DANH MỤC CHỮ VIẾT TẮT
Chữ viết đầy đủ
Công nghiệp hoá, Hiện đại hoá
Hợp tác xã
Hội đồng nhân dân
Kinh tế - xã hội
Kinh tế thị trường
Lực lượng sản xuất
Tổng sản phẩm quốc nội
Quan hệ sản xuất
Uỷ ban nhân dân
Xã hội chủ nghĩa
Chữ viết tắt
CNH, HĐH
HTX
HĐND
KT-XH
KTTT
LLSX
GDP
QHSX
UBND
XHCN
MỤC LỤC
Tran
MỞ ĐẦU
Chương 1. CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ PHÁT TRIỂN HỢP TÁC XÃ
g
3
TRÊN ĐỊA BÀN HUYỆN THANH TRÌ, THÀNH PHỐ
HÀ NỘI
1.1.
Hợp tác xã và phát triển Hợp tác xã
1.2.
Quan niệm, nội dung và sự cần thiết phát triển hợp tác xã
trên địa bàn huyện Thanh Trì, thành phố Hà Nội
1.3.
10
10
21
Một số mô hình hợp tác xã phát triển trên địa bàn thành phố
Hà Nội và bài học rút ra cho huyện Thanh Trì hiện nay
27
Chương 2. THỰC TRẠNG PHÁT TRIỂN HỢP TÁC XÃ TRÊN
ĐỊA BÀN HUYỆN THANH TRÌ, THÀNH PHỐ HÀ
NỘI THỜI GIAN QUA
2.1.
35
Điều kiện tự nhiên, kinh tế - xã hội tác động đến phát
triển hợp tác xã trên địa bàn huyện Thanh Trì, thành phố
2.2.
Hà Nội
Thành tựu, hạn chế, nguyên nhân và những vấn đề đặt
35
ra cần giải quyết trong phát triển hợp tác xã trên địa bàn
huyện Thanh Trì, thành phố Hà Nội
39
Chương 3. QUAN ĐIỂM CƠ BẢN VÀ GIẢI PHÁP CHỦ YẾU
PHÁT TRIỂN HỢP TÁC XÃ TRÊN ĐỊA BÀN HUYỆN
THANH TRÌ, THÀNH PHỐ HÀ NỘI THỜI GIAN TỚI
56
3.1.
Những quan điểm cơ bản phát triển hợp tác xã trên địa
56
3.2.
bàn huyện Thanh Trì, thành phố Hà Nội thời gian tới
Một số giải pháp chủ yếu phát triển hợp tác xã trên địa
bàn huyện Thanh Trì, thành phố Hà Nội thời gian tới
63
79
80
84
KẾT LUẬN
TÀI LIỆU THAM KHẢO
PHỤ LỤC
2
MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Đảng và Nhà nước ta đã khẳng định: kinh tế nhà nước cùng kinh tế tập
thể, mà nòng cốt là hợp tác xã ngày càng trở thành nền tảng vững chắc của
nền kinh tế quốc dân. Hợp tác xã - bộ phận chủ lực, nòng cốt của kinh tế tập
thể có vai trò quan trọng trong việc phát triển kinh tế - xã hội và ổn định
chính trị - xã hội; là tổ chức kinh tế mang tính xã hội cao, hoạt động như một
doanh nghiệp dựa trên các giá trị và nguyên tắc tương trợ, tự chịu trách
nhiệm, dân chủ, bình đẳng, công bằng và đoàn kết, tạo nên sức mạnh trong
việc giúp các hộ gia đình, cá thể, tiểu chủ hoạt động sản xuất, kinh doanh,
dịch vụ hiệu quả hơn, nâng cao năng lực cạnh tranh trên thị trường. Thực
hiện đường lối đổi mới HTX của Đảng, hầu hết các địa phương đã tập trung
chỉ đạo chuyển đổi HTX kiểu cũ sang HTX kiểu mới cho phù hợp với nền
kinh tế thị trường định hướng XHCN và đặc điểm của hộ kinh tế cá thể dựa
trên quyền tự chủ sản xuất kinh doanh.
Thực hiện Luật HTX năm 2003 và mới đây là Luật HTX năm 2012,
việc phát triển HTX trên địa bàn huyện Thanh Trì, thành phố Hà Nội đã có
những bước phát triển đáng kể, đạt được nhiều thành tựu quan trọng: tạo ra
nhiều việc làm và nâng cao thu nhập cho các thành viên, tăng cường năng lực
cạnh tranh của kinh tế hộ gia đình đặc biệt là kinh tế hộ nông dân và các cơ sở
sản xuất, kinh doanh quy mô vừa và nhỏ, thực hiện các nghĩa vụ vật chất đối
với Nhà nước đóng góp quan trọng vào quá trình phát triển kinh tế - xã hội
của huyện và thành phố. Bên cạnh đó, các HTX trên địa bàn huyện đã tích
cực, chủ động phổ biến các đường lối, chủ trương, chính sách của Đảng, pháp
luật của Nhà nước, chăm lo đời sống vật chất, tinh thần cho các thành viên,
đảm bảo cuộc sống của các thành viên khi họ già yếu, ốm đau, mất sức
lao động…
Tuy nhiên, trước tác động trong quá trình CNH, HĐH, đô thị hóa nhanh
của thành phố. Phát triển HTX trên địa bàn huyện Thanh Trì, thành phố Hà
3
Nội đang đặt ra nhiều vấn đề cần phải giải quyết: Nhiều HTX làm ăn hiệu quả
kém đang có xu hướng tan rã, việc làm của người lao động chưa bền vững,
thu nhập thấp, đời sống vật chất, tinh thần gặp nhiều khó khăn, lợi ích của các
thành viên không bảo đảm, HTX đang lúng túng trong việc chuyển đổi mô
hình, lĩnh vực hoạt động…
Để bảo đảm đầy đủ và hợp lý các nguồn lực cũng như hệ thống cơ
chế, chính sách hỗ trợ cho phát triển HTX, tạo động lực mạnh mẽ, góp phần
thực hiện thắng lợi nhiệm vụ phát triển kinh tế - xã hội của huyện trong giai
đoạn 2015-2020, tác giả lựa chọn vấn đề: “Phát triển hợp tác xã trên địa bàn
huyện Thanh Trì, thành phố Hà Nội hiện nay” làm đề tài luận văn thạc sĩ
kinh tế chính trị.
2. Tình hình nghiên cứu có liên quan đến đề tài
Nông nghiệp, nông thôn nói chung, kinh tế hợp tác và HTX nông
nghiệp nói riêng là một trong những vấn đề được Đảng, Nhà nước luôn quan
tâm. Trong suốt quá trình cách mạng xã hội chủ nghĩa ở nước ta, đặc biệt từ
khi có Nghị quyết 10 của Bộ Chính trị cho đến nay, vấn đề kinh tế hợp tác và
phát triển HTX trong nông nghiệp là chủ đề nghiên cứu được nhiều cấp, nhiều
ngành và nhiều tác giả quan tâm nghiên cứu, trong đó nổi lên một số công
trình khoa học tiêu biểu như: Hợp tác hóa nông nghiệp Việt Nam - Lịch sử và
triển vọng của PGS Chử Văn Lâm, Nxb, ST, H.1995; Lý luận về hợp tác hóa
nông nghiệp - kinh nghiệm lịch sử và sự vận dụng ở nước ta của PGS Lưu
Văn Sùng, Nxb, ST, H.1998; Vài nét về hợp tác hóa nông nghiệp của các
nước trên thế giới của PGS Nguyễn Văn Điền, Nxb, ST, H.1997… Các công
trình trên ở những khía cạnh khác nhau đã đề cập đến lịch sử ra đời, tồn tại,
phát triển và vai trò của HTX đối với sự phát triển kinh tế - xã hội nói chung
và phát triển nông nghiệp nói riêng.
