Tải bản đầy đủ (.doc) (31 trang)

TIỂU LUẬN CHUYÊN NGÀNH sự PHÁT TRIỂN lý LUẬN CHỦ NGHĨA xã hội KHOA học về LIÊN MINH GIAI cấp và sự vận DỤNG của ĐẢNG TA HIỆN NAY

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (222.16 KB, 31 trang )

1
MỞ ĐẦU
Sự ra đời của tác phẩm “Tuyên ngôn của Đảng Cộng sản” vào tháng 2
năm 1848 đã đánh dấu sự ra đời của của nghĩa xã hội khoa học – hệ thống lý
luận khoa học soi đường chỉ lối cho giai cấp công nhân thực hiện sứ mệnh
lịch sử của mình là lật đổ chế độ tư bản, giải phóng giai cấp, giải phóng dân
tộc và giải phóng nhân loại. Sự hình thành và phát triển các nguyên lý cơ bản
của chủ nghĩa xã hội khoa học không phải ngay từ đầu đã hồn thiện, mà đó
là một q trình phát triển từ thấp đến cao, từ chưa hồn thiện đến hồn thiện.
Nó gắn chặt với phong trào cộng sản và công nhân quốc tế cùng với những
hoạt động khơng mệt mỏi của Mác, Ăngghen và Lênin.
Trong tồn bộ hệ thống lý luận chủ nghĩa xã hội khoa học đã đề cập một
cách đầy đủ, toàn diện đến các vấn đề của cách mạng xã hội chủ nghĩa như:
giai cấp lãnh đạo, lực lượng tiến hành, hình thức, biện pháp đấu tranh…để
thực hiện thắng lợi sứ mệnh lịch sử của giai cấp công nhân. Một trong những
vấn đề chiến lược, có ý nghĩa quyết định đến sự thành bại của cách mạng xã
hội chủ nghĩa đó là vấn đề liên minh giai cấp.
Lý luận về liên minh giai cấp là một nội dung quan trọng trong hệ thống
lý luận chủ nghĩa xã hội khoa học. Nó cho phép chúng ta nhận thức sâu sắc về
tính tất yếu khách quan, nội dung liên minh giai cấp, cùng các hình thức
phong phú đa dạng và những phương hướng giải quyết vấn đề liên minh giai
cấp trong tiến trình cách mạng xã hội chủ nghĩa.
Sự hình thành và phát triển lý luận về liên minh giai cấp trong cách
mạng xã hội chủ nghĩa là một quá trình gắn liền với thực tiễn phong trào cộng
sản và công nhân quốc tế, gắn với những đặc điểm của thời đại, với những
đặc thù của các dân tộc và là sự phát triển tất yếu của tư tưởng nhân loại.
Nghiên cứu quá trình hình thành và phát triển lý luận về liên minh giai
cấp là cơ sở để chúng ta khẳng định tính đúng đắn khoa học của lý luận chủ
nghĩa xã hội khoa học, khẳng định tính đúng đắn về chủ trương, chính sách



2
xây dựng khối liên minh giữa giai cấp công nhân, giai cấp nơng dân và đội
ngũ trí thức của Đảng ta.
Lý luận về liên minh giai cấp trong cách mạng xã hội chủ nghĩa và thực
tiễn xây dựng khối liên minh giai cấp ở nước ta là vũ khí lý luận và thực tiễn
sinh động để chúng ta chống lại những âm mưu, thủ đoạn của chủ nghĩa đế
quốc và các thế lực thù địch trong tiến trình xây dựng chủ nghĩa xã hội; đẩy
mạnh hơn nữa sự nghiệp đổi mới đất nước, đưa nước ta vững bước trên con
đường chủ nghĩa xã hội. Vì vậy, tác giả chọn “Sự phát triển lý luận chủ nghĩa
xã hội khoa học về liên minh giai cấp và sự vận dụng của Đảng ta” làm vấn
đề nghiên cứu trong quá trình học tập môn lịch sử tư tưởng xã hội chủ nghĩa.


3
NỘI DUNG
1. Sự phát triển lý luận chủ nghĩa xã hội khoa học về liên minh giai
cấp trong cách mạng vô sản
1.1. Quan điểm của C.Mác - Ph.Ăngghen về liên minh giai cấp trong
cách mạng vô sản
Trên cơ sở phân tích những mâu thuẫn trong lịng xã hội tư bản, Mác –
Ăngghen đã chỉ ra tính tất yếu diệt vong của chủ nghĩa tư bản, đồng thời các
ông cũng khẳng định: sự nghiệp lật đổ chế độ tư bản, xây dựng xã hội mới là
của giai cấp công nhân – giai cấp cách mạng nhất, tiên tiến nhất, triệt để
nhất…Tuy nhiên, để thực hiện được sứ mệnh lịch sử cao cả đó, giai cấp cơng
nhân phải tập hợp được lực lượng đơng đảo của tồn xã hội xung quanh mình,
tạo thành sức mạnh để có thể đập tan mọi sự phản kháng của kẻ thù. Muốn
vậy, giai cấp công nhân cần phải thực hiện liên minh giai cấp, mà trước hết là
với giai cấp nông dân, một lực lượng đông đảo trong xã hội.
Quá trình hình thành và phát triển lý luận về liên minh giai cấp trong
cách mạng vô sản của Mác - Ăngghen gắn liền với những đặc điểm lịch sử ở

