TĂNG HUYẾT ÁP TRONG BỆNH THẬN MẠN:
VAI TRÒ CỦA BẰNG CHỨNG
Ths. Bs. Lê Thị Tiến, Ths. Bs. Đặng Anh Đào
Theo F. M. Tedla et al, International Journal of Hypertension 2012
I. GIỚI THIỆU
Tăng huyết áp là yếu tố nguy
chứng của tổn thương thận. Ước tính
cơ chính của bệnh lý tim mạch và
khoảng 10-13% người Mỹ trưởng
bệnh thận. Ngược lại, bệnh thận mạn
thành
là nguyên nhân phổ biến nhất của tăng
thận mạn.
huyết áp thứ phát và được xem là yếu
tố nguy cơ độc lập của bệnh lý tim
mạch và tử vong. Tỷ lệ gia tăng bệnh
thận mạn được củng cố nhiều hơn kể
từ khi Hiệp Hội Thận Học Thế Giới
ban hành tiêu chuẩn phân độ suy thận
dựa vào mức độ lọc cầu thận (GFR:
Glomerular Filtration Rate) và có hay
không có bằng chứng về tổn thương
thận. Những bệnh nhân bệnh thận
mạn giai đoạn 1 (GFR ≥ 90mL/phút)
và 2 (GFR 60-89 mL/phút) cần có
bằng chứng tổn thương thận (ví dụ:
protein niệu). Giai đoạn 3, 4, và 5
tương ứng với GFR 30-59, 15-29 và
<15 mL/phút thì không cần bằng
mắc các giai đoạn của bệnh
Bằng chứng từ số lượng lớn các
nghiên cứu lâm sàng đã chứng minh
rõ hiệu quả của điều trị huyết áp tốt
làm cải thiện đáng kể những hậu quả
của nó. Thật không may, hầu hết
những nghiên cứu đều không dựa trên
bệnh nhân mắc bệnh thận mạn, và
những thử nghiệm này thường tập
trung vào đối tượng bệnh thận mạn
tiên phát và chú ý đến tiến triển của
bệnh thận như là điểm kết thúc lâm
sàng đầu tiên. Trong phần này, chúng
tôi giới thiệu bệnh nguyên và phương
pháp điều trị tăng huyết áp trên bệnh
thận mạn và đánh dấu những bằng
chứng có giá trị.
2. SINH BỆNH HỌC
Guyton đã khẳng định thận
giai đoạn này, sự gia tăng huyết áp là
đóng vai trò rất quan trọng trong điều
gián tiếp của tăng thể tích tuần hoàn;
hòa huyết áp lâu dài, và chứng minh
và điều này ưu thế là tăng huyết áp
rằng sự ổn định huyết áp không thể
tâm thu. Tuy nhiên, theo thời gian thể
thiếu vai trò của thận đặc biệt là điều
tích dịch ngoại bào và cung lượng tim
hòa Natri. Thật vậy, gần như tất cả
bình thường trở lại và tăng huyết áp
các dạng tăng huyết áp ở người và
trong giai đoạn này là do tăng sức đề
trên thực nghiệm đã chỉ ra rằng có sự
kháng ngoại vi, chính là làm tăng
rối loạn bài tiết Natri do thận ở thời
huyết áp tâm trương.
điểm huyết áp bình thường. Trong
nghiên cứu của Guyton trên số lượng
lớn động vật và tách biệt các thận
được truyền dịch, Guyton đã cho thấy
có sự tăng huyết áp cấp tính dẫn đến
tăng tiết nồng độ Natri một cách
nhanh chóng và sự bình thường hóa
huyết áp. Ngược lại, quá tải Natri chỉ
làm tăng huyết áp khi bài tiết natri ở
thận bị kìm hãm lại bởi sự giảm thiểu
70% khối lượng thận hoặc sự hoạt
động
của
angiotensin
hoặc
aldosterone. Trong bối cảnh này, tăng
huyết áp là hậu quả gián tiếp của tăng
thể tích dịch ngoại bào (ECF), mặc dù
có giảm sức đề kháng ngoại vi. Tại
Vai trò của quá tải thể tích
trong tăng huyết áp liên quan ở bệnh
thận mạn được kiểm soát bởi hiệu quả
của siêu lọc hoặc lợi tiểu trong kiểm
soát huyết áp ở bệnh nhân bệnh thận
mạn. Lọc máu 8h trong 3 lần/ tuần
hoặc lọc máu ngắn hạn đã cho thấy
chỉ một số nhỏ bệnh nhân cần điều trị
thuốc tăng huyết để kiểm soát huyết
áp. Quan sát này đã chứng minh sự
cải thiện về tỷ lệ tử vong và phì đại
thất trái ở nhóm lọc máu thường
xuyên và đã được FHN Daily Trial
khẳng định điều này. Tương tự, kiểm
soát tốt thể tích và huyết áp có thể đạt
được trong lọc màng bụng, hoặc sử
dụng lợi tiểu quai ở giai đoạn sớm của
nghiệm đã chứng minh rõ rằng tăng
suy thận mạn.
