Tải bản đầy đủ (.pdf) (108 trang)

Dịch vụ công tác xã hội đối với người lao động nhập cư từ thực tiễn thành phố hồ chí minh

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.21 MB, 108 trang )

VIỆN HÀN LÂM
KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM
HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI

TRƢƠNG NGUYỄN BẢO TRÂN

DỊCH VỤ CÔNG TÁC XÃ HỘI
ĐỐI VỚI NGƢỜI LAO ĐỘNG NHẬP CƢ
TỪ THỰC TIỄN THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH

Chuyên ngành: Công tác xã hội
Mã số: 60. 90. 01. 01

LUẬN VĂN THẠC SĨ CÔNG TÁC XÃ HỘI

NGƢỜI HƢỚNG DẪN KHOA HỌC
PGS. TS BÙI THỊ XUÂN MAI

HÀ NỘI - 2016


LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan rằng, số liệu và kết quả nghiên cứu trong luận văn Thạc sĩ
Công tác xã hội về “Dịch vụ công tác xã hội đối với người lao động nhập cư từ
thực tiễn thành phố Hồ Chí Minh” là hoàn toàn trung thực và không trùng lặp với
các đề tài khác trong cùng lĩnh vực.
Tôi xin hoàn toàn chịu trách nhiệm về lời cam đoan này.


MỤC LỤC
MỞ ĐẦU ................................................................................................................1


Chƣơng 1: NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ DỊCH VỤ CÔNG TÁC XÃ
HỘI ĐỐI VỚI NGƢỜI LAO ĐỘNG NHẬP CƢ .............................................14
1.1. Một số lý luận về nhập cư và người lao động nhập cư ..................................14
1.2.Một số vấn đề lý luận về công tác xã hội, công tác xã hội với người lao động
nhập cư ..................................................................................................................16
1.3.Một số lý luận về dịch vụ công tác xã hội ......................................................19
1.4.Cơ sở pháp lý của dịch vụ công tác xã hội đối với người lao động nhập cư ..28
Chƣơng 2: THỰC TRẠNG DỊCH VỤ CÔNG TÁC XÃ HỘI ĐỐI VỚI
NGƢỜI LAO ĐỘNG NHẬP CƢ TỪ THỰC TIỄN THÀNH PHỐ HỒ CHÍ
MINH ...................................................................................................................30
2.1 Thông tin chung về địa bàn và khách thể nghiên cứu..................................30
2.2 Thực trạng về đời sống và nhu cầu người lao động nhập cư .......................33
2.3. Thực trạng dịch vụ công tác xã hội cho người lao động nhập cư từ thực tiễn
thành phố Hồ Chí Minh ........................................................................................42
2.4 Đánh giá kết quả của việc cung cấp các dịch vụ công tác xã hội cho người lao
động nhập cư từ thực tiễn thành phố Hồ Chí Minh ..............................................56
2.5. Các yếu tố ảnh hưởng đến việc cung cấp dịch vụ công tác xã hội cho người
lao động nhập cư từ thực tiễn thành phố Hồ Chí Minh ........................................62
Chƣơng 3: ĐỊNH HƢỚNG VÀ GIẢI PHÁP NÂNG CAO CHẤT LƢỢNG
DỊCH VỤ CÔNG TÁC XÃ HỘI CHO NGƢỜI LAO ĐỘNG NHẬP CƢ TỪ
THỰC TIỄN THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH ..................................................68
3.1 Định hướng nâng cao chất lượng dịch vụ công tác xã hội cho người lao động
nhập cư tại thành phố Hồ Chí Minh ......................................................................69
3.2 Các giải pháp đảm bảo chất lượng dịch vụ công tác xã hội cho người lao động
nhập cư từ thực tiễn thành phố Hồ Chí Minh ........................................................70
KẾT LUẬN ..........................................................................................................76
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO ..........................................................78
PHỤ LỤC



DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT

AAV

: Action Aid Vietnam

ASXH

: An sinh xã hội

CTXH

: Công tác xã hội

TLN

: Thảo luận nhóm

LĐTB&XH : Lao động Thương binh và Xã hội
NLĐ

: Người lao động

NVXH

: Nhân viên xã hội

PTCĐ

: Phát triển cộng đồng


PVS

: Phỏng vấn sâu

TP.HCM

: Thành phố Hồ Chí Minh


DANH MỤC CÁC BẢNG BIỂU

Bảng 2.1: Các khoản chi hàng tháng của NLĐ nhập cư tại TP.HCM .....................37
Bảng 2.2: So sánh mức giá giá nước sạch .................................................................40
Bảng 2.3: Mức độ sử dụng các dịch vụ CTXH của NLĐ nhập cư tại TP.HCM .....44
Bảng 2.4: Đánh giá mức độ đáp ứng của các dịch vụ CTXH cho NLĐ nhập cư .....60
Bảng 2.5: Đánh giá chất lượng dịch vụ CTXH cho NLĐ nhập cư tại TP.HCM ......63
Bảng 2.4: Nhận xét về nhân viên cung cấp dịch vụ ..................................................66
Biểu đồ 2.1: Các khoản chi hàng tháng của NLĐ nhập cư tại TP.HCM .................34
Biểu đồ 2.2: Tham gia BHYT theo khu vực làm việc của NLĐ nhập cư tại
TP.HCM .............................................................................................................36
Biểu đồ 2.3: Hình thức sử dụng nước của NLĐ nhập cư ........................................39
Biểu đồ 2.4: Hình thức sử dụng điện của NLĐ nhập cư .........................................41
Biểu đồ 2.5: Lợi ích của dịch vụ CTXH đối với NLĐ nhập cư ............................46
Biểu đồ 2.6: Đánh giá chung về chất lượng dịch vụ CTXH ..................................63


MỞ ĐẦU
1 . Tính cần thiết của đề tài
Di cư nói chung và người lao động NLĐ nhập cư nói riêng là xu hướng tất

yếu của tiến trình phát triển kinh tế xã hội của mọi quốc gia. Trong những năm gần
đây, các báo cáo thống kê của chính phủ và của các tổ chức xã hội đã chỉ ra xu
hướng nổi bật là luồng di cư từ nông thôn ra thành thi đang gia tăng cả về số lượng
lẫn tỷ lệ người di cư trong các thập kỷ qua. Có rất nhiều lý do có thể dẫn tới sự gia
tăng này, trong đó phải kể đến việc chuyển đổi nền kinh tế từ tập trung bao cấp sang
kinh tế thị trường, việc dỡ bỏ các quy định hạn chế sự phát triển của khu vực tư
nhân, sự phát triển của giao thông vận tải Đặng Nguyên Anh và các tác giả khác,
1997 , sự gia tăng khác biệt giữa các vùng PWg, 1999 , và sự nới lỏng các quy
định hạn chế di cư Doãn và Trịnh, 1998 .
Đây là một xu thế tất yếu vì nó đáp ứng nhu cầu của thị trường lao động, mang
lại giá trị gia tăng cao hơn cho nền kinh tế mà còn góp phần làm biến đổi mạnh mẽ
cơ cấu nhân lực theo ngành và theo địa phương. Sự di chuyển lao động giữa các địa
phương, vùng miền cũng diễn ra khá mạnh mẽ không chỉ giúp phát triển việc làm
mà còn giải quyết đáng kể những vấn đề liên quan tới việc điều tiết lao động từ các
khu vực, địa phương thừa lao động sang các khu vực, địa phương thiếu lao động.
Các báo cáo cũng cho thấy những đóng góp của di cư vào khu vực thành thị, đặc
biệt là tại các thành phố lớn nhưng lại hạn chế trong việc tiếp cận tới các dịch
ASXH và các chính sách công tại nơi đến. Thực tế này làm ảnh hưởng tiêu cực tới
chất lượng cuộc sống và quyền của lao động di cư, đặc biệt là phụ nữ vì có hơn 80%
người lao động di cư có đem theo con tới nơi đến, và không có chính sách riêng biệt
về y tế và giáo dục dành cho các nhóm con của người di cư (AAV, 2014) [4,5]. Như
vậy, NLĐ nhập cư được xem là người đã góp phần đáng kể vào quá trình phát triển
kinh tế nhưng họ không được tiếp cận tới các dịch vụ an sinh xã hội và các chính
sách công tại nơi đến.
Thành phố Hồ Chí Minh TP.HCM là một trong những tỉnh thành có số
lượng người nhập cư lớn nhất cả nước. Hiện nay, người nhập cư chiếm 1,2 triệu,
16.8% tổng số dân cư TP.HCM (7,123 triệu theo báo cáo Phát triển con người của

