Tải bản đầy đủ (.doc) (13 trang)

TIỂU LUẬN lý LUẬN về THỜI kỳ QUÁ độ và VIỆC xác ĐỊNH CHẶNG ĐƯỜNG đầu TIÊN của THỜI kỳ QUÁ độ lên CHỦ NGHĨA xã hội ở nước TA

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (121.08 KB, 13 trang )

1

LÝ LUẬN VỀ THỜI KỲ QUÁ ĐỘ LÊN CHỦ NGHĨA XÃ HỘI VÀ
VIỆC XÁC ĐỊNH CHẶNG ĐƯỜNG ĐẦU TIÊN CỦA THỜI KỲ QUÁ
ĐỘ LÊN CHỦ NGHĨA XÃ HỘI Ở NƯỚC TA
Lý luận về thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội là một nội dung rất cơ
bản trong học thuyết hình thái kinh tế - xã hội của chủ nghĩa Mác - Lênin.
Những tư tưởng đó đã được Mác - Ăngghen vạch ra những nét cơ bản và đã
được V.I.Lênin tiếp thu, bảo vệ, vận dụng và phát triển sáng tạo trong điều
kiện lịch sử mới, xây dựng chủ nghĩa xã hội ở nước Nga những năm đầu
của thế kỷ XX.
Vào những năm cuối thế kỷ XX, lợi dụng sự sụp đổ của chủ nghĩa xã
hội hiện thực ở Liên Xô và các nước Đông Âu, các thế lực phản động, các
học giả tư sản ra sức tập trung công kích, xuyên tạc, phủ nhận chủ nghĩa
Mác - Lênin nói chung và lý luận về thời kỳ quá độ nói riêng. Chính vì vậy
việc nhận thức và làm sáng tỏ những tư tưởng cơ bản của chủ nghĩa Mác Lênin về thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội là vấn đề cấp thiết cả về lý
luận và thực tiễn hiện nay, qua đó góp phần tích cực trong việc đấu tranh,
bảo vệ và phát triển lý luận về thời kỳ quá độ trong giai đoạn cách mạng
mới.
Trong quá trình hoạt động lý luận và thực tiễn phong phú, sôi động
của mình C.Mác - Ph.Ăngghen đã hình thành những tư tưởng hết sức cơ
bản về thời kỳ quá độ. Do áp dụng triệt để phương pháp biện chứng vào
việc nghiên cứu xã hội. C.Mác - Ph.Ăngghen không những phân chia lịch
sử xã hội loài người ra thành các hình thái kinh tế - xã hội mà còn phân chia
mỗi hình thái kinh tế - xã hội thành các giai đoạn phát triển nhất định theo


2

Mác, mỗi một hình thái kinh tế - xã hội đều có tính chất quá độ và tính chất
lịch sử.


Bằng cách phân tích khoa học quá trình phát sinh, phát triển và tiêu
vong của hình thái kinh tế - xã hội tư bản chủ nghĩa và những vấn đề gắn
liền với giai đoạn của quá trình ấy, các ông đã chứng minh chủ nghĩa tư bản
phải nhường chỗ cho chủ nghĩa cộng sản và đó là một quá trình lịch sử tự
nhiên. Các ông đã nhìn thấy rằng, xã hội mới phải trải qua nhiều giai đoạn,
nhiều thời kỳ trên con đường đi tới xã hội chủ nghĩa cộng sản.
Trong tác phẩm “Hệ tư tưởng Đức” các ông đã nói rõ tính khách
quan sự vận động của lịch sử đi lên chủ nghĩa cộng sản: chủ nghĩa cộng sản
không phải là trạng thái cần phải tạo ra, không phải là một lý tưởng mà hiện
thực phải khuôn theo. Chúng ta gọi chủ nghĩa cộng sản là một trào lưu hiện
thực, nó xoá bỏ trạng thái hiện nay. Mác đã đưa ra định nghĩa kinh điển về
thời kỳ quá độ trong tác phẩm “phê phán Cương lĩnh Gô ta”, “giữa xã hội
tư bản chủ nghĩa và xã hội cộng sản chủ nghĩa là một thời kỳ cải biến cách
mạng từ xã hội nọ sang xã hội kia. Thích ứng với thời kỳ ấy là một thời kỳ
quá độ chính trị, và nhà nước của thời kỳ ấy không phải là cái gì khác hơn
là nền chuyên chính cách mạng của giai cấp vô sản”

