Tải bản đầy đủ (.doc) (25 trang)

TIỂU LUẬN PHÁT HUY VAI TRÒ của đội NGŨ TRÍ THỨC TRONG nền KINH tế THỊ TRƯỜNG ĐỊNH HƯỚNG xã hội CHỦ NGHĨA ở nước TA HIỆN NAY

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (186.02 KB, 25 trang )

PHÁT HUY VAI TRÒ CỦA ĐỘI NGŨ TRÍ THỨC TRONG
NỀN KINH TẾ THỊ TRƯỜNG ĐỊNH HƯỚNG XÃ CHỦ
NGHĨA Ở NƯỚC TA TRONG GIAI ĐOẠN HIỆN NAY.
Sự phát triển mạnh mẽ của cuộc cách mạng khoa học và công
nghệ hiện đại, nhân loại đã đưa nền sản xuất hàng hóa đạt tới trình
độ kinh tế trí thức - thời đại kinh tế trí thức. Cho đến nay, sự phát
triển của kinh tế trí thức được đánh giá cao về mặt tăng trưởng kinh
tế với nhịp độ nhanh và tóc độ cao. Sự phát triển mạnh mẽ của khoa
học - công nghệ và sự ra đời của nền kinh tế tri thức đã làm biến đổi
sâu sắc mọi mặt đời sống cả về kinh tế, chính trị, xã hội, văn hóa.
Trước sự phát triển đó, nghiên cứu làm sáng tỏ sự tác động của nó
theo cả chiều thuận và nghịch để đề ra đường lối, chủ trương phát
triển xã hội của Đảng cộng sản Việt Nam nói riêng và các Đảng
cộng sản trên thế giới nói chung là một tất yếu khách quan.
Trong sự nghiệp đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa
nhằm thực hiện mục tiêu dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng,
dân chủ, văn minh hiện nay, con người và nguồn nhân lực luôn là
nhân tố quan trọng hàng đầu, quyết định sự phát triển nhanh, hiệu
quả và bền vững của đất nước. Nước ta xây dựng nền kinh tế thị
trường định hướng xã hội chủ nghĩa, từng bước tiếp cận nền kinh tế
tri thức là một trong những mục tiêu có ý nghĩa chiến lược. Để xây
dựng và phát triển nền kinh tế trí thức, giữ vững định hướng xã hội
chủ nghĩa đặt ra cho Đảng ta cần phải nghiên cứu và phát huy vai trò


2

của đội ngũ trí thức, đặc biệt là quá trình công nghiệp hóa, hiện đại
hóa đất nước trong thời đại bùng nổ thông tin hiện nay.
Vai trò của trí thức đối với sự phát triển của xã hội được thể
hiện vào thời đại của C.Mác, ông nghiên cứu và xây dựng được học


thuyết của mình khi mà chủ nghĩa tư bản đang trong quá trình hoàn
thiện và phát triển. Thời đại mà giai cấp tư sản đã nắm lấy nền đại
công nghiệp thúc đẩy xã hội phát triển một cách nhanh chóng. Nền
đại công nghiệp đã tạo ra cho “giai cấp tư sản, trong quá trình thống
trị giai cấp chưa đầy thế kỷ, đã tạo ra những lực lượng sản xuất
nhiều hơn và đồ sộ hơn lực lượng sản xuất của tất cả cấc thế hệ
trước kia cộng lại”1 và cũng chính trong quá trình thống trị giai cấp
của giai cấp tư sản: “cùng với sự phát triển của đại công nghiệp,
chính cái nền tảng trên đó giai cấp tư sản đã sản xuất và chiếm hữu
sản phẩm của nó, đã bị sập dưới chân giai cấp tư sản. Trước hết, giai
cấp tư sản đã sản sinh ra những người đào huyệt chôn chính nó. Sự
sụp đổ của giai cấp tư sản và thắng lợi của giai cấp vô sản đều là tất
yếu như nhau”2. Như vậy, trong xã hội tư bản, với sự phát triển của
nền đại công nghiệp: “Tất cả các giai cấp khác đều suy tàn và tiêu
vong cùng với sự phát triển của đại công nghiệp, còn giai cấp vô vản
lại là sản phẩm của bản thân nền đại công nghiệp” 3. Việc chỉ ra và
khẳng định sứ mệnh lịch sử thế giới của giai cấp công nhân hiện đại
trong xã hội mới, xã hội chủ nghĩa, cộng sản chủ nghĩa là có cơ sở
C.Mác - Ph.Ăngghen, toàn tập, Nxb CTQG, H.1995, tr.608.
Sđd, tr.613.
3 Sđd, tr.610.
1
2


3

tất yếu khách quan của nền sản xuất xã hội. Song, nền đại công
nghiệp không chỉ dừng lại ở chủ nghĩa tư bản, mà nó được tiếp tục
phát triển cùng với sự phát triển của tri thức nhân loại.

Nghiên cứu xã hội loài người, C.Mác đã đi từ sản xuất vật chất
và khẳng định lao động là hoạt động có ý thức của con người nhằm
tạo ra những giá trị sử dụng nhằm đáp ứng yêu cầu của con người.
Trước kia, khi công cụ lao động của con người còn giản đơn, thô sơ
thì kỹ năng điều khiển nó phụ thuộc vào sự rèn luyện của người
công nhân. Chủ nghĩa tư bản phát triển, khi máy móc đã thay thế
vào chỗ công nhân, hoạt động của công nhân do sự vận hành của
máy móc quyết định, khi mà đại công nghiệp phát triển cùng với sự
tiến bộ của khoa học, C.Mác đã dự báo hệ thống máy móc tự động
sẽ ra đời. Đó chính là hình thái hoàn chỉnh nhất, thích hợp nhất của
hệ thống máy móc tự động, “gồm nhiều cơ quan cơ khí và cơ quan
trí tuệ, cho nên bản thân công nhân chỉ được xác định là những
thành viên có ý thức của nó mà thôi”1. Toàn bộ quá trình sản xuất
trong phương thức sản xuất có nền đại công nghiệp hiện đại “biểu
hiện ra không phải như là một quá trình phụ thuộc vào tài nghệ trực
tiếp của người công nhân, mà với tư cách là sự ứng dụng khoa học
trong lĩnh vực công nghệ”2. “Nếu xét về mặt lượng, lao động trực
tiếp được quy vào một phần nhỏ hơn, thì về mặt chất nó được
chuyển hóa thành một yếu tố nào đó, tuy cần thiết, nhưng là thứ yếu,
1
2

Sđd, tập 46, phần II, tr. 151-152.
Sđd, tập 46, phần II, tr. 358.