huyết áp liên quan đến sự giữ muối và
Cân bằng muối dương có ảnh
hưởng lớn nhưng không phải là yếu tố
duy nhất trong sự hình thành tăng
huyết áp ở bệnh thận mạn. Như đã
chú thích ở trên, bằng chứng thực
nước đã được duy trì bằng cách tăng
sự đề kháng ngoại biên. Bảng 1 cho
thấy các yếu tố gây tăng huyết áp
trong bệnh thận mạn cùng với cơ chế
tương ứng.
Bảng 1: Các yếu tố có thể gây tăng huyết áp ở bệnh thận mạn
Yếu tố
Cơ chế chủ đạo
-Rối loạn bài tiết sodium
-Giãn nở thể tích tuần hoàn
-Hoạt hóa hệ RAS
-Co mạch trực tiếp
(renin-angiotensin system)
Hoạt hóa hệ giao cảm
-Hoạt hóa hệ giao cảm
-Co mạch trực tiếp
Tăng tiết renin
-Mất cân bằng của các prostaglandin
-Co mạch
hoặc kinin
-Endothelin
-Co mạch trực tiếp
Tổn thương thận
-Giảm nitric oxide
-Giảm hiệu quả của yếu tố giãn mạch
Sự hoạt động của hệ thống
khi chức năng thận được bảo tồn, sự
Renin-angiotensin (RAS) đã được
hoạt hóa hệ RAS là yếu tố quan trọng
chứng minh ở bệnh nhân lọc máu
trong bệnh sinh của tăng huyết áp ở
không kiểm soát tốt huyết áp mặc dù
bệnh lý thận đa nang, và nó được cho
đã được tối ưu hóa siêu lọc. Điều trị ở
là chèn ép các mạch máu thận do sự
những bệnh nhân này với phẫu thuật
phì đại các nang. Những yếu tố khác
cắt bỏ thận hai bên hoặc ức chế hệ
được đưa ra để giải thích về tình trạng
RAS đã cho thấy kiểm soát được
gia tăng sự đề kháng mạch máu trong
huyết áp, gợi ý cho thấy suy thận sản
bệnh thận mạn bao gồm gia tăng sản
xuất lượng lớn renin. Chính điều này
xuất Endothelin và dẫn chất giống
đã dẫn đến kết quả tăng huyết áp trực
digitalis nội sinh; giảm sản xuất yếu
tiếp, sự hoạt hóa của hệ thống RAS
tố giãn mạch như nitric oxide và các
làm tăng huyết áp ở bệnh thận mạn
kinin; và sự mất cân bằng giữa yếu tố
bằng cách kích thích hệ thần kinh giao
giãn mạch và prostaglandin co mạch.
cảm. Trong các nghiên cứu hình ảnh
Trong khi vai trò của stress oxy hóa
vi thần kinh, cho thấy bệnh nhân với
trong tăng huyết áp và bệnh thận mạn
bệnh thận mạn tăng hoạt tính hệ thần
chưa được rõ ràng, thì nó thường là sự
kinh giao cảm để đáp ứng lại với ức
phối hợp của những rối loạn trên và
chế men chuyển angiotensin (ACE)
góp phần vào vai trò bệnh sinh tăng
hoặc phẫu thuật cắt bỏ 2 thận. Kể cả
huyết áp.
