có quyền, bị
loại trừ, phải sống ngoài lề xã hội hoặc dễ gặp rủi ro, không được tiếp cận nước sạch
và vệ sinh.
Vì có nhiều khía cạnh được đề cập trong khái niệm nghèo nên tùy theo góc
quan sát cũng như quan điểm của mỗi tổ chức, cá nhân nghiên cứu nghèo mà có
cách tiếp cận khác nhau. Nhưng các khái niệm về nghèo đều phản ánh ba khía cạnh
chủ yếu của người nghèo đó là: có mức sống thấp hơn mức sống trung bình của
cộng đồng dân cư, không được thụ hưởng những nhu cầu cơ bản ở mức tối thiểu
dành cho con người và thiếu cơ hội lựa chọn tham gia vào quá trình phát triển của
cộng đồng.
Như vậy, nghèo là một hiện tượng đa chiều, tình trạng nghèo không chỉ dừng
lại ở việc thiếu hụt về thu nhập mà cần được nhìn nhận là sự thiếu hụt hay không
được thỏa mãn các nhu cầu cơ bản của con người.
11
1.1.1.2. Khái niệm hộ nghèo
Hộ nghèo là hộ có thu nhập bình quân đầu người dưới chuẩn nghèo. Chuẩn
nghèo là một khái niệm động, biến đổi theo không gian và thời gian. Về không gian,
chuẩn nghèo biến đổi theo trình độ phát triển kinh tế - xã hội của từng vùng như đô
thị, nông thôn, đồng bằng, miền núi. Về thời gian, chuẩn nghèo biến đổi theo trình
độ phát triển kinh tế - xã hội của từng giai đoạn lịch sử. Căn cứ vào mức sống thực
tế của các địa phương, Bộ Lao động - Thương binh và Xã hội công bố chuẩn nghèo
tính theo thu nhập bình quân đầu người cho từng giai đoạn cụ thể. Dựa theo chuẩn
nghèo quốc gia, các địa phương đưa ra chuẩn nghèo phù hợp với tình hình kinh tế xã hội của địa phương.
Theo quyết định số 59/2015/QĐ-TTg của Thủ tướng Chính phủ ngày
19/11/2015 về việc ban hành chuẩn nghèo tiếp cận đa chiều áp dụng cho giai đoạn
2016 - 2020 đã đưa ra chuẩn nghèo như sau:
- Hộ nghèo ở khu vực nông thôn là hộ đáp ứng một trong hai tiêu chí sau:
+ Có thu nhập bình quân đầu người/tháng từ đủ 700.000 đồng trở xuống;
+ Có thu nhập bình quân đầu người/tháng trên 700.000 đồng đến 1.000.000
đồng và thiếu hụt từ ba chỉ số đo lường mức độ thiếu hụt tiếp cận các DVXH cơ bản
trở lên.
- Hộ nghèo ở khu vực thành thị là hộ đáp ứng một trong hai tiêu chí sau:
+ Có thu nhập bình quân đầu người/tháng từ đủ 900.000 đồng trở xuống;
+ Có thu nhập bình quân đầu người/tháng trên 900.000 đồng đến 1.300.000
đồng và thiếu hụt từ ba chỉ số đo lường mức độ thiếu hụt tiếp cận các DVXH cơ bản
trở lên.
Hộ nghèo của Tp. HCM là những hộ (có hộ khẩu thường trú/KT3) có một
hoặc cả hai tiêu chí, gồm thu nhập bình quân từ 21 triệu đồng/người/năm trở xuống;
có tổng số điểm thiếu hụt của 5 chiều nghèo từ 40 điểm trở lên. Hộ cận nghèo là
những hộ (có hộ khẩu thường trú/KT3) có hai tiêu chí gồm có thu nhập bình quân từ
trên 21 triệu đồng/người/năm đến 28 triệu đồng/người/năm; có tổng số điểm thiếu
hụt của 5 chiều nghèo dưới 40 điểm (từ 0 đến 35 điểm).
12
1.1.2. Các phương pháp đánh giá nghèo
Các phương pháp đánh giá nghèo căn cứ vào một tiêu chí/một chiều gọi là
nghèo đơn chiều hay nhiều tiêu chí/nhiều chiều gọi là nghèo đa chiều.