1



Liên Hiệp Quốc, 2009) [36, tr. 30]. Cũng giống các địa phương khác, NLĐ nhập cư
tại TP.HCM cũng đối mặt nhiều rủi ro và thách thức trong việc ổn định cuộc sống
thông qua việc tiếp cận các dịch vụ xã hội cơ bản. Theo AAV (2014) có tới 63,3%
lao động nhập cư không chính thức cho rằng họ không được nhận các dịch vụ
ASXH ở nơi cư trú mới [5, tr.2]. Những khó khăn họ thường gặp phải bao gồm việc
tiếp cận với dịch vụ công cơ bản tại nơi tạm trú như việc học cho con cái, đăng ký
sử dụng điện nước đúng giá nhà nước quy định, đăng ký hoặc chuyển đổi bảo hiểm
y tế miễn phí cho trẻ dưới 6 tuổi (SDRC, 2015) [25, tr. 62-80] và những khó khăn
khác liên quan đến tìm tiếp cận giáo dục, nhất khi việc tiếp cận này phụ thuộc vào
nơi nhập cư, nên hầu như không có sự tương đồng giữa các địa phương. Bên cạnh
đó, các yếu tố đảm bảo giáo dục phụ thuộc khá nhiều vào tài chính tốt, ổn định và
sổ tạm trú KT3 , đây là những vấn đề mà NLĐ đang gặp phải khi thu nhập thấp,
công việc không ổn định, số lượng hộ NLĐ nhập cư có sổ tạm trú còn hạn chế
(AAV, 2014) [5, tr.7].
Từ thực tế trên cho thấy, NLĐ rất cần các dịch vụ công tác xã hội để đảm bảo
chất lượng cuộc sống tại nơi tạm trú như dịch vụ biện hộ và hỗ trợ pháp lý để tiếp
cận với các dịch vụ xã hội và chính sách xã hội, dịch vụ; dịch vụ kết nối mạng lưới
và nguồn lực… và NLĐ nhập cư là nhóm yếu thế với nhiều rủi ro và vấn đề tại nơi
tạm trú; Tuy nhiên, các tổ chức xã hội và đoàn thể chuyên cung cấp các dịch vụ
công tác xã hội cho NLĐ nhập cư còn rất không nhiều, chưa có mạng lưới dịch vụ.
Từ những lý do trên, tôi chọn nghiên cứu đề tài “Dịch vụ công tác xã hội cho
NLĐ nhập cư từ thực tiễn TP.HCM” để có được đánh giá khách quan về các những
dịch vụ công tác xã hội dành cho NLĐ nhập cư, tìm ra những yếu tố tác động đến
việc cung cấp dịch vụ công tác xã hội CTXH để từ đó có thể đề xuất một số giải
pháp nhằm cải thiện hiệu quả các hoạt động này.
2 . Tình hình nghiên cứu của đề tài
NLĐ nhập cư tại các thành phố lớn càng tăng lên trong bối cảnh công nghiệp
hoá, đô thị hoá, phát triển và hội nhập của Việt Nam. Hiện nay, NLĐ nhập cư được
quan tâm hơn, thể hiện qua việc các chính sách liên quan đã có những thay đổi quan

trọng, phản ảnh những chuyển biến cơ bản về nhận thức của các cơ quan làm luật và

2


thực thi luật, cũng như những đóng góp to lớn của nhiều bên liên quan. Tuy nhiên,
tùy theo đặc điểm của từng giai đoạn phát triển kinh tế xã hội khác nhau mà cách
tiếp cận vấn đề lao động nhập cư cũng như những vấn đề của NLĐ nhập cư có sự
khác nhau. Những nghiên cứu đã thực hiện chủ yếu là các điều tra xã hội học nhằm
đưa ra một bức tranh toàn cảnh về việc di cư nông thôn - thành thị cũng như phác
họa rất rõ nét chân dung và mạng lưới xã hội của NLĐ nhập cư; nhưng các nghiên
cứu chuyên biệt về công tác xã hội hoặc dịch vụ công tác xã hội cho nhóm NLĐ
nhập cư thì chưa nhiều. Vì thế, phần tổng quan tài liệu này tập trung điểm lại các
nghiên cứu trước đây về NLĐ nhập cư tại TP.HCM và một số thành phố lớn khác:
Những nghiên cứu mang tính phổ quát
Những nghiên cứu này khái quát tình trạng về cuộc sống, lao động và việc làm
của NLĐ nhập cư tại những thành phố lớn từ đó đưa ra những xu hướng của dòng
di cư nông thôn ra thành thị. Cụ thể:
Nghiên cứu “Lao động di cư từ nông thôn ra thành thị: thực trạng và khuyến
nghị” (Nguyễn Đình Long và Nguyễn Thị Minh Phượng, 2013) [17] chỉ ra những
nguyên nhân của việc di cư từ nông thôn ra thành thị vì sự gia tăng dân số và sức ép
của việc làm ở khu vực nông thôn cũng như đất đai sản xuất nông nghiệp ngày càng
thu hẹp ở khu vực nông thôn dẫn đến dư thừa lao động ở khu vực này. Đặc biệt kết
quả nghiên cứu này cũng cho thấy xu hướng di cư ngày càng trẻ hóa và di cư cùng
với gia đình. Khuyến nghị của các tác giả đưa ra tập trung vào việc hoàn thiện chính
sách, bảo vệ quyền lợi của lao động di cư và cung cấp thông tin thị trường lao động
và các thông tin liên quan.
Báo cáo “Di cư trong nước - cơ hội và thách thức đối với sự phát triển kinh tế
- xã hội của Việt Nam” do Tổ chức Liên hợp quốc tại Việt Nam (2010) thực hiện
[16]. Đây có thể coi là một trong những báo cáo tổng quát nhất về tình hình di cư ở

Việt Nam hiện nay với các khái quát chung nhất về tiến trình di cư từ trong lịch sử
đến thời điểm hiện tại, về số lượng và các đặc điểm nhân khẩu học của dòng di cư
hiện tại, về các động cơ di cư; thời gian di cư cũng như các loại hình và phạm vi di
cư. Bên cạnh đó, các khó khăn/thách thức, những hệ lụy và cả những lợi ích mà quá
trình di cư đem lại cũng được báo cáo chỉ ra một cách cặn kẽ. Với cách phân tích đa