4

…đối với lao động khoa học phổ biến, đối với sự áp dụng khoa học
tự nhiên vào công nghệ”3.

Như vậy, theo dự báo của C.Mác và thực tiễn ngày nay đang
diễn ra, sự phát triển của cách mạng công nghiệp, cách mạng khoa
học - kỹ thuật và ngày nay cách mạng khoa học - công nghệ hiện
đại, thì năng lực trí tuệ của người lao động không ngừng được nâng
cao, phần giá trị do lao động trí tuệ của họ tạo ra trong quá trình sản
xuất và được kết tinh trong sản phẩm ngày càng tăng. Từ chỗ chiếm
tỷ trọng không đáng kể thời kỳ tiền cách mạng công nghiệp và tăng
dần trong nền đại công nghiệp, ngày nay các nước phát triển một số
loại sản phẩm có hàm lượng trí tuệ cao, hàm lượng giá trị do trí tuệ
tạo ra được kết tinh trong sản phẩm rất cao; nguyên vật liệu và lao
động cơ bắp giảm xuống rất thấp. Việc thay thế máy móc tự động
trong sản xuất, vai trò của lao động sống không hề suy giảm, lao
động sống vẫn có giá trị quyết định. Máy móc dù có hiện đại đến
mấy cũng do con người làm ra và vận hành, cải tiến nó. Mặt khác,
sự phát triển của máy móc, thiết bị là do trình độ trí tuệ kết tinh
trong đó, quyết định hiệu quả của lao động sống, quy định xu hướng
vận động của lao động sống. Như C.Mác đã khẳng định: “Thiên
nhiên không chế tạo ra máy móc, đầu máy xe lửa, đường sắt, điện
báo, máy sợi, con dọc di động…Tất cả những cái đó đều là sản
phẩm lao động của con người…Tất cả những cái đó đều là những cơ
quan của bộ óc con người do bàn tay con người tạo ra, đều là sức
3

Sđd, tập 46, phần II, tr. 359.


5

mạnh đã vật hóa của tri thức. Sự phát triển của tư bản cố định là chỉ
số cho thấy tri thức xã hội phổ biến đã chuyển hóa đến mức độ nào

thành lực lượng sản xuất trực tiếp, do đó nó cũng là chỉ số cho thấy
những điều kiện của chính quá trình sống của xã hội đã phục tùng
đến mức độ nào sự kiểm soát của trí tuệ phổ biến và đã được cải tạo
đến mức độ nào cho phù hợp với quá trình ấy. Những lực lượng sản
xuất xã hội đã được tạo ra đến mức độ nào không những dưới hình
thức, mà cả như là những cơ quan thực hành xã hội trực tiếp, những
cơ quan trực tiếp của quá trình sống hiện thực”1
Trong nền đại công nghiệp, hệ thống máy móc phát triển cùng
với sự tính lũy những tri thức xã hội và sản xuất, mối quan hệ giữa
khoa học - công nghệ - sản xuất ngày càng trở nên chặt chẽ. Tri
thức, khoa học trở thành lực lượng sản xuất trực tiếp. Do vậy, “theo
đà phát triển của đại công nghiệp, việc tạo ra của cải thực sự trở nên
ít phụ thuộc vào thời gian lao động và số lượng lao động đã chi phí
hơn là vào sức mạnh của những tác nhân được khởi động trong thời
gian lao động, và bản thân những tác nhân ấy, đến lượt chúng (hiệu
quả to lớn của chúng) tuyệt đối không tương ứng với thời gian lao
động trực tiếp và cần thiết để sản xuất ra chúng, mà đúng ra chúng
phụ thuộc vào trình độ chung của khoa học và vào sự tiến bộ của kỹ
thuật, hay phụ thuộc vào việc ứng dụng khoa học ấy vào sản xuất” 1.
Chính vì vậy: “Thay vì tác nhân chủ yếu của quá trình sản xuất,
1
1

Sđd, H.2000, tr. 372-373.
Sđd, H. 2000, tr. 368 - 369.


6

người công nhân lại đứng bên cạnh quá trình ấy” 2. Tri thức đã trở

thành nhân tố sản xuất quan trọng hàng đầu, quyết định lợi thế so
sánh, khoa học và công nghệ đóng vai trò trung tâm trong tăng
trưởng kinh tế, lao động giản đơn ngày càng bị đẩy ra khỏi quá trình
sản xuất.
Đúng như dự báo thiên tài của C.Mác cách đây hơn một thế
kỷ, cuộc cách mạng khoa học và công nghệ hiện đại đã diễn ra từ
nửa sau thế kỷ XX với đặc trưng nổi bật là khoa học trở thành lực
lượng sản xuất trực tiếp, đã mở ra cho loài người biết bao điều kỳ
diệu. Trong thế kỷ XXI, khoa học và công nghệ sẽ còn tiếp tục có
những bước phát triển mà ngày hôm nay ngay cả những dự báo táo
bạo nhất cũng chưa thể lường hết được. Cuộc cách mạng đó đã và
đang đi vào tất cả các lĩnh vực của đời sống xã hội, trước hết nó tạo
nên một bước nhảy vọt trong lực lượng sản xuất của loài người.
Chưa bao giờ tốc độ tăng trưởng kinh tế và khả năng chinh phục tự
nhiên của nhân loại lớn như hiện nay. Với quá trình khoa học ngày
càng trở thành lực lượng sản xuất trực tiếp, người ta đang nói đến
một nền kinh tế mới, kinh tế tri thức đang xuất hiện ở một số nước
tư bản phát triển nhất về mặt sản xuất. Việc ứng dụng khoa học và
công nghệ vào sản xuất sẽ được ứng dụng nhanh chóng, năng xuất
lao động xã hội tăng nhanh. Máy móc tự động là sự vật thể hóa của
tri thức, biểu hiện sự tích lũy sức sản xuất, sự chuyển hóa tri thức
thành lực lượng sản xuất trực tiếp. Và “cơ chế chủ yếu của sản xuất
2

Sđd, H. 2000, tr. 370.


