Tải bản đầy đủ (.doc) (10 trang)

PHÁT HIỆN VÀ BỒI DƯỠNG HỌC SINH GIỎI MÔN NGỮ VĂN

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (142.13 KB, 10 trang )

CHUYÊN ĐỀ
PHÁT HIỆN VÀ BỒI DƯỠNG HỌC SINH GIỎI MÔN VĂN
1. Đặt vấn đề
1.1. Bồi dưỡng học sinh giỏi là một trong những nhiệm vụ trọng tâm của ngành
giáo dục và đào tạo. Đây là một hoạt động dạy học mang tính đặc thù cao, người
học là học sinh giỏi, có năng khiếu theo môn học, người dạy là những giáo viên có
trình độ tay nghề cao, giàu kinh nghiệm trong công tác dạy học.
Với vị trí là một trong những môn học có vai trò quan trọng ở nhà trường
THCS, ngoài chức năng công cụ, môn Ngữ văn còn góp phần rất lớn hình thành và
phát triển các năng lực chung cũng như góp phần bồi dưỡng tư tưởng, tình cảm và
các phẩm chất cao đẹp của người học. Bởi vậy, công tác bồi dưỡng học sinh giỏi
môn Ngữ văn là vô cùng cần thiết và quan trọng. Nó giúp phát hiện, bồi dưỡng
những học sinh có năng khiếu, tố chất, tình yêu đối với văn chương, tạo cơ hội,
điều kiện để các em gắn bó lâu dài với bộ môn. Mặt khác, hiện nay, do xu hướng
và tâm lý xã hội, phụ huynh và học sinh chưa thực sự coi trọng bộ môn Ngữ văn
nên việc phát hiện và bồi dưỡng học sinh giỏi Ngữ văn ở trường Trung học cơ sở
sẽ củng cố hiểu biết và lấy lại niềm tin, tình yêu, niềm đam mê cho các em với bộ
môn này, từ đó, điều chỉnh dần tâm lý xã hội.
1.2. Trong nhà trường THCS nhất là ở những trường không có lớp chất lượng
cao việc phát hiện và bồi dưỡng học sinh giỏi như thế nào để đạt kết quả tốt quả là
một vấn đề không đơn giản.Do đó, trường THCS Hộ Phòng chúng tôi việc bồi
dưõng HSG đã có sự quan tâm và đầu tư nhất định. Hằng năm cứ vào đầu năm học
việc bồi dưỡng cũng được bắt đầu. Vì thế chúng tôi đã gặt hái được những thành
quả đáng kể. Song đáng tiếc là số học sinh đạt giải môn văn lại chưa nhiều. Điều
này có nguyên nhân từ cả hai phía. Trước hết là từ phía người thầy. Do phải bám
sát việc thực hiện theo phân phối chương trình người thầy không có điều kiện đầu
tư về chiều sâu trong giờ giảng; thời gian tập trung bồi dưỡng cho HSG cũng
không nhiều (thường chỉ là những em được chọn đi học bồi dưỡng và dự thi
HSG ); Trong số thời gian hạn hẹp đó giáo viên bộ môn được phân công mỗi tuần
dạy 3 buổi/tuần. Về phía học sinh ngoài vấn đề năng khiếu do phải học nhiều môn
nên việc đầu tư thời gian tự bồi dưỡng môn văn không được nhiều, quyết tâm đoạt


giải của các em lại chưa cao. Thiết nghĩ việc phát hiện và bồi dưỡng học sinh giỏi
nếu được đầu tư một cách thích đáng và tiến hành bài bản kết quả sẽ khả quan
hơn. Và kéo theo đó là hứng thú học văn sẽ phần nào được cải thiện.Vì vậy , việc
phát hiện bồi dưỡng năng khiếu văn chương là việc cần phải ý thức thường xuyên
trước hết là đối với những giáo viên trực tiếp giảng dạy. Năng khiếu văn càng được
1