* Sách tham khảo
“Mô hình tổ chức HTX kiểu mới” của Nguyễn Minh Tú, Nxb Chính trị
quốc gia, Hà Nội năm 2012. Trong công trình này, tác giả đã khái quát toàn
4
bộ bức tranh HTX từ ngày đầu thành lập đến khi đổi mới; chỉ rõ thành tựu,
hạn chế, nguyên nhân của thành tựu hạn chế cũng như những vấn đề đặt ra
cần giải quyết. Trên cơ sở đó, đề xuất mô hình HTX kiểu mới cùng với những
quan điểm, giải pháp cụ thể phù hợp với mô hình kinh tế thị trường định
hướng XHCN.
“Phong trào HTX Quốc tế qua gần hai thế kỷ” của Nguyễn Ty, Nxb
Chính trị quốc gia, Hà Nội năm 2010. Trong công trình này, tác giả đi sâu,
đánh giá, phân tích những thành tựu, hạn chế của phong trào HTX Quốc tế
qua gần hai thế kỷ, nêu bật những phương hướng, cách làm, mô hình của các
HTX trên thế giới, từ đó chỉ ra những bài học đối với việc xây dựng và phát
triển HTX ở Việt Nam.
“Đổi mới tổ chức và quản lý hợp tác xã trong nông nghiệp nông
thôn” của Lương Xuân Quỳ, Nguyễn Thế Nhã, Nxb Nông nghiệp, Hà Nội
năm 1999. Các tác giả đã khái quát bức tranh toàn cảnh quá trình phát triển
của các hình thức tổ chức, quản lý hợp tác xã trong nông thôn Việt Nam từ
giai đoạn trước đến khi chuyển sang KTTT và phân tích thực trạng mô hình tổ
chức quản lý các HTX ở một số địa phương tiêu biểu. Trên cơ sở đó, đề xuất
phương hướng và một số giải pháp chủ yếu để xây dựng mô hình tổ chức có
hiệu quả cho các loại hình HTX.
“Kinh tế hợp tác, hợp tác xã ở Việt Nam - Thực trạng và định hướng
phát triển” của Nguyễn Văn Bình, Chu Tiến Quang, Lưu Văn Sùng, Nxb
Nông nghiệp, Hà Nội năm 2001. Nhóm tác giả đã hệ thống hóa quá trình hình
thành, phát triển các loại hình kinh tế hợp tác, HTX trên thế giới và ở Việt
Nam, chỉ rõ những thành tựu và hạn chế, từ đó đề xuất định hướng phát triển
phù hợp với đường lối đổi mới của Đảng và Nhà nước ta.
“Kinh tế hợp tác trong nông nghiệp nước ta hiện nay” của nhóm tác
giả Phạm Thị Cần, Vũ Văn Phúc, Nguyễn Văn Kỷ, Nxb Chính trị quốc gia,
Hà Nội năm 2003. Các tác giả tập trung trình bày những vấn đề lý luận và
5
thực tiễn về kinh tế hợp tác, HTX; sự cần thiết khách quan phải lựa chọn các
mô hình kinh tế hợp tác, HTX phù hợp với đặc điểm, điều kiện nông nghiệp,
nông thôn nước ta, từ đó đề xuất những giải pháp phát triển các mô hình kinh
tế hợp tác, HTX trong nông nghiệp, nông thôn Việt Nam hiện nay.
* Luận án, luận văn
“Phát triển kinh tế hợp tác ở ngoại thành Thành phố Hồ Chí Minh Thực trạng và giải pháp” Trần Minh Tâm, Luận văn thạc sĩ kinh tế, Đại học
Kinh tế Quốc dân thành phố Hồ Chí Minh, 2000: Luận văn nghiên cứu lý luận
và thực tiễn hoạt động của kinh tế hợp tác ở ngoại thành Thành phố Hồ Chí
Minh, chỉ rõ thành tựu, hạn chế và nguyên nhân, trên cơ sở đó đề xuất phương
hướng và một số giải pháp phát triển kinh tế hợp tác ở ngoại thành Thành phố
Hồ Chí Minh.
“Kinh tế tập thể trên địa bàn tỉnh Hải Dương, thực trạng và giải pháp”
Lê Thùy Hương, Luận văn thạc sĩ kinh tế, Đại học Kinh tế Quốc dân Hà Nội,
2003: Luận văn làm rõ vai trò, tính tất yếu khách quan của việc phát triển
kinh tế tập thể; đánh giá thực trạng, chỉ ra những thành tựu, hạn chế, nguyên
nhân và những vấn đề đặt ra cần giải quyết. Trên cơ sở đó, đề xuất giải pháp
phát triển kinh tế tập thể trên địa bàn tỉnh Hải Dương.
“Thực trạng và giải pháp nhằm phát triển hợp tác xã nông nghiệp ở tỉnh
Thái Nguyên trong giai đoạn hiện nay” Bùi Giang Long, Luận văn thạc sĩ kinh
tế, Đại học kinh tế và quản trị kinh doanh Thái Nguyên, 2009. Luận văn đã
phân tích, làm rõ cơ sở lý luận về phát triển HTX, khảo sát thực trạng, chỉ ra
những thành tựu, hạn chế và nguyên nhân của thành tựu, hạn chế cũng như
những vấn đề đặt ra cần giải quyết. Trên cơ sở đó, đề xuất những giải pháp
chủ yếu nhằm phát triển hợp tác xã nông nghiệp ở tỉnh Thái Nguyên trong giai
đoạn hiện nay.
* Bài báo khoa học
"Phát triển nông nghiệp Việt Nam giai đoạn 2011 - 2020" Nguyễn Trần
Trọng, Tạp chí Cộng sản, số 848/2012.
6
“ Nông nghiệp Việt Nam sau 4 năm thực hiện cam kết WTO” Chu Tiến
Quang, Tạp chí Cộng sản, số 824/2011.
“ Nông dân và nông nghiệp Việt Nam nhìn từ sản xuất - thị trường” Võ
Tòng Xuân, Tạp chí Cộng sản, số 812/2010.
“Phát triển Hợp tác xã nông nghiệp trong thời kỳ công nghiệp hóa,
hiện đại hóa ở nước ta” Hồ Văn Vĩnh, Tạp chí Cộng sản, số 8/2005.
“Hợp tác xã nông nghiệp các tỉnh đồng bằng sông Cửu Long - nhìn từ
thực tiễn” Nguyễn Văn Tuất, Tạp chí Khoa học và chính trị, số 3/2002.
“Về chế độ kinh tế hợp tác xã ở nước ta” Vũ Văn Phúc, Tạp chí Lý
luận chính trị, số 1/2002.
Những bài viết trên của các tác giả nghiên cứu về kinh tế hợp tác, HTX
với nhiều cách tiếp cận khác nhau. Đóng góp khoa học của các bài viết này vào
phát triển kinh tế hợp tác, HTX là bổ ích. Tuy nhiên, trước những biến đổi của
nền KTTT định hướng XHCN và những vấn đề mới đặt ra cho quá trình CNH,
HĐH và đô thị hóa đòi hỏi phải có nhận thức sâu sắc và tổng quát về phát triển
kinh tế HTX, bảo đảm sự phát triển đúng định hướng XHCN, phục vụ có hiệu
quả CNH, HĐH và đô thị hóa. Đồng thời, góp phần củng cố nền quốc phòng an ninh. Tuy nhiên, ở phạm vi địa phương, theo nhận biết của tác giả, đến nay
chưa có đề tài, công trình khoa học nào nghiên cứu vấn đề phát triển HTX trên
địa bàn huyện Thanh Trì, thành phố Hà Nội dưới dạng một luận văn khoa học
kinh tế chính trị. Để thực hiện đề tài này, tác giả có lựa chọn và kế thừa một số
kết quả nghiên cứu đã được công bố, kết hợp khảo sát thực tiễn phát triển HTX
trên địa bàn huyện Thanh Trì, thành phố Hà Nội trong những năm qua để phân
tích, từ đó đưa ra các giải pháp phù hợp với tình hình thực tế của địa phương trên
cơ sở đường lối, quan điểm, chủ trương, chính sách phát triển kinh tế - xã hội nói
chung, phát triển HTX nói riêng của Đảng, Nhà nước, thành phố Hà Nội và của
huyện Thanh Trì. Do đó, đề tài tác giả lựa chọn không trùng lắp với các công
trình nghiên cứu khác.