7

và của cải không phải là lao động trực tiếp do chính con người thực

hiện và không phải là thời gian trong đó anh ta lao động, mà là sự
chiếm hữu sức sản xuất phổ biến của chính con người, là nhận thức
của con người về giới tự nhiên và sự thống trị giới tự nhiên do sự tồn
tại của con người với tư cách là một cơ thể mang tính xã hội” 1. Như
vậy, theo C.Mác trình độ chinh phục giớ tự nhiên của con người
đánh giá sự phát triển của xã hội loài người trong từng giai đoạn lịch
sử. Trước hết là những tư tưởng khoa học và sau nữa, cần và đủ là
con người trong hoạt động thực tiễn. Trong tác phẩm “gia đình thần
thánh” C.Mác viết: “tư tưởng căn bản không thể thực hiện được cái
gì hết. Muốn thực hiện tư tưởng thì cần có những con người sử dụng
lực lượng thực tiễn”2. Theo C.Mác tự bản thân khoa học không thể
tạo ra bất kỳ tác động nào, mà phải thông qua sự vận dụng và hoạt
động thực tiễn của con người thì mới phát sinh tác dụng. Trong lời
nói đầu “Góp phần phê phán triết học pháp quyền của Hê ghen”
C.Mác viết: “vũ khí của sự phê phán cố nhiên không thể thay thế
được sự phê phán của vũ khí, lực lượng vật chất chỉ có thể đánh đổ
bằng lực lượng vật chất, một khi nó thâm nhập vào quần chúng” 3. Ở
đây C.Mác đã giải trình rõ ràng rằng lý luận khoa khoa học phải
thông qua hoạt động của con người thì mới trở thành lực lượng vật
chất. Khoa học là sản phẩm của tư duy, nếu không qua hoạt động
của người lao động (công nhân, nông dân, đội ngũ trí thức…), mà
Sđd, tr. 370.
Sđd, tập 2, tr. 181.
3 Đã dẫn, tập 1, tr. 580.
1
2


8


chỉ bản thân nó thôi, thì khoa học không thể là cái gì cả, không thể
sinh ra tác động tiêu cực hay tích cực đối với xã hội. Để vận dụng
khoa học vào sản xuất trực tiếp thì cần phải có phát minh, sáng tạo,
phải có sự phát triển của hệ thống máy móc. Làm được điều đó,
không chỉ giới hạn ở nhóm đối tượng xã hội nào. Tuy nhiên, vẫn tập
trung ở nhóm xã hội đặc biệt - Đó là trí thức - Một thành tố trong cơ
cấu xã hội - giai cấp, là người “bạn đồng hành” của người lao động
trong tất cả các chế độ xã hội. Dưới chủ nghĩa tư bản, cùng với sự
phát triển của khoa học - kỹ thuật, “sự phát triển của hệ thống máy
móc trên con đường ấy chỉ bắt đầu khi nền đại công nghiệp đã đạt
đến một trình độ phát triển cao hơn và tất cả các bộ môn khoa học
đều được đưa vào phục vụ tư bản, còn bản thân hệ thống máy móc
hiện có thì có những nguồn lực lớn. Như vậy, phát minh trở thành
một nghề đặc biệt, và đối với nghề đó thì việc vận dụng khoa học
vào sản xuất trực tiếp tự nó trở thành một trong những yếu tố có tính
chất quyết định và kích thích”1. Nền đại công ngiệp tư bản, với tự do
cạnh tranh đã thúc đẩy ứng dụng thành tựu khoa học vào sản xuất;
sự sáng tạo, đổi mới thường xuyên là động lực chủ yếu thúc đẩy sản
xuất phát triển. Vai trò của đội ngũ trí thức từng bước được đề cao
trong quy trình sản xuất. Trí thức được coi là những người có học
vấn cao, là lực lượng nắm bắt được những quy luật vận động và phát
triển của xã hội, có sự hiểu biết sâu sắc một hay nhiều tri thức nhân
loại đã tạo ra. Trí thức, họ vừa là người nghiên cứu tri thức mà nhân
1

C.Mác - Ăngghen, Đã dẫn, tập 46, tr. 367.


9


loại đã tạo ra, đồng thời vừa là người sáng tạo và áp dụng tri thức
vào thực tiễn đời sống xã hội. Hoạt động của tri thức có mặt trên tất
cả các lĩnh vực của đời sống xã hội. Như vậy, theo nhận định và
đánh giá của C.Mác, Ph.Ăngghen đã khẳng định: “Đối với Mác,
khoa học là một động lực lịch sử, một lực lượng cách mạng”2, và
người nghiên cứu, sáng tạo, phổ biến, áp dụng những tri thức nhân
loại vào thực tiễn để thức đẩy sự phát triển của xã hội giữ một vai
trò hết sức quan trọng, “phát minh trở thành một nghề đặc biệt”.
Như vậy, cùng với sự phát triển của khoa học và công nghệ,
lao động trí óc sẽ chiếm vị chí chủ đạo trong quá trình sản xuất.
Người lao động hiện nay sẽ dần dần được trí thức hóa và sẽ trở
thành chủ thể của xã hội. Vai trò của trí thức trong sự phát triển kinh
tế - xã hội ngày càng chiếm một vị thế cao hơn, tức là không chỉ
nhấn mạnh vào kỹ năng kỹ thuật mà còn nhấn mạnh vào việc giáo
dục một tri thức toàn diện nhằm bồi dưỡng và tạo ra sức sáng tạo
mới của người lao động. Căn cứ vào nguyên lý của lao động phức
tạp và bội số của lao động giản đơn, thì giá trị của kinh tế tri thức
được tạo nền bởi lao động sáng tạo có tri thức, chứ không phải là lao
động phức tạp. Xét trên ý nghĩa đó thì giá trị lao động của kinh tế tri
thức cũng là giá trị tri thức. Vì thế, phải nhanh chóng đào tạo đội
ngũ lao động có tri thức, để thực hiện đầy đủ những yêu cầu của nền
kinh tế tri thức, từng bước đưa xã hội đến văn minh, hiện đại.