3


chiều dựa trên cơ sở của nguồn dữ liệu phong phú cả ở trong nước và quốc tế, báo
cáo đã cung cấp những minh chứng đầy thuyết phục cho những cơ hội và thách thức
của hoạt động di cư trong nước đối với sự phát triển kinh tế - xã hội của Việt Nam.
Quan trọng hơn, báo cáo đã chỉ ra yếu tố quyết định chiều hướng của sự tác động là cơ hội hay thách thức còn liên quan và phụ thuộc mật thiết vào chính môi trường
chính trị, kinh tế, xã hội cùng với hành vi và nguồn lực cá nhân người di cư cũng
như gia đình của họ. Đây cũng là đặc điểm cần xem xét đến trong các chính sách
đối với lao động di cư để đảm bảo phát huy những lợi thế mà quá trình di cư mang
lại cho xã hội và bản thân người lao động.
Báo cáo “Thực trạng việc làm, đời sống của lao động di cư từ nông thôn ra
thành thị và khu công nghiệp” của Cục việc làm, Bộ LĐTB&XH 2013 [10] đưa ra
nhiều kết quả tổng quan về tình hình việc làm (quá trình chuyển đổi công việc, đặc
điểm và tính chất công việc hiện tại, việc làm thêm…) và đời sống (nhà ở, chi phí
sinh hoạt, chăm sóc sức khỏe, tiếp cận giáo dục của con em lao động nhập cư, tham
gia các hoạt động cộng đồng) của NLĐ di cư. Báo cáo này cũng chỉ ra di cư lao
động trong nước ngày càng phổ biến nhằm đáp ứng nhu cầu phát triển kinh tế xã hội
tại Việt Nam. Các dòng dịch chuyển lao động tự do đến đô thị và khu công nghiệp
đang dần đóng vai trò thay thế các chương trình di cư của Chính phủ. Phần lớn lý
do di cư liên quan tới mục đích kinh tế và đối tượng di cứ có liên quan trong độ tuổi
lao động. Báo cáo cũng khẳng định hoạt động di cư này là một xu thế tất yếu, được
vận hành theo quy luật cung - cầu của thị trường lao động, các luồng di cư đã khỏa
lấp đáng kể nhu cầu lao động tại khu vực thành thị và khu công nghiệp. Những khó

khăn mà NLĐ nhập cư gặp phải là nhà ở, tìm kiếm việc làm, ổn định cuộc sống và
những rào cản của họ là tiếp cận dịch vụ y tế, giáo dục, khả năng hòa nhập cộng
đồng… Báo cáo này được xem là cơ sở cho việc rà soát và ban hành chính sách
trong tương lai.
Những nghiên cứu tiếp cận từ góc độ giới
Những nghiên cứu trên được tiếp cận từ quan điểm giới nên đã khái quát được
cuộc sống của các nữ LĐ di cư tại các thành phố lớn. So với nam giới, nữ giới chịu

4


ảnh hưởng của các yếu tố giới nhiều hơn trong thu nhập, chi tiêu, tiết kiệm... nhất là
trong bối cảnh di cư mang xu hướng nữ hóa ngày càng cao. Cụ thể:
Báo cáo “Thực trạng tuyển dụng và việc làm của lao động nữ di cư tới các
khu công nghiệp, khu chế xuất tại Việt Nam” (ILO và Viện Khoa học lao động xã
hội thuộc Bộ Lao động Thương binh và Xã hội, 2009) [27] đã chỉ ra các tồn tại căn
bản nhất trong quá trình tuyển dụng và sử dụng lao động di cư nữ tại các khu công
nghiệp, khu chế xuất ở Việt Nam. Những khó khăn, vướng mắc thậm chí là những
rủi ro liên quan đến hoạt động tuyển dụng và việc làm của lao động nữ di cư. Qua
kết quả nghiên cứu, báo cáo cũng đưa ra một số phát hiện, trong đó khẳng định di
cư tìm việc làm là xu thế tất yếu trong thị trường lao động, song khả năng tiếp cận
và sử dụng của lao động nữ các kênh giới thiệu việc làm chính thức vẫn còn hạn
chế, điều đó khiến cho quá trình tuyển dụng và việc làm của lao động nữ gặp nhiều
rủi ro. Từ đó, cũng là cơ sở đề xuất các giải pháp để hoàn thiện hệ thống chính sách
về tuyển dụng và quản lý lao động di cư hiệu quả, an toàn.
Báo cáo“Giới và tiền chuyển về của lao động di cư” (Tổng cục Thống kê và
Tổ chức Di cư quốc tế, 2012) [26] thực hiện. Theo đó, về công việc, nữ giới thường
làm việc trong ngành nghề có thu nhập thấp, ít có sự thay đổi ở khu vực phi chính
thức, ngược lại với nam giới. Điều này được lý giải bởi thiên chức mà người phụ nữ
phải đảm nhận, vừa phải chăm sóc cho gia đình, vừa phải kiếm thêm thu nhập chính

bởi vậy họ thường tham gia vào các khu vực phi chính thức với thời gian lao động
linh hoạt. Những phân tích về khác biệt giới trong vấn đề thu nhập và tiền gửi là
những cứ liệu quan trọng để đánh giá về tình trạng lao động, việc làm của lao động
di cư hiện nay. Tuy nhiên, với giới hạn đối tượng là lao động di cư từ nông thôn ra
đô thị, thêm nữa mới chỉ tiến hành ở thành phố Hà Nội, nghiên cứu cũng rất cần
được bổ sung và mở rộng thêm các nhóm đối tượng khác như di cư ra các khu công
nghiệp cũng như di cư tại một số tỉnh/thành phố khác của cả nước để đưa ra các
phát hiện có tính phổ quát hơn.
Những nghiên cứu tiếp cận từ góc độ pháp luật và chính sách an sinh xã hội
Những năm gần đây, lối tiếp cận từ góc độ pháp luật và chính sách ASXH
xuất hiện trong nhiều nghiên cứu cho thấy các tác giả/ các tổ chức quan tâm nhiều

5


hơn tới những thực trạng tiếp cận cũng như rào cản của NLĐ nhập cư tới các chính
sách liên quan tới họ tại nơi tạm trú. Điều này liên quan chặt chẽ tới xu hướng
nghiên cứu cung cấp bằng chứng phục vụ cho việc vận động chính sách cho NLĐ
nhập cư từ cấp độ địa phương tới quốc gia. Những nghiên cứu được tổng quan gồm:
Nghiên cứu “Rào cản pháp luật và thực tiễn đối với NLĐ di cư trong tiếp cận
an sinh xã hội” (Viện Khoa học xã hội vùng Nam Bộ, 10/2015) [38] cho thấy hệ
thống pháp luật Việt Nam trong những năm vừa qua có những tiến bộ rõ rệt trong
việc bảo vệ quyền an sinh xã hội ASXH của NLĐ và mở rộng độ bao phủ của hệ
thống ASXH theo gợi ý của Khuyến nghị ILO về Sàn ASXH cho toàn dân. Tuy
nhiên, NLĐ nhập cư là nhóm yếu thế và dễ bị tổn thương tại đô thị, mức độ tiếp cận
với các chính sách ASXH lại thấp như mức thu nhập tối thiểu của NLĐ nhập cư
chưa đáp ứng đủ nhu cầu sống tối thiểu và thường bị loại ra khỏi các chương trình
vay vốn tạo việc làm, giảm nghèo; mức độ tham gia bảo hiểm y tế và xã hội của
NLĐ, đặc biệt là NLĐ ở khu vực phi chính thức còn thấp; các chính sách bảo trợ xã
hội thì chưa tính đến NLĐ nhập cư như một đối tượng thụ hưởng; việc tiếp cận dịch

vụ xã hội cơ bản trong y tế, giáo dục, nhà ở, nước sạch còn hạn chế do các quy định,
thủ tục còn gắn liền với quy định hộ khẩu.
Báo cáo tóm tắt “Tiếp cận an sinh xã hội của người lao động nhập cư” (AAV,
4/2014) [5]. Dựa trên kết quả phân tích chủ yếu từ các nguồn tài liệu thứ cấp và
khảo sát tại thành phố Hải Phòng và Hồ Chí minh, báo cáo đã đề cập đến các chủ đề
chính về dịch vụ ASXH cho NLĐ nhập cư, gồm: sự chuyển dịch của các dịch
ASXH từ nông thông ra đô thị, mức độ bao phủ BHYT của NLĐ nhập cư ở nhóm
chính thức và phi chính thức, những thách thức đảm bảo tiếp cận giáo dục của con
em NLĐ nhập cư. Bản báo cáo đánh giá về ASXH chỉ ra những thiếu hụt, tồn tại
liên quan đến NLĐ nhập cư. Mặc dù nhiều hợp phần của các chương trình ASXH
ưu tiên nhóm đối tượng nghèo, những bằng chứng thu thập được lại không cho thấy
các chương trình này có tác động có lợi lớn đến đời sống của người lao động nhập
cư và con em họ. Bên cạnh đó, NLĐ nhập cư không chính thức là một bộ phận lớn
của lực lượng lao động Việt Nam và đóng đóng góp đáng kể vào sự phát triển đất