(C.Mác -

Ph.Ăngghen toàn tập, tập 19, Nxb CTQG. 1995, tr.47).
Xã hội cộng sản chủ nghĩa thời kỳ quá độ “là xã hội vừa thoát thai từ xã hội
tư bản chủ nghĩa do đó là một xã hội, về mọi phương diện - kinh tế, đạo
đức, tinh thần còn mang những dấu vết của xã hội cũ mà nó đã lột lòng” (
Sđd, tr.33). Đó là xã hội chưa phát triển trên cơ sở của chính nó. C.Mác Ph.Ăngghen đã nêu ý tưởng về hai giai đoạn của chủ nghĩa cộng sản, giai
đoạn thấp và giai đoạn cao, giai đoạn thấp Mác gọi là xã hội chủ nghĩa một
xã hội vừa thoát thai từ xã hội cũ. Chính vì vậy trong xã hội ấy tất yếu còn


3


đấu tranh giai cấp và vì vậy còn cần đến nhà nước của giai cấp vô sản, tức
là nó còn tồn tại đến khi xây dựng xong cơ sở vật chất cho chủ nghĩa cộng
sản hay nói một cách khác là bảo đảm cho chủ nghĩa xã hội phát triển trên
cơ sở của chính nó. Giai đoạn cao là chủ nghĩa cộng sản xã hội không còn
phân công lao động, không còn phân biệt giữa lao động trí óc và lao động
chân tay, làm theo năng lực hưởng theo nhu cầu.
Như vậy ở giai đoạn thấp chủ nghĩa xã hội là giai đoạn chuyển tiếp từ
xã hội tư bản chủ nghĩa, thời kỳ cải biến cách mạng từ xã hội nọ sang xã
hội kia là thời kỳ quá độ chính trị. C.Mác - Ph.Ăngghen gọi là giai đoạn
thấp: “cái xã hội mà chúng ta nói ở đây là một xã hội cộng sản chủ nghĩa;
nhưng không phải là một xã hội cộng sản chủ nghĩa đã phát triển trên cơ sở
của chính nó, mà trái lại là một xã hội cộng sản chủ nghĩa vừa thoát thai từ
xã hội tư bản chủ nghĩa, do đó là một xã hội, về mọi phương diện - kinh tế,
đạo đức, tinh thần - còn mang nặng những dấu vết của xã hội cũ mà nó đã
lọt lòng ra” (Sđd, tr 33).. Thời kỳ quá độ, do đó là thời kỳ sinh đẻ lâu dài
và đau đớn để loại bỏ dần cái cũ, xây dựng và củng cố dần những cái mới,
là thời kỳ tạo ra những tiền đề vật chất và tinh thần để hình thành một xã
hội mới cao hơn xã hội tư bản.
Kế thừa và phát triển toàn diện tư tưởng của C.Mác - Ph.Ăngghen về
phân kỳ hình thái kinh tế - xã hội, về thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội
trong điều kiện mới, giai đoạn chủ nghĩa tư bản phát triển lên giai đoạn chủ
nghĩa đế quốc, cách mạng xã hội chủ nghĩa đã trở thành vấn đề trực tiếp.
Lênin đã đề cập đến khả năng giành thắng lợi của cách mạng xã hội chủ
nghĩa ở một số nước, kể cả những nước tư bản chủ nghĩa phát triển trung
bình, thậm chí còn lạc hậu nhiều mặt. Cuộc cách mạng tháng Mười Nga
năm 1917, với những vấn đề lý luận và thực tiễn của thời kỳ quá độ lên chủ