2

C.Mác - Ăngghen, Đã dẫn, tập 19, tr. 500


10


Thắng lợi lịch sử mùa xuân năm 1975, cả nước thống nhất
bước vào thời kỳ quá độ xây dựng chủ nghĩa xã hội trên phạm vi cả
nước. Bên cạnh những thuận lợi như tài nguyên đất nước, vị trí địa
lý, Đảng Cộng sản Việt Nam vững vàng, dày dạn kinh nghiệm, quần
chúng đông đảo, đoàn kết một lòng theo Đảng, có nguyện vọng thiết
tha xây dựng chủ nghĩa xã hội …, chúng ta cũng còn gặp không ít
khó khăn phức tạp mới. Nền kinh tế nông nghiệp lạc hậu, nhỏ lẻ,
phân tán, cơ sở kỹ thuật cho nền sản xuất lớn còn yếu và thiếu, đồng
thời bị tàn phá nặng nề sau chiến tranh; đất nước bị bao vây cấm vận
của chủ nghĩa đế quốc, cách mạng sang giai đoạn mới nhiều vấn đề
đặt ra chưa có lời giải đáp…Đã có lúc chúng ta khủng hoảng trầm
trọng cả kinh tế và xã hội, trước bối cảnh đó đổi mới nhận thức, đổi
mới tư duy đặt ra như là một vấn đề cấp bách. Đại hội VI của Đảng
(1986) là một cột mốc lịch sử quan trọng trong sự nghiệp cách mạng
xã hội chủ nghĩa của nhân dân ta. Trên cơ sở nhìn thẳng vào sự thật,
đánh giá đúng thực tiễn đất nước và những yếu kém trong lãnh đạo
xây dựng chủ nghĩa xã hội của Đảng, Cương lĩnh xây dựng đất nước
trong thời kỳ quá độ lện chủ nghĩa xã hội đã khẳng định: “Đảng đã
phạm sai lầm chủ quan duy ý chí, vi phạm quy luật khách quan:
nóng vội trong cải tạo xã hội chủ nghĩa, xóa bỏ ngay nền kinh tế
nhiều thành phần; có lúc đẩy mạnh quá mức việc xây dựng công
nghiệp nặng, duy trì quá lâu cơ chế quản lý kinh tế tập trung quan
liêu bao cấp; có nhiều chủ trương sai trong việc cải cách giá cả, tiền


11

tệ, tiền lương”.1. Thực tiễn qua hơn 4 năm đổi mới, tuy còn nhiều
khó khăn, nhưng đã có những chuyển biến tích cực tạo thế đi lên, đã
khẳng định con đường đi lên của ta là đúng. Những định hướng lớn

về chính sách kinh tế, xã hội được cương lĩnh của Đảng xác định:
“Khoa học và cộng nghệ giữ vai trò then chốt trong sự phát triển lực
lượng sản xuất và nâng cao trình độ quản lý, bảo đảm chất lượng và
tốc độ phát triển của nền kinh tế. Các chiến lược khoa học và công
nghệ nhằm mục tiêu công nghiệp hóa theo hướng hiện đại, vươn lên
trình độ tiên tiến của thế giới”2. Những định hướng lớn trong cương
lĩnh là cơ sở cho các kỳ đại hội của Đảng đề ra chủ trương , giải
pháp cụ thể cho từng giai đoạn của cách mạng. Đại hội VIII, đã
khẳng định: “Nước ta đã ra khỏi cuộc khủng hoảng kinh tế - xã hội
nghiêm trọng và kéo dài hơn 15 năm, tuy còn một số mặt chưa vững
chắc, song đã tạo được tiền đề cần thiết để chuyển sang thời kỳ phát
triển mới: đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước” 3. Như
vậy, đường lối công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước được Đảng ta
xác định trên cơ sở hiện thực của tiền đề vật chất, khoa học - kỹ
thuật trong từng giai đoạn cụ thể. Đến đại hội IX của Đảng “Đại hội
trí tuệ, dân chủ, đoàn kết, đổi mới” diễn ra trong bối cảnh trong nước
và thế giới có nhiều biến đổi. Với việc thực hiện chiến lược ổn định
và phát triển kinh tế - xã hội 1991 - 2000, thế và lực của đất nước đã
lớn mạnh. Hoàn cảnh quốc tế đã có nhiều thuận lợi cho đất nước
1 2
2
3

Cương lĩnh xây dựng đất nước TKQĐ lên CNXH, Nxb Sự thật, H.1991, tr. 4, 13.

ĐCSVN, văn kiện ĐHĐB toàn quốc lần thứ VIII, Nxb CTQG, H. 1996, tr. 12.


12


phát triển nhanh chóng cách mạng khoa học và công nghệ hiện đại,
sự xuất hiện và phát triển của kinh tế tri thức, quá trình toàn cầu hóa
kinh tế, xu thế hợp tác khu vực và quốc tế gia tăng. Đường lối kinh
tế được Đại hội IX xác định là: “Đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện
đại hóa, xây dựng nền kinh tế độc lập tự chủ, đưa đất nước ta trở
thành một nước công nghiệp”4 Đường lối kinh tế đó là sự phản ánh
tập trung sự đổi mới tư duy kinh tế của Đảng ta trong công cuộc đổi
mới. Đó là sự thể hiện trung thành và vận dụng sáng tạo chủ nghĩa
Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, tiếp thu có chọn lọc tri thức của
nhân loại trong quá trình phát triển, nhất là thành tựu khoa học và
công nghệ hiện đại, kinh tế tri thức và lĩnh vực quản lý kinh tế - xã
hội. Đại hội đã xác định mục tiêu đến năm 2020 đưa nước ta trở
thành nước công nghiệp theo hướng hiện đại. Mục tiêu này đã được
Đại hội VIII xác định, Đại hội IX tiếp tục khẳng định và coi đó là cái
đích quan trọng mà toàn Đảng, toàn dân và toàn quân ta phải phấn
đấu. Như vậy, theo quan điểm Mác xít, tiêu chí của một nước công
nghiệp không chỉ đơn thuần xét về mặt trình độ trang bị kỹ thuật,
công nghệ, phát triển công nghiệp, nhất là quan niệm công nghiệp
nặng trước đây; mà phải xét nhiều yếu tố, trong đó yếu tố kỹ thuật,
công nghệ vẫn được coi là yếu tố quan trọng hàng đầu.
Ngày nay, trong sự bùng nổ cách mạng khoa học và công
nghệ, để đất nước ta đạt đến trình độ lực lượng sản xuất hiện đại;
phần lớn lao động thủ công được thay thế bằng sử dụng máy móc;
4

ĐCSVN, văn kiện ĐHĐB toàn quốc lần thứ IX, Nxb CTQG, H. 2001, tr. 89.