nửa cuối thế kỷ XIX và là nhu cầu cấp thiết của phong trào cộng sản và công
nhân quốc tế. Do vậy, trong mỗi thời kỳ lịch sử, gắn với mỗi sự kiện trọng đại
của phong trào cộng sản và công nhân quốc tế, Mác - Ăngghen đã tổng kết
kinh nghiệm thực tiễn và khái quát thành lý luận để tiếp tục chỉ đạo hoạt động
của phong trào.
Sự hình thành và phát triển tư tưởng của Mác - Ăngghen về liên minh
giai cấp được thể hiện trong nhiều tác phẩm của các ông, kể cả những tác
phẩm viết chung và riêng, trong đó tiêu biểu là những tác phẩm: “Tuyên ngôn
của Đảng cộng sản” (1848); “Ngày mười tám tháng sương mù của
Luipônapáctơ”(1852); “Đấu tranh giai cấp ở Pháp” (1850); “Nội chiến ở
Pháp” (1871); “Vấn đề nông dân ở Pháp và Đức”(1894).


4
Trong mỗi tác phẩm, Mác – Ăngghen đều đề cập đến vấn đề liên minh
giai cấp ở những góc độ khác nhau, nội dung khác nhau và gắn với nhu cầu
của phong trào công nhân ở những giai đoạn khác nhau. Nó hợp thành một
tổng thể thống nhất về tư tưởng tập hợp lực lượng cách mạng phục vụ cho
cách mạng vô sản.
Ngay trong tác phẩm “Tuyên ngôn của Đảng Cộng sản”, mặc dù chưa
sử dụng đến thuật ngữ “liên minh giai cấp”, song những tư tưởng mầm mống
về liên minh giai cấp cơ bản đã được hình thành. Khi luận giải về sứ mệnh
lịch sử của giai cấp công nhân, Mác - Ăngghen cho rằng: giai cấp công nhân
muốn thực hiện thắng lợi sứ mệnh lịch sử của mình thì phải liên kết với các
lực lượng khác có chung kẻ thù để chống lại kẻ thù của mình. Cụ thể, trong
tác phẩm này Mác - Ăngghen đã chỉ rõ nhiệm vụ của giai cấp công nhân ở
mỗi nước Châu Âu phải liên hiệp với các lực lượng tiến bộ khác để chống giai
cấp tư sản trước hết ở nước mình như: ở Pháp, cơng nhân phải liên hiệp với
các lực lượng dân chủ xã hội; ở Thụy Sỹ, công nhân phải ủng hộ phái cấp
tiến; ở Ba Lan, công nhân phải ủng hộ nhóm đã làm cuộc khởi nghĩa của

Cracốp; ở Đức, do chưa hoàn thành cách mạng dân chủ tư sản cho nên công
nhân trước hết phải đi theo giai cấp tư sản để xoá bỏ chế độ phong kiến, sau
đó thực hiện cách mạng vơ sản chống lại giai cấp tư sản, tức là phải “đi theo
kẻ thù để chống lại kẻ thù của kẻ thù mình”.
Khi chủ nghĩa xã hội khoa học mới ra đời, những tư tưởng của Mác Ăngghen chưa kịp tuyên truyền sâu rộng vào phong trào công nhân, do những
mâu thuẫn vốn có trong lịng xã hội tư bản, phong trào đấu tranh của giai cấp
công nhân chống lại giai cấp tư sản đã nổ ra ở khắp nơi, trong đó đỉnh cao là
cách mạng ở Châu Âu 1848 – 1849 (chủ yếu là ở Pháp, Đức). Những cuộc
đấu tranh này bước đầu đã mang tính chính trị, được tổ chức khá chặt chẽ; đã
phần nào thức tỉnh được sứ mệnh lịch sử của giai cấp công nhân; đã xác định
đúng kẻ thù là giai cấp tư sản và bọn quan lại địa chủ lúc bấy giờ. Tuy nhiên,


5
các cuộc cách mạng ấy kết cục cũng bị giai cấp tư sản “dìm trong biển máu”.
Những thất bại của phong trào cơng nhân trong thời gian này có nhiều nguyên
nhân, mà một trong những nguyên nhân cơ bản là giai cấp công nhân chưa tập
hợp được lực lượng, nhất là chưa liên minh được với giai cấp nông dân.
Sau cuộc cách mạng 1848 - 1849 ở Châu Âu, Mác viết tác phẩm “ Đấu
tranh giai cấp ở Pháp” năm 1850 nhằm đánh giá lại phong trào công nhân,
những nguyên nhân dẫn đến thất bại của phong trào công nhân 1848 - 1849,
tổng kết thực tiễn, tiếp tục bổ sung lý luận.
Trong tác phẩm này, những tư tưởng về liên minh giữa giai cấp công
nhân với giai cấp nông dân và các tầng lớp nhân dân lao động khác đã được
hình thành khá sâu sắc. Theo Mác, giai cấp vơ sản sẽ không thể thực hiện
được sứ mệnh lịch sử của mình nếu khơng lơi kéo được một lực lượng đông
đảo trong xã hội là nông dân và tiểu tư sản về phía mình, để tạo thành lực
lượng cách mạng to lớn chống lại giai cấp tư sản. Nghiên cứu kỹ những thất
bại của công nhân Pháp trong cách mạng tháng Hai và cách mạng tháng Sáu
năm 1848, Mác đã chỉ rõ: “Công nhân Pháp không thể tiến lên được một