4


nghĩa xã hội ở nước Nga đã để lại nhiều bài học kinh nghiệm quý báu.
Thắng lợi của cách mạng tháng Mười Nga đã làm cho lý luận về thời kỳ
quá độ lên chủ nghĩa xã hội ngày càng sáng, rõ hơn, chính từ lý do hình thái
kinh tế - xã hội cộng sản chủ nghĩa ra đời từ một nước tư bản chủ nghĩa có
trình độ phát triển trung bình đó. Trong tác phẩm “Nhà nước và cách mạng”
Lênin đã phân hình thái kinh tế - xã hội cộng sản chủ nghĩa qua ba giai
đoạn:
Giai đoạn một: “những cơn đau đẻ kéo dài”
Giai đoan hai: “giai đoạn đầu của xã hội cộng sản chủ nghĩa”
Giai đoạn ba: “giai đoạn cao của xã hội cộng sản chủ nghĩa”.
Người chỉ rõ: “những cơn đau đẻ kéo dài” chính là thời kỳ quá độ từ
chủ nghĩa tư bản lên chủ nghĩa xã hội. Và Lênin đã chỉ ra: “nếu phân tích
tình hình hiện nay chúng ta có thể nói rằng chúng ta đang ở vào một thời kỳ
quá độ trong thời kỳ quá độ”.
Qua sự phân kỳ của Lênin, thời kỳ quá độ có vị trí độc lập tương đối,
không nằm trong giai đoạn đầu của xã hội cộng sản chủ nghĩa, chỉ có nhận
thức như vậy về vị trí của thời kỳ quá độ thì mới xác định được phạm vi của
thời kỳ quá độ đến đâu. Điểm cần chú ý ở đây, là sự phân kỳ của Mác và
Lênin đều chỉ là tương đối giữa hai giai đoạn không hề có sự cách biệt nào,
việc phân định ở đây chỉ là tương đối.
Như vậy, các nhà kinh điển chủ nghĩa Mác - Lênin đã chỉ ra vị trí giới hạn
của thời kỳ quá độ và cũng đã căn dặn chúng ta rằng: “những thời kỳ của
lịch sử xã hội cũng giống như những thời kỳ của lịch sử trái đất đều không
có giang giới trìu tượng nào thật rành mạch cả” (C.Mác - Ph.Ăngghen toà
tập, tập 23, Nxb CTQG, H, 1995, tr. 537).. Hoặc “dĩ nhiên là những cách
phân giớ hạn đó, cũng giống như những cách phân giới hạn trong giới tự


5


nhiên hoặc trong xã hội, đều chỉ có tính chất quy ước và không cố định, đều
là tương đối chứ không phải là tuyệt đối.” (Lênin toàn tập, Nxb tiến bộ , M,
1978, tập 23, tr 175).. qua đó ta thấy rằng tư tưởng của C.Mác Ph.Ăngghen và Lênin là rất biện chứng, khi chúng ta nhận biết được vị trí,
giới hạn của thời kỳ quá độ thì ngay trong vị trí, giới hạn đó còn hàm chứa
cả những đặc điểm, nội dung của thời kỳ quá độ và còn của cả giai đoạn xã
hội chủ nghĩa.
Trong thời kỳ quá độ thì đặc điểm kinh tế là biểu hiện rõ nét nhất, đó
là quan hệ về sỏ hữu, về phân phối sản phẩm lao động.
Theo quan điểm của C.Mác - Ph.Ăngghen, trong thời kỳ quá độ,
chính quyền tư bản chủ nghĩa đã bị đánh bại nhưng chế độ tư hữu vẫn còn
tồn tại, việc cải tạo và đi đến xoá bỏ phải tiến hành dần dần, đó là quá trình
mà giai cấp vô sản phải tạo ra được khối lượng tư liệu sản xuất cần thiết, thì
lúc đó mới xoá bỏ được chế độ tư hữu. Về quan hệ phân phối còn chưa thể
bình đẳng được. Tóm lại trong thời kỳ quá độ không riêng gì lĩnh vực kinh
tế mà các lĩnh vực khác của đời sống xã hội còn mang những tàn dư, dấu
vết của xã hội cũ chưa thể xoá bỏ ngay lập tức. Trong thời kỳ quá độ còn
nhà nước, còn giai cấp, còn đấu tranh giai cấp là tất yếu.
Kế thừa quan điểm của C.Mác - Ph.Ăngghen, Lênin đã chỉ ra đặc
điểm thời kỳ quá độ, theo Lênin: thời kỳ quá độ trong nhiều lĩnh vực của
đời sống xã hội đều do nhiều thành phần không thuần nhất cấu tạo nên, là
thời kỳ đan xen, thâm nhập vào nhau giữa chủ nghĩa tư bản và chủ nghĩa xã
hội, là thời kỳ mà cái cũ còn tồn tại và thậm chí còn phát triển lấn áp những
mầm mống của cái mới, là thời kỳ mà trên nhiều phương diện đều có thể
phát triển tự phát tiểu tư sản, là thời kỳ chứa đựng mâu thuẫn không thể
dung hoà được giữa tính kỷ luật nghiêm ngặt của giai cấp vô sản với tính vô