13


các công nghệ tiên tiến được áp dụng phổ biến; đại bộ phận lao động
đã qua đào tạo, nghiên cứu và ứng dụng của khoa học vào sản xuất
cao; công nghiệp và dịch vụ chiếm tỷ trọng lớn trong GDP và lao
động xã hội… cần phải rút ngắn thời gian thực hiện công nghiệp
hóa, hiện đại hóa. Đây cũng là lý do để Đảng ta xác định công
nghiệp hóa đất nước phải gắn liền với hiện đại hóa, nó vừa là bước
tuần tự bước đi của công nghiệp hóa theo tính quy luật chung, vừa
nhảy vọt đi tắt, đón đầu để hoàn thiện công nghiệp hóa, hiện đại hóa
để đất nước thực sự trở thành nước công nghiệp. Trong điều kiện
cuộc cách mạng khoa học và công nghệ phát triển mạnh mẽ, quá
trình toàn cầu hóa đang diễn ra như một xu thế khách quan; sự phát
triển của kinh tế tri thức… Con đường công nghiệp hóa, được thực
hiện bằng sự phát triển rút ngắn thời gian nhưng không bỏ qua các
vấn đề có tính quy luật chung là một tất yếu khách quan đặt ra cho
cách mạng Việt Nam trong giai đoạn hiện nay.
Trên cơ sở nhận thức đúng đắn và đầy đủ hơn về chủ nghĩa xã
hội và con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở nước ta. Đại hội VI của
Đảng Cộng sản Việt Nam đã đề ra đường lối đổi mới toàn diện đất
nước, thực hiện có hiệu quả công cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội.
Đại hội đã đưa ra quan niệm mới về con đường, phương pháp xây
dựng chủ nghĩa xã hội, đặc biệt là quan niệm về công nghiệp hóa
thời kỳ quá độ; về cơ cấu kinh tế, thừa nhận sự tồn tại khách quan
của sản xuất hàng hóa, vận động theo cơ chế thị trường của sự quản
lý của nhà nước xã hội chủ nghĩa; xóa bỏ cơ chế tập trung quan liêu


14

bao cấp, chuyển sang hoạch toán kinh tế kinh doanh. Đại hội chủ
trương phát triển nền kinh tế nhiều thành phần với nhiều hình thức

kinh doanh. Trải qua các kỳ Đại hội tiếp theo, Đảng ta tiếp tục
khẳng định và làm rõ hơn về kinh tế thị trường, đến đại hội IX chính
thức đưa ra khái niệm: “Kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ
nghĩa”. Khẳng định đây là đường lối chiến lược nhất quán, là mô
hình kinh tế tổng quát trong suốt thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã
hội. Xây dựng nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa,
từng bước tiếp cận kinh tế tri thức là mục tiêu chiến lược của cách
mạng Việt Nam. Điều đó xuất phát từ sự bùng nổ khoa học, công
nghệ và thông tin trong thời đại ngày nay, bởi đó là nền kinh tế dựa
vào và hấp thụ tri thức, đó là mối quan hệ giữa tri thức với phát triển
kinh tế. “Kinh tế tri thức là một thời đại kinh tế, hay một giai đoạn
kinh tế của lịch sử phát triển kinh tế nhân loại; là kinh tế dựa trên
khoa học và công nghệ cao, tiêu hao ít nguyên liệu, năng lượng, tạo
ra ít phế thải, hay còn gọi là kinh tế sạch, phát triển bền vững” 1. Như
vậy, trong nền kinh tế tri thức, mối tương quan giữa các yếu tố cấu
thành tư liệu sản xuất có sự thay đổi lớn, các nền kinh tế trước đối
tượng lao động là những bộ phận của tự nhiên; trong nền kinh tế tri
thức, đối tượng lao động ngày càng là sản phẩm của lao động, của
khoa học và công nghệ mà nguyên vật liệu tự nhiên ngày càng giảm.
Do vậy, đó là nền kinh tế tiết kiệm tài nguyên, không hoặc ít phụ
thuộc vào tự nhiên, mà phụ thuộc chủ yếu vào tài nguyên con người
1

Tạp chí Cộng sản, số 31 tháng 11/2003, tr. 26.


15

với năng lực trí tuệ cao. Vì vậy, trong nền kinh tế tri thức đòi hỏi lực
lượng lao động có trình độ học vấn cao, được đào tạo cơ bản và đội

ngũ trí thức giữ một vai trò hết sức quan trọng trong nghiên cứu,
sáng tạo và ứng dụng khoa học, công nghệ vào sản xuất.
Trong nền kinh tế thị trường ở nước ta hiện nay, do phát triển
kinh tế, xã hội của đất nước trong tình hình mới, vai trò của trí thức
càng được đặt ra quan trọng hơn bao giờ hết. Trí thức luôn là thành
tố quan trọng trong khối liên minh giai cấp dưới sự lãnh đạo của
Đảng, là lực lượng xung kích trong sự phát triển kinh tế - xã hội văn hóa trong nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở
nước ta hiện nay. “Không có tri thức, không thể xây dựng chủ nghĩa
xã hội được và đó là quan điểm nhất quán trước sau như một của
Đảng”2
Vai trò của đội ngũ trí thức trong nền kinh tế thị trường định
hướng xã hội chủ nghĩa được biểu hiện cụ thể trên một số mặt sau.
Một là; Đội ngũ trí thức là lực lượng nòng cốt trong nghiên
cứu lý luận, vận dụng sáng tạo những quy luật vận động các lĩnh
vực kinh tế - chính trị - xã hội … vào sự phát triển chung của đất
nước.
Kinh tế thị trường, cũng như kinh tế tri thức là sản phẩm của
sự phát triển tri thức nhân loại, nó ra đời gắn liền với sự phát triển
của lực lượng sản xuất xã hội. Kinh tế thị vận động theo những quy
luật khách quan vốn có, đồng thời chịu sự tác động của những chủ
2

Trí thức Việt Nam trong sự nghiệp đổi mới đất nước, Nxb CTQG, H. 1995, tr. 13.