bước nào, và cũng không thể đụng đến một sợi tóc nào của giai cấp tư sản
trước khi đơng đảo nhân dân đứng giữa giai cấp tư sản và giai cấp vô sản,
tức là nông dân và tiểu tư sản nổi dậy chống chế độ tư sản” [1; 30]
Cùng với việc chỉ ra vai trò của khối liên minh giữa giai cấp công nhân
với giai cấp nông dân và các tầng lớp lao động khác trong cách mạng vô sản,
Mác - Ăngghen cịn phân tích làm rõ tính tất yếu khách quan của sự liên minh
đó. Trong các tác phẩm “Đấu tranh giai cấp ở Pháp”, “Ngày 18 tháng sương
mù của Luibônapactơ” , “Vấn đề nông dân ở Pháp và Đức”, Mác - Ăngghen
đã khẳng định: liên minh giữa giai cấp công nhân với giai cấp nông dân và
các tầng lớp lao động khác là một tất yếu khách quan, nó xuất phát từ nhu cầu
tập hợp lực lượng trong xã hội để chống lại sự liên kết bóc lột của giai cấp tư
sản, từ sứ mệnh lịch sử của giai cấp cơng nhân và từ nhu cầu giải phóng của


6
chính nơng dân và các tầng lớp lao động khác trong xã hội. Thực tế lịch sử đã
chứng minh: bất cứ một cuộc cách mạng xã hội nào trong lịch sử, giai cấp
lãnh đạo muốn lật đổ được sự thống trị của giai cấp cũ đã lỗi thời, lạc hậu,
phản động đều phải tập hợp được lực lượng xung quanh mình. Ngay bản thân
giai cấp tư sản, khi tiến hành cách mạng lật đổ chế độ chuyên chế phong kiến,
giai cấp tư sản cũng phải tập hợp được nông dân, thợ thủ công…để tạo thành
lực lượng áp đảo sự chống đối của quý tộc phong kiến.
Trong xã hội tư bản, Mác đã phân tích bản chất hiếu chiến, bóc lột của
giai cấp tư sản, thực chất các chính phủ tư sản ở Châu Âu (nhất là ở Pháp và
Đức) để chỉ ra rằng: bản thân giai cấp tư sản cũng đã liên kết với nhau để bóc
lột lao động trong xã hội, để chống lại nó một mình giai cấp cơng nhân thơi
thì khơng đủ lực lượng. Do vậy, giai cấp cơng nhân trong q trình đấu tranh
chống lại giai cấp tư sản phải chủ động liên minh với các giai tầng khác để
chống lại kẻ thù chung. Hơn nữa, trong xã hội tư bản, giai cấp nông dân và
các tầng lớp lao động khác cũng bị áp bức bóc lột hết sức nặng nề nên giai

cấp nông dân và các tầng lớp lao động khác muốn giải phóng được mình phải
liên minh với giai cấp cơng nhân. Mặt khác, sứ mệnh lịch sử thế giới của giai
cấp công nhân là giải phóng giai cấp, giải phóng xã hội và giải phóng con
người nên sự liên minh giữa giai cấp công nhân với giai cấp nông dân và các
tầng lớp lao động khác là hồn tồn có cơ sở khách quan.
Từ việc phân tích làm rõ địa vị kinh tế - xã hội của nơng dân, cũng như
bản chất chính trị, tâm lý, đặc điểm sinh hoạt, canh tác và lợi ích của họ mà
việc liên minh của giai cấp nông dân với giai cấp công nhân trở thành nhu cầu
tự nhiên của bản thân giai cấp nông dân, Mác khẳng định: Khi lợi ích của
nơng dân khơng cịn hồ hợp với lợi ích của giai cấp tư sản, chủ ngha t
bn...mà lại mâu thuẫn với giai cấp t sản, chđ nghÜa t b¶n. Vì thế, người nơng
dân thấy rằng giai cấp vơ sản thành thị, giai cấp có sứ mệnh lịch sử lật đổ tư
sản, là người bạn đồng minh, người lãnh đạo tự nhiên của mình.