7
3. Mục đích, nhiệm vụ nghiên cứu của đề tài
* Mục đích nghiên cứu
Luận giải cơ sở lý luận và thực tiễn phát triển HTX ở huyện Thanh Trì,
thành phố Hà Nội trên cơ sở đó đề xuất quan điểm và giải pháp nhằm phát triển
HTX trên địa bàn huyện Thanh Trì, thành phố Hà Nội trong thời gian tới.
* Nhiệm vụ nghiên cứu
- Phân tích làm rõ cơ sở lý luận về phát triển HTX trên địa bàn huyện
Thanh Trì, thành phố Hà Nội.
- Đánh giá thực trạng phát triển HTX trên địa bàn huyện Thanh Trì,
thành phố Hà Nội trong thời gian qua.
- Đề xuất quan điểm và giải pháp phát triển HTX trên địa bàn huyện
Thanh Trì, thành phố Hà Nội thời gian tới.
4. Đối tượng, phạm vi nghiên cứu của đề tài
* Đối tượng nghiên cứu
Phát triển Hợp tác xã hoạt động trong lĩnh vực nông nghiệp.
* Phạm vi nghiên cứu
Về không gian: Luận văn tập trung nghiên cứu phát triển Hợp tác xã
trên địa bàn huyện Thanh Trì, thành phố Hà Nội.
Về thời gian: Luận văn tập trung phân tích, nghiên cứu khảo sát số liệu,
tư liệu từ năm 2005 đến nay.
Về nội dung: Tập trung vào nghiên cứu việc phát triển Hợp tác xã hoạt
động trong lĩnh vực nông nghiệp.
5. Phương pháp luận và phương pháp nghiên cứu của đề tài
* Phương pháp luận nghiên cứu
Đề tài dựa trên quan điểm chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh
và quan điểm, đường lối của Đảng Cộng sản Việt Nam, Nghị quyết Đại hội đại
biểu Đảng bộ huyện Thanh Trì và thành phố Hà Nội về phát triển Hợp tác xã; kế
thừa kết quả các công trình khoa học đã công bố cũng như tư liệu, tài liệu của
các cơ quan chức năng có liên quan.
8
* Phương pháp nghiên cứu
Trên cơ sở phương pháp luận của chủ nghĩa duy vật biện chứng và duy
vật lịch sử, đề tài sử dụng các phương pháp nghiên cứu đặc thù của kinh tế
chính trị Mác - Lênin: Trừu tượng hóa khoa học, kết hợp lôgíc và lịch sử,
phân tích, tổng hợp, thống kê, so sánh và phương pháp chuyên gia.
6. Ý nghĩa của đề tài
- Luận văn được thực hiện thành công góp phần cung cấp thêm cơ sở
khoa học cho việc phát triển Hợp tác xã trên địa bàn huyện Thanh Trì,
thành phố Hà Nội.
- Kết quả nghiên cứu của luận văn có thể dùng làm tài liệu tham khảo,
nghiên cứu cho chính quyền địa phương huyện và những người cần quan tâm.
7. Kết cấu của đề tài
Ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo và phụ lục,
luận văn kết cấu thành 3 chương (7 tiết).
9
Chương 1
CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ PHÁT TRIỂN HỢP TÁC XÃ
TRÊN ĐỊA BÀN HUYỆN THANH TRÌ, THÀNH PHỐ HÀ NỘI
1.1. Hợp tác xã và phát triển hợp tác xã
1.1.1. Hợp tác xã
* Hợp tác
Là sự kết hợp sức mạnh của các cá nhân hoặc tổ chức để tạo nên sức
mạnh tổng hợp lớn hơn, để thực hiện những công việc của mỗi cá nhân, tổ
chức nhằm đạt được mục đích đề ra mà mỗi cá nhân, tổ chức hoạt động riêng
lẻ sẽ gặp khó khăn, thậm chí không thể thực hiện được, hoặc thực hiện kém
hiệu quả so với hợp tác.
* Kinh tế hợp tác
Là một hình thức quan hệ kinh tế, hợp tác tự nguyện, phối hợp, hỗ trợ,
giúp đỡ lẫn nhau giữa các chủ thể kinh tế để kết hợp sức mạnh của từng thành
viên với ưu thế và sức mạnh của tập thể. Trên cơ sở đó, giải quyết tốt hơn
những vấn đề trong sản xuất, kinh doanh, dịch vụ và đời sống kinh tế, nhằm
nâng cao hiệu quả hoạt động kinh tế và lợi ích của mỗi thành viên.
* Hợp tác xã
Điều 1, Luật Hợp tác xã Việt Nam năm 2003: “Hợp tác xã là tổ chức
kinh tế tập thể do các cá nhân, hộ gia đình, pháp nhân (sau đây gọi chung là
xã viên) có nhu cầu, lợi ích chung, tự nguyện góp vốn, góp sức lập ra theo
quy định của Luật này để phát huy sức mạnh tập thể của từng xã viên tham
gia hợp tác xã, cùng giúp nhau thực hiện có hiệu quả các hoạt động sản xuất,
kinh doanh và nâng cao đời sống vật chất, tinh thần, góp phần phát triển kinh tế
- xã hội của đất nước”.
Luật Hợp tác xã (sửa đổi) số 23/2012/QH13 đã được Quốc hội thông
qua ngày 20 tháng 11 năm 2012 tại kỳ họp thứ 4 Khóa XIII, được Chủ tịch
nước ký Lệnh về việc Công bố Luật Hợp tác xã, Liên hiệp hợp tác xã ngày 03
10
tháng 12 năm 2012 và bắt đầu có hiệu lực kể từ ngày 01/07/2013: “Hợp tác
xã là tổ chức kinh tế tập thể, đồng sở hữu, có tư cách pháp nhân, do ít nhất
07 thành viên tự nguyện thành lập và hợp tác tương trợ lẫn nhau trong hoạt
động sản xuất, kinh doanh, tạo việc làm nhằm đáp ứng nhu cầu chung của
thành viên, trên cơ sở tự chủ, tự chịu trách nhiệm, bình đẳng và dân chủ
trong quản lý hợp tác xã.” (Điều 3, khoản 1. Luật Hợp tác xã 2012).
Luật HTX 2012 hướng đến tiệm cận dần với bản chất đích thực của
HTX, làm rõ hơn tính ưu việt của HTX nhằm khuyến khích và phát triển
mạnh mẽ mô hình HTX kiểu mới. Đây là khuôn khổ pháp lý thuận lợi góp
phần phát triển HTX lành mạnh, bền vững góp phần nâng cao năng lực cạnh
tranh của kinh tế hộ thành viên trong quá trình hội nhập kinh tế quốc tế, thực
hiện công bằng xã hội, ổn định kinh tế, chính trị, xã hội của đất nước. Luật
Hợp tác xã 2012, bao gồm 9 chương 64 điều, đã thể chế hóa rõ ràng bản chất
HTX dưới nhiều khía cạnh, đặt biệt là mục đích thành lập, quan hệ sở hữu và
quyền lực, quan hệ kinh tế và quan hệ phân phối trong HTX.