16

trương, chính sách của chủ thể thực hiện. Hay nói cách khác, sự vận
động của nền kinh tế thị trường vừa chịu tác động của “Bàn tay vô
hình”, vừa chịu tác động của “Bàn tay hữu hình”, do đó, nó đòi hỏi

phải có trình độ nhất định, với những năng động, sáng tạo mới có
thể vận hành nó theo đúng mục tiêu đã xác định. Trước xu thế khách
quan, Đảng ta thực hiện nền kinh tế thị trường định hướng xã hội
chủ nghĩa vì mục tiêu dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân
chủ, văn minh, đòi hỏi phải có lực lượng trí thức mạnh, trung thành
với đường lối lãnh đạo của Đảng. Do vậy, vai trò của đội ngũ trí
thức vô cùng quan trọng, họ phải thực sự là những người tham mưu
cho Đảng, nắm bắt những quy luật của kinh tế thị trường, vận dụng
sáng tạo những quy luật đó vào thực tiễn. Mặt khác, tham mưu cho
Đảng, Nhà nước đề ra chủ trương, chính sách và giải pháp phù hợp,
bảo đảm vừa phát huy tính năng động của thị trường để phát triển
kinh tế - xã hội, vừa hạn chế được những tác động tiêu cực của mặt
trái kinh tế thi trường, giữ vững định hướng xã hội chủ nghĩa. Tổng
kết quá trình lãnh đạo cách mạng, Đảng ta khẳng định: “Đường lối
lãnh đạo đúng đắn của Đảng là nhân tố quyết định mọi thắng lợi của
cách mạng Việt Nam”, như vậy, đường lối đúng đắn đó, có sự đóng
góp lớn lao của đội ngũ trí thức nước ta.
Hai là; Đội ngũ trí thức xung kích trong nghiên cứu khoa học,
công nghệ, ứng dụng thành tựu khoa học, công nghệ vào sản xuất,
thúc đẩy lực lượng sản xuất phát triển.


17

Kinh tế thị trường, kinh tế tri thức vẫn là kinh tế hàng hóa, là
sản xuất hàng hóa, vẫn tuân theo quy luật giá trị, nhưng tri thức đã
trở thành nền tảng, cốt lõi quyết định sự phát triển của nó. Cạnh
tranh kinh tế sẽ trở nên gay gắt và quyết định hơn, bởi đó là cạnh
tranh về ưu thế trí tuệ trong kinh tế, nhờ nó mà cuộc đua tranh về
năng suất, chất lượng, hiệu quả, biểu hiện ra sản phẩm, giá thành, lợi

nhuận, sức tiêu thụ, mức tăng trưởng, năng lực chiếm lĩnh và làm
chủ thị trường. Do vậy, trong nền kinh tế thị trường, kinh tế tri thức
đòi hỏi phải có sự tích cực, năng động trong nghiên cứu, ứng dụng,
phát minh, sáng chế khoa học, công nghệ vào quá trình sản xuất,
tăng năng suất lao động xã hội. Bất kỳ đơn vị kinh tế nào, lĩnh vực
gì đều phải thực hiện tốt chu trình này, nếu không sẽ gặp khó khăn,
thậm chí phá sản. Để đáp ứng yêu cầu đó đòi hỏi phải có sự nỗ lực
của đội ngũ trí thức, sự giao lưu hợp tác chặt chẽ giữa nhà khoa học
và nhà sản xuất, do vậy, trong nền kinh tế thị trường, kinh tế tri thức
thì vai trò của đội ngũ trí thức càng được đề cao, coi trọng.
Ba là; Đội ngũ trí thức tham gia quản lý xã hội trên mọi lĩnh
vực, đấu tranh ngăn chặn, khắc phục mặt trái của kinh tế thị trường,
toàn cầu hóa kinh tế, quốc tế hóa đời sống xã hội.
Trước kia, người sản xuất và người quản lý là một, song cùng
với sự phát triển của lực lượng sản xuất, sự tách rời giữa người sản
xuất và người quản lý ngày một gia tăng, thậm chí có lúc đối lập gay
gắt. Và ngày nay, sự phát triển cao của lực lượng sản xuất, ở trình độ
cao của trí tuệ trong quá trình sản xuất, đã và đang diễn ra xu thế


18

xích lại gần nhau giữa người sản xuất và người quản lý. Trong nền
kinh tế thị trường, kinh tế tri thức, người sản xuất và người quản lý
xích lại, thậm chí hội tụ trong một cá thể, trong đó, mặt quản lý ngày
càng chiếm ưu thế hơn mặt lao động trong việc tạo ra sản phẩm.
Như vậy, trong nền kinh tế thị trường, kinh tế tri thức trình độ dân trí
toàn xã hội nói chung, công nhân có trình độ học vấn cao, có trí thức
thì việc quản lý mọi mặt xã hội, quản lý quá trình sản xuất trình độ
cao, đòi hỏi chủ thể quản lý phải có trình độ và luôn nâng cao trình

độ hiểu biết về mọi mặt. Do vậy, đòi hỏi đội ngũ trí thức phải tham
gia vào quản lý xã hội, quản lý quá trình sản xuất. Cùng với những
thuận lợi, những mặt tích cực, thì nền kinh tế thị trường, toàn cầu
hóa kinh tế, quốc tế hóa đời sống xã hội cũng đã và đang đặt ra
những nguy cơ và thách thức lớn cần phải nhanh chóng khắc phục,
nhất là lĩnh vực chính trị, tư tưởng. Thực trạng đó đòi hỏi chủ thể
quản lý xã hội phải có năng lực và khoa học trong công tác quản lý,
sớm phát hiện cái mới, nhân tố tích cực và hạn chế, khắc phục
những yếu tố tiêu cực nảy sinh. Thực hiện được điều này đòi hỏi
phải có một khoa học quản lý hiện đại, có đội ngũ chuyên nghiên
cứu trên lĩnh vực này và cần có đội ngũ trí thức thực sự có phẩm
chất, năng lực tham gia quản lý xã hội, quản lý nền kinh tế.
Bốn là; Đội ngũ trí thức giữ vai trò dự báo xu hướng phát
triển trên mọi lĩnh vực của đời sống xã hội.
Trên cơ sở nghiên cứu và phát triển khoa học, công nghệ, cũng
như tham gia quản lý xã hội, đội ngũ trí thức nắm được thực trạng