phát hiện và bồi dưỡng sớm bao nhiêu càng tốt bấy nhiêu. Nhưng phát hiện và bồi
dưỡng như thế nào cho có hiệu quả là cả một vấn đề cần được trao đổi kỹ lưỡng...
2. Phát hiện Học sinh giỏi văn
2.1. Thế nào là học sinh giỏi văn?
HSG văn trước hết phải là những học sinh có niềm say mê yêu thích văn
chương. Sự say mê ấy phải được biểu hiện thường xuyên liên tục và bằng ý thức tự
giác trong học tập như soạn bài cẩn thận chu đáo luôn chủ động tiếp thu kiến thức
trong giờ học đặc biệt phải thể hiện rõ ý thức trách nhiệm trong các bài làm văn
theo quy định của chương trình và những bài luyện tập thực hành rèn luyện kỹ
năng mà giáo viên hướng dẫn. Sự say mê sẽ giúp các em chịu khó tìm tài liệu để
mở mang kiến thức. Và quan trọng hơn là nó giúp học sinh phát huy được trí tưởng
tượng sự liên tưởng để sống sâu sắc hơn với những cái mình đã đọc đã học.
HSG văn là những học sinh có những tư chất bẩm sinh như tiếp thu nhanh, có tri
nhớ bền vững, có khả năng phát hiện vấn đề và có khả năng sáng tạo (có ý tưởng
mới trong bài làm).
HSG văn phải có vốn tri thức phong phú và thuộc nhiều thơ văn trong và ngoài
chương trình qua sự tìm đọc tích luỹ; phải có sự hiểu biết càng nhiều càng tốt về
con người và xã hội.
Một trong những biểu hiện không thể thiếu và thường khó giấu của HSG văn
là rất giàu cảm xúc và thường nhạy cảm trước mọi vấn đề trước cuộc sống. Biểu
hiện thường thấy ở những học sinh này là dễ vui nhưng cũng rất dễ buồn trước
những vấn đề đặt ra trong tác phẩm và nhất là do sự tác động qua lời giảng của

giáo viên. Thường thì đây là những học sinh sống rất tình cảm thích gần gũi với
thầy cô, bạn bè và với mọi người hay bộc lộ quan điểm, tình cảm và chiều sâu nội
tâm của mình thông qua cách phát biểu trực tiếp hoặc gián tiếp qua các bài viết. Sự
nhạycảm ở các em luôn gắn liền sự thông minh và theo tôi thì sự thông minh của
HSG văn là sự thông minh của cả khối óc lẫn con tim.
HSG văn là những học sinh có vốn từ tiếng Việt khá dồi dào biết sử dụng
chính xác từ ngữ trong những trường hợp khác nhau. Thường những em HSG văn
đều có khả năng diễn đạt mượt mà, giàu cảm xúc, giàu hình ảnh. Năng khiếu ở
HSG văn thường đi kèm với các biểu hiện bên ngoài như ánh mắt sáng, cách nói
lưu loát gãy gọn. Bởi ngôn ngữ diễn đạt là cái vỏ của tư duy. HSG văn thường là
những học sinh nắm chắc các kỹ năng làm bài nghị luận.
2.2. Phát hiện học sinh giỏi văn
Từ quan niệm về HSG nói trên việc phát hiện và bồi dưỡng học sinh giỏi cần
được tiến hành ngay từ đầu lớp 6. Vì thế chúng tôi tạm thời đưa ra cơ sở của việc
tuyển chọn là:

2


*Bồi dưỡng theo quy trình từ lớp 6 đến lớp 9:
- Đối tượng đã được chọn phải giữ trong đội tuyển từ lớp 6 đến lớp 9.
- Một số nội dung kiến thức cơ bản bồi dưỡng HSG theo từng khối lớp.
* Lớp 6:
+ Hướng dẫn HS biết lựa chọn từ ngữ chính xác, phù hợp để đặt câu.
+ Biết phân biệt từ gần âm, gần nghĩa.
+ Biết viết các kiểu câu phân loại theo cấu trúc ngữ pháp và phân loại theo mục
đích nói.
+ Nắm chắc đặc điểm và biết sử dụng một số phép tu từ, từ vựng khi viết câu.
+ Hướng dẫn cho HS nắm chắc yêu cầu của từng phần trong bố cục văn bản
thông thường (3 phần: Mở bài, thân bài, kết bài)