Chức năng mảnh ghép là yếu tố
tăng huyết áp ở người được ghép
tiên lượng quan trọng của tăng huyết
thận. Ức chế calcineurin có vai trò
áp sau khi ghép thận. Thêm vào đó,
gây co mạch, nhưng cơ chế chính xác
ức chế calcineurin (tacrolimus và
của nó thì chưa được biết đến nhiều.
cyclosporine) và glucocorticoids cũng
Sự rối loạn về sinh học của các chất
góp vai trò vào cơ chế bệnh sinh của
hoạt mạch như đã nêu trên và hiệu
quả trên chuyển hóa calci của cơ trơn
ra nhưng vẫn có thể là nguyên nhân
đã được mô tả. Hẹp động mạch thận
ngược lại gây tăng huyết áp sau khi
ghép, hoặc động mạch đầu gần với
ghép thận.
đoạn nối động mạch, điều này ít xảy
4. ĐIỀU TRỊ TĂNG HUYẾT ÁP TRONG BỆNH THẬN MẠN
Bệnh nhân mắc bệnh thận mạn
dân số cùng độ tuổi, trong đó nguyên
thường dễ tử vong phần lớn là do
nhân tử vong do tim mạch chiếm trên
bệnh lý tim mạch, hơn là do lọc máu.
50%. Chính vì vậy, điều quan trọng là
Một khi đã tiến triển đến bệnh thận
kiểm soát các yếu tố nguy cơ có thể
giai đoạn cuối (ESRD), bệnh nhân lọc
thay đổi ở nhóm nguy cơ cao.
máu tăng tỷ lệ tử vong lên 8 lần so với
4.1. MỤC TIÊU HUYẾT ÁP
Hướng dẫn quốc gia mới nhất
hay không. Đầu tiên, ở những bệnh
từ JNC về dự phòng, phát hiện, đánh
nhân tiểu protein chưa đạt mức ý
giá và điều trị tăng huyết áp VII (JNC
nghĩa, không có dữ liệu nào chứng
VII) và K/DOQI (Kidney Disease
minh kiểm soát huyết áp theo mức
Outcomes Quality Initiative) khuyến
khuyến cáo tốt hơn các bệnh nhân
cáo huyết áp <130/80 mmHg là mục
tăng huyết áp không có bệnh thận
tiêu của bệnh thận mạn. Có nhiều
mạn (<140/90). Thứ hai, sự an toàn
bằng chứng xác định rằng đạt được
của điều trị huyết áp tích cực ở bệnh
mục tiêu huyết áp này làm chậm trễ
nhân trên 70 tuổi chưa được thiết lập,
sự tiến triển bệnh thận ở bệnh nhân
dù những đối tượng này đã có nhiều
suy thận mạn và protein niệu. Tuy
thử nghiệm lâm sàng tìm ra hiệu quả
nhiên, câu hỏi được đặt ra là liệu mục
của kiểm soát huyết áp. Thứ ba, phân
tiêu huyết áp này có thể áp dụng cho
tích thứ yếu của nghiên cứu tiến cứu
tất cả bệnh nhân mắc bệnh thận mạn
cho thấy những bệnh nhân mắc bệnh
thận mạn có nguy cơ cao đột quỵ khi
thu giảm tỉ lệ mắc bệnh và tỉ lệ tử
huyết áp tâm thu dưới thấp hơn
vong; tuy nhiên, điều quan trọng là
120mmHg, hoặc nhồi máu cơ tim khi
huyết áp tâm thu trung bình đạt được
huyết áp tâm trương dưới 80mmHg.
khi điều trị tích cực là 143mmHg. Kể
Hiệu quả của điều trị tăng huyết áp
từ khi bệnh nhân suy thận mạn có
tâm thu đơn thuần ở bệnh nhân suy
khuynh hướng già hơn và gia tăng các
thận mạn chưa được thử nghiệm lâm
yếu tố nguy cơ tim mạch, vì vậy điều
sàng. Tăng huyết áp tâm thu ở chương
trị cá nhân hóa là thích hợp ở những
trình dành cho người lớn tuổi, bao
bệnh nhân này, đặc biệt những bệnh
gồm bệnh nhân suy chức năng thận,
nhân không có protein niệu ở mức ý
đã cho thấy điều trị tăng huyết áp tâm
nghĩa.
Hầu hết những thử nghiệm lâm
bệnh thận. Trong sự phân tầng này,
sàng đã cho thấy sự kiểm soát tốt
các bằng chứng của hiệu quả điều trị
huyết áp ở những bệnh nhân suy thận
huyết áp sẽ được bàn luận độc lập
mạn trên bệnh thận tiến triển như là
dành cho bệnh thận đái tháo đường,
những biến cố chính, và phân tầng
những bệnh lý thận khác có protein
quần thể nghiên cứu bởi mức độ
niệu, và bệnh lý thận không có protein
protein niệu hoặc nguyên nhân của
niệu.