19

của đất nước trên các lĩnh vực đời sống xã hội. Cùng với việc nắm
chắc các quy luật phát triển của xã hội nói chung, quy luật kinh tế
nói riêng, đội nghũ trí thức có khả năng dự báo được xu thế vận
động và phát triển trên mọi lĩnh vực. Đây là cơ cở khoa học giúp cho
Đảng ta xây dựng chủ trương, chính sách, hoạch định cho tương lai
phát triển của đất nước.
Năm là: Đội nhũ trí thức góp phần vào việc tuyên truyền
đường lối, quan điểm của Đảng cho toàn xã hội; củng cố và phát
huy những truyền thống văn hóa dân tộc; tích cực đấu tranh trên
lĩnh vực chính trị, tư tưởng làm thất bại mọi âm mưu thủ đoạn

chống phá của kẻ thù.
Như vậy, trí thức là một lực lượng xã hội, là một thành tố trong
cơ cấu giai cấp - xã hội có vai trò không thể thiếu được trong mọi
chế độ xã hội. Trong nền kinh tế thị trường, kinh tế tri thức ở nước
ta hiện nay, đặc biệt là sự bùng nổ của cách mạng khoa học, công
nghệ, trí thức ngày càng có vai trò quan trọng hơn, là một thành tố
trong khối liên minh trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội ở
nước ta. Nhận thức rõ vai trò của đội ngũ trí thức, Đảng ta khẳng
định: “Tầng lớp trí thức nói chung hăng hái tham gia cách mạng và
là một trong những động lực đáng kể của cách mạng họ là đồng
minh tin cậy của giai cấp công nhân”1.
Đánh giá đúng về vai trò của đội ngũ trí thức, Đảng ta đã có
nhiều đường lối đúng đắn tạo mọi điều kiện cho đội ngũ trí thức phát
1

ĐCSVN, văn kiện Đại hội Dảng, toàn tập Nxb CTQG, H. 2000, tập 4, tr. 94.


20

huy khả năng, năng lực của mình vào sự nghiệp nghiên cứu và ứng
dụng khoa học, công nghệ, phát triển lực lượng xã hội, lực lượng trí
thức trẻ đã chú trọng đào tạo vươn lên ngang tầm quốc tế. Mối quan
hệ giữa trí thức với các giai cấp tầng lớp khác trong xã hội ngày
càng được củng cố xích lại gần nhau. Mô hình kết hợp giữa “Bốn
nhà” ngày càng được nhân rộng cả nước, đã và đang mang lại những
thành tựu đáng khích lệ trong sự phát triển kinh tế - xã hội của nước
ta hiện nay.
Tuy nhiên, sự phát triển của trí thức và cơ chế quản lý trí thức
ở nước ta hiện nay cũng còn nhiều bất cập, như: tỷ lệ trí thức trên số

lượng dân cư còn thấp, một bộ phận suy giảm về phẩm chất, đạo
đức, lối sống, quá đề cao lợi ích vật chất, chạy theo lợi ích kinh tế
thuần túy, ít quan tâm, tham gia các hoạt động chính trị xã hội. Trí
thức hoạt động trên các lĩnh vực khác nhau mất cân đối, thiếu các
chuyên gia đầu ngành giỏi; cơ chế quản lý và đãi ngộ còn chưa được
thỏa đáng; hiện tượng còn rỉ chất xám có xu hướng gia tăng, phát
hiện nhân tài trẻ thì có, nhưng đào tạo và sử dụng thì ít được quan
tâm; vấn đề giáo dục, đào tạo còn mất cân đối; tình trạng vi phạm
bản quyền trí tuệ còn chưa được khắc phục… Trước thực trạng đó
và do yêu cầu nhiệm vụ phát triển đất nước và việc củng cố phát
triển khối đại đoàn kết toàn dân, việc phát huy vai trò đội ngũ trí
thức ở nước ta không chỉ là nhiệm vụ thường xuyên mà còn là
nhiệm vụ cấp bách đặt ra trong giai đoạn hiện nay.


21

Để phát huy vai trò của đội nhũ trí thức trong khối liên minh
giai cấp ở nước ta hiện nay cần phải được tiến hành đồng bộ nhiều
chủ trương, giải pháp, trong đó cần tập trung một số giải pháp cơ
bản sau:
Thứ nhất; Đẩy mạnh sự nghiệp giáo dục, đào tạo, khoa học
và công nghệ phát triển nhanh số lượng và chất lượng đội ngũ trí
thức đáp ứng yêu cầu sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất
nước.
Với những thách thức to lớn của nền kinh tế tri thức và quá
trình toàn cầu hóa, vấn đề đào tạo, bồi dưỡng nhân tài đang trở nên
ngày càng cấp thiết, bởi đây chính là đầu tàu nguồn nhân lực, là hạt
nhân quan trọng để nhanh chóng thực hiện chiến lược tăng tốc phát
triển đất nước bằng cách đi tắt, đón đầu, đi nhanh vào các công nghệ

hiện đại, làm chủ tri thức mới. Để thực hiện được ý đồ chiến lược
phát triển đất nước trong thời kỳ công nghiệp hóa, hiện đại hóa là
vấn đề đang đặt ra. Trong những năm qua nhờ có những quan điểm
chính sách đúng đắn của Đảng, sự nghiệp giáo dục, đào tạo có
những phát triển đáng khích lệ trên quy mô cả nước. Nhiều hình
thức giáo dục đào tạo xuất hiện: tập trung, không tập trung; dài hạn
và ngắn hạn; trực tiếp và từ xa… Tuy nhiên, sự nghiệp giáo dục, đào
tạo cũng còn nhiều bất cập: quy hoạch và đào tạo còn dàn trải, thiếu
chuyên sâu, nội dung đào tạo thiếu đồng bộ; chưa có sự kết hợp lý
thuyết với thực hành; tiêu cực trong giáo dục và đào tạo còn nan
giải… Để đẩy mạnh sự nghiệp giáo dục, đào tạo khoa học và công