6


nước.Tuy nhiên, các quyền cơ bản về chăm sóc y tế, đạo tạo nghề, giáo dục dành
cho người lao động nhập cư và con cái họ vẫn chưa được chú ý đúng mức.
Báo cáo “Khảo sát nhu cầu của NLĐ nhập cư tại quận 7, 9 và 12 tại
TP.HCM” (SDRC, 2015) [25] đã chỉ ra NLĐ đối mặt với nhiều thách thức ở nơi
tạm trú liên quan đến việc làm, thu nhập, đăng ký tạm trú, sử dụng điện nước cao
hơn giá quy định nên ảnh hưởng đến việc tiếp cận chính sách an sinh xã hội. Báo
cáo cũng chỉ ra mức độ tham gia của NLĐ nhập cư vào các hoạt động cồng đồng rất
thấp. Các hỗ trợ của chính quyền địa phương mang tính từ thiện hơn là phát triển.
Các nghiên cứu này cho thấy các rào cản về mặt chính sách là một trong
những yếu tố khiến cho việc tiếp cận ASXH của NLĐ nhập cư còn nhiều hạn chế,
dẫn đến những quyền lợi hợp pháp của NLĐ nhập cư chưa được bảo vệ tối đa.
Nghiên cứu về dịch vụ xã hội

Dịch vụ xã hội và việc cung cấp dịch xã hội là một mảng quan trọng của
CTXH, từ những tiếp cận CTXH và cách tiếp cận khác được sử dụng trong luận văn
đóng góp nền tảng cơ bản các kiến thức về dịch vụ, cách tiếp cận cũng như khái
quát về thực trạng, xu hướng. Một số báo cáo, tài liệu được tổng quan như sau:
Báo cáo nghiên cứu “Tiếp cận của người nghèo đến dịch vụ y tế và giáo dục
trong bối cảnh xã hội hóa hoạt động y tế và giáo dục tại Việt Nam” (AAV, 2014)
[2] đã chỉ ra các tác động tích cực tới việc chăm sóc sức khỏe cho người dân, nhất là
người nghèo trong việc xã hội hóa vì đã huy động vốn đầu tư mở rộng nguồn cung
ứng dịch vụ y tế, đa dạng hóa dịch vụ. Do đó, người nghèo được hưởng lợi gián tiếp
từ những thay đổi này. Tuy nhiên, với người nghèo, các chính sách hỗ trợ người
nghèo, điển hình là chính sách cấp thẻ bảo hiểm y tế cho người nghèo, đã làm giảm
đáng kể các rào cản tới dịch vụ y tế của họ. Có thể coi đây là thành công trong
chính sách hỗ trợ của nhà nước nhằm làm giảm tác động tiêu cực của xã hội hóa tới
người nghèo. Tuy nhiên, các dịch vụ khám chữa bệnh sử dụng công nghệ cao chưa
được bảo hiểm y tế chi trả. Vì vậy, người nghèo khó có thể tiếp cận được các dịch
vụ này.
Sách “Phát triển dịch vụ xã hội ở nước ta đến năm 2020 - Một số lý luận và
thực tiễn” (Trần Hậu - Đoàn Minh Tuấn, 2012 [13]. Ở nước ta, phát triển và quản

7


lý phát triển dịch vụ xã hội đang đặt ra nhiều vấn đề thu hút sự quan tâm của người
dân và ngay cả các nhà quản lý, bởi hệ thống dịch vụ xã hội còn tồn tại không ít
nghịch lý, việc phát triển và quản lý phát triển dịch vụ xã hội chưa tương xứng với
sự phát triển và tăng trưởng kinh tế, chính sách phát triển dịch vụ xã hội thiếu đồng
bộ, bất cập mà nguyên nhân sâu xa của những hạn chế đó là do thiếu những luận cứ
khoa học làm cơ sở vững chắc cho các việc hoạch định các chính sách quản lý và
phát triển dịch vụ xã hội. Tài liệu đã đưa ra những lý luận cơ bản về phát triển dịch
vụ, phân loại và chức năng của dịch vụ, phân tích vai trò và giới hạn của các chủ thể

trong và ngoài nhà nước tham gia cung ứng dịch vụ xã hội; phân tích kinh nghiệm
phát triển dịch vụ một số nơi trên thế giới và Việt Nam, đề xuất phương hướng, giải
pháp chủ yếu nhằm phát triển dịch vụ xã hội và đổi mới quản lý phát triển dịch vụ
xã hội ở nước ta đến năm 2020.
Tham luận“Chuyên nghiệp hóa các dịch vụ công tác xã hội ở Việt Nam: thực
trạng và nhu cầu” của tác giả Nguyễn Thị Thái Lan, Đỗ Ngọc Bích, Chu Thị
Huyền Yến 2016) [16] đã đưa ra các yếu tố chuyên nghiệp của nghề CTXH cũng
như dịch vụ xã hội, gồm: quá trình cung cấp dịch vụ dựa trên nền tảng khoa học, do
những người được đào tạo về CTXH cung cấp thông qua hệ thống cung cấp dịch vụ
có tổ chức, được giám sát chất lượng và tuân thủ các tiêu chuẩn đạo đức nghề. Bên
cạnh đó, bài tham luân cũng phân tích điểm mạnh, điểm yếu, cơ hội và thách thức
cũng như nhu cầu chuyên nghiệp hóa dịch vụ CTXH ở Việt Nam. Từ đó, các tác giả
đưa ra những đề xuất xây dựng và phát triển dịch vụ CTXH nhằm đáp ứng nhu cầu
thực tiễn và đảm bảo chất lượng.
Tham luận “Sự chuyên nghiệp trong dịch vụ công tác xã hội đối với nhóm đối
tượng yếu thế” TS Hà Thị Thư, 2016) [34]. Bài viết chỉ ra nhu cầu về dịch vụ
CTXH cho các nhóm yếu thế là quan trọng và cần thiết, tuy nhiên các dịch vụ
CTXH này còn thiếu tính chuyên nghiệp, gồm “con người chuyên nghiệp” và “môi
trường chuyên nghiệp”. Nội dung bài tham luận cũng đề cập tới những lý luận cơ
bản như khái niệm, vai trò, đặc điểm của dịch vụ CTXH để làm cơ sở cho các
nghiên cứu về tính chuyên nghiệp của dịch vụ CTXH cho người yếu thế trong
tương lai.

8


Tóm lại, các nghiên cứu về NLĐ nhập cư và các dịch vụ CTXH được tổng
quan cho thấy vấn đề của NLĐ nhập cư được phân tích theo đa chiều, đa góc cạnh
để thấy các vấn đề liên quan tới cuộc sống và nhất là các rào cản tiếp cận an sinh xã
hội. Tuy nhiên, các nghiên cứu về dịch vụ CTXH cho NLĐ nhập cư còn là khoảng

trống do số lượng còn ít. Như vậy, các tài liệu tổng quan về dịch vụ CTXH nói
chung góp phần cung cấp lý luận nền tảng cho luận văn này.
3 . Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
3.1 Mục đích nghiên cứu
Việc nghiên cứu đề tài “Dịch vụ công tác xã hội đối với NLĐ nhập cư từ thực
tiễn TP.HCM” nhằm đánh giá thực trạng dịch vụ CTXH cho NLĐ nhập cư trên cơ
sở đó đề xuất những giải pháp dưới góc độ Công tác xã hội để nâng cao hiệu quả
của hoạt động cung cấp dịch CTXH cho NLĐ nhập cư tại TP.HCM.
3.2 Nhiệm vụ nghiên cứu
Để đạt được những mục tiêu đề ra, khi nghiên cứu đề tài cần giải quyết các
nhiệm vụ như sau:
- Hệ thống hóa các lý luận về các khái niệm về dịch vụ;
- Đánh giá thực trạng, nhu cầu của NLĐ nhập cư và đánh giá dịch vụ CTXH
cho NLĐ nhập cư từ thực tiễn TP.HCM;
- Đưa ra các giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả của hoạt động cung cấp dịch
vụ CTXH cho NLĐ nhập cư.
4 . Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu
4.1 Đối tượng nghiên cứu
Dịch vụ CTXH cho NLĐ nhập cư từ thực tiễn TP.HCM.
4.2 Phạm vi nghiên cứu
Phạm vi địa bàn nghiên cứu: Nghiên cứu tập trung các dịch vụ CTXH cho
NLĐ nhập cư được cung cấp bởi: Trung tâm Nghiên cứu Tư vấn CTXH và PTCĐ
(SDRC), chương trình Tình Thân, tổ chức Gia đình và Phát triển E&D , Cơ sở Bảo
trợ Xã hội Hóc Môn Ceporer) và Chương trình Phát triển Gò Vấp 2005 -2015) do
AAV tài trợ.