7
Vai trị của nơng dân trong cách mạng được Mác - Ăngghen đánh giá
cao: cán cân lên hay xuống ra sao, đó là tuỳ vào lá phiếu của nơng dân. Đến
năm 1852, trong lần đầu xuất bản tác phẩm “Ngày 18 tháng sương mù của
Luibônapáctơ”, Mác nhấn mạnh: khi nông dân trở thành đồng minh của giai
cấp vơ sản thì cách mạng vô sản mới thực hiện được bài đồng ca, nếu khơng
thực hiện được bài động ca này, thì trong tất cả các nước nông dân, bài đơn
ca của giai cấp vô sản sẽ trở thành một bài ai điếu. Về cách mạng ở Đức,
Mác viết: tất cả vấn đề ở Đức sẽ tuỳ thuộc vào khả năng ủng hộ của chiến
tranh nông dân, chỉ trong trường hợp ấy thì mọi việc mới trơi chảy.
Khi luận bàn về nơng dân, Mác - Ăngghen cịn chỉ ra rằng: chỉ có đi
theo giai cấp vô sản và đặt dưới sự lãnh đạo của giai cấp vơ sản thì giai cấp
nơng dân mới thoát ra khỏi sự khốn cùng về kinh tế và thối hố về mặt xã
hội. Do vậy, việc nơng dân tự nguyện đi theo vô sản để chống lại tư sản, xoá
bỏ chủ nghĩa tư bản, thực hiện sứ mệnh lịch sử thế giới của giai cấp vô sản là

tất yếu khách quan. Mác khẳng định: Chỉ có sự sụp đổ của tư bản mới có thể
nâng được nơng dân lên, chỉ có một chính phủ chống chủ nghĩa tư bản, một
chính phủ vơ sản mới có thể giải thốt nơng dân khỏi tình trạng khốn cùng về
kinh tế và thoái hoá về mặt xã hội.
Như vậy, ngay sau khi ra đời, lý luận chủ nghĩa xã hội khoa học đã
phác họa được những vấn đề cơ bản về lý luận liên minh giai cấp giữa giai
cấp vô sản với giai cấp nông dân và các tầng lớp lao động khác; đã chỉ ra vai
trò to lớn cũng như tính tất yếu cả về kinh tế và chính trị của q trình liên
minh đó. Tuy nhiên, do điều kiện chun chính vơ sản chưa hiện hữu trên
thực tế, nên những tư tưởng của Mác - Ăngghen về liên minh giai cấp mới chỉ
dừng lại ở góc độ tập hợp lực lượng để lật đổ quyền thống trị của giai cấp tư
sản. Và lý luận về liên minh giai cấp cùng với các nguyên lý khác của chủ
nghĩa xã hội khoa học đã từng bước thâm nhập vào phong trào công nhân,


8
thức tỉnh sứ mệnh lịch sử của giai cấp công nhân quốc tế, tạo ra bước phát
triển mới trong phong trào cộng sản và công nhân quốc tế.
Đến những năm 70 của thế kỷ XIX, phong trào đấu tranh của công
nhân đã phát triển mạnh mẽ và họ đã đạt được những chiến tích mà trước đây
họ chưa thực hiện được. Lợi dụng mâu thuẫn trong chính phủ tư sản, đứng
trước vận mệnh sống cịn của dân tộc, cơng nhân Pari (Pháp) cùng với nhân
dân vũ trang đã đứng lên lật đổ chính phủ tư sản phản động lập nên Cơng xã
Pari - một hình thức chun chính vơ sản đầu tiên trên thế giới. Mặc dù chỉ
tồn tại trong một thời gian ngắn ngủi 72 ngày (18.03 đến 28.05.1871) song
Công xã Pari đã đi vào lịch sử như là một mốc son chói lọi trong trang sử hào
hùng của giai cấp cơng nhân Pháp nói riêng và giai cấp cơng nhân thế giới nói
chung. Thắng lợi của Cơng xã Pari chứng tỏ giai cấp công nhân Pháp đã giải
quyết thành công vấn đề giai cấp và vấn đề dân tộc. Nghĩa là, cùng một lúc
vừa đánh đuổi bọn xâm lược Phổ, vừa đập tan bộ máy cai trị của giai cấp tư

sản Pari, lập nên chính quyền của giai cấp công nhân. Công xã Pari đã chứng
tỏ sự lớn mạnh không ngừng của phong trào công nhân, đã minh chứng lý
luận chủ nghĩa xã hội khoa học trên thực tiễn và chứng tỏ một mơ hình xã hội
mới tốt đẹp mà loài người cần vươn tới.
Tuy nhiên, sự thất bại của Công xã Pari cũng để lại nhiều bài học kinh
nghiệm cho giai cấp cơng nhân trong q trình đấu tranh thực hiện sứ mệnh
lịch sử của mình. Sự thất bại của Cơng xã Pari có rất nhiều ngun nhân,
trong đó có ngun nhân là giai cấp cơng nhân chưa liên minh chặt chẽ với
giai cấp nông dân và các tầng lớp lao động khác. Tổng kết thực tiễn những bài
học kinh nghiệm từ Công xã Pari, Mác - Ăngghen tiếp tục bổ sung, phát triển
lý luận chủ nghĩa xã hội khoa học lên một tầm cao mới, trong đó có lý luận về
liên minh giai cấp trong cách mạng vô sản.
Những vấn đề lý luận về liên minh công nông được đề cập trong giai
đoạn này rất phong phú như: tư tưởng về liên minh với các đảng của giai cấp