* Bản chất của hợp tác xã
Một là, mục đích thành lập nhằm tối đa hóa lợi ích của thành viên
HTX là tổ chức do các thành viên tự nguyện hợp tác, thành lập nhằm
tương trợ, giúp đỡ lẫn nhau, đáp ứng nhu cầu chung về sản phẩm, dịch vụ cho
chính mình và hợp thành khu vực thứ 3 của nền kinh tế quốc dân, bên cạnh
khu vực công và khu vực tư. Thành viên thành lập HTX cùng nhau bàn bạc,
thảo luận tìm cách thỏa mãn nhu cầu chung một cách tốt nhất. Nhu cầu chung
của thành viên được định nghĩa như sau: “Nhu cầu chung của thành viên là
nhu cầu sử dụng sản phẩm, dịch vụ giống nhau phát sinh thường xuyên, ổn
định từ hoạt động sản xuất, kinh doanh, đời sống của thành viên, hợp tác xã
thành viên. Đối với hợp tác xã tạo việc làm thì nhu cầu chung của thành viên
là nhu cầu việc làm của thành viên trong hợp tác xã do hợp tác xã tạo ra”
(Điều 4, khoản 1). Thông qua hoạt động như: mua chung sản phẩm, dịch vụ
11
từ thị trường để phục vụ cho thành viên, bán chung sản phẩm, dịch vụ của
thành viên ra thị trường, chế biến sản phẩm của thành viên, hợp tác xã thành
viên, cung ứng phương tiện, kết cấu hạ tầng kinh tế - kỹ thuật, kinh tế - xã hội
phục vụ thành viên, tín dụng cho thành viên, tạo việc làm cho thành viên đối
với hợp tác xã tạo việc làm (Điều 4, khoản 6), thành viên tiết kiệm được chi
phí sản xuất, nâng cao hiệu quả sản xuất và sức cạnh tranh của sản phẩm do
mình làm ra. Như vậy, sứ mệnh quan trọng nhất của hợp tác xã không phải là
tối đa hoá lợi nhuận, mà là tối đa hóa lợi ích trước mắt và lâu dài của thành
viên bằng cách đáp ứng nhu cầu chung của thành viên về sản phẩm, dịch vụ,
hoặc tạo việc làm và nâng cao thu nhập cho thành viên một cách hiệu quả
hơn, điều mà từng thành viên đơn lẻ không thực hiện được hoặc thực hiện
kém hiệu quả trong điều kiện KTTT. Đặc tính này làm nổi bật sự khác biệt cơ
bản về bản chất của HTX so với công ty cổ phần (được điều chỉnh theo Luật
doanh nghiệp). Mục đích của công ty cổ phần là cung cấp sản phẩm, dịch vụ
cho thị trường đại chúng nhằm tối đa hóa lợi nhuận của doanh nghiệp và mục
tiêu của các thành viên góp vốn vào công ty cổ phần là để được chia lợi nhuận
tối đa theo tỷ lệ vốn góp của mình.
Hai là, quan hệ sở hữu và quyền lực dựa trên cơ sở đồng sở hữu hợp
tác xã trên nguyên tắc bình đẳng
Thành viên của HTX góp vốn và trở thành người đồng sở hữu HTX với
mục đích chính là sử dụng dịch vụ của HTX. Như vậy, trong HTX tập hợp
thành viên có tính chất rất đặc biệt, thành viên vừa là người đồng sở hữu,
quản lý hợp tác xã theo nguyên tắc dân chủ, vừa là người sử dụng dịch vụ của
HTX. Để bảo đảm tính công bằng trong quản lý HTX và phù hợp với thông lệ
quốc tế, mức vốn góp tối đa của thành viên trong vốn điều lệ của HTX hạ
xuống còn không quá 20% vốn điều lệ (Luật Hợp tác xã 2003 quy định mức
này là 30%). Thành viên thực hiện vai trò làm chủ của mình bằng cách tham
gia vào quá trình ra các quyết định của HTX: “Đại hội thành viên có quyền
12
quyết định cao nhất của hợp tác xã” (Điều 30, khoản 1). “Thành viên có
quyền bình đẳng, biểu quyết ngang nhau không phụ thuộc vốn góp” (Điều 7,
khoản 3). Trong HTX, phương thức thành viên tham gia vào quá trình ra
quyết định dựa trên nguyên tắc dân chủ và công bằng. Quyền biểu quyết của
thành viên là bình đẳng theo nguyên tắc “một thành viên, một phiếu bầu”.
“Phiếu biểu quyết có giá trị ngang nhau, không phụ thuộc vào số vốn góp hay
chức vụ của thành viên” (Điều 34, khoản 3), không phụ thuộc vào địa vị xã
hội và cũng không phụ thuộc vào mức độ sử dụng dịch vụ của thành viên đó.
Ý nghĩa sâu xa của nguyên tắc “mỗi thành viên, một phiếu bầu” không chỉ
đơn thuần là tư tưởng bình đẳng, mà còn ở chỗ khống chế sự thống trị của
đồng tiền đối với con người. HTX mang đặc tính “trọng nhân”, trong khi đó
mô hình công ty mang tính chất “trọng vốn”. Ở công ty cổ phần, các cổ đông
thể hiện quyền làm chủ của mình theo nguyên tắc “mỗi cổ phiếu, một phiếu
bầu”. Điều này có nghĩa là cổ đông nào càng nắm giữ nhiều cổ phiếu thì càng
có nhiều quyền lực trong biểu quyết. Ngược lại, nguyên tắc bình đẳng trong
HTX là rào cản giữa thế lực đồng tiền và quyền lực trong ra quyết định.
Trong HTX, một phần (không phải tất cả) vốn chủ sở hữu là tài sản
không chia. “Tài sản không chia là một bộ phận tài sản của HTX, không được
chia cho thành viên khi chấm dứt tư cách thành viên hoặc khi HTX chấm dứt
hoạt động” (Điều 4, khoản 4), “Tài sản không chia của HTX bao gồm: Quyền
sử dụng đất do Nhà nước giao đất, cho thuê đất; Khoản trợ cấp, hỗ trợ không
hoàn lại của Nhà nước; khoản được tặng, cho theo thỏa thuận là tài sản không
chia; phần trích lại từ quỹ đầu tư phát triển hằng năm được đại hội thành viên
quyết định đưa vào tài sản không chia; vốn, tài sản khác được Điều lệ quy
định là tài sản không chia” (Điều 48).
Tài sản không chia của HTX mang tính chất bất khả chuyển nhượng
nhằm bảo đảm sự tồn tại liên tục của HTX và chống lại bất cứ sự mua bán cơ
hội nào. Điều này có nghĩa là khi nào HTX còn đủ điều kiện để hoạt động thì
13
không ai có thể bán hay chuyển nhượng HTX được. Tài sản không chia còn là
di sản của HTX dành cho thế hệ tương lai. Đây là đặc điểm mang tính nhân
văn, đề cao giá trị cộng đồng và tính sở hữu chung của HTX. Tài sản không
chia được hình thành và phát triển không có mục đích tự thân, mà hướng đến
việc phục vụ có hiệu quả nhu cầu chung, lâu dài của thành viên. Ngược lại, ở
công ty cổ phần, tất cả tài sản thuộc về cổ đông, tương ứng với tỷ lệ số lượng
cổ phần mà cổ đông sở hữu trong tổng vốn sở hữu chủ của công ty. Việc mua
bán, chuyển nhượng công ty xảy ra như là một hiện tượng bình thường và
ngày càng trở nên phổ biến trong nền KTTT.
Ba là, quan hệ kinh tế dựa trên cơ sở đồng sở hữu hợp tác xã trên
nguyên tắc bình đẳng
Xét dưới góc độ thành viên, thành viên tham gia HTX để sử dụng dịch
vụ và sản phẩm của HTX. Khi thành viên không còn nhu cầu sử dụng sản
phẩm và dịch vụ của HTX thì không còn lý do để duy trì tư cách thành viên,
“Chấm dứt tư cách thành viên khi thành viên không sử dụng sản phẩm, dịch
vụ trong thời gian liên tục theo quy định của điều lệ nhưng không quá 03
năm. Đối với HTX tạo việc làm, thành viên không làm việc trong thời gian
liên tục không quá 02 năm” (Điều 16, khoản 1e).