9


Phạm vi khách thể nghiên cứu: Đề tài nghiên cứu tập trung các khách thể sau:

100 NLĐ nhập cư đang sinh sống tại TP.HCM; 10 nhân viên công tác xã hội đang
làm việc với NLĐ nhập cư và 05 đại diện ban quản lý các trung tâm/chương trình/tổ
chức.
Phạm vi thời gian nghiên cứu: Thời gian thực hiện đề tài này từ tháng 03 06/2016.
Phạm vi nội dung nghiên cứu:Trong phạm vi đề tài này, chúng tôi sẽ tập trung
nghiên cứu trên những khía cạnh nội dung như sau:
- Nghiên cứu về thực trạng và nhu cầu của NLĐ nhập cư tại TP.HCM
- Nghiên cứu việc thực hiện hoạt động cung cấp dịch vụ công tác xã hội cho
NLĐ nhập cư, cụ thể: dịch vụ giáo dục cho con cái NLĐ nhập cư; dịch vụ huấn
luyện/nâng cao năng lực, truyền thông; dịch vụ hỗ trợ tư vấn pháp lý; dịch vụ đào
tạo nghề, tư vấn và giới thiệu việc làm; dịch vụ tham vấn, tư vấn tâm lý; dịch vụ hỗ
trợ cải thiện sinh kế tín dụng vi mô ; dịch vụ sức khỏe và dịch vụ giới thiệu, kết nối
nguồn lực.
- Nghiên cứu về chất lượng của các dịch vụ CTXH đang cung cấp cho NLĐ
nhập cư theo các tiêu chí sau: mức độ tin cậy, mức độ đáp ứng, khả năng tiếp cận,
mức độ an toàn/bảo mật, phong cách cung cấp dịch vụ, tính liên tục, tính kịp thời,
tính đa dạng và tính tiết kiệm; Qua đó phân tích các điểm mạnh và các tồn tại của
các dịch vụ CTXH đang cung cấp.
- Nghiên cứu các yếu tố ảnh hưởng đến chất lượng của các dịch vụ CTXH cho
NLĐ nhập cư như mạng lưới dịch vụ, các yếu tố từ bản thân NLĐ nhập cư và trình
độ, năng lực của nhân viên cung cấp dịch vụ.
5 . Phương pháp luận và phương pháp nghiên cứu
Với nội dung nghiên cứu của đề tài, chúng tôi sử dụng một số phương pháp
nghiên cứu như sau mô tả, phân tích đặc điểm và thực trạng hoạt động cung cấp
dịch vụ công tác xã hội cho NLĐ nhập cư từ thực tiễn TP.HCM.
5.1 Phương pháp luận
Nghiên cứu trên cơ sở duy vật biện chứng: từ những đánh giá thực trạng về
đời sống và nhu cầu của NLĐ nhập cư, thực trạng của việc cung cấp các dịch vụ

10



CTXH đối với NLĐ nhập cư để rút ra các lý luận cũng như đưa ra những giải pháp
nâng cao chất lượng và hiệu quả dịch vụ CTXH cho NLĐ nhập cư tại TP.HCM.
Nghiên cứu vấn đề lý luận trong hệ thống: nghiên cứu hệ thống những lý
thuyết có liên quan trực tiếp đến đề tài, hệ thống các yếu tố có ảnh hưởng tới dịch
vụ CTXH đối với NLĐ nhập cư, hệ thống mạng lưới dich vụ, hệ thống các tổ chức
cung cấp dịch vụ CTXH cho NLĐ nhập cư.
5.2 Phương pháp nghiên cứu
Phương pháp nghiên cứu định lượng
Bảng câu hỏi là công cụ nghiên cứu chính trong việc thu thập thông tin liên
quan đến vấn đề nghiên cứu của đề tài. Luận văn này sẽ thực hiện việc phỏng vấn
bằng bảng câu hỏi trực tiếp đối với NLĐ nhập cư đang sống tại TP.HCM.
Số lượng mẫu là 100 NLĐ nhập cư được lựa chọn theo tiêu chí: (1) Là NLĐ
nhập cư có đăng ký tạm trú tại TP.HCM ở cả khu vực chính thức và phi chính thức;
(2) Là đối tượng thụ hưởng của các khách thể nghiên cứu và 3 đã/đang sử dụng
một trong số các dịch vụ CTXH như: dịch vụ giáo dục cho con cái NLĐ nhập cư;
dịch vụ huấn luyện/nâng cao năng lực, truyền thông; dịch vụ hỗ trợ tư vấn pháp lý;
dịch vụ đào tạo nghề, tư vấn và giới thiệu việc làm; dịch vụ tham vấn, tư vấn tâm lý;
dịch vụ hỗ trợ cải thiện sinh kế tín dụng vi mô ; dịch vụ sức khỏe và dịch vụ giới
thiệu, kết nối nguồn lực.
Phương pháp nghiên cứu định tính
Nhằm thu thập các thông tin mang tính chiều sâu, đề tài sử dụng các phương
pháp thu thập thông tin định tính như sau:
Phương pháp phỏng vấn sâu: Phương pháp này được sử dụng nhằm khai thác
thông tin mang tính chiều sâu về quan điểm, nhận thức và kinh nghiệm của người
cung cấp thông tin thông qua chính ngôn ngữ của họ.
Đề tài sẽ tập trung phỏng vấn sâu 10 trường hợp NLĐ nhập cư 2 trường
hợp/tổ chức bằng các phỏng vấn sâu để thu thập các câu chuyện liên quan đến việc
tiếp cận và thụ hưởng các dịch vụ CTXH. 10 trường hợp này sẽ được lựa chọn từ