9
công nhân; xác định cương lĩnh liên minh công nông; vấn đề mục đích của
liên minh cơng nơng cũng được đề cập rất cụ thể, đó là liên minh để đi đến
xoá bỏ sự khác biệt giữa hai giai cấp này dẫn đến xố bỏ giai cấp nói chung.
Một trong những vấn đề thuộc về đường lối, phương pháp là không được
dùng bạo lực với nông dân mà phải giáo dục, thuyết phục để họ tự nguyện ra
nhập vào hàng ngũ của những người vô sản. Những tư tưởng về liên minh
công nông được Mác - Ăngghen đề cập đến trong nhiều tác phẩm ở giai đoạn
này, nhưng tập trung nhất là 3 tác phẩm: “Nội chiến ở Pháp” (1871), “Phê
phán cương lĩnh Gôta” (1875) và “Vấn đề nông dân ở Pháp và Đức” (1894).
Trong tác phẩm “Nội chiến ở Pháp”, Mác - Ăngghen cho rằng: vấn đề
liên minh giữa giai cấp công nhân với giai cấp nông dân và các tầng lớp nhân
dân lao động khác không chỉ là một tất yếu để tạo lực lượng to lớn trong
giành chính quyền mà cịn là vấn đề đặc biệt quan trọng trong giữ chính

quyền, bảo vệ những thành quả của cách mạng vô sản. Tư tưởng này đã được
được rút ra từ thực tiễn Công xã Pari. Trong khi giành chính quyền và xây
dựng xã hội mới, cơng nhân Pari đã mải mê, say sưa với chiến thắng mà quên
đi nhiệm vụ xây dựng khối liên minh công nông vững chắc, khi bọn Chie từ
Vécxây quay lại đàn áp Công xã thì cơng nhân Pari hầu như “chỉ có một
mình” chống chọi lại với lực lượng quân đội hùng mạnh của chính phủ tư sản.
Khi họ vừa nhận ra sự đơn độc của mình và vội vàng ra lời hiệu triệu nông
dân và công nhân ở các thành phố khác bảo vệ Cơng xã thì sự thể đã rồi.
Trên một số việc làm (mặc dù đã là quá muộn) đã tỏ rõ ra là nắm được
tầm quan trọng của vấn đề nông dân, nông thôn và dựa vào Cương lĩnh của
mình trên những vấn đề đó, như Mác đã nói: “Cơng xã có đầy đủ lý do để nói
với nơng dân rằng, thắng lợi của Công xã là hy vọng duy nhất của các anh”
[2; 457]. Tuy nhiên, Công xã đã khơng làm được điều đó, càng khơng thể làm
được khi quân Phổ và bọn phản động ở Véc xây đã kéo về xiết chặt vịng vây
đối với Cơng xã.


10
Cũng trong tác phẩm “Nội chiến ở Pháp”, Mác - Ăngghen đã chỉ ra
rằng: việc xây dựng khối liên minh giữa giai cấp công nhân với giai cấp nông
dân và các tầng lớp lao động khác là một tất yếu khách quan, nhưng phải
được đặt dưới sự lãnh đạo của các chính đảng vơ sản. Đó là điều kiện tiên
quyết nhất để giải phóng khơng chỉ giai cấp cơng nhân, giai cấp nơng dân mà
cịn là mục tiêu giải phóng tồn xã hội, giải phóng con người. Để xây dựng
được khối liên minh vững chắc thì chính quyền vơ sản phải có chính sách ưu
đãi cụ thể với nơng dân, dần đưa họ từ sản xuất nhỏ, manh mún lên sản xuất
lớn; các chính sách với nơng dân phải được tiến hành từng bước, linh hoạt,
mềm dẻo phải trên cơ sở giáo dục, tuyên truyền thuyết phục là chủ yếu, phải
để người nông dân “tự suy nghĩ trên luống cày của họ”.
Trong tác phẩm “Vấn đề nông dân ở Pháp và ở Đức”, Ăngghen chỉ ra

rằng: những người xã hội chủ nghĩa ở Châu Âu trong những năm 80 và nhất
là trong những năm 90 của thế kỷ XIX, cần phải thu hút các tầng lớp nhân
dân lao động về phía mình, trước hết là nơng dân thì sự nghiệp của Đảng mới
giành được thắng lợi.
Đối với nông dân dưới chủ nghĩa tư bản, theo Ăngghen, không thể coi
họ là một khối thống nhất mà có những tầng lớp nơng dân khác nhau và mỗi
tầng lớp ấy đều có những tư tưởng, đặc điểm khác nhau và họ không ngừng bị
phân hoá. Do vậy, các đảng xã hội chủ nghĩa cần phải có những sách lược cụ
thể đối với từng đối tượng nông dân, để thu hút họ đứng về phía giai cấp cơng
nhân trong cuộc đấu tranh chống lại giai cấp tư sản. Ăngghen chỉ rõ: đối với
tầng lớp đại nơng, họ chỉ có thể trở thành đồng minh của những người xã hội
chủ nghĩa trong phạm vi nhất định chừng nào họ đấu tranh chống chế độ
chiếm hữu ruộng đất phong kiến. Cịn đối với tiểu nơng và trung nơng khơng
bóc lột lao động làm th, trong xã hội tư bản, chừng mực nào đó họ cũng bị
bóc lột và không tránh khỏi bị diệt vong. Do vậy, nhiệm vụ của các đảng vô