Bảng 2: Tóm tắt điều trị tăng huyết áp ở bệnh thận mạn
Rối loạn
Mục tiêu huyết
áp (mmHg)
Nhóm thuốc khuyến cáo
Bệnh thận đái tháo đường
<130/80
ACEI/ARB
Bệnh thận có protein niệu không do
<130/80
ACEI/ARB
đái tháo đường
Bệnh thận không có protein niệu
<140/90
Bất kì nhóm thuốc nào
Ghép thận
Không rõ
Bất kì nhóm thuốc nào,
cẩn trọng với verapamil
hoặc diltiazem
4.2. ĐIỀU TRỊ TĂNG HUYẾT ÁP TRONG BỆNH THẬN ĐÁI THÁO
ĐƯỜNG
Điều trị tăng huyết áp ở bệnh
đường đã cho thấy ACEI hoặc ARBs
thận đái tháo đường thường bao gồm
là nhóm thuốc bảo vệ thận. Ở những
ức
bệnh nhân đái tháo đường thể 1, điều
chế
men
chuyển
(ACEI:
angiotensin-converting-enzyme
inhibitor) hoặc
ức
chế thụ thể
trị captopril làm chậm tiến triển
microalbumin
niệu
(albumin
niệu
angiotensin
hàng ngày 30-300mg) đến protein
receptor blockers) để đạt được mục
niệu đại thể, và từ bệnh lý cầu thận
tiêu huyết áp nhỏ hơn 130/80mmHg.
diễn tiến đến bệnh thận giai đoạn
Hầu hết, nhưng không phải là tất cả,
cuối. Hai thử nghiệm lâm sàng lớn đã
những thử nghiệm lâm sàng đã cho
cho thấy rằng việc sử dụng irbesartan
thấy sự tác động của nhóm thuốc hạ
và losartan (thuộc nhóm ARBs) làm
áp đặc biệt trên sự tiến triển xấu của
chậm tiến triển bệnh thận ở những
protein niệu hoặc chức năng thận ở
bệnh nhân đái tháo đường thể 2 có
bệnh nhân bị bệnh thận đái tháo
bệnh thận đái tháo đường.
angiotensin
(ARBs:
Hiệu quả đạt được ở mức
đường. Phân tích thứ cấp của những
khuyến cáo huyết áp mục tiêu <
thử nghiệm đã có, tuy nhiên, khuyến
130/80 mmHg đã không được thử
cáo rằng nếu duy trì mức huyết áp
nghiệm lâm sàng trực tiếp ở những
thấp hơn mức khuyến cáo trên có thể
đối tượng mắc bệnh thận đái tháo
làm xấu đi kết cục của bệnh lý thận và
tim mạch. Nghiên Cứu Đái Tháo
võng mạc đái tháo đường cần điều trị
Đường Tiến Cứu của Vương Quốc
lazer và có nồng độ creatinin huyết
Anh (UKPDS) đã so sánh hiệu quả
thanh > 2mg/dl; huyết áp trung bình
của mức huyết áp thấp hơn mức
đạt được ở nhóm kiểm soát chặt chẽ
150/85 và 180/85mmHg ở bệnh nhân
và nhóm kiểm soát thông thường là
đái tháo đường thể 2 có tăng huyết áp.
144/82 và 152/87 mmHg, và hơn 80%
Loại trừ những bệnh nhân có bệnh lý
bệnh nhân có protein niệu < 50mg/dl.
Ibersartan trong thử nghiệm
triển huyết áp tâm thu xuống thấp
bệnh cầu thận đái tháo đường (IDNT)
mức 120mmHg có khả năng chống lại
đánh giá hiệu quả bảo vệ thận khi sử
các biến cố tim mạch và chống lại sự
dụng irbesartan, amlodipine, hoặc giả
suy giảm chức năng thận, nhưng giảm
dược. Cả 3 nhóm này đều có protein
huyết áp nhiều hơn có thể là có hại;
niệu trung bình là 1.9 g, được điều trị
tương tự xu hướng huyết áp tâm
irbesartan, amlodipine, và giả dược có
trương 85mmHg có thể kiểm soát
mức huyết áp lần lược là 140/77,
được các biến cố tim mạch nhưng
141/77 và 144/80mmHg. Phân tích
không tốt cho thận.