100 NLĐ nhập cư tham gia phỏng vấn bản hỏi. Trong trường hợp NLĐ nhập cư có

11


những câu chuyện có những đặc điểm phù hợp với nhiệm vụ và nội dung nghiên
cứu sẽ tiếp tục được lựa chọn để tiến hành phỏng vấn sâu.
Ngoài ra, đề tài cũng phỏng vấn sâu 10 nhân viên cung cấp dịch vụ cho NLĐ
nhập cư và 5 quản lý cấp trung hoặc cấp cao tại 5 tổ chức cung cấp thông tin.
Phương pháp thảo luận nhóm tập trung (FGD): Nghiên cứu cũng sẽ thu thập
thông tin từ 1 nhóm NLĐ nhập cư (6-8 người/nhóm có những đặc điểm giống nhau
nhất định phù hợp với nghiên cứu nhằm đánh giá nhu cầu, thu thập thông tin về
thực trạng cung cấp dịch vụ.
Phương pháp chuyên gia: Trong quá trình thực hiện đề tài, phương pháp
chuyên gia được sử dụng nhằm có cái nhìn đa chiều về vấn đề nghiên cứu. Cụ thể,
Các chuyên gia được bao gồm trong nghiên cứu này là các nhân viên xã hội lâu
năm, các giảng viên, nhà quản lý có kinh nghiệm về mặt lý luận và thực tiễn về dịch
vụ CTXH.
5.3 Nghiên cứu tài liệu có sẵn
Song song với việc sử dụng phương pháp thu thập thông tin bằng các câu
chuyện, khi nghiên cứu đề tài chúng tôi cũng tiến hành thu thập thông tin bằng cách
nghiên cứu tài liệu có sẵn là các báo cáo tổng kết của tổ chức/chương trình nhằm
làm sáng tỏ thêm thực trạng cung cấp dịch vụ CTXH của các tổ chức được nghiên
cứu. Bên cạnh đó, trong phạm vi nghiên cứu, đề tài sử dụng phân tích các thông tin
có sẵn từ các cuộc nghiên cứu trước đó có nội dung gần với vấn đề mà đề tài nghiên
cứu nhằm làm sáng tỏ đặc điểm nhân khẩu học và xã hội của NLĐ nhập cư, thực
trạng cuộc sống của NLĐ nhập cư tại địa bàn nghiên cứu.
6 . Ý nghĩa lý luận và ý nghĩa thực tiễn của luận văn
6.1. Ý nghĩa lý luận
Kết quả nghiên cứu sẽ đóng góp vào cơ sở lý luận của chuyên ngành Công tác

xã hội với NLĐ nhập cư ở phạm vi hẹp và công tác xã hội các nhóm đối tượng yếu
thế ở phạm vi rộng trong việc khẳng định tầm quan trọng của việc cung cấp các
dịch vụ công tác xã hội.
Nghiên cứu cũng góp phần khẳng định các lý luận công tác xã hội được sử
dụng trong nghiên cứu này. Bên cạnh đó, nghiên cứu này cũng làm phong phú thêm

12


phương pháp, cách tiếp cận, tiến trình làm việc với NLĐ nhập cư của công tác xã
hội cá nhân, gia đình.
6.2 Ý nghĩa thực tiễn
Nghiên cứu này cũng mang tới lợi ích trực tiếp cho các NVXH, cán bộ dự
án/chương trình và các tổ chức tham gia nghiên cứu vì qua kết quả nghiên cứu này,
nhân viên xã hội, cán bộ dự án/chương trình và các tổ chức hiểu rõ đặc điểm các
dịch vụ CTXH đang cung cấp và có thể có những giải pháp cải thiện.
Nghiên cứu này cũng mang lại các lợi ích gián tiếp cho các nhân viên xã hội,
các nhà quản lý trong lĩnh vực an sinh xã hội, công tác xã hội hoặc các tổ chức,
đoàn thể, trường đại học, giảng viên và sinh viên ngành CTXH trong việc tìm hiểu
các kiến thức về CTXH với NLĐ nhập cư cũng như trong việc tìm kiếm các mô
hình dịch vụ CTXH phù hợp cho NLĐ nhập cư.
Ngoài ra, nghiên cứu này cũng mang lại lợi ích gián tiếp cho NLĐ nhập cư
trong trường hợp các dịch vụ CTXH cho họ được cải thiện từ những kết quả và đề
xuất giải pháp/khuyến nghị của nghiên cứu.
Cuối cùng, nghiên cứu cũng là tài liệu tham khảo thứ cấp của các nghiên cứu
khác có liên quan.
7 . Cơ cấu của luận văn
Ngoài các phần mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo thì nội dung
của đề tài gồm 3 chương:
Chương 1: Những vấn đề lý luận về dịch vụ CTXH đối người NLĐ nhập cư

Chương 2: Thực trạng dịch vụ CTXH đối với NLĐ nhập cư từ thực tiễn
TP.HCM
Chương 3: Định hướng và giải pháp nâng cao chất lượng dịch vụ CTXH đối
với NLĐ nhập cư từ thực tiễn TP.HCM

13


Chƣơng 1
NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ DỊCH VỤ CÔNG TÁC XÃ HỘI ĐỐI
VỚI NGƢỜI LAO ĐỘNG NHẬP CƢ
1.1. Một số lý luận về nhập cƣ và ngƣời lao động nhập cƣ
1.1.1 Khái niệm
Khái niệm nhập cư
Theo từ điển tiếng Việt, nhập cư là di chuyển chỗ ở đến hay vào một vùng,
một quốc gia mới. Người nhập cư là người dân di chuyển từ một vùng này đến vùng
khác để định cư hoặc tạm trú (Từ điển Tiếng Việt, 2004, NXB Đà Nẵng [38,
tr.380].
Theo tác giả Cao Ngọc Thành Viện Kinh tế TP.HCM, 2009) [32] nhập cư là
hoạt đông di chuyển từ đơn vị hành chánh này sang đơn vị hành chánh khác và có
sự gia nhập chỗ ở theo các thủ tục đăng ký tạm trú hiện thời tại đơn vị hành chính
mới. Việc gia nhập chỗ ở khác quận/huyện, xã/phường trong cùng một thành phố
không được xem là nhập cư. Nhập cư ngược với xuất cư và cả hai đều là di cư.
Từ các định nghĩa trên có thể hiểu nhập cư là sự gia nhập chỗ ở theo thủ tục
tạm trú tại nơi ở mới sau khi di chuyển từ một đơn vị hành chánh khác. Người nhập
cư là người dân chuyển đến một đơn vị hành chính mới và có sự gia nhập chỗ ở
theo thủ tục đăng ký tạm trú hiện thời. Những người di chuyển trong nội bộ một đơn
vị hành chính (tỉnh, thành phố) thì không được xem là người nhập cư.
Khái niệm người lao động nhập cư
Theo Bộ Luật Lao động 2012 : NLĐ là người từ đủ 15 tuổi trở lên, có khả

năng lao động, làm việc theo hợp đồng lao động, được trả lương và chịu sự quản lý,
điều hành của người sử dụng lao động.
Theo Action Aid Vietnam (2014) [5]: NLĐ nhập cư là những người chuyển từ
các khu vực nông thôn tới các đô thị không phân biệt thời gian sinh sống và không
được cấp hộ khẩu thường trú - giấy đăng ký nhân khẩu cho phép họ có quyền bình
đẳng với các công dân khác tại nơi cư trú về tiếp cận các dịch vụ ASXH.
Như vậy, NLĐ nhập cư là những người từ đủ 15 tuổi trở lên, có khả năng lao
động, di chuyển từ vùng khác đến và đang định cư hoặc tạm trú tại một đơn vị hành

14


chính mới sau vì mục đích việc làm sự di chuyển này không tính đến phạm vi cùng
đơn vị hành chánh như tỉnh/thành phố . Hoạt động nhập cư này bao gồm cả những
người có đăng ký tạm trú và kể cả chưa đăng ký tạm trú. Tuy nhiên, trong phạm vi
luận văn này, NLĐ nhập cư được hiểu là những người có đăng ký theo quy định thủ
tục đăng ký tạm trú.
1.1.2 Đặc điểm của người lao động nhập cư
Theo các nghiên cứu được thực hiện từ 2013-2015 [3, 5, 26, 39] trên địa bàn
TP.HCM cho thấy nhóm người này có những đặc điểm tâm lý xã hội như sau:
NLĐ nhập cư thường gặp khó khăn về kinh tế, hầu như không có cơ hội nâng
cao trình độ, dễ gặp các rủi ro. Họ gặp nhiều khó khăn trong việc giáo dục, nuôi
dưỡng con cái và tìm kiếm các nguồn lực. Do đó NLĐ nhập cư cũng được xem là
nhóm đối tượng yếu thế.
NLĐ nhập cư thường có tâm lý mặc cảm và tự xem mình là “công dân hạng 2”
nên tự loại bản thân mình ra khỏi các hoạt động tại cộng đồng. Nguyên nhân khách
quan do mỗi khi đề cập đến áp lực dân số hay di dân tự do và cho rằng nguyên nhân
gây ra tình trạng quá tải, hạ tầng xuống cấp và các vấn đề xã hội nảy sinh do “người
nhập cư” gây ra Trần Hữu Quang, 2004) [24]. Nguyên nhân chủ quan tới từ tâm lý
thờ ơ với các hoạt động tại cộng đồng dẫn đến việc thụ động trong việc tìm kiếm