Xét dưới góc độ HTX, HTX được hình thành để đáp ứng nhu cầu của
thành viên. Điều này đi đôi với việc “thành viên có trách nhiệm thực hiện cam
kết theo hợp đồng dịch vụ và theo quy định của điều lệ” (Điều 7, khoản 5).
Đây là bản chất kinh tế rất quan trọng làm cho HTX phát triển bền vững.
Chính vì vậy, Luật HTX quy định tỷ lệ giá trị giao dịch tối thiểu mà HTX buộc
phải giao dịch với thành viên chính thức của mình. “Tỷ lệ cung ứng, tiêu thụ
sản phẩm, dịch vụ, việc làm ra thị trường cho từng lĩnh vực, loại hình theo quy
định của Chính phủ” (Điều 21, khoản 13). Theo Điều 5, Nghị định quy định chi
tiết thi hành một số Điều của Luật Hợp tác xã 2012, “Tỷ lệ cung ứng sản phẩm,
dịch vụ và việc làm cho thị trường bên ngoài cộng đồng thành viên do Điều lệ
14
hợp tác xã quy định cụ thể, nhưng không quá 40% tổng giá trị cung ứng sản
phẩm, dịch vụ, việc làm của hợp tác xã”. Theo Chủ tịch Hồ Chí Minh: “Hạt
nhân, trung tâm của hợp tác xã là thành viên; thành viên là chủ đích thực của
hợp tác xã, là mục tiêu mà hợp tác xã phải phục vụ; hợp tác xã là phương tiện
để phục vụ thành viên, phải đảm bảo đem lại lợi ích cho thành viên”. Như vậy,
HTX thực hiện những hoạt động kinh doanh, trong đó thành viên là khách hàng
chủ yếu của hợp tác xã. Nét đặc thù của hợp tác xã thể hiện ở nguyên tắc mở
“hợp tác xã kết nạp rộng rãi thành viên” (Điều 7, khoản 2).
Xét dưới góc độ kinh tế, cộng đồng thành viên chính là thị trường chính
của HTX. HTX có càng nhiều thành viên thì càng có thị phần rộng lớn, lượng
khách hàng trung thành càng cao. Lúc này, HTX hoạt động càng có hiệu quả
hơn nhờ vào lợi thế về số lượng thành viên. Để gia tăng số lượng thành viên khách hàng, nhiều HTX thường mở rộng thị trường nội bộ bằng cách mở rộng
địa bàn hoạt động, thu hút và kết nạp thêm nhiều thành viên mới hoặc bằng
cách liên kết, sáp nhập hoặc hợp nhất các HTX lại với nhau.
Xét về mặt xã hội, cộng đồng thành viên càng lớn thì HTX càng có lợi
thế trong việc phát huy tinh thần hợp tác, tinh thần tự quản, mở rộng dân chủ,
nâng cao hiệu quả sinh hoạt văn hóa, cộng đồng. Nguyên tắc “mở” luôn được
xem là nguyên tắc quan trọng nhất, đưa lên làm nguyên tắc đầu tiên, cùng với
“tính tự nguyện” trong suốt thời gian tồn tại và phát triển của HTX. Ngày nay,
trong bối cảnh hội nhập quốc tế, “tính mở” của HTX đã xóa nhòa ranh giới
hành chính của HTX. Như nhiều loại hình doanh nghiệp khác, HTX không
nhất thiết phải bó hẹp trong địa bàn dân cư hay vùng, lãnh thổ. “Tính mở” của
hợp tác xã cũng xóa bỏ tình trạng một người chỉ có thể là thành viên của một
HTX như trước kia.
Bốn là, quan hệ phân phối dựa trên cơ sở giao dịch nhiều, hưởng lợi
nhiều theo nguyên tắc công bằng
Điều 7, khoản 5 quy định “thu nhập của HTX được phân phối chủ yếu
theo mức độ sử dụng sản phẩm, dịch vụ của thành viên, HTX thành viên hoặc
15
theo công sức lao động đóng góp của thành viên đối với HTX tạo việc làm”.
Thu nhập là khái niệm chỉ phần tiền chênh lệch giữa doanh thu và chi phí
trong HTX và khái niệm tương ứng trong doanh nghiệp là “lợi nhuận” hay
“lãi”, “Mức độ sử dụng sản phẩm, dịch vụ của thành viên là tỷ lệ giá trị sản
phẩm, dịch vụ mà từng thành viên sử dụng trên tổng giá trị sản phẩm, dịch vụ
do HTX cung ứng cho tất cả thành viên. Đối với HTX tạo việc làm thì mức
độ sử dụng sản phẩm, dịch vụ được thể hiện bằng tỷ lệ tiền lương của từng
thành viên trên tổng tiền lương” (Điều 4, khoản 7).
Về mặt thuật ngữ, có nhiều cách tiếp cận khác nhau. Có thể dùng khái
niệm “thặng dư” (surplus) để chỉ phần tiền chênh lệch giữa doanh thu và chi
phí trong HTX và khái niệm tương ứng trong doanh nghiệp là “lợi nhuận” hay
“lãi”. Trong HTX, khái niệm “thặng dư” phản ánh đúng bản chất hơn, bởi vì
đó là khoản chênh lệch giữa doanh thu và chi phí có nguồn gốc từ giao dịch
giữa HTX với các chủ sở hữu của nó (thành viên vừa là chủ sở hữu, vừa là
người sử dụng dịch vụ của HTX). Trong Luật HTX 2012, khái niệm “thu
nhập” được sử dụng để chỉ khoản chênh lệch này. Thành viên cùng góp vốn
xây dựng sản nghiệp chung, cùng sử dụng dịch vụ, cùng chia sẻ chi phí, cùng
chịu trách nhiệm và cùng hưởng lợi từ hoạt động sản xuất, kinh doanh, dịch
vụ của HTX. Thành quả của HTX được phân phối lại một cách công bằng
(chứ cũng không phải là cào bằng) cho mọi thành viên. Thành viên nào giao
dịch càng nhiều với HTX thì nhận được phần phân phối thu nhập lại càng cao.
Điều này góp phần gia tăng mức độ trung thành của thành viên với HTX và là
tiền đề để HTX phát triển bền vững.
Trong HTX, “bình đẳng” là nguyên tắc áp dụng trong chia sẻ quyền
lực; công bằng là nguyên tắc áp dụng trong phân phối thu nhập. “Giá trị bình
đẳng” và “tính công bằng” là những đặc tính cội nguồn của HTX. “Giá trị
bình đẳng” thể hiện ở việc tổ chức điều hành và chia sẻ quyền lực trong HTX.
“Tính công bằng” được thể hiện dựa trên cơ sở thu nhập của HTX được phân
16
phối lại cho thành viên theo mức độ sử dụng dịch vụ và chia lãi theo vốn góp
bị giới hạn ở mức tối đa. Trong HTX, phân phối lại thu nhập cho thành viên
không phải là mọi người như nhau theo mô hình tập thể hóa; không phải là
mỗi người theo nhu cầu riêng theo mô hình hiệp hội thiện nguyện; cũng
không phải là mỗi người theo mức độ sở hữu vốn theo mô hình tư bản, mà là
mỗi người theo mức độ sử dụng dịch vụ của HTX theo mô hình HTX. Ở công
ty cổ phần, cổ đông là những nhà đầu tư. Họ không cần giao dịch với công ty.
Động cơ duy nhất của cổ đông là cổ tức, được phân phối theo số lượng cổ
phiếu mà cổ đông sở hữu. Ở nước ta hiện nay, hiện tượng một số HTX đề cao
tính lợi nhuận và phân phối theo vốn góp đang làm xói mòn bản chất HTX.