thứ cấp của IDNT cho thấy sự tiến
Như những tóm tắt đã nêu ở
Động Để Kiểm Soát Nguy cơ Tim
trên, cần thận trọng khi xem xét các
Mạch ở Bệnh Nhân Đái Tháo Đường
dữ liệu về mức huyết áp khuyến cáo
Có Tăng Huyết Áp (ACCORD BP).
dưới 130/80 mmHg ở những bệnh
Nghiên cứu này dựa trên bệnh nhân
nhân mắc bệnh thận đái tháo đường;
đái tháo đường có bệnh lý tim mạch
hầu hết những nghiên cứu không đạt
phối hợp hoặc có ít nhất 2 yếu tố nguy
được mức kiểm soát huyết áp này.
cơ bệnh lý tim mạch đi kèm, nhằm
Điều này thật sự đã được làm sáng tỏ
đánh giá sự tác động của hạ huyết áp
dựa vào kết quả nghiên cứu của Hành
tâm thu xuống thấp dưới mức 120
hoặc 140mmHg. Những người tham
điểm kết thúc khởi đầu (không có đột
gia nghiên cứu này có mức creatinine
tử, không tử vong do nhồi máu cơ
huyết thanh trung bình là 0.9mg/dL và
tim, hoặc chết do biến cố tim mạch)
protein niệu không có hoặc ở mức
hoặc tất cả nguyên nhân tử vong giữa
thấp. Mặc dù huyết áp tâm thu đạt
2 nhóm này. Nhóm kiểm soát huyết
được là 119 và 135 mmHg ở nhóm
áp tích cực có nguy cơ đột quỵ thấp
kiểm soát tích cực và nhóm thông
hơn nhưng tỷ lệ cao các tác dụng phụ
thường, không có sự khác biệt giữa
nghiêm trọng.
4.3. ĐIỀU TRỊ BỆNH CẦU THẬN CÓ PROTEIN NIỆU KHÔNG DO ĐÁI
THÁO ĐƯỜNG
Bằng chứng từ những thử
Kể từ khi những thử nghiệm không
nghiệm lâm sàng có kiểm soát cho
đạt được mức huyết áp < 130/80,
thấy rằng kiểm soát huyết áp làm hạn
bằng chứng có giá trị nhất để đạt được
chế sự tiến triển của bệnh thận có
mức huyết áp mục tiêu dưới ngưỡng
protein niệu không do đái tháo đường.
này đã đạt được từ những phân tích
Nghiên cứu MDRD, khuyến cáo mức
các phân nhóm của nghiên cứu
độ protein niệu xác định hiệu quả từ
MDRD. Dữ liệu về việc sử dụng
kiểm soát huyết áp chặt chẽ. Mặc dù
ARBs ở bệnh nhân mắc bệnh thận
không có hiệu quả cộng thêm nào từ
không do đái tháo đường có protein
việc sử dụng ACEI được tìm thấy
niệu vẫn còn bị giới hạn, nhưng ARBs
trong nghiên cứu MDRD, những thử
thường được tin rằng có tác dụng
nghiệm ngẫu nhiên sau này đã ủng hộ
tương đương ACEI. Không giống như
việc sử dụng ACEI để bảo vệ thận,
hiệu quả bảo vệ thận, những nghiên
đặc biệt là những bệnh nhân có
cứu này không cung cấp đầy đủ dữ
protein niệu ở mức ý nghĩa (protein
liệu trên việc tác động của kiểm soát
niệu bài tiết hàng ngày từ 1g trở lên).
huyết áp trên biến cố tim mạch.