các dịch vụ hỗ trợ. Nghiên cứu của SDRC 2015 [26] đã chỉ ra NLĐ nhập cư chỉ
tìm kiếm thông tin khi có việc quan trọng liên quan đến cuộc sống của họ như con
cái vào học lớp 1, bệnh hiểm nghèo cần có BHYT hay mã số hộ nghèo… và nguồn
thông tin chính mà họ thường tiếp cận đó chính là chủ nhà trọ.
NLĐ nhập cư quan tâm tới việc làm, thu nhập, bảo hiểm, thai sản, hợp đồng
lao động hơn là tìm hiểu nội dung, thủ tục và quy trình các chính sách và chương
trình về ASXH. Điều này được giải thích do họ dành phần lớn thời gian để làm việc
và giải quyết những vấn đề khó khăn trong cuộc sống cho dù những chính sách này
rất quan trọng đối với họ. Kiến thức của NLĐ nhập cư về các chương trình ASXH
còn rất hạn chế do không có thời gian để tìm hiểu, nâng cao kiến thức về các
chương trình ASXH (AAV, 2014) [5].

15


Phần lớn NLĐ nhập cư thường không định cư lâu dài tại nơi cư trú mới và trên
hết vẫn giữ mối quan hệ gắn kết với quê hương. Đó là lý do tại sao họ không quan
tâm nhiều về hộ khẩu/sổ tạm trú. Đây chính là nguyên nhân khiến cho họ phó thác
việc đăng ký tạm trú cho chủ nhà trọ như một thủ tục hành chánh hơn là để tiếp cận
dịch vụ xã hội. Việc phó thác đăng ký này dẫn đến việc họ không phân biệt được
tình trạng đăng ký của mình là tạm trú KT3 hay lưu trú KT4 và không tiếp cận
được các chính sách về ASXH tại địa phương (AAV 2014, SDRC 2015) [5, 26].
1.2. Một số vấn đề lý luận về công tác xã hội, công tác xã hội với ngƣời lao
động nhập cƣ
1.2.1 Khái niệm
* Khái niệm công tác xã hội
CTXH ở Việt Nam cũng được các tác giả xem xét từ những khía cạnh khác
nhau, điển hình có tác giả Nguyễn Thị Oanh (1997) cho rằng: CTXH là hoạt động
thực tiễn, mang tính tổng hợp được thực hiện và chi phối bởi các nguyên tắc,
phương pháp hỗ trợ cá nhân, nhóm và cộng đồng giải quyết vấn đề. CTXH theo

đuổi mục tiêu vì phúc lợi, hạnh phúc con người và tiến bộ xã hội. [23]
CTXH tại Việt Nam cũng được xem như là sự vận dụng các lý thuyết khoa
học về hành vi con người, về hệ thống xã hội nhằm khôi phục lại các chức năng xã
hội và thúc đẩy sự thay đổi vai trò của cá nhân, nhóm, cộng đồng người yếu thế
hướng tới bình đẳng và tiến bộ xã hội. Đây là lĩnh vực cung cấp các dịch vụ chuyên
môn góp phần giải quyết những vấn đề xã hội liên quan tới con người để thỏa mãn
những nhu cầu căn bản, mặt khác góp phần giúp cá nhân tự nhận thức về vị trí, vai
trò xã hội của mình.
Như vậy ta có thể hiểu một cách chung nhất theo như định nghĩa của tác giả
Bùi Thị Xuân Mai (2012): “CTXH là một nghề, một hoạt động chuyên nghiệp nhằm
trợ giúp các cá nhân, gia đình và cộng đồng nâng cao năng lực đáp ứng nhu cầu và
tăng cường chức năng xã hội, đồng thời thúc đẩy môi trường xã hội về chính sách,
nguồn lực và dịch vụ nhằm giúp cá nhân, gia đình và cộng đồng giải quyết và
phòng ngừa các vấn đề xã hội, góp phần đảm bảo an sinh xã hội”. [20]
* Khái niệm Công tác xã hội với người lao động nhập cư

16


Dựa vào các khái niệm về công tác xã hội trên, có thể phát biểu công tác xã
hội với NLĐ nhập cư như sau: CTXH với NLĐ nhập cư là một hoạt động chuyên
nghiệp nhằm trợ giúp các cá nhân NLĐ nhập cư, gia đình và cộng đồng nhằm đáp
ứng nhu cầu, tăng cường chức năng xã hội, thúc đẩy môi trường xã hội về chính
sách, nguồn lực và dịch vụ nhằm giúp họ giải quyết và phòng ngừa các vấn đề xã
hội, đảm bảo an sinh xã hội.
1.2.2 Mục đích, phương pháp và nguyên tắc của công tác xã hội với người
lao động nhập cư
*Mục đích của công tác xã hội với người lao động nhập cư
CTXH ở nhiều nơi khác nhau trên thế giới hướng tới các can thiệp xã hội vì
mục đích phát triển, bảo vệ, ngăn ngừa và/ hoặc chữa trị [6]. Dựa vào các tài liệu có

sẵn và định nghĩa, có thể phát biểu các mục đích chính của CTXH với NLĐ nhập cư
như sau:
Thúc đẩy việc tạo điều kiện thuận lợi hòa nhập cộng đồng cho NLĐ nhập cư
đang gặp các vấn đề khó khăn, tổn thương do thay đổi địa bàn sống mang lại;
Cung cấp các dịch vụ CTXH như tham vấn, hỗ trợ pháp lý, can thiệp khủng
hoảng… nhằm giúp nâng cao năng lực tự giải quyết vấn đề của NLĐ nhập cư.
Biện hộ giúp cho NLĐ nhập cư có thể tiếp cận các chính sách ASXH về bảo
hiểm, sử dụng điện nước đúng giá quy định, tiếp cận giáo dục của con em họ, tiếp
cận với các chương trình dạy nghề/tạo việc làm, giảm nghèo… tại nơi tạm trú;
Thúc đẩy chính quyền địa phương tham gia vào việc thực hiện và giám sát
việc thực hiện các chính sách xã hội liên quan tới NLĐ nhập cư ;
Thúc đẩy các bên liên quan tham gia vào việc hỗ trợ và giải quyết các vấn đề
của NLĐ nhập cư vì vấn đề họ đang gặp phải mang tính đa ngành.
*Phương pháp của công tác xã hội với người lao động nhập cư
Phương pháp CTXH hay còn gọi là cách tiếp cận khoa học để giải quyết một
vấn đề xã hội Nguyễn Thị Oanh, 1997) [22]. Liên quan đến những vấn đề và nhu
cầu của NLĐ nhập cư đang gặp phải như thu nhập thấp dẫn đến chất lượng cuộc
sống bị ảnh hưởng, cuộc sống nhiều rủi ro, gặp rào cản trong việc tiếp cận thông tin,