+ Hướng dẫn HS biết lựa chọn các câu văn để xây dựng đoạn văn ngắn, thể hiện
sự cảm nhận của mình về nhân vật trong các truyện dân gian, một đoạn thơ, bài thơ
học trong chương trình…
* Lớp 7:
- Nâng cao các năng lực đã được rèn luyện ở lớp 6.
- Hướng dẫn HS nắm chắc các khái niệm, đặc điểm, yêu cầu của văn biểu cảm
về tác phẩm văn học và văn nghị luận.
- Hướng dẫn cho HS thực hành tốt 2 phương pháp lập luận giải thích và lập luận
chứng minh về: Các tiêu chí lấy dẫn chứng, các cách sắp xếp dẫn chứng và lí lẽ để
làm sáng tỏ luận điểm, cách sắp xếp trình tự của luận điểm trong một bài.
- Hướng dẫn HS có thói quen quan sát cuộc sống xung quanh, đọc báo, xem
truyền hình… để tích lấy vốn kiến thức về xã hội hỗ trợ cho việc làm bài văn nghị
luận.
- Hướng dẫn HS biết đưa ra ý kiến, nhận xét, đánh giá của mình khi phân tích
các dẫn chứng xây dựng đoạn văn và văn bản nghị luận.
* Lớp 8:
- Tiếp tục củng cố và nâng cao năng lực đã được bồi dưỡng ở lớp 7.
- Tiếp tục củng cố và nâng cao năng lực viết văn bản nghị luận xã hội theo yêu
cầu của lớp 8 (Kết hợp với biểu cảm, miêu tả, tự sự)
- Luyện tập cách sắp xếp các luận điểm, luận cứ, trình bày những nội dung trong
một đoạn văn theo quy nạp, diễn dịch, song hành.
- Nâng cao yêu cầu viết một đoạn văn nghị luận có kết hợp với các yếu tố: Miêu
tả, biểu cảm, tự sự.
- Thành thạo trong việc viết các loại đoạn văn (mở bài, thân bài, kết bài) theo
các cách khác nhau.
3. Bồi dưỡng HSG văn

3



3.1. Xây dựng kế hoạch bồi dưỡng HSG

3.2. Các bước rèn luyện kỹ năng làm văn
3.2.1. Cách lựa chọn hướng ra đề
Trong thực tế giảng dạy đã giúp tôi ý thức một cách sâu sắc rằng việc ra đề
là khâu quan trọng đầu tiên của quá trình phát hiện kiểm tra đánh giá và lựa chọn
HSG. Đề đúng và hay sẽ phân hoá được trình độ học sinh giúp người thầy nắm
trúng điểm mạnh, điểm yếu của mỗi học sinh từ đó có thể đánh giá khách quan
chính xác công bằng năng lực và sự cố gắng vươn lên của học sinh; đồng thời tạo
được niềm tin và hứng thú học tập cho học sinh khi hiểu được năng lực của mình.
Ngược lại đề thiếu chính xác sáo mòn không những không đánh giá được chính
xác về năng lực học sinh mà còn làm giảm thiểu hứng thú học văn tính độc lập
sáng tạo của học sinh. Và hậu quả của nó là việc rèn kỹ năng sẽ trở nên vô nghĩa.
Theo dõi hướng ra đề thi học sinh giỏi các cấp trong những năm qua chúng
tôi nhận thấy đề thường có sự kết hợp nhuần nhuyễn giữa kiến thức về lý luận văn
học và cảm thụ văn chương. Phạm vi thường xoay quanh những vấn đề cốt lõi của
chương trình như: chức năng và đặc trưng của văn học nghệ thuật, phẩm chất của
người nghệ sỹ, phong cách của nhà văn... hoặc phân tích một tác phẩm văn học đặc
sắc trong đó không ít tác phẩm còn tồn tại nhiều cách hiểu khác nhau hoặc phân
tích một số tác phẩm để nêu bật một vấn đề nào đó liên quan đến phong cách của
một tác giả hay một đặc điểm quan trọng của tiến trình lịch sử văn học dân tộc...

4


Nhìn chung tinh thần nhất quán của đề thi HSG là theo sát chương trình. Từ nhận
thức đó trong quá trình ra đề, rèn luyện kỹ năng cho học sinh tôi thường tập trung
vào một số vấn đề cơ bản sau:
VD: Đoạn mở bài có nhiều cách:
+ Đi từ hoàn cảnh sáng tác của tác phẩm.