6

chính phủ, vô kỷ luật tự phát của tầng lớp tiểu tư sản. Thời kỳ quá độ còn là

thời kỳ lâu dài khó khăn, phức tạp, để vượt qua những khó khăn phức tạp
ấy giai cấp vô sản phải sẵn sàng đón đợi và phải trải qua nhiều lần thử
nghiệm, vừa làm vừa rút kinh nghiệm, có như vậy mới tìm ra được hướng
đi đúng đắn, hiệu quả. Quá độ đi lên chủ nghĩa xã hội là một mô hình mới
mẻ chưa có trong tiền lệ. Vì vậy giai cấp vô sản trong quá trình đó cũng có
thể sai lầm trong nhận thức và hành động.
Cùng với tư tưởng về thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội các nhà
kinh điển của chủ nghĩa Mác - Lênin còn đề cập đến con đường phát triển
không qua tư bản chủ nghĩa, tức là quá độ từ xã hội tiền tư bản lên chủ
nghĩa xã hội. C.Mác - Ph.Ăngghen cho rằng: với sự giứp đỡ của giai cấp vô
sản đã chiến thắng, các dân tộc lạc hậu có thể rút ngắn được rất nhiều quá
trình phát triển của mình để tiến lên chủ nghĩa cộng sản. Như vậy, các nước
tiền tư bản chủ nghĩa đều có thể đi lên chủ nghĩa cộng sản bằng còn đường
bỏ qua sự phát triển tư bản chủ nghĩa với những điều kiện tiên quyết nhất
định, một trong những số đó là các nước tiền tư bản phải được sự giúp đỡ
của các giai cấp vô sản ở các nước tiên tiến.
Trong điều kiện lịch sử mới được hình thành sau cách mạng tháng
Mười vĩ đại Lênin đã khẳng dịnh: “với sự giúp đỡ của giai cấp vô sản các
nước tiên tiến, các nước lạc hậu có thể tiến lên tới chế độ Xô viết, và qua
những giai đoạn phát triển nhất định, tiến tới chủ nghĩa cộng sản, không
phải trải qua giai đoạn phát triển tư bản chủ nghĩa” ( V.I.Lênin. Sđd, 1977,
t.41, tr. 29) . Lênin đã đưa ra quan điểm về hai hình thức quá độ lên chủ
nghĩa xã hội đó là quá độ trực tiếp và quá độ gián tiếp. Theo Lênin, những
nước có chủ nghĩa tư bản phát triển cao, giai cấp công nhân đã trưởng thành
mới có đủ những tiền đề xã hội, kinh tế và chính trị cho sự chuyển tiếp lên