Nghèo đơn chiều: Phương pháp đánh giá nghèo đơn chiều thường dựa vào
thu nhập hay chi tiêu. Hội nghị thượng đỉnh thế giới và phát triển xã hội tổ chức tại
Copenhagen, Đan Mạch năm 1995 đã đưa ra con số thu nhập để đánh giá nghèo,
theo đó: “Người nghèo là tất cả những ai mà thu nhập thấp dưới một đô la (USD)
một ngày cho mỗi người, số tiền được coi như đủ để mua những sản phẩm thiết yếu
để tồn tại.” Tương tự với quan điểm trên là nhận định của nhà kinh tế học người Mỹ
Galbraith: “Con người bị coi là nghèo khổ khi mà thu nhập của họ, ngay dù khi
thích đáng để họ tồn tại, rơi xuống rõ rệt dưới mức thu nhập của cộng đồng. Khi đó,
họ không thể có những gì mà đa số trong cộng đồng coi như là cái sự cần thiết tối
thiểu để sống một cách đúng mức”. Nghèo đơn chiều đã được các quốc gia trong
khu vực Châu Á - Thái Bình Dương thống nhất là “tình trạng một bộ phận dân cư
không có khả năng thỏa mãn những nhu cầu cơ bản của con người mà những nhu
cầu ấy phụ thuộc vào trình độ phát triển kinh tế - xã hội, phong tục tập quán của
từng vùng và những phong tục ấy được xã hội thừa nhận”.
Nghèo đa chiều: Cách xác định hộ nghèo theo phương pháp thu thập được
xem là chuẩn của nhiều quốc gia trong nhiều năm nhưng gần đây đã được các
chuyên gia đánh giá là không ổn và đưa ra thêm cách tính mới về nghèo được gọi là
nghèo đa chiều. Việc đánh giá nghèo đa chiều nhằm tiếp cận những khía cạnh phi
tiền tệ của nghèo. Nghèo đa chiều là một cách tiếp cận mới nên khái niệm nghèo đa
chiều đang được nghiên cứu, xây dựng và áp dụng tại hơn 30 nước trên thế giới.
Theo đó, thước đo đa chiều xem xét mức sống của dân cư một cách đầy đủ hơn,
toàn diện hơn. Nó đo lường mức sống cả mặt kinh tế lẫn chất lượng cuộc sống theo
các chiều khác nhau như: giáo dục, y tế, an sinh xã hội, nhà ở, dịch vụ cơ bản, tình
trạng dễ bị tổn thương, rủi ro… Việc đo lường mức sống theo đa chiều là việc xác
định các chỉ tiêu để đo các chiều và việc gộp các chiều thành bộ đo đơn hay để riêng
từng chiều và sử dụng trọng số của các chiều. [30, tr.30]
13
1.1.3. Khái niệm hộ nghèo do phụ nữ làm chủ và đặc điểm tâm lý của phụ
nữ nghèo làm chủ hộ
1.1.3.1. Khái niệm hộ nghèo do phụ nữ làm chủ
Để làm rõ khái niệm về hộ nghèo do PNLC, chúng ta cần làm rõ quan điểm
về chủ hộ trong gia đình. Theo Ủy ban quốc gia vì sự tiến bộ của phụ nữ Việt Nam,
UNDP và The Royal Netherlands Embassy (2005): “Chủ gia đình là thành viên của
hộ gia đình, là người có vai trò điều hành, quản lý gia đình, giữ vị trí chủ yếu, quyết
định những công việc của hộ. Thông thường (nhưng không nhất thiết), chủ hộ là
người có thu nhập cao nhất trong hộ, nắm được tất cả các hoạt động kinh tế và nghề
nghiệp của các thành viên. Về mặt pháp lý, chủ hộ là đại diện hộ gia đình trong các
giao dịch dân sự vì lợi ích chung của hộ. Cha mẹ hoặc một thành viên khác đã thành
niên có thể làm chủ hộ. Chủ hộ có thể ủy quyền cho thành viên khác đã thành niên
làm đại diện của hộ trong quan hệ dân sự (Điều 107, Bộ luật dân sự).