+ Đi từ đề tài mà tác phẩm thể hiện.
+ Đi từ những nét tiêu biểu của tác giả.
VD:
+ Đề bài nghị luận về một tác phẩm có thêm một ý kiến, nhận xét, câu nói, câu
thơ…
+ Đề bài tổng hợp nhiều tác phẩm(Cả tác phẩm thơ, tác phẩm truyện…)
+ Đề bài tổng hợp (Tác phẩm truyện hoặc chỉ có các bài thơ)
*Lưu ý khi dạy học sinh làm các đề bài tổng hợp nhiều tác phẩm (Thường gặp khi
thi HSG các cấp)
+ Hướng dẫn HS cách lựa chọn dẫn chứng phù hợp với từng luận điểm tránh lặp
lại (Chọn chính xác câu, đoạn thể hiện đúng nội dung của từng luận điểm).
+ Không nên làm hết bài này rồi đến bài khác mà phải biết xây dựng những luận
điểm chung của các tác phẩm (Vì thường các tác phẩm có điểm chung về đề tài)
VD:
+ Hướng dẫn HS cách phân tích các dẫn chứng cần lựa chọn từ ngữ không
trùng lặp khi phân tích dẫn chứng bài này với bài khác. Sau khi phân tích cụ thể
từng dẫn chứng cuối mỗi luận điểm cần tổng hợp để thể hiện rõ sự liên kết trong
một đoạn văn(Thường viết đoạn văn: Tổng - phân - hợp).
- Cần phải hướng dẫn cho HS nắm được quy trình phân tích cơ bản, cách đưa
dẫn chứng vào từng đoạn văn, lời văn phân tích cụ thể, rõ ràng chỉ ra được giá trị
nghệ thuật, nội dung của dẫn chứng, thể hiện cảm xúc của người viết trong lời văn,
(Các câu văn phân tích dẫn chứng thể hiển rõ chất văn trong bài làm văn). HS nắm
chắc cách lựa chọn câu văn làm dẫn chứng (Trực tiếp hoặc gián tiếp) trong khi làm
bài nghị luận về tác phẩm truyện hoặc đoạn trích(Tránh không để trở thành tóm tắt
truyện).
- Trong một bài làm văn của HSG phải thể hiện rõ sự liên kết, có những kiến
thức mở rộng (nên lấy dẫn chứng từ tác phẩm khác ở các lớp khác hoặc ngoài
chương trình nhưng cùng đề tài). Cần có ít nhất một đoạn văn sáng tạo và sâu sắc
làm nổi bật bài văn của mình, gây được sự chú ý của người đọc.
3.2.2. Rèn kỹ năng lập dàn ý

Bước đầu tiên trong rèn kỹ năng lập dàn ý tôi thường yêu cầu học sinh phải
lập dàn ý sơ lược theo yêu cầu:

5


+Đề xuất được hệ thống luận điểm sẽ triển khai trong bài viết;
+Xác định mối quan hệ giữa các luận điểm tầm quan trọng của mỗi luận điểm
trong việc thể hiện các yêu cầu của bài;
+Sắp xếp các luận điểm theo trình tự chặt chẽ khoa học.
Để giúp học sinh thực hiện được yêu cầu trên tôi thường hướng dẫn các em
đặt hệ thống câu hỏi và tự trả lời:
+ Câu hỏi tìm luận điểm: Yêu cầu trọng tâm của đề là gì? Vấn đề cần giải quyết
có thể triển khai ở những khía cạnh phương diện nào?
+ Câu hỏi xác định quan hệ và vai trò của luận điểm: Những khía cạnh phương
diện ấy quan hệ với nhau như thế nào? Phương diện nào thể hiện tập trung và rõ
nét các yêu cầu trọng tâm của đề?
+ Câu hỏi sắp xếp luận điểm: Các khía cạnh nội dung cần nghị luận được trình
bày như thế nào là tối ưu nhất?
Trên cơ sở đó thầy và trò cùng đi xây dựng một dàn ý chi tiết cho đề bài cụ thể.

Ví dụ:
ĐỀ: Tiểu thuyết Tắt đèn của nhà văn Ngô Tất Tố có nhiều nhân vật, nhưng
chị Dậu là một hình tượng trung tâm, là linh hồn của tác phẩm có giá trị hiện
thực. Bởi chị Dậu là hình ảnh chân thực, đẹp đẽ của người phụ nữ nông dân
Việt Nam trước cách mạng tháng tám năm 1945.
Bằng những hiểu biết của em về tác phẩm “Tắt đèn” của Ngô Tất Tố,
hãy làm sáng tỏ nhận định trên.
DÀN Ý
a) Mở bài (1 điểm):