7

chủ nghĩa xã hội. Trái lại, những nước lạc hậu chỉ có thể đi lên chủ nghĩa xã

hội bằng quá độ gián tiếp. Lênin còn chỉ ra đối với những nước lên chủ
nghĩa xã hội bỏ qua chế độ tư bản chủ nghĩa phải trải qua những bước trung
gian, quá độ mới có thể xây dựng thành công chủ nghĩa xã hội. “Chúng ta
phải hiểu đường lối, thể thức, thủ đoạn và phương sách trung gian cần thiết
để chuyển từ quan hệ tiền tư bản chủ nghĩa lên chủ nghĩa xã hội. Đó là mấu
chốt vấn đề” (V.I.Lênin. Sđd, 1978, t43, tr. 274).
Quá độ lên chủ nghĩa xã hội đã được các nhà kinh điển của chủ nghĩa
Mác - Lênin đề cập đến. Trên cơ sở vận dụng lý luận cách mạng không
ngừng, về thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội của chủ nghĩa Mác - Lênin
và xuất phát từ đặc điểm Việt Nam, Hồ Chí Minh đã khẳng định con đường
cách mạng Việt Nam là tiến hành giải phóng dân tộc, hoàn thành cách
mạng dân tộc dân chủ nhân dân. Quá độ lên chủ nghĩa xã hội, bỏ qua chế
độ tư bản chủ nghĩa.
Theo Hồ Chí Minh, khi bước vào thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã
hội, nước ta có những đặc điểm sau đây:
Sau khi cơ bản hoàn thành cách mạng dân tộc, dân chủ nhân dân,
dưới sự lãnh đạo của giai cấp công nhân, trên nền nền tảng liên minh công
nhân, nông dân và trí thức đã được củng cố vững chắc. Việt Nam tiến dần
lên chủ nghĩa xã hội. Cách mạng Việt Nam chuyển sang giai đoạn mới
không bắt đầu bằng cuộc đảo lộn giành chính quyền
Về phương diện kinh tế. “miền Bắc nhất định tiến lên chủ nghĩa xã
hội. Mà đặc điểm to nhất của ta trong thời kỳ quá độ là một nước nông
nghiệp lạc hậu tiến thẳng lên chủ nghĩa xã hội không phải kinh qua giai
đoạn phát triển tư bản chủ nghĩa” (Hồ Chí Minh toàn tập, tập10, tr. 13).


8

Một đặc điểm khác của thời kỳ quá độ ở Việt Nam là: Chúng ta xây
dựng chủ nghĩa xã hội vừa có hoà bình, vừa có chiến tranh: đồng thời thực

hiện hai nhiệm vụ chiến lược: tiến hành cách mạng xã hội chủ nghĩa ở miền
Bắc và tiếp tục hoàn thành cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân ở miền
Nam. Hai cuộc cách mạng này có quan hệ chặt chẽ với nhau. Theo đánh giá
của nhiều nhà lý luận nước ngoài, cách làm vừa kháng chiến vừa kiến quốc,
xây dựng chủ nghĩa xã hội trong hoàn cảnh có chiến tranh là một sáng tạo
độc đáo của Hồ Chí Minh, phản ánh đúng thực chất quy luật phát triển của
cách mạng Việt Nam: độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội.
Về bối cảnh quốc tế theo Hồ Chí Minh, sự nghiệp xây dựng chủ
nghĩa xã hội ở nước ta trong bối cảnh quốc tế thuận lợi. Chủ nghĩa xã hội
đã xuất hiện ở một loạt nước, chúng ta nhận được sự hỗ trợ, hợp tác mạnh
mẽ từ bên ngoài, theo tinh thần quốc tế chân chính; nhưng mặt khác lại luôn
luôn bị chủ nghĩa đế quốc tìm cách phá hoại công cuộc hoà bình xây dựng
chủ nghĩa xã hội. Điều đó buộc chúng ta phải có ý thức độc lập, tự chủ, tự
lực, tự cường, tranh thủ các điều kiện quốc tế thuận lợi, hạn chế những khó
khăn để xây dựng thành công chủ nghĩa xã hội.
Do đặc điểm quy định, quá độ lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam theo
tư tưởng Hồ Chí Minh, là một quá trình dần dần, khó khăn phức tạp và lâu
dài. Quá trình đó bao gồm hai mặt cải tạo xã hội cũ và xây dựng xã hội mới,
mà xây dựng là nhiệm vụ chủ chốt, lâu dài. Hồ Chí Minh thường nhất mạnh
đến tính chất tuần tự, dần dần của thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội. Tính
chất phức tạp và khó khăn của nó được Hồ Chí Minh lý giải trên các bình
diện:
Thứ nhất, đây thực sự là một cuộc cách mạng làm đảo lộn mọi mặt
đời sống xã hội, cả lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất, cả cơ sở hạ tầng


9

và kiến trúc thượng tầng. Nó đặt ra và đòi hỏi đồng thời giải quyết hàng loạt
mâu thuẫn khác nhau.