Trong đề tài này, chúng tôi sử dụng khái niệm hộ nghèo do PNLC là hộ
nghèo theo chuẩn nghèo của địa phương, trong đó người phụ nữ (có thể là chủ hộ
hoặc không là chủ hộ) nhưng họ đóng vai trò trụ cột, là lao động chính và tạo ra thu
nhập chính cho gia đình.
1.1.3.2. Đặc điểm tâm lý của phụ nữ nghèo làm chủ hộ
Theo số liệu thống kê về giới những năm đầu thế kỷ 21, tỷ lệ chủ hộ nữ trên
toàn quốc tăng lên theo tuổi và đạt 31.5% ở nhóm tuổi 55 - 59 và 37.8% ở nhóm
tuổi từ 65 tuổi trở lên. Nguyên nhân chủ yếu là bởi những biến đổi mạnh mẽ về thiết
chế hôn nhân và gia đình. Tỷ lệ goá bụa ngày một cao ở phụ nữ lớn tuổi. Hiện
tượng di dân của nam giới khiến nông thôn nhiều nữ giới. Tình trạng ly thân, ly hôn
ở các gia đình trẻ, xu hướng phụ nữ trẻ quyết định lựa chọn cuộc sống làm mẹ đơn
thân ngày một nhiều lên... Nhiều hộ gia đình do PNLC bị rơi vào tình trạng “khuyết
thiếu”, thường có ít nguồn lực kinh tế. Họ còn chịu thiệt thòi do các bất bình đẳng
về kinh tế trong lương bổng, phụ nữ vẫn thường phải làm các công việc được trả
công ít hơn so với nam giới hoặc nếu có làm cùng công việc như nam giới thì mức
tiền công vẫn bị thấp hơn [37, tr. 1]. Phụ nữ làm chủ hộ thường phải đối mặt với rủi
14
ro đói nghèo đang tăng lên do những thay đổi đang xảy ra trong cấu trúc gia đình,
cơ hội việc làm, hệ thống an sinh xã hội và biến đổi khí hậu [29, tr. 34]. Họ bị liệt
kê vào đối tượng gia đình dễ bị tổn thương trước các cú sốc về mất mùa, mất việc
làm, thiên tai, bệnh tật... Ở những hộ gia đình nghèo do PNLC, nhiều trẻ em còn
phải tham gia vào các hoạt động kiếm sống cùng mẹ.
Bởi vì hoàn cảnh và đặc điểm xã hội nêu trên nên một số phụ nữ nghèo làm
chủ hộ cũng có những đặc điểm tâm lý giống với phụ nữ nghèo nói chung như
buông xuôi, cam chịu số phận, thiếu nghị lực và cố gắng cần thiết để vươn lên. Một
số khác có tâm lý rụt rè, mặc cảm, tự ti nên thường ít tiếp xúc, không mạnh dạn và
ngại tham gia vào các hoạt động tập thể. Nếu phải tham gia thì họ cũng rất e ngại
khi phải trình bày ý kiến, quan điểm của mình. Chính vì điều này mà họ thường
không có chính kiến, không tiếng nói trong cộng đồng và ít có khả năng nhận được
giúp đỡ từ người khác. Một bộ phận phụ nữ nghèo làm chủ hộ có tâm lý ỷ lại, trông
chờ vào sự hỗ trợ của nhà nước [14, tr. 11]. Cũng bởi những đặc điểm nêu trên mà
một số phụ nữ nghèo làm chủ hộ là đối tượng có nguy cơ dễ bị tổn thương. Họ phải
đối mặt với nhiều loại rủi ro như bị ngược đãi, thất nghiệp, con cái phải nghỉ học
giữa chừng, bệnh tật... Nguy cơ dễ bị tổn thương tạo nên một tâm lý sợ phải đối mặt
với rủi ro, vì vậy họ luôn tìm cách né tránh với những vấn đề mang tính rủi ro cao.