- Giới thiệu khái quát tác giả , tác phẩm.
- Tiểu thuyết Tắt đèn có nhiều nhân vật nhưng chị Dậu là một hình tượng
trung tâm, là linh hồn của tác phẩm Tắt đèn. Bởi chị Dậu là hình ảnh chân thực đẹp
đẽ về người phụ nữ nông dân Việt Nam trước cách mạng tháng tám 1945.
b) Thân bài (4 điểm):
* Làm rõ những phẩm chất đáng quý của chị Dậu.
- Chị Dậu là một người có tinh thần vị tha, yêu thương chồng con tha thiết.
+ Khi anh Dậu bị bọn cai lệ và người nhà lí trưởng đánh đập hành hạ chết đi
sống lại chị đã chăm sóc chồng chu đáo.
+ Chị đã tìm mọi cách để bảo vệ chồng.
+ Chị đau đớn đến từng khúc ruột khi phải bán con để có tiền nộp sưu.
- Chị Dậu là một người đảm đang tháo vát: đứng trước khó khăn tưởng
chừng

6


như không thể vượt qua, phải nộp một lúc hai suất sưu, anh Dậu thì ốm đau, đàn
con bé dại... tất cả đều trông vào sự chèo chống của chị.
- Chi Dậu là người phụ nữ thông minh sắc sảo:
Khi bọn cai lệ định xông vào trói chồng – Chị đã cố van xin chúng tha cho
chồng nhưng không được. => chị đã đấu lý với chúng
“ Chồng tôi đau ốm, các ông không được phép hành hạ”.
- Chị Dậu là người phụ nữ có tinh thần quật khởi, ý thức sâu sắc về nhân
phẩm.
+ Khi cai lệ và người nhà Lí trưởng có hành động thô bạo với chị, với chồng
chị, chị đã vùng lên quật ngã chúng.
+ Mặc dù điêu đứng với số tiền sưu nhưng chị vẫn sẵn sàng ném nắm giấy
bạc vào mặt tên tri phủ Tri Ân. Hai lần bị cưỡng hiếp chị vẫn thoát ra được.
- Đây chính là biểu hiện đẹp đẽ về nhân phẩm của tinh thần tự trọng.

c) Kết bài (1điểm)
Khái quát khẳng định về phẩn chất nhân vật:
- Yêu thương chồng con, thông minh sắc sảo, đảm đang tháo vát, có tinh thần quật
khởi, ý thức sâu sắc về nhân phẩm...
- Nhân vật chị Dậu toát lên vẻ đẹp mộc mạc của người phụ nữ nông dân đẹp người,
đẹp nết.
- Hình tượng nhân vật chị Dậu là hình tượng điển hình của phụ nữ Việt Nam trước
cách mạng tháng 8 năm 1945.
- Tác phẩm “Tắt đèn” của Ngô Tất Tố không chỉ là tác phẩn có giá trị hiện thực mà
còn có giá trị nhân đạo sâu sắc, là tác phẩm tiêu biểu của văn học hiện thực phê
phán.
3.2.3. Rèn luyện kỹ năng viết văn
Đây cũng là kỹ năng quan trọng bởi nhận thức đề đúng, đề xuất luận điểm
hợp lý, có kiến thức phong phú chưa đủ. Muốn có một bài viết hay học sinh phải
biết trình bày những hiểu biết, những rung động suy nghĩ của mình một cách mạch
lạc sáng sủa và có sức thuyết phục. Hơn nữa việc đánh giá lại căn cứ vào chính bài
viết của học sinh.
Rèn kỹ năng viết văn cho học sinh tôi thường tiến hành theo các hình thức:
+ Viết thành văn một đoạn ý:
- Đoạn văn giải thích;
- Đoạn văn chứng minh một luận điểm trong bài (thường là luận điểm
chính);
- Đoạn văn bình luận nâng cao.
7


+ Viết thành bài văn hoàn chỉnh ở nhà trên cơ sở dàn ý đã được giáo viên
chữa (GV có thể sửa khoảng 2 bài /1 tuần /học sinh).
+ Viết thành bài văn hoàn chỉnh ở các buổi ôn trong thời gian quy định
(180 phút). Yêu cầu trước hết đối với học sinh là phải diễn dạt lưu loát rõ ý; chữ