Thứ hai, sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội là một sự nghiệp mà
Đảng, Nhà nước và nhân dân ta chưa có kinh nghiệm, là công việc hết sức
mới mẻ, vừa làm vừa học, có thể sẽ vấp váp và thiếu sót. Xây dựng xã hội
mới bao giờ cũng khó khăn, phức tạp hơn đánh đổ xã hội cũ đã lỗi thời.
Thứ ba, sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội luôn luôn bị các thế lực
phản động trong và ngoài nước tìm mọi cách chống phá.
Từ việc chỉ rõ đặc điểm tính chất của thời kỳ quá độ, Hồ Chí Minh
luôn luôn nhắc nhở cán bộ, đảng viên trong xây dựng chủ nghĩa xã hội phải
thận trọng, chánh nôn nóng, chủ quan, đốt cháy giai đoạn. Vấn đề cơ bản là
phải xác định đúng bước đi và hình thức phù hợp với trình độ của lực lượng
sản xuất, biết kết hợp các khâu trung gian, quá độ, tuần tự từng bước, từ
thấp đến cao.
Với thắng lợi của cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước của nhân
dân ta năm 1975, đất nước thống nhất Đảng, Nhà nước ta đưa cả nước đi
lên xây dựng chủ nghĩa xã hội. Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ IV năm
1976 đã xác định đường lối chiến lược xây dựng chủ nghĩa xã hội là tiến
hành công nghiệp hoá, hiện đại hoá trong suốt cả thời kỳ quá độ. Song chưa
lường hết được những khó khăn thách thức trong quá trình đi lên xây dựng
chủ nghĩa xã hội từ một nước điểm xuất phát thấp, đi lên chủ nghĩa xã hội
từ một nước thuộc địa nửa phong kiến, nền sản xuất nông nghiệp lạc hậu,
lại bỏ qua một hình thái kinh tế - xã hội tư bản chủ nghĩa một nấc thang tiến
bộ trong tiến trình vận động và phát triển của lịch sử xã hội loài người; bên
cạnh đó đất nước lại trải qua hai cuộc chiến tranh hậu quả để lại hết sức
nặng nề. Tổng kết những kinh nghiệm của quá trình xây dựng chủ nghĩa xã


10

hội, đặc biệt sau thất bại của cải tổ, cải cách và sự đổ vỡ chế độ xã hội chủ
nghĩa ở Liên Xô và Đông Âu, hệ thống xã hội chủ nghĩa đã không còn tồn

tại trên thực tế. Đó là một khúc quanh co trong lịch sử, trật tự thế giới đã
thay đổi ở thời kỳ gọi là hậu chiến tranh lạnh; phong trào cách mạng tạm
thời ở vào thế bất lợi dù cho tính chất và đặc điểm thời đại vẫn không thay
đổi. Hiện nay, chế độ xã hội chủ nghĩa chỉ còn tồn tại ở một số nước: Trung
Quốc, Việt Nam, Triều Tiên, Cu Ba. Dễ nhận thấy nhận thấy một đặc điểm
chung của các nước này là điểm xuất phát đi lên chủ nghĩa xã hội ở trình độ
thấp, đều quá độ lên chủ nghĩa xã hội bỏ qua chế độ tư bản chủ nghĩa, đều
chịu ảnh hưởng trực tiếp từ mô hình “chủ nghĩa xã hội nhà nước” kiểu Liên
Xô trước đây, đều trải qua ở mức độ khác nhau, ở thời điểm khác nhau của
cuộc khủng hoảng kinh tế - xã hội.
Đánh giá thực trạng con đường đi lên xây dựng chủ nghĩa xã hội ở
nước ta với tư tưởng nhìn thẳng vào sự thật; khẳng định những thành tựu đã
đạt được, chỉ ra những mặt còn hạn chế, yếu kém. Việt Nam bước vào đổi
mới cuối năm 1986 và xác định đây là đổi mới theo định hướng xã hội chủ
nghĩa và nền kinh tế thị trường vừa mới phát sinh hiện nay cũng mới chỉ
được coi là nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa. Đó cũng
chính là cách hiểu mới về thời kỳ quá độ. Trước đây ta nhấn mạnh tới cách
mạng quan hệ sản xuất, ngày nay trong đổi mới, chúng ta đặt vấn đề một
cách thực tế hơn, nói rõ tư tưởng căn bản của đổi mới là giải phóng lực
lượng sản xuất, tạo bước tạo lập quan hệ sản xuất xã hội chủ nghĩa phù hợp
với tính chất trình độ phát triển của lực lượng sản xuất.
Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VII với một tư duy lý luận mới,
trên cơ sở lý luận về thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội của chủ nghĩa Mác
- Lênin (những cơn đau đẻ kéo dài) Đại hội đã xác định mục tiêu của chặng