Nếu HTX áp dụng cách phân chia lợi nhuận giống như ở công ty cổ phần, tức
là lãi được chia theo số lượng vốn góp, thì thành viên sẽ trông chờ vào “phần
chia lợi nhuận” mà không cần giao dịch với HTX (không sử dụng dịch vụ của
HTX). Điều này làm biến chất của HTX, hướng đến loại hình công ty thuần
túy vì mục tiêu tối đa hoá lợi nhuận.
Tóm lại, xét cả khía cạnh lý luận và thực tiễn, HTX là sản phẩm tất yếu
của nền KTTT. KTTT càng phát triển, sự cạnh tranh càng gay gắt buộc những
người lao động riêng lẻ, hộ cá thể càng phải hợp tác với nhau để tồn tại và
phát triển. Xã hội càng phát triển thì nhu cầu hợp tác càng cấp thiết hơn, hình
thức hợp tác càng đa dạng hơn, nội dung hợp tác trở nên phong phú hơn. Đây
chính là cơ sở, động lực thúc đẩy HTX phát triển. Một số thành công của mô
hình HTX gợi mở một niềm tin rằng, với vai trò kép: HTX vừa là hiệp hội
mang tính kinh tế vừa là doanh nghiệp mang tính xã hội, HTX có thể hoạt
động tốt như bất kỳ doanh nghiệp nào. Thậm chí HTX có thể hoạt động tốt
hơn doanh nghiệp, nếu những thành viên am hiểu tường tận, tôn trọng và phát
huy bản chất của HTX, biết cách sử dụng và khai thác công cụ kinh tế tập thể
độc đáo này.
17
* Các loại hình hợp tác xã
Căn cứ vào Luật Hợp tác xã (sửa đổi) số 23/2012/QH13 đã được Quốc
hội thông qua ngày 20 tháng 11 năm 2012 tại kỳ họp thứ 4 Khóa XIII, được
Chủ tịch nước ký Lệnh về việc Công bố Luật Hợp tác xã, Liên hiệp hợp tác
xã ngày 03 tháng 12 năm 2012 và bắt đầu có hiệu lực kể từ ngày 01/07/2013.
HTX được hình thành, xây dựng, phát triển ở tất cả các ngành, các vùng, các
thành phần kinh tế. Cụ thể, có các loại hình HTX cơ bản như sau: HTX công
nghiệp; HTX nông nghiệp; HTX dịch vụ; HTX thương nghiệp; HTX tín
dụng; HTX tạo việc làm… Ngoài những loại hình cơ bản trên, còn có HTX
sản xuất, HTX sản xuất kết hợp với dịch vụ trong các ngành công nghiệp,
nông nghiệp, thương nghiệp, HTX trên các lĩnh vực khác, như: Ô tô, Bệnh
viện, Tàu thuyền, Điện tử, Công nghệ Thông tin... Như vậy, việc phân chia
các loại hình HTX trong các ngành chỉ mang tính chất tương đối, việc phát
triển các loại hình HTX phụ thuộc vào điều kiện, khả năng và yêu cầu, nhiệm
vụ hoạt động sản xuất, kinh doanh, dịch vụ của từng ngành, từng vùng, từng
thành phần kinh tế cụ thể.
1.1.2. Quá trình phát triển Hợp tác xã ở Việt Nam
Hội nghị Ban chấp hành Trung ương 8 khóa II (tháng 8-1955) xác định
chủ trương xây dựng thí điểm một số HTX nông nghiệp, sau 3 năm đã thành
lập được 45 HTX và 100.000 tổ đổi công. Kể từ khi những HTX nông nghiệp
thí điểm đầu tiên được thành lập tính đến nay đã tròn 60 năm.
Trong giai đoạn từ năm 1955 đến 1975 và đến trước đổi mới 1986,
HTX được xác định là một trong hai hình thức kinh tế chính thức ở Việt Nam
(bên cạnh kinh tế Nhà nước). HTX trở thành phổ biến, thay thế dần kinh tế cá
thể và đội ngũ sản xuất. Trong giai đoạn chống Mỹ, cứu nước, ở miền Bắc,
khi hầu hết lực lượng thanh niên ra mặt trận, HTX nông nghiệp đã có vai trò
vô cùng quan trọng duy trì và phát triển sản xuất, đảm bảo hậu phương ổn
định và cung cấp lương thực, thực phẩm cho nhân dân miền Bắc và tiền tuyến
18
lớn miền Nam. Đến năm 1986, cả nước có 73.470 HTX, trong đó có 17.022
HTX nông nghiệp, 32.034 HTX công nghiệp, tiểu thủ công nghiệp và 24.414
HTX khác. TS Đào Trung Chính, Phó tổng cục trưởng Tổng cục Quản lý đất
đai, Bộ Tài nguyên và Môi trường cho rằng: "Sự phát triển nhanh chóng về
mặt số lượng của HTX trong giai đoạn 1955 - 1986 được giải thích bởi sự đề
cao tuyệt đối của Nhà nước đối với kinh tế tập thể, trong khi đó vai trò của
kinh tế hộ, kinh tế tư nhân lại bị phủ định". Ông Lưu Đức Khải, Trưởng ban
Chính sách phát triển nông thôn, Viện nghiên cứu Quản lý kinh tế Trung
ương cũng nhận định: "Sở hữu tập thể và sản xuất tập thể được đề cao gần
như tuyệt đối, trong khi đó vai trò kinh tế hộ, kinh tế cá thể ít được quan tâm".
Sự đề cao vai trò của kinh tế hợp tác có thể xuất phát từ nguyên nhân chính về
nhận thức là kinh tế hộ, kinh tế cá thể gắn với sở hữu tư nhân về tư liệu sản
xuất, là phương thức sản xuất lạc hậu về lịch sử vì là nguyên nhân dẫn tới bóc
lột. Vì vậy, kinh tế hợp tác cần thay thế kinh tế hộ, kinh tế cá thể, xóa bỏ tư
hữu về tư liệu sản xuất để xóa bỏ bóc lột. Xã viên ở một HTX như vậy là
người làm công trong HTX, được HTX điều động làm các công việc khác
nhau, song không chịu trách nhiệm đến cùng về sản phẩm cây, con nào cụ thể
của HTX nông nghiệp, thực chất không làm chức năng đầy đủ của một người
nông dân.
Năm 1981, Ban Bí thư Trung ương Đảng khóa V ra Chỉ thị số 100/CTTW ngày 13/01/1981 về khoán sản phẩm đến nhóm người lao động và người
lao động trong HTX nông nghiệp. Đây là khâu đột phá đầu tiên để chặn đà sa
sút sản xuất nông nghiệp. Kết quả, đến năm 1986 đã đạt sản lượng lương thực
18,4 triệu tấn, tăng 4 triệu tấn so với 14,4 triệu tấn năm 1980. Tiếp đó, Nghị
quyết 10/NQ-TW ngày 05/4/1988 về đổi mới quản lý kinh tế nông nghiệp
được ban hành (gọi tắt là Khoán 10) đã xác định HTX nông nghiệp là đơn vị
chủ quản, hộ gia đình xã viên là đơn vị kinh tế tự chủ nhận khoán với HTX.
Cơ chế khoán đã đem lại sự chuyển biến rõ rệt trong sản xuất nông nghiệp.
19
Sản lượng năm 1988 là 19,5 triệu tấn đến năm 1989 đã đạt 21,5 triệu tấn và
năm 1989 nước ta lần đầu tiên xuất khẩu được 1,2 triệu tấn gạo, mở ra một
giai đoạn mới đưa Việt Nam trở thành một cường quốc xuất khẩu gạo hàng
đầu thế giới.