11
sản là phải tìm mọi biện pháp để thu hút bộ phận này về phía giai cấp cơng
nhân, trong đó đặc biệt chú ý tầng lớp tiểu nông.
Cần phải tuyên truyền cho tầng lớp tiểu nông hiểu rằng: những hành
động của họ chống lại mọi sự độc đoán và cướp đoạt của giai cấp tư sản cũng
không thể cải thiện một cách căn bản hoàn cảnh của họ khi mà còn tồn tại
phương thức sản xuất tư bản chủ nghĩa. Sự tuyệt vọng của họ trong nghèo đói
và đè nén chỉ có thể bị xố bỏ khi xố bỏ chế độ tư bản chủ nghĩa. Mặt khác,
cũng chỉ cho những người tiểu nông thấy rằng chế độ sở hữu của họ cùng với
lối làm ăn manh mún, nhỏ lẻ, lỗi thi ca h...sẽ bị nền sản xuất lớn t bản chủ
nghĩa đè bẹp giống nh đoàn tàu hoả đè bẹp chiÕc xe cót kÝt.
Về con đường cải tạo nơng dân trong tiến trình cải tạo và xây dựng chủ
nghĩa xã hội, Ăngghen cũng đã chỉ rõ: cần phải tổ chức những người nông

dân vào làm ăn trong hợp tác xã, đương nhiên ruộng đất là tư liệu sản xuất
chủ yếu của họ cũng phải chuyển thành tài sản của hợp tác xã. Đây là một quá
trình phức tạp, tuyệt đối không được dùng cưỡng bức mà phải bằng giáo dục,
bằng nêu gương và sự giúp đỡ của xã hội để những người nông dân tự giác
vào hợp tác xã.
Trong tác phẩm này, Ăngghen cũng chỉ rõ mục đích của việc lôi cuốn,
cải tạo nông dân là để đem lại lợi ích cho họ, cải tạo họ thành những người
lao động mới. Đương nhiên, đối với các tầng lớp nông dân khác nhau, cách
làm cũng phải khác nhau cho phù hợp với đối tượng ấy.
Do quan niệm rằng trí thức khơng phải là một giai cấp nên Mác Ăngghen không sử dụng thuật ngữ “liên minh giữa công nhân với nông dân
và trí thức”, mà chỉ sử dụng các thuật ngữ “liên minh giữa giai cấp công
nhân với giai cấp nông dân và các tầng lớp lao động khác”. Tuy nhiên, chúng
ta nên hiểu rằng trong các “tầng lớp lao động khác” đã bao hàm cả trí thức
cách mạng. Trên thực tế, Mác - Ăngghen rất coi trọng trí thức, cho đây là lực
lượng đại diện cho trí tuệ của thời đại, đại diện cho sự phát triển của văn minh


12
và là lực lượng rất nhạy cảm về chính trị. Mác - Ăngghen cho rằng: trong quá
trình lãnh đạo cách mạng, giai cấp vô sản phải biết tranh thủ lôi kéo trí thức
về phía mình, ít nhất cũng khơng được đẩy họ về phía kẻ thù; các ơng cịn cho
rằng nếu khơng có trí thức thì cách mạng vơ sản khó có thể thành cơng được.
Tóm lại, những tư tưởng của Mác - Ăngghen về liên minh giai cấp đã
được đề cập đến rất sớm và khá sâu sắc, đặc biệt là tư tưởng về liên minh giai
cấp trong đấu tranh giành chính quyền. Các ơng đã đề cập đến tính tất yếu của
liên minh giai cấp trong cách mạng vơ sản, vai trị của liên minh giai cấp, nội
dung của liên minh giai cấp, cơ sở của liên minh giai cấp, mục tiêu của liên
minh giai cấp...Những tư tưởng này là cơ sở, tiền đề cho các nhà mác xít chân
chính sau này kế thừa và phát triển trong điều kiện mới.
1.2. Lênin và các Đảng Cộng sản bảo vệ, phát triển lý luận chủ nghĩa