viết sạch sẽ dễ đọc không mắc lỗi chính tả, dùng từ viết câu. Từ đó nâng dần yêu
cầu học sinh phải viết được những đoạn văn hay có cách dùng từ chính xác sáng
tạo mới lạ, có giọng văn riêng thể hiện được dấu ấn phong cách của người viết.
Để đạt được những yêu cầu đó học sinh phải tham khảo những bài văn mẫu
do giáo viên lựa chọn định hướng; Có thể học tập cách viết ở các bạn của mình
(những đoạn, những ý mà giáo viên cho là đúng và hay). Hình thức này rất có
hiệu quả bởi đó là những đoạn văn của bài văn hay do chính các em viết; Các em
rất tự hào khi có được bài văn, đoạn văn hay mà được thầy cô và bạn mình trân
trọng.
Vì thế kỹ năng viết thành văn phải được tiến hành thường xuyên, bằng hình
thức ra đề cho các em làm thêm ở nhà, giáo viên tranh thủ chấm và chữa kỹ cho
các em.
3.2.4. Chấm và chữa bài
Đối với các em HSG khi chấm bài giáo viên phải chỉ ra được điểm mạnh,
điểm yếu cơ bản của mỗi bài; theo dõi và động viên kịp thời mức độ tiến bộ của
mỗi học sinh trong từng bài viết. Khi chấm giáo viên phải chỉ ra các lỗi cụ thể về
dùng từ, viết câu, tổ chức ý... phân tích cho học sinh hiểu nguyên nhân và định
hướng cách chữa để học sinh có thể tự sửa chữa các lỗi của mình. Và để tạo hứng
thú giáo viên có thể tổ chức hướng dẫn học sinh đọc và chữa bài cho nhau.
4.Khi bồi dưỡng HSG cần lưu ý:
- Hướng dẫn học sinh nắm chắc các kiểu câu và sử dụng thành thạo các kiểu câu
khi viết bài làm văn.
- Sử dụng tốt các phương pháp khi viết câu và liên kết đoạn văn…
- Trong từng giờ văn bản GV khi dạy cần lưu ý việc bình giảng để gây hứng thú
cho HS nhất là HSG, để từ đó HS có thói quen cảm nhận sâu sắc từng tác phẩm và
hướng dẫn HS biết ghi chép lại những câu bình giảng của GV. Từ việc thích nghe,
HS sẽ thích học và vận dụng vào bài viết của mình.
- Giáo viên hướng dẫn học sinh biết đọc sách văn học, đọc báo,… các tư liệu
lịch sử có liên quan và nhất là có thói quen ghi lại.
- Hướng dẫn và tạo điều kiện cho HS sử dụng trí tượng của mình khi đọc văn

bản và khi làm bài văn.
- Hướng dẫn học sinh có thói quen đọc tác phẩm nhiều lần, đọc kĩ các chú thích
để hiểu sâu, kĩ văn bản để vận dụng vào bài văn.

8


5. Kết luận
5.1. Thực tế giảng dạy và bồi dưỡng HSG trong mấy năm qua giúp tôi nhận
ra rằng "thiên bẩm" hết sức quan trọng. Song trên thực tế không có một tài năng
thiên bẩm nào tự nó có thể đi đến thành công. Bởi thế vai trò người thầy là hết sức
quan trọng. Tâm hồn tri thức và những gợi mở của người thầy sẽ được cụ thể hoá
qua từng trang viết của học trò. Vì vậy muốn có học sinh giỏi trước hết người thầy
phải luôn có ý thức tích luỹ tri thức và kinh nghiệm giảng dạy một cách nghiêm
túc. Trong đó sự nhảy cảm trong phát hiện năng khiếu học sinh và phương pháp
bồi dưỡng luôn là yếu tố hàng đầu để có được thành công.
- Đội tuyển HSG ham thích, say mê môn học, có năng lực diễn đạt (là quan
trong nhất).
- Có kế hoạch bồi dưỡng cụ thể và thực hiện kế hoạch đó một cách hiệu quả.
5.2. Trên đây là một số kinh nghiệm phát hiện và bồi dưỡng học sinh giỏi của
bản thân tôi được đúc rút từ thực tế giảng dạy và bồi dưỡng HSG trong những năm
qua. Có thể những điều này không còn mới mẻ với những đồng nghiệp có bề dày
kinh nghiệm nhưng với tôi đó là những điều tôi tâm đắc và bước đầu đã có được
những thành công nhất định.
Cuối cùng tôi rất mong nhận được sự đóng góp chân thành của các đồng
nghiệp để tôi có thể tiếp tục làm tốt công việc này trong những năm học tiếp
theo.
Tân Thạnh, ngày 10/10/2016
Người viết


PHAN HÔNG TRINH

9


PHÒNG GD-ĐT THỊ XÃ GIÁ RAI
TRƯỜNG THCS TÂN THẠNH

CHUYÊN ĐỀ
PHÁT HIỆN VÀ BỒI DƯỠNG HỌC SINH GIỎI MÔN VĂN

Năm học 2016-2017

10



×