Mặc dù đã có Chỉ thị 100/CT-TW năm 1981 về khoán sản phẩm đến
nhóm lao động và người lao động trong HTX nông nghiệp, Nghị quyết
10/NQ-TW năm 1988 về Khoán 10; Luật HTX (năm 1996 và 2003) và Nghị
định của Chính phủ (năm 1997 và 2005), nhưng số lượng HTX không những
không tăng mà ngày càng giảm đi đáng kể. Theo TS Nguyễn Mạnh Cường,
Viện trưởng Viện Phát triển kinh tế hợp tác, Liên minh HTX Việt Nam, trong
giai đoạn 1986-1996, số lượng HTX bị giảm đi 3/4 (năm 1986 cả nước có
73.470 HTX, đến năm 1996 chỉ còn 18.607 HTX). Đến năm 2003, tức là sau
17 năm kể từ khi đất nước tiến hành công cuộc đổi mới vào năm 1986, cả
nước chỉ còn 14.000 HTX, bằng 75% số lượng HTX năm 1996 và bằng 19%
số lượng HTX năm 1986, tức là 81% HTX đã bị giải thể hoặc sáp nhập.
Trong 10 năm gần đây, kinh tế HTX có bước phục hồi mạnh về số lượng. Đến
năm 2013, cả nước có 19.800 HTX (trong đó có 10.339 HTX nông nghiệp),
tăng 41% so với năm 2003. Tuy nhiên, so với khi bắt đầu bước vào thời kỳ
đổi mới (năm 1986) thì số lượng HTX năm 2013 cũng chỉ bằng khoảng 27%.
Đóng góp của khu vực kinh tế hợp tác vào tăng trưởng kinh tế chung của cả
nước (GDP) có xu hướng giảm dần. Trong giai đoạn 1995-2003, khu vực này
đóng góp khoảng 8,5% GDP. Đến giai đoạn 2005-2010, khu vực này chỉ đóng
góp bình quân khoảng 5,76% GDP. Đến năm 2013, cả nước có 19.800 HTX
và gần 380.000 tổ hợp tác với 13,5 triệu xã viên, tổ viên. Lực lượng lao động
này chiếm 25,4% tổng số lao động cả nước (53,25 triệu người) nhưng chỉ
đóng góp khoảng 5% GDP cả nước. Theo Liên minh HTX Việt Nam, lợi
nhuận bình quân của một HTX năm 2014 là 246 triệu đồng/năm, tức là mỗi
ngày chỉ có 670.000 đồng. Chỉ có khoảng 10% số HTX nông nghiệp làm ăn
20
đạt hiệu quả tốt, khoảng 60-70% số HTX hoạt động cầm chừng, không hiệu
quả, còn lại khoảng 20-30% HTX đã phải ngừng hoạt động. Chỉ 9% HTX
thực hiện tiêu thụ sản phẩm của xã viên. Như vậy, với số lượng khoảng 1.000
HTX hoạt động có hiệu quả trong tổng số hơn 10.339 HTX nông nghiệp ở
9.000 xã của cả nước, với số hộ xã viên chiếm khoảng 4-5% hộ nông dân cả
nước thì mô hình HTX hiện nay không thể đóng vai trò dẫn dắt nông nghiệp
Việt Nam đi lên trong thời kỳ cạnh tranh toàn cầu.
Sau 60 năm phát triển mô hình kinh tế hợp tác, tuy những năm gần đây
có gia tăng về số lượng, song về tổng thể không thể tiếp tục quản lý nhà nước,
quản lý từng HTX như thời gian qua mà cần phải có tư duy mới về kinh tế
hợp tác và có bước đột phá về hiệu quả kinh tế, nâng cao đáng kể thu nhập
của xã viên so với người không vào HTX, nâng cao tỷ lệ đóng góp của khu
vực kinh tế hợp tác trong tổng thể nền kinh tế quốc dân. Dự thảo Báo cáo
tổng kết của Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa XI về một số vấn đề lý
luận và thực tiễn 30 năm đổi mới nêu rõ: "Kinh tế tập thể hiện nay rất yếu (chỉ
chiếm 5-6% GDP), vậy đến bao giờ nó mới cùng kinh tế nhà nước đóng vai
trò nền tảng? Cần có tư duy mới về kinh tế tập thể, cần nghiên cứu về phát
triển HTX".
1.2. Quan niệm, nội dung và sự cần thiết phát triển hợp tác xã trên
địa bàn huyện Thanh Trì, thành phố Hà Nội
1.2.1. Quan niệm về phát triển Hợp tác xã nông nghiệp trên địa bàn
huyện Thanh Trì
* Quan niệm
Theo quan điểm của Chủ nghĩa Mác - Lênin, phát triển là một quá trình
vận động từ thấp đến cao, từ đơn giản đến phức tạp, từ chưa hoàn thiện đến
ngày càng hoàn thiện. Phát triển HTX là quá trình biến đổi lâu dài của HTX
trong phát triển kinh tế - xã hội. Thực chất của sự phát triển là khả năng thích
ứng của HTX trong mọi kiểu tổ chức sản xuất xã hội. Do đó, phát triển HTX
21
không chỉ tăng lên về mặt số lượng, cơ cấu mà điều quan trọng là tăng lên về
mặt chất lượng, trong quá trình phát sinh, phát triển của nó.
Từ sự tiếp cận trên, dưới góc độ kinh tế chính trị, tác giả cho rằng: Phát
triển HTX là sự tăng lên về số lượng, chất lượng và cơ cấu của các HTX
nhằm nâng cao năng suất, chất lượng, hiệu quả; đa dạng hóa ngành nghề hợp
tác của tổ chức kinh tế mang tính xã hội; đáp ứng ngày càng tốt hơn các nhu
cầu về kinh tế, văn hóa, xã hội tiến tới bảo đảm tối đa lợi ích của các thành
viên; góp phần thúc đẩy cộng đồng - xã hội phát triển trong nền KTTT.
Như vậy, phát triển HTX trên địa bàn huyện Thanh Trì, thành phố Hà
Nội là quá trình tác động có mục đích, có định hướng của huyện ủy, UBND
huyện, các HTX đã và đang hoạt động trên địa bàn huyện nhằm khai thác
những tiềm năng, thế mạnh của các HTX để làm chuyển biến về số lượng, chất
lượng và các yếu tố cấu thành của HTX theo hướng ngày càng hoàn thiện và
nâng cao hiệu quả hoạt động, đóng góp tích cực vào phát triển kinh tế - xã hội
của huyện.
Thực chất của phát triển HTX trên địa bàn huyện Thanh Trì, thành phố
Hà Nội là sự tăng lên về số lượng, chất lượng và cơ cấu của các HTX tham
gia sản xuất, kinh doanh, dịch vụ nhằm đáp ứng nhu cầu của các thành viên
dưới tác động của nền KTTT định hướng XHCN (trong đó, coi trọng phát
triển về chất lượng).
Mục đích của phát triển HTX trên địa bàn huyện Thanh Trì, thành phố
Hà Nội là quá trình làm tăng lên tính tiện ích, tính hiệu quả của HTX tham gia
sản xuất, kinh doanh, dịch vụ hàng hóa theo hướng tiến bộ đáp ứng ngày càng
tốt hơn nhu cầu sản xuất và tiêu dùng của thành viên và xã hội, góp phần thúc
đẩy kinh tế tập thể ở huyện Thanh Trì, thành phố Hà Nội phát triển.
Chủ thể phát triển HTX trên địa bàn huyện Thanh Trì, thành phố Hà
Nội bao gồm các tổ chức, lực lượng cùng tham gia vào phát triển HTX đó là
những doanh nghiệp, nhà máy, xí nghiệp, UBND huyện và các cá nhân.
22
* Nội dung phát triển HTX trên địa bàn huyện Thanh Trì, thành phố
Hà Nội hiện nay
Nội dung phát triển HTX trên địa bàn huyện là củng cố, duy trì và phát
triển các loại hình HTX về số lượng, chất lượng đáp ứng được với mục tiêu,
yêu cầu phát triển kinh tế - xã hội trên địa bàn huyện nói riêng cũng như toàn
thành phố Hà Nội nói chung.