Do phụ nữ làm chủ hộ là trụ cột kinh tế, là người tạo ra thu nhập chính trong
gia đình, với những gia đình “khuyết thiếu” họ phải đóng cả hai vai trò làm cha và
làm mẹ nên họ cũng có những đặc điểm tâm lý khác như có ý chí và nghị lực sống
mạnh mẽ. Cho dù gặp nhiều khó khăn nhưng không buông xuôi mà luôn tìm cách
vượt qua thất bại, luôn giữ chữ tín trong việc trả nợ vay. Họ cũng có sự tự chủ về
kinh tế và kiểm soát thu nhập. Với vai trò là chủ hộ nên họ thường có quyền trong
việc ra các quyết định chính trong gia đình và có tiếng nói quan trọng hơn trong
phân phối thu nhập, chi tiêu trong gia đình. Phụ nữ nghèo làm chủ hộ cũng có rất
nhiều tiềm năng. Nhưng vì sự mặc cảm, tự ti về hoàn cảnh nghèo khó nên bản thân
họ không nhận ra hết những giá trị và tiềm năng sẵn có của mình. Một lý do khác là
15
chưa có ai giúp họ phát hiện ra tiềm năng và cũng như chưa có môi trường thuận lợi
để họ phát huy những tiềm năng đó.
1.2. Một số lý luận về công tác xã hội, công tác xã hội với hộ nghèo do
phụ nữ làm chủ
1.2.1. Các khái niệm
1.2.1.1. Khái niệm công tác xã hội
Theo định nghĩa của Hiệp hội Quốc tế của các nhân viên CTXH (IFSW) và
Hiệp hội Các trường đào tạo CTXH thế giới (IASSW, 2014): “CTXH là một nghề
thực hành và là một ngành khoa học nhằm thúc đẩy sự thay đổi và phát triển xã hội,
tăng cường gắn kết xã hội, trao quyền và sự tự do của con người. CTXH dựa trên
các nguyên tắc then chốt bao gồm công bằng xã hội, các quyền của con người, trách
nhiệm tập thể và sự tôn trọng những khác biệt. Dựa trên nền tảng các lý thuyết về
CTXH, các khoa học xã hội thu hút sự tham gia của mọi người và các thể chế để
giải quyết những thách thức cuộc sống và cải thiện phúc lợi”.
Ở Việt Nam, một trong những khái niệm được sử dụng khá phổ biến là khái
niệm của tác giả Bùi Thị Xuân Mai (2010), theo đó “CTXH là một nghề, một hoạt
động chuyên nghiệp nhằm trợ giúp các cá nhân, gia đình và cộng đồng nâng cao
năng lực, đáp ứng nhu cầu và tăng cường chức năng xã hội, đồng thời thúc đẩy môi
trường xã hội về chính sách, nguồn lực và dịch vụ nhằm giúp cá nhân, gia đình và
cộng đồng giải quyết và phòng ngừa các vấn đề xã hội góp phần đảm bảo an sinh
xã hội”. [22]
1.2.1.2. Khái niệm nhân viên công tác xã hội
Theo tác giả Bùi Thị Xuân Mai, Nguyễn Thị Thái Lan (2011): “Nhân viên
CTXH là người được đào tạo và trang bị các kiến thức và kỹ năng trong CTXH, họ
có nhiệm vụ: trợ giúp các đối tượng nâng cao khả năng giải quyết và đối phó với
vấn đề trong cuộc sống; tạo cơ hội để các đối tượng tiếp cận được nguồn lực cần
thiết, thúc đẩy sự tương tác giữa các cá nhân, giữa cá nhân với môi trường tạo ảnh
hưởng tới chính sách xã hội, các cơ quan, tổ chức vì lợi ích của cá nhân, gia đình,
nhóm và cộng đồng thông qua hoạt động nghiên cứu và hoạt động thực tiễn”.
16
1.2.1.3. Khái niệm công tác xã hội với hộ nghèo do phụ nữ làm chủ
Từ các khái niệm về CTXH nêu trên, có thể phát biểu khái niệm CTXH với
hộ nghèo do PNLC như sau: CTXH với hộ nghèo do PNLC là một hoạt động chuyên
nghiệp nhằm trợ giúp hộ nghèo do PNLC và cộng đồng nâng cao năng lực, đáp ứng
nhu cầu, tăng cường chức năng xã hội; đồng thời thúc đẩy môi trường xã hội về
chính sách, nguồn lực và dịch vụ để hộ nghèo do PNLC và cộng đồng giải quyết,
phòng ngừa các vấn đề xã hội, thoát nghèo và vươn lên thành hộ khá.