xã hội khoa học về liên minh giai cấp trong cách mạng vô sản
Những năm cuối thế kỷ XIX đầu thế kỷ XX, chủ nghĩa tư bản đã phát
triển thành chủ nghĩa đế quốc, giai cấp tư sản đã bộc lộ rõ tính chất phản động
của nó. Bên cạnh những mâu thuẫn vốn có trong lòng xã hội tư bản, chủ nghĩa
đế quốc còn tạo ra những mâu thuẫn mới như: mâu thuẫn giữa chủ nghĩa đế
quốc với các nước thuộc địa, chủ nghĩa đế quốc với chủ nghĩa đế quốc, mâu
thuẫn giữa các tp on t bn vi nhau...làm cho những mâu thuẫn này ngày
cÃng gay gắt hơn. Trong khi ú, trung tõm cách mạng đã chuyển từ Đức sang
Nga; phong trào cộng sản và cơng nhân quốc tế có những bước phát triển
mới, một loạt các đảng xã hội - dân chủ ở các nước ra đời; chủ nghĩa Mác đã
từng bước thâm nhập sâu rộng vào phong trào công nhân. Tuy nhiên, trong
phong trào cộng sản và công nhân quốc tế đã xuất hiện chủ nghĩa cơ hội - xét
lại, nhất là sau khi Ăngghen mất, quốc tế II đã bị chủ nghĩa cơ hội - xét lại
lũng đoạn. Bọn cơ hội - xét lại nhân danh những người mác xít tuyên truyền
lý luận chủ nghĩa Mác nhưng thực chất lại xuyên tạc, bóp méo những nguyên


13
lý chủ nghĩa Mác làm cho phong trào cộng sản và công nhân quốc tế dao
động về mặt tư tưởng và nguy cơ chệch hướng đấu tranh.
Trước tình hình đó, Lênin và những người cộng sản chân chính đã đấu
tranh không khoan nhượng với những phần tử cơ hội xét lại, bảo vệ và phát
triển lý luận của chủ nghĩa xã hội khoa học lên một tầm cao mới, phù hợp với
đặc điểm mới của lịch sử, trong đó có lý luận về liên minh cơng nơng.
Với trí tuệ thiên tài của mình, cùng với hoạt động lý luận và thực tiễn
không biết mệt mỏi, Lênin đã trung thành với những nguyên lý cơ bản của
chủ nghĩa Mác, đấu tranh bảo vệ nó; mặt khác đã bổ sung và phát triển những
nguyên lý ấy đáp ứng được với yêu cầu của thực tiễn của phong trào cộng sản
và công nhân quốc tế. Những tư tưởng của Lênin về liên minh giai cấp được
Lênin đề cập đến một loạt các tác phẩm như: “Chủ nghĩa xã hội và vấn đề

nông dân” (1905), “Sơ thảo đề cương về vấn đề ruộng đất”, “Nhà nước và
cách mạng” (1917), “Cách mạng vô sản và tên phản bội Cauxky” (1918),
“Những nhiệm vụ trước mắt của chính quyền Xơ viết”, “Chính sách kinh tế
mới” (1921), “Sáng kiến vĩ đại” (1920)...
Trong những tác phẩm trên, Lênin không chỉ phê phán, đấu tranh không
khoan nhượng với những tư tưởng cơ hội xét lại trong phong trào cộng sản và
cơng nhân quốc tế mà cịn trung thành bảo vệ những nguyên lý của chủ nghĩa
Mác, trong đó có lý luận về liên minh giai cấp như: tính tất yếu của liên minh
giai cấp trong cách mạng vô sản; phát triển lý luận của Mác - Ăngghen về liên
minh giai cấp trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội; làm rõ những nội
dung, mục tiêu của liên minh cũng như việc đề ra một số giải pháp để củng cố
khối liên minh giữa công nhân với nông dân và đội ngũ cán bộ khoa học kỹ
thuật trong tiến trình xây dựng chủ nghĩa xã hội hiện thực.
Trước đây Mác - Ăngghen mới chỉ nêu lên tính tất yếu khách quan và
những cơ sở tất yếu của khối liên minh giữa giai cấp công nhân với giai cấp
nông dân trong cách mạng nói chung. Trong giai đoạn cách mạng mới, khi


14
vấn đề cách mạng vơ sản đã chín muồi, Lênin đã làm rõ hơn từng giai đoạn của
quá trình liên minh (cả trước và sau khi giai cấp vô sản giành chính quyền).
Phát triển tư tưởng của Mác - Ăngghen, Lênin cho rằng: Trước khi giai
cấp vô sản giành được chính quyền thì cả giai cấp vơ sản và giai cấp nông dân
đều bị giai cấp tư sản áp bức bóc lột đến cùng cực; muốn thốt khỏi tình cảnh
ấy buộc họ phải liên minh lại với nhau để chống lại kẻ thù chung. Sau khi đã
giành được chính quyền, thiết lập được chun chính vơ sản thì vấn đề liên
minh với giai cấp nơng dân là “vấn đề có tính ngun tắc” trong mọi hoạt
động của giai cấp vơ sản, để cải tạo xã hội cũ, xây dựng xã hội mới, thực hiện
thành công sứ mệnh lịch sử thế giới của giai cấp công nhân. Do vậy, liên
minh giữa giai cấp công nhân với giai cấp nông dân là “ngun tắc tối cao