11

đường đầu là “thông qua đổi mới toàn diện, xã hội đạt tới trạng thái ổn định
vững chắc, tạo thế phát triển nhanh ở chặng sau.” (Đảng cộng sản Việt

Nam cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã
hội, Nxbst, H, 1991.tr.11 ). việc xác định chặng đường đầu của thời kỳ quá
độ lên chủ nghĩa xã hội đã đưa nước ta thoát khỏi cuộc khủng hoảng kinh tế
- xã hội, mới tạo được tiền đề để chúng ta bước vào chặng đường tiếp theo.
Như vậy, quá độ lên chủ nghĩa xã hội bỏ qua chế độ tư bản phải trải
qua một thời kỳ quá độ là một tất yếu khách quan, việc xác định độ dài của
thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội Đảng ta xác định: là thời kỳ lâu dài và
phải trải qua nhiều chặng đường, bởi vì điểm xuất phát của ta thấp, tiến lên
chủ nghĩa xã hội từ một nền sản xuất nhỏ, bỏ qua giai đoạn phát triển tư bản
chủ nghĩa, đương nhiên phải lâu dài và hết sức khó khăn, đó là thời kỳ cải
biến cách mạng sâu sắc, toàn diện, triệt để nhằm xây dựng từ đầu một chế
độ xã hội mới cả lực lượng sản xuất, quan hệ sản xuất và kiến trúc thượng
tầng, đó là thời kỳ đấu tranh giai cấp gay go, quyết liệt và phức tạp, đấu
tranh giữa hai con đường xã hội chủ nghĩa và tư bản chủ nghĩa trên tất cả
các lĩnh vực của đời sống xã hội nhằm giải quyết vấn đề ai thắng ai giữa
chủ nghĩa tư bản và chủ nghĩa xã hội. Việc xác định đúng bước đi chặng
đường đầu của thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội đã đưa nước ta vượt ra
khỏi khủng hoảng kinh tế - xã hội, tạo điều kiện để chúng ta bước vào
chặng đường tiếp theo. Như vậy phải mất 10 năm (1986 - 1996), Việt Nam
mới ra khỏi khủng hoảng kinh tế - xã hội, mới tạo được tiền đề để bước vào
thời kỳ công nghiệp hóa, hiện đại hóa. Và hiện nay xã hội đã bước vào thời
kỳ phát triển mới: đó là đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa nhằm
chuyển nước ta từ một nước nông nghiệp thành một nước công nghiệp
trong một, hai thập kỷ tới, Đại hội hội IX đã đề ra chiến lược phát triển kinh