1.2.2. Mục đích, vai trò của công tác xã hội với hộ nghèo do phụ nữ làm
chủ
Mục đích CTXH với hộ nghèo do phụ nữ làm chủ: Tăng cường sự tự nhận
thức của phụ nữ nghèo làm chủ hộ và các thành viên trong gia đình về điểm mạnh,
điểm yếu, quan điểm, hành vi, nguồn lực, vấn đề…; Phục hồi củng cố và phát triển
các chức năng xã hội của phụ nữ nghèo làm chủ hộ và các thành viên trong gia đình;
Nâng cao năng lực cho hộ nghèo do PNLC để họ chủ động hơn trong việc tiếp cận
các dịch vụ cũng như các hoạt động của cộng đồng thông qua tham vấn, truyền
thông, tập huấn, tổ chức hoạt động sinh hoạt nhóm…; Thúc đẩy việc xây dựng, thực
hiện và điều chỉnh các chính sách dành cho hộ nghèo do PNLC; Huy động nguồn
lực và xây dựng mạng lưới hỗ trợ hộ nghèo do PNLC; Cải thiện các điều kiện sống,
môi trường sống của các hộ nghèo do PNLC; Hạn chế các khó khăn của hộ nghèo
do PNLC trong việc tiếp cận các dịch vụ CTXH…
Vai trò của CTXH với hộ nghèo do phụ nữ làm chủ: Vấn đề và nhu cầu của
hộ nghèo do PNLC rất đa dạng từ những nhu cầu tối thiểu đến các nhu cầu ở thứ bậc
cao hơn, liên quan đến nhiều ngành, nhiều lĩnh vực khác nhau như y tế, giáo dục, tư
pháp, công an, thông tin, nước sạch, việc làm… Do đó, để giải quyết các vấn đề xã
hội của hộ nghèo do PNLC cần có sự phối hợp liên ngành. Mỗi ngành đảm nhận
một hay một vài vai trò, trong đó ngành CTXH đóng vai trò trung tâm, cầu nối giữa
các ngành liên quan để đáp ứng được các nhu cầu đa dạng của hộ nghèo do PNLC.
17
1.2.3. Các phương pháp công tác xã hội với hộ nghèo do phụ nữ làm chủ
Công tác xã hội cá nhân: Là phương pháp mà nhân viên CTXH tác động đến
phụ nữ nghèo làm chủ hộ và các thành viên trong hộ nhằm giúp cho các thành viên
hiểu rõ về bản thân và vấn đề của chính họ, từ đó vận dụng các nguồn lực để giải
quyết vấn đề đang gặp phải. Các dịch vụ CTXH có thể cung cấp cho các hộ nghèo
do PNLC theo phương pháp CTXH cá nhân như quản lý trường hợp, can thiệp
khủng hoảng, tham vấn, tạo điều kiện để tiếp cận các DVXH cơ bản, tư vấn để
hưởng các chính sách, giới thiệu các tiềm năng trong cộng đồng, biện hộ, lập kế
hoạch trợ giúp, huy động và kết nối nguồn lực để các hộ nghèo do PNLC được
chăm sóc sức khỏe, phục hồi chức năng, tiếp cận giáo dục, trợ giúp pháp lý, đào tạo
nghề, giới thiệu việc làm...
Công tác xã hội nhóm: Là phương pháp mà nhân viên CTXH tác động đến
nhóm phụ nữ nghèo làm chủ hộ cùng vấn đề, cùng mục đích thông qua hoạt động
nhóm. Vai trò của nhân viên CTXH không chỉ nhằm vào từng thành viên trong
nhóm mà tác động đến mối quan hệ tương tác trong nhóm nhằm tạo ra những biến
chuyển tích cực của nhóm. Công cụ ở đây chính trong CTXH nhóm là sự tương tác
và ảnh hưởng qua lại giữa các thành viên trong nhóm để giải quyết vấn đề chung
của nhóm đồng thời hỗ trợ giải quyết vấn đề của các thành viên trong nhóm. Khi áp
dụng phương pháp CTXH nhóm với hộ nghèo do PNLC, nhân viên CTXH có thể sử
dụng các loại hình nhóm như: nhóm trị liệu, nhóm tự giúp, nhóm hành động, nhóm
giáo dục. Các loại hình CTXH nhóm có thể sử dụng cho cá nhân phụ nữ nghèo làm
chủ hộ hoặc các thành viên trong gia đình.