Phát triển HTX trên địa bàn huyện Thanh Trì, thành phố Hà Nội hiện
nay, bao gồm: phát triển số lượng; chất lượng; cơ cấu HTX trong các ngành,
các vùng, các thành phần kinh tế. Về số lượng, phát triển mạnh mạng lưới
và số lượng HTX tham gia sản xuất; HTX tham gia sản xuất kết hợp với
dịch vụ; HTX tham gia hoạt động dịch vụ trong các ngành công nghiệp,
nông nghiệp, thương nghiệp, tín dụng trên địa bàn huyện Thanh Trì. Về
chất lượng, thông qua việc đầu tư vốn, lao động, công nghệ, kỹ thuật… của
các HTX nhằm nâng cao năng suất, chất lượng, hiệu quả sản xuất, sản xuất
kết hợp với dịch vụ, hoạt động dịch vụ của HTX đáp ứng tốt nhất nhu cầu
của các thành viên và xã hội. Trên cơ sở đó, tạo việc làm, giảm chi phí sản
xuất, nâng cao năng lực cạnh tranh sản phẩm, nâng cao thu nhập, trình độ
và đời sống vật chất, tinh thần tiến tới mục tiêu tối đa hóa lợi ích của các
thành viên, góp phần phát triển kinh tế - xã hội trên địa bàn huyện Thanh
Trì. Về cơ cấu, đó chính là sự phù hợp về số lượng, chất lượng của các
HTX trong các ngành công nghiệp, nông nghiệp, thương nghiệp, tín dụng,
dịch vụ… đáp ứng yêu cầu phát triển kinh tế tập thể nói riêng, kinh tế - xã
hội nói chung trên địa bàn huyện Thanh Trì. Cụ thể, với yêu cầu cao của
KTTT sẽ dẫn đến hình thành, phát triển đa dạng hóa mô hình HTX với các
hình thức hoạt động khác nhau đáp ứng tốt nhất nhu cầu của sản xuất nông
nghiệp, công nghiệp, dịch vụ như HTX sản xuất; HTX dịch vụ; HTX tạo
việc làm; HTX sản xuất kết hợp với dịch vụ…
23
1.2.2. Sự cần thiết phát triển hợp tác xã trên địa bàn huyện Thanh
Trì, thành phố Hà Nội hiện nay
Một là, xuất phát từ vị trí, vai trò của hợp tác xã trong thúc đẩy phát
triển kinh tế - xã hội trên địa bàn huyện Thanh Trì
Thông qua hoạt động của HTX như: mua chung sản phẩm, dịch vụ từ thị
trường để phục vụ cho thành viên, hợp tác xã thành viên; bán chung sản phẩm,
dịch vụ của thành viên, hợp tác xã thành viên ra thị trường; mua sản phẩm, dịch
vụ của thành viên, hợp tác xã thành viên để bán ra thị trường; mua sản phẩm,
dịch vụ từ thị trường để bán cho thành viên, hợp tác xã thành viên; chế biến sản
phẩm của thành viên, hợp tác xã thành viên; cung ứng phương tiện, kết cấu hạ
tầng kỹ thuật phục vụ thành viên, hợp tác xã thành viên; tín dụng cho thành
viên, hợp tác xã thành viên; tạo việc làm cho thành viên đối với hợp tác xã tạo
việc làm. Từ đó, giảm chi phí sản xuất, nâng cao năng lực cạnh tranh sản phẩm,
tạo việc làm và nâng cao thu nhập của các thành viên. Trên cơ sở đó, duy trì sự
tồn tại và phát triển HTX góp phần tăng tỷ trọng công nghiệp, nông nghiệp và
dịch vụ trong GDP, tạo tiền đề, cơ sở, động lực thúc đẩy phát triển kinh tế - xã
hội trên địa bàn huyện Thanh Trì nói riêng, thành phố Hà Nội nói chung.
Để phát triển các HTX phải khai thác và phát huy sức mạnh tổng hợp
cũng như mọi tiềm năng, thế mạnh của địa phương. Trong đó, trọng tâm là
khai thác và phát huy có hiệu quả các nguồn lực (vốn, lao động, công nghệ kĩ thuật, các nguồn tài nguyên...). Điều này chỉ biến thành hiện thực khi
huyện Thanh Trì nói riêng, thành phố Hà Nội nói chung tạo lập được một môi
trường thuận lợi: kinh tế, chính trị - xã hội, pháp lý, kỹ thuật... hậu thuẫn cho
sự phát triển của HTX. Như vậy, khi HTX phát triển kéo theo sự phát triển
của các ngành như giao thông vận tải, năng lượng, bưu chính viễn thông, văn
hóa, y tế, giáo dục – đào tạo, khoa học – kĩ thuật... chính sự phát triển của các
ngành này góp phần thúc đẩy kinh tế – xã hội trên địa bàn huyện Thanh Trì
phát triển.
24
Hai là, xuất phát từ yêu cầu phát triển kinh tế tập thể và chuyển dịch cơ
cấu kinh tế trong quá trình CNH, HĐH, đô thị hóa trên địa bàn huyện Thanh Trì
Phát triển KTTT định hướng XHCN chính là phát triển nền kinh tế
hàng hóa nhiều thành phần, vận hành theo cơ chế thị trường có sự quản lý của
Nhà nước theo định hướng XHCN. Trong đó, kinh tế nhà nước giữ vai trò chủ
đạo, kinh tế Nhà nước cùng với kinh tế tập thể ngày càng trở thành nền tảng
vững chắc của nền kinh tế quốc dân. Do vậy, phát triển kinh tế tập thể là đòi
hỏi khách quan, yêu cầu cấp thiết trong đẩy mạnh CNH, HĐH và hội nhập
kinh tế quốc tế hiện nay. Phát triển kinh tế tập thể góp phần thúc đẩy phát
triển kinh tế - chính trị - xã hội, tăng cường tiềm lực quốc phòng – an ninh,
giữ vững định hướng XHCN của nền kinh tế. Phát triển kinh tế tập thể, trọng
tâm là phát triển HTX, yếu tố cấu thành nòng cốt của kinh tế tập thể. Phát
triển HTX sẽ là cơ sở, động lực thúc đẩy phát triển LLSX cùng với củng cố,
hoàn thiện quan hệ sản xuất XHCN. Chính điều này, lại tạo tiền đề cho phát
triển kinh tế tập thể.
Thành phố Hà Nội nói chung, huyện Thanh Trì nói riêng đang trong
quá trình đẩy mạnh CNH, HĐH, đô thị hóa, phát triển kinh tế theo xu hướng
đẩy mạnh phát triển kinh tế dịch vụ, công nghiệp - xây dựng. Nghị quyết Đại
hội Đảng bộ thành phố lần thứ XV (nhiệm kì 2010 – 2015) chỉ rõ mục tiêu cơ
cấu kinh tế của thành phố đến 2015 là: dịch vụ (54-55%); công nghiệp - xây
dựng (41-42%); nông nghiệp (3,0-4,0%). Để đạt được mục tiêu trên đòi hỏi sự
nỗ lực, cố gắng, phấn đấu của tất cả các cấp, các ngành, các thành phần kinh
tế, các địa phương trên địa bàn thành phố Hà Nội, trong đó có sự nỗ lực, phấn
đấu của Đảng bộ, chính quyền, các đoàn thể và nhân dân huyện Thanh Trì
trong chuyển dịch cơ cấu kinh tế trên địa bàn huyện.
Chuyển dịch cơ cấu kinh tế của huyện Thanh Trì là chuyển dịch cơ cấu
ngành, cơ cấu vùng, cơ cấu các thành phần kinh tế trên địa bàn. Điều này đồng
nghĩa, kéo theo chuyển dịch cơ cấu lao động, cơ cấu việc làm, cơ cấu thu nhập
và mức sống của nhân dân. Quá trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế của huyện
25