12

tế - xã hội 10 năm 2001 - 2010 là: “Đưa nước ta ra khỏi tình trạng kém phát
triển, nâng cao rõ rệt đời sống vật chất và tinh thần của nhân dân, tạo nền

tảng để đến năm 2020 nước ta cơ bản là một nước công nghiệp theo hướng
hiện đại” (Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ IX, Nxb CTQG, H.
2001. tr. 24) .Trên cơ sở phân tích một cách khoa học, với một thái độ
nghiêm túc Đại hội lần thứ IX của Đảng một lần nữa khẳng định: cương
lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội do Đại hội
VII đề ra là ngọn cờ chiến đấu vì sự nghiệp xây dựng đất nước Việt Nam
từng bước quá độ lên chủ nghĩa xã hội, định hướng cho mọi hoạt động của
Đảng hiện nay và trong những thập kỷ tới. Đại hội IX nhấn mạnh: “Con
đường đi lên của nước ta là sự phát triển quá độ lên chủ nghĩa xã hội bỏ qua
chế độ tư bản chủ nghĩa, tức là bỏ qua việc xác lập vị trí thống trị của quan
hệ sản xuất và kiến trúc thượng tầng tư bản chủ nghĩa, nhưng tiếp thu, kế
thừa những thành tựu mà nhân loại đã đạt được dưới chế độ tư bản chủ
nghĩa, đặc biệt về khoa học và công nghệ, để phát triển nhanh lực lượng sản
xuất, xây dựng nền kinh tế hiện đại” (Sđd, tr. 21).
Tuy nhiên, cũng phải thấy rằng, thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội
về tốc độ, bước đi và những hình thức tổ chức kinh tế, xã hội có tính chất
quá độ còn đặt ra nhiều vấn đề lý luận và thực tiễn. đúng như Văn kiện Hội
nghị lần thứ năm Ban chấp hành Trung ương khóa IX đánh giá: nhận thức
về con đường đi lên chủ nghĩa xã hội mới dừng lại ở những nét khái quát
chung, còn không ít những vấn đề cụ thể đạt ra từ thực tiễn chưa có lời giải
đáp hoặc giải đáp chưa đủ sức thuyết phục.
Trong giai đoạn hiện nay một vấn đề đặt ra đối với nước ta là làm thế
nào để đón kịp thời cơ và vượt qua được những thách thức nghiệt ngã trong
phát triển mà thời cuộc và thế giới đang đặt ra trong bối cảnh toàn cầu hóa,


13

xã hội thông tin và kinh tế tri thức. Đại hội đảng toàn Quốc lần thứ X xác
định: Tranh thủ cơ hội thuận lợi do bối cảnh quốc tế tạo ra và tiềm năng, lợi

thế của nước ta để rút ngắn quá trình công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất
nwowcs theo định hướng xã hội chủ nghĩa gắn với phát triển kinh tế tri
thức, coi trọng kinh tế tri thức là yếu tố quan trọng của nền kinh tế và công
nghiệp hoá, hiệnđại hoá.
Nằm trong loại hình “phát triển rút ngắn” và quá độ gián tiếp (không
qua chế độ tư bản chủ nghĩa), đang ở trong trạng thái vừa có vừa chưa có
đầy đủ chủ nghĩa xã hội. Hay nói một cách khác, chủ nghĩa xã hội còn đang
trong quá trình sinh thành, chưa đạt tới trình độ phát triển trên chính bản
thân nó. Những nhiệm vụ lịch sử của thời kỳ quá độ được đặt ra và giải
quyết không phải theo quan điểm và truyền thống như trước đây, mà phải
trên tinh thần cải cách và đổi mới. Khắc phục những nhận thức giáo điều,
chủ quan, duy ý chí trước đây về chủ nghĩa xã hội trước hết là khắc phục
những hạn chế, sai lầm trong quan niệm về thời kỳ quá độ. Đảng ta xác
định thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội ở nước ta là một quá trình lâu dài,
trải qua nhiều chặng đường, xác định như vậy là sự kế thừa những nguyên
tắc cơ bản của chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh vận dụng vào
điều kiện cụ thể cách mạng nước ta, đồng thời là sự phát triển sáng tạo chủ
nghĩa Mác - Lênin. Xác định như vậy, là sự đánh giá lại mình để đề ra
những mục tiêu, phương hướng và những giải phù hợp để thúc đẩy tiến
trình cách mạng của nước ta đi lên.



×