17


giáo dục và các chính sách xã hội... Do đó, phương pháp CTXH phù hợp với NLĐ
nhập cư gồm CTXH cá nhân, nhóm và gia đình, phát triển cộng đồng.
Công tác xã hội cá nhân: Sử dụng mối tương giao giữa nhân viên CTXH và
cá nhân NLĐ nhập cư để giúp họ tự bộc lộ tâm tư, cảm xúc bằng các hoạt động như
tham vấn, vãng gia, quản lý ca, xử lý và can thiệp khủng hoảng… Từ đó cá nhân
NLĐ nhập cư hiểu vấn đề của mình hơn và với sự hỗ trợ về tâm lý và tài nguyên
vận dụng được sẽ giúp cho NLĐ nhập cư tự lực giải quyết vấn đề của mình.
Công tác xã hội nhóm: Mối tương tác giữa các thành viên có vai trò quan

trọng trong việc thay đổi hành vi của các thành viên nhóm. Khi làm việc heo
phương pháp, NLĐ nhập cư đồng cảnh ngộ, cùng mục tiêu hỗ trợ được tập hợp
thành một nhóm tại cộng đồng, tổ chức sinh hoạt nhóm và lồng ghép việc vay vốn,
truyền thông, chia sẻ kinh nghiệm, nâng cao năng lực… Nhờ sự tương tác và sự ảnh
hưởng qua lại giữa các nhóm viên, chia sẻ kinh nghiệm, đối thoại giữa các nhóm
viên là NLĐ nhập cư là những nhân tố giúp cho từng NLĐ nhập cư thay đổi, tăng
cường và phát huy tiềm năng của mình.
Công tác xã hội với gia đình: CTXH gia đình là cách tiếp cận giúp các gia
đình NLĐ nhập cư đang gặp khó khăn hoặc có nguy cơ gặp khó khăn trong việc
duy trì cuộc sống sinh hoạt bình thường bằng các hoạt động như tham vấn gia đình,
nâng cao năng lực cho gia đình, biện hộ, vận động nguồn lực… Việc can thiệp của
phương pháp này có thể là một thành viên và có sự đồng hành của gia đình trong
quá trình can thiệp hay toàn bộ các thành viên trong gia đình NLĐ nhập cư nhằm
mục đích giải quyết các khó khăn và duy trì cuộc sống bình thường, ổn định tại nơi
tạm trú.
Phát triển cộng đồng: Thông qua hoạt động giáo dục cộng đồng nhằm gây
nhận thức về tình hình/vấn đề hiện tại của họ, phát huy các khả năng và nguồn lực
sẵn có, tổ chức các hoạt động tự giúp, truyền thông nâng cao nhận thức, thực hiện
các dự án phát triển cộng đồng… Như vậy, phát triển cộng đồng có thể áp dụng
nhằm mục đích chuyển biến cộng đồng của NLĐ nhập cư đang tạm trú, phát huy
nguồn lực và sức mạnh cộng đồng nhằm cải thiện đời sống, tăng cường khả năng tự
lực của cộng đồng NLĐ nhập cư.

18


Trên đây là các phương pháp được thực hiện khi làm việc với NLĐ nhập cư.
Tuy nhiên, trong quá trình trợ giúp NLĐ nhập cư, các phương pháp trên có thể sử
dụng xen kẽ, không tách rời vì phụ thuộc vào vấn đề, nhu cầu của thân chủ.
*Nguyên tắc của công tác xã hội với người lao động nhập cư

Các nguyên tắc của CTXH được xây dựng trên cơ sở nền tảng triết lý và giá trị
của CTXH, các nguyên tắc này được xem là kim chỉ nam cho hành động tương tác
của nhân viên CTXH với đối tượng trong quá trình trợ giúp. Cụ thể:
Chấp nhận NLĐ nhập cư: nguyên tắc này đòi hỏi nhân viên CTXH cần chấp
nhận thân chủ, không tính toán, không thành kiến và không đưa ra phán quyết nào
về hành vi thân chủ.
Tạo điều kiện để NLĐ nhập cư tham gia giải quyết vấn đề của chính họ:
nguyên tắc này xuất phát từ quan điểm cho rằng vấn đề là của NLĐ nhập cư nên họ
hiểu hoàn cảnh và khả năng của mình hơn ai hết nếu được sự trợ giúp. Do đó, NLĐ
nhập cư cần là người tham gia chủ yếu từ khâu đánh giá vấn đề tới ra quyết định,
lựa chọn giải pháp, thực hiện giải pháp cũng như lượng giá kết quả của giải pháp đó
và vai trò của NVXH là xúc tác, định hướng trong quá trình trợ giúp.
Tôn trọng quyền tự quyết của NLĐ nhập cư: NLĐ nhập cư có quyền quyết
định về các vấn đề thuộc về cuộc đời của họ. Trong các tình huống làm việc với
NLĐ nhập cư, NVXH chỉ giúp họ tìm ra các phương án, giải pháp, tăng tính độc lập
tự chủ và định hướng của NLĐ nhập cư theo hướng tốt nhất.
Đảm bảo tính cá nhân hóa: từng NLĐ nhập cư có những nhu cầu cơ bản
giống nhau, nhưng mỗi người do hoàn cảnh khác nhau. Mỗi người lại có những tính
cách khác nhau và những mong muốn nguyện vọng không giống nhau. Việc cá biệt
hóa trường hợp của đối tượng cá nhân, gia đình hay cộng đồng giúp NVXH đưa ra
phương pháp giúp đỡ thích hợp với từng trường hợp cụ thể NLĐ nhập cư.
Đảm bảo tính riêng tư, kín đáo các thông tin về trường hợp của đối tượng:
trong quá trình trợ giúp NLĐ nhập cư, NVXH cần kín đáo hay giữ bí mật thông tin
của thân chủ. NVXH chỉ chia sẻ thông tin khi được NLĐ nhập cư đồng ý.
Tự ý thức về bản thân: Trong khi thực thi nhiệm vụ, NVXH cần ý thức rằng
vai trò của mình là hỗ trợ NLĐ nhập cư giải quyết vấn đề nên tránh lạm dụng quyền

19



lực, vị trí công việc để mưu lợi cá nhân. Đồng thời NVXH cũng cần phải ý thức
được khả năng trình độ chuyên môn của bản thân có đáp ứng yêu cầu của công việc
được giao.
Đảm bảo mối quan hệ nghề nghiệp: Công cụ chính trong các hoạt động CTXH
là mối quan hệ giữa NVXH và NLĐ nhập cư. Do đó, VNXH cần có những hành vi
như tôn trọng quan điểm giá trị, nguyên tắc nghề nghiệp; không lợi dụng cương vị
công tác của mình để đòi hỏi sự hàm ơn của đối tượng, không nên có quan hệ nam
nữ trong khi thực hiện sự trợ giúp. Mối quan hệ giữa NVXH và đối tượng cần đảm
bảo tính thân thiện, tương tác hai chiều, song khách quan và đảm bảo yêu cầu của
chuyên môn.
1.3. Một số lý luận về dịch vụ công tác xã hội
1.3.1 Khái niệm dịch vụ, dịch vụ công tác xã hội
*Khái niệm dịch vụ
Có nhiều khái niệm khác nhau về dịch vụ. Trong nhiều ngành, nhiều lĩnh vực
khác nhau thì dịch vụ được định nghĩa khác nhau.
Theo Từ điển Tiếng Việt: dịch vụ là công việc phục vụ trực tiếp cho những
nhu cầu nhất định của số đông, có tổ chức và được trả công [38, tr. 256].
Theo tác giả Đoàn Minh Huấn 2012 [13] cho rằng dịch vụ là những hoạt
động lao động mang tính xã hội tạo ra các sản phẩm hàng hóa tồn tại dưới hình
thái vô hình nhằm thỏa mãn các nhu cầu sản xuất và đời sống của con người.
Tóm lại, các khái niệm về dịch vụ được phát biểu dưới những góc độ khác
nhau nhưng có thể hiểu rằng dịch vụ là hành vi, quá trình và cách thức thực hiện
công việc được cung cấp hay phục vụ bởi một cá nhân hoặc một tổ chức nhằm đáp
ứng nhu cầu và mong đợi của con người.
*Khái niệm dịch vụ xã hội
Cũng giống như dịch vụ, khái niệm dịch vụ xã hội hiện đang tồn tại nhiều
quan điểm khác nhau.
Theo Gibelman (2005) dịch vụ xã hội, cũng liên quan đến các dịch vụ con
người (human service), có thể bao gồm các dịch vụ hướng tới việc ngăn ngừa, cải


20


×