4.4. ĐIỀU TRỊ BỆNH CẦU THẬN KHÔNG CÓ PROTEIN NIỆU
Lợi ích của việc kiểm soát
mức tỷ lệ protein niệu/creatinine nhỏ
huyết áp chặt chẽ < 140/90 mmHg,
hơn 0.22 (tương đương 300 mg/ngày)
hoặc sử dụng ACEI hoặc ARBs ở
so với mức cơ bản. Mức huyết áp đạt
những bệnh nhân mắc bệnh cầu thận
được ở nhóm huyết áp giảm và nhóm
không có protein niệu đã không được
huyết áp thông thường là 128/78 và
thiết lập. Trong nghiên cứu người Mỹ
141/85 mmHg. Không có sự khác biệt
gốc Phi về Bệnh Thận và Tăng Huyết
về tỷ lệ tiến triển của bệnh thận giữa 2
Áp (AASK), bệnh nhân đã được phân
nhóm, nhưng ramipril có hiệu quả
nhóm ngẫu nhiên để điều trị ramipril,
hơn amlodipine hay metoprolol trong
amlodipine, hoặc metoprolol và làm
làm giảm tiến triển của bệnh thận,
giảm và mục tiêu huyết áp thông
bệnh thận giai đoạn cuối, hoặc tử
thường. Sử dụng amlodipine đã kết
vong. Không có hiệu quả nào từ việc
thúc sớm bởi vì phân tích tạm thời
kiểm soát huyết áp tích cực hoặc sử
cho thấy kết cục xấu hơn những thuốc
dụng ACEI được tìm thấy ở những
khác với ramipril. Ước lượng khoảng
bệnh nhân mắc bệnh thận đa nang.
2/3 người tham gia nghiên cứu có
4.5. LIỆU PHÁP PHỐI HỢP
Hầu hết những bệnh nhân mắc
thường rất cần thiết để điều trị quá tải
bệnh thận mạn đòi hỏi nhiều loại hạ
thể tích tuần hoàn hoặc tăng kali máu.
áp phối hợp để điều trị tăng huyết áp.
Sự tác động kép của ACEI và ARBs
Lựa chọn thuốc huyết áp có cơ chế
làm giảm protein niệu ở mức đáng kể
hoạt động bổ sung hoặc dựa vào các
hơn là sử dụng đơn thuần một nhóm,
tình trạng bệnh lý phối hợp để tối ưu
nhưng không được khuyến cáo để bảo
hóa liệu pháp điều trị và hạn chế tối
vệ chức năng thận hay cải thiện biến
thiểu tác dụng phụ. Lợi tiểu quai
cố tim mạch. Trong bối cảnh của gia
tăng nguy cơ các biến cố bất lợi được
microalbumin niệu, tác động ức chế
quan sát trong Thử Nghiệm Kết Cục
kép có liên quan đến chức năng thận
Toàn
Dụng
xấu đi và tăng kali máu, và không có
Telmisartan Đơn Độc và Kết Hợp Với
sự khác biệt có ý nghĩa về biến cố tim
Ramipril (ONTARGET). Trong thử
mạch và tỷ lệ tử vong. Sự phối hợp
nghiệm lớn này những bệnh nhân có
giữa kháng aldosterone với ức chế hệ
nguy cơ cao về bệnh lý mạch máu, có
Renin-Angiotensine (RA), mặc dù có
nồng độ creatinin huyết thanh được
hiệu quả cộng thêm là ức chế protein
ước tính khoảng 1.1mg/dl, 1/3 người
niệu, nhưng thiếu bằng chứng lâm
tham gia nghiên cứu có huyết áp bình
sàng về tính hiệu quả và gia tăng nguy
thường, và chỉ 13% bệnh nhân có
cơ tác dụng phụ.
Cầu
Về
Việc
Sử
Vai trò và tính an toàn của sự
(AVOID) nghiên cứu trên nhóm bệnh
phối hợp ức chế của hệ RA bao gồm
nhân có GFR > 30ml/phút/1.73m2 và
ức chế trực tiếp renin ở bệnh nhân
không có bằng chứng tăng kali máu;
mắc bệnh thận mạn chưa được làm
bổ sung aliskiren vào losartan đã được
sáng tỏ hoàn toàn. Thử nghiệm
dung nạp tốt và làm giảm albumin
Aliskiren về sự Tiến Triển Protein
niệu.
Niệu ở Bệnh Nhân Đái Tháo Đường
5. TÓM TẮT
Điều trị tăng huyết áp ở bệnh
ARBs để đạt được huyết áp mục tiêu
nhân mắc bệnh thận mạn cần phải
< 130/80mmHg, nếu như có dung
xem xét nguyên nhân nền của bệnh lý
nạp. Mức huyết áp <140/90 mmHg
thận. Những bệnh nhân có bệnh thận
được chấp nhận cho những bệnh nhân
đái tháo đường hoặc bệnh thận không
mắc bệnh thận mạn khác. Ức chế kép
do đái tháo đường có protein niệu đạt
hay 3 của hệ RA cần được tránh sử
được hiệu quả khi điều trị ACEI hoặc
dụng.