của chun chính vơ sản”, là nền tảng của nền dân chủ vô sản, là nhân tố cơ
bản đảm bảo cho thắng lợi của sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội. Lênin
viết: “nguyên tắc cao nhất của chun chính là duy trì khối liên minh giữa
giai cấp vô sản và nông dân để giai cấp vô sản có thể giữ được vai trị lãnh
đạo và chính quyền nhà nước” [3; 57] và Lênin nói tiếp “nếu khơng có sự liên
minh ấy thì khơng có dân chủ vững bền, khơng có cải tạo xã hội chủ nghĩa
được” [4; 58] .
Sau khi cách mạng tháng Mười Nga thành công, thực tiễn xây dựng
chủ nghĩa xã hội ở Nga đã đặt ra cho Lênin những yêu cầu mới, những nhiệm
vụ cụ thể, trong đó vấn đề phát triển nền kinh tế xã hội chủ nghĩa là then chốt,
nhiệm vụ này khơng những địi hỏi phải có nguồn nhân lực dồi dào, có nhiệt
huyết cách mạng mà cịn địi hỏi một hàm lượng trí thức rất lớn. Do đó, Lênin
đã sớm nhận ra vai trò to lớn của đội ngũ các nhà khoa học kỹ thuật trong quá
trình xây dựng chủ nghĩa xã hội. Lênin đánh giá rất cao vai trò của giới khoa
học, cho rằng họ là lực lượng đi tiên phong trong việc nghiên cứu lý luận
khoa học, những người có khả năng đưa khoa học kỹ thuật vào trong quá trình
sản xuất vật chất và là những người có khả năng đẩy lùi được đói nghèo, bệnh


15
tật và các tệ nạn xã hội. Cho nên phải thiết lập cho được mối liên hệ bền vững
giữa giai cấp công nhân và các nhà khoa học, hướng họ vào thực hiện sứ
mệnh lịch sử của giai cấp công nhân, nếu làm được việc đó theo Lênin cách
mạng xã hội chủ nghĩa sẽ vượt qua mọi cản trở của xã hội. Lênin viết: “Sự
hợp tác như thế của giai cấp vô sản với nông dân và giới khoa học, mới có thể
thủ tiêu được mọi nghèo đói, bệnh tật và bảo thủ, và việc đó đã được thực
nghiệm. Trước sự liên minh của các đại biểu khoa học, giai cấp vơ sản và giới
kỹ thuật thì khơng một thế lực đen tối nào có thể đứng vững được”. [5; 218]
Như vậy, thông qua những hoạt động thực tiễn lãnh đạo cách mạng
Nga trong công cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội hiện thực, Lênin đã đề cập

đến khá rõ đến tư tưởng về liên minh giữa giai cấp công nhân với giai cấp
nơng dân và trí thức; một sự phát triển khá đặc sắc của Lênin so với quan
điểm của Mác - Ăngghen. Sự phát triển đó là địi hỏi khách quan của thời đại
mới đặt ra. Trong thực tiễn cách mạng Nga những năm 20 của thế kỷ XX,
Lênin còn mạnh dạn sử dụng cả những chuyên gia tư sản vào quá trình phát
triển kinh tế, Lênin “sẵn sàng đổi một tá những người cộng sản mà dương
dương tự đắc lấy một chuyên giai tư sản”, sẵn sàng trả lương rất cao cho các
chuyên gia tư sản để tận dụng họ vào trong quá trình phát triển đất nước.
Một cống hiến rất lớn của Lênin vào lý luận chủ nghĩa xã hội khoa học
về liên minh giai cấp, đó là đã làm rõ nội dung của q trình liên minh. Theo
Lênin, quá trình liên minh giữa giai cấp cơng nhân với giai cấp nơng dân phải
tịan diện trên cả ba nội dung cơ bản: kinh tế, chính trị và quân sự.
Liên minh trong lĩnh vực kinh tế là q trình hợp tác giữa cơng nhân
với nơng dân và các đại biểu khoa học, giới kỹ thuật để phát triển sản xuất,
mang lại lợi ích cho cả cơng nhân, nông dân và các tầng lớp lao động khác
trong xã hội. Theo Lênin, đây vừa là vấn đề trọng tâm đảm bảo cho khối liên
minh vững bền, vừa là con đường để thực hiện mục tiêu của chủ nghĩa xã hội.
Trong q trình đó, khối liên minh một mặt xây dựng những cơ sở kinh tế đặc


16
trưng của chủ nghĩa xã hội mang lại lợi ích cho nhân dân lao động, mặt khác
phải dần dần xoá bỏ từng bước giai cấp tư sản và địa chủ - mầm mống gây ra
áp bức bất công trong xã hội.
Liên minh trong lĩnh vực chính trị là sự liên minh giữa giai cấp công
nhân với giai cấp nông dân và các tầng lớp lao động xã hội khác đấu tranh
thiết lập cho được chun chính vơ sản, sau đó sử dụng chính quyền chun
chính vơ sản thực hiện sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội. Trong quá trình
liên minh, giai cấp cơng nhân phải ln giữ vai trị lãnh đạo thơng qua chính
đảng của mình. Lênin khẳng định: do vai trị kinh tế của nó trong sản xuất

lớn, nên giai cấp vô sản là giai cấp duy nhất có thể lãnh đạo tất cả quần chúng
nhân dân lao động.