Phát triển cộng đồng: Là quá trình làm chuyển biến một cộng đồng nghèo,
thiếu tự tin thành cộng đồng tự lực thông qua việc giáo dục gây nhận thức về tình
hình, vấn đề hiện tại của họ, phát huy các khả năng và nguồn lực sẵn có, tổ chức các
hoạt động tự giúp, bồi dưỡng và củng cố tổ chức để tiến tới tự lực phát triển. Các
hoạt động có thể cung cấp cho các hộ nghèo do PNLC theo phương pháp PTCĐ bao
gồm liên hệ với người dân, chính quyền các cấp trong việc xác định các vấn đề của
cộng đồng để xây dựng chương trình, kế hoạch trợ giúp cộng đồng; đề xuất chính
18
sách với các cơ quan có thẩm quyền; xây dựng mạng lưới nhân viên, cộng tác viên
CTXH; tổ chức huy động nguồn lực để trợ giúp đối tượng; truyền thông, giáo dục
cộng đồng; xây dựng và quản lý các dự án PTCĐ...
Các phương pháp CTXH không tồn tại độc lập mà chúng có mối quan hệ
chặt chẽ với nhau. Nhân viên CTXH cần sử dụng linh hoạt các phương pháp trên
khi trợ giúp các hộ nghèo do PNLC.
1.2.4. Các nguyên tắc hành động của nhân viên công tác xã hội khi làm
việc với hộ nghèo do phụ nữ làm chủ
Nhân viên CTXH phải tuân thủ các nguyên tắc trong việc thực hiện chức
năng chuyên môn của mình. Dưới đây là một số nguyên tắc cơ bản của nhân viên
CTXH khi làm việc với hộ nghèo do PNLC.
Chấp nhận hộ nghèo do PNLC: Nhân viên CTXH cần chấp nhận một cách
“vô điều kiện” từ quan điểm, thái độ, hành vi, cảm xúc đến những điểm mạnh, điểm
yếu của hộ nghèo do PNLC. Tuy nhiên, việc chấp nhận các hành vi trong quá khứ và
hiện tại của các hộ nghèo do PNLC không có nghĩa là đồng tình với những hành vi
sai trái của họ. Nhân viên CTXH cần giúp cho hộ nghèo do PNLC hiểu được rằng,
dù không đồng tình với những hành vi sai trái đó nhưng chúng ta vẫn tôn trọng họ.
Các hộ nghèo do PNLC cần tham gia tối đa vào quá trình giải quyết vấn đề:
Mỗi người đều có khả năng phân tích vấn đề và đưa ra những giải pháp tự giải quyết
những vấn đề khó khăn bằng chính nội lực, khả năng của bản thân. Hoạt động của
nhân viên CTXH là giúp đỡ các hộ nghèo do PNLC tăng thêm tính độc lập tự chủ và
có khả năng tự quyết. Vì vậy, nhân viên CTXH nên khuyến khích, tạo cơ hội cho hộ
nghèo do PNLC bộc lộ các tiềm năng, sức mạnh và sử dụng năng lực của chính
mình một cách thích hợp. Tuyệt đối tránh làm hộ, làm thay hoặc tạo cho các hộ
nghèo do PNLC có sự ỷ lại, dựa dẫm vào nhân viên CTXH.
Tôn trọng quyền tự quyết của hộ nghèo do PNLC: Trong giải quyết vấn đề,
nhân viên CTXH luôn tôn trọng quyền tự quyết của hộ nghèo do PNLC (trong giới
hạn luật pháp) về vấn đề của họ. Các ý kiến hộ nghèo do PNLC đưa ra trong khi bàn
bạc với nhân viên CTXH cần được tôn trọng. Nhân viên CTXH giúp hộ nghèo do
19