22

nghệ ở nước ta hiện nay cần đổi mới cả nội dung và phương thức
đào tạo; mở rộng quy mô và tăng cường trang thiết bị hiện đại; kết
hợp chặt chẽ giữa giáo dục toàn diện với chuyên sâu. Thực hiện
công bằng trong giáo dục đẩy lùi các tệ nạn tiêu cực, phát huy mọi
tiềm năng, nguồn lực trong nước, thực hiện xã hội hóa giáo dục và
đào tạo.
Thứ hai; Đổi mới giáo dục đào tạo, xã hội hóa công tác
nghiên cứu khoa học và công nghệ.
Xuất phát từ thực tiễn phát triển khoa học, công nghệ hiện nay,
do đó sản xuất công nghệ trở thành loại hình quan trọng hàng đầu,
phát minh trở thành nghề đặc biệt, nên giáo dục, đào tạo phải
khuyến khích tư duy sáng tạo, chứ không phải là nhồi nhét kiến
thức. Hơn nữa do tốc độ phát triển của khoa học, công nghệ mà giáo
dục, đào tạo phải được cập nhật bổ sung trong suốt cuộc đời, người
học cần được học tập ngay trong quá trình sản xuất. Đổi mới giáo

dục cần được tập trung vào một số nội dung: tăng cường lý thuyết
cho các lớp học nghề, tạo điều kiện cho những người đã tốt nghiệp
được đào tạo lại, các lớp học nghề học tiếp đại học, tăng cường thời
gian học thực hành, hoặc kết hợp giáo dục với sản xuất. Chỉ có tăng
cường đầu tư cho giáo dục, đào tạo, nghiên cứu khoa học, công
nghệ, chỉ có xã hội hóa việc nghiên cứu giáo dục, đào tạo thì mới thể
hiện được chủ trương của Đảng: “Đẩy mạnh đổi mới công nghệ
trong sản xuất, kinh doanh và các lĩnh vực hoạt động khác, thu hẹp
khoảng cách về trình độ công nghệ so với các nước tiên tiến trong


23

khu vực. Đi thẳng vào công nghệ hiện đại với các ngành mũi nhọn,
đồng thời lựa chọn các công nghệ thích hợp, không gây ô nhiễm và
khai thác được lợi thế lao động. Chú trọng nhập khẩu công nghệ
mới, hiện đại, thích nghi công nghệ nhập khẩu, cải tiến từng bộ
phận, tiến tới tạo ra những công nghệ đặc thù Việt Nam”1.
Thứ ba; Tiếp tục đổi mới cơ chế quản lý và sử dụng hiệu quả
đội ngũ tri thức trong xây dựng và bảo vệ Tổ quốc xã hội chủ nghĩa.
Cơ chế, chính sách của Đảng và Nhà nước trực tiếp tác động
vào nhu cầu, lợi ích cũng như động lực hoạt động của đội ngũ trí
thức. Để đổi mới cơ chế quản lý và sử dụng hiệu quả đội ngũ trí thức
ở nước ta hiện nay, đòi hỏi Đảng và Nhà nước cần tập trung giải
quyết, như: tăng cường công tác giáo dục và đào tạo đội ngũ cán bộ
lãnh đạo các cấp, bồi dưỡng năng lực quản lý xã hội của đội ngũ cán
bộ viên chức; nâng cao chất lượng xây dựng chính sách, pháp luật;
phát huy tiềm năng của các tổ chức, lực lượng xã hội, thu hút và
phát triển nhân tài. Đẩy mạnh hoạt động kiểm tra, thanh tra, kiên
quyết đẩy lùi các tệ nạn quan liêu, tham nhũng, tiêu cực ch. Điều

chỉnh chính sách tiền lương, có chế độ ưu đãi đối với những phát
minh, sáng chế, động viên khen thưởng kịp thời những người có
công phát triển và ứng dụng khoa học, công nghệ vào sản xuất.
Thứ tư; Đẩy mạnh hợp tác, giao lưu quốc tế, tạo điều kiện cho
trí thức tiếp cân những thành tựu khoa học, công nghệ hiện đại trên
thế giới.
1

ĐCSVN, văn kiện ĐHĐB toàn quốc lần thứ IX, Nxb CTQG, Hà Nội. 2001, tr. 206.


24

Hợp tác khoa học quốc tế là môi trường thuận lợi để đội ngũ trí
thức nâng cao nhận thức và khả năng tư duy cho các nhà khoa học.
Hợp tác khoa học được thể hiện bằng nhiều hình thức phong phú, đa
dạng, song phương, đa phương, hội thảo khoa học, gửi cán bộ đi đào
tạo nước ngoài; hợp tác nghiên cứu khoa học… Đại hội IX của Đảng
xác định: “Đẩy mạnh hợp tác quốc tế trong nghiên cứu khoa học và
công nghệ. Thực hiện tốt chính sách bảo hộ sở hữu trí tuệ, có chính
sách ưu đãi đặc biệt đối với nhà khoa học có công trình nghiên cứu
xuất sắc”1
Muốn xây dựng thành công nền kinh tế thị trường và nền kinh
tế tri thức phải phát triển khoa học, công nghệ, phát triển giáo dục và
đào tạo là quốc sách hàng đầu; coi công nghiệp hóa, hiện đại hóa là
nhiệm vụ trung tâm trong suốt thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội
để tạo ra lực lượng sản xuất mới. Thực hiện nhất quán chính sách
phát triển kinh tế nhiều thành phần là vấn đề có ý nghĩa chiến lược
lâu dài, để hoàn thiện quan hệ sản xuất mới, mở rộng quan hệ hợp
tác kinh tế đối ngoại, nhằm tranh thủ nguồn lực từ bên ngoài trong

xu thế hội nhập nền kinh tế quốc tế, tranh thủ thời cơ, vượt qua nguy
cơ… Tất cả những điều này đều lấy trí tuệ, tài năng và ý chí của con
người Việt Nam là nhân tố quyết định. Do đó việc phát huy vai trò
đội ngũ trí thức là chiến lược nhất quán lâu dài trong đường lối lãnh
đạo của Đảng ta, đồng thời nhằm xây dựng vững chắc khối liên

1

Đã dẫn, tr.113 - 114.


25

minh công - nông - trí, nền tảng của khối đại đoàn kết toàn dân trong
sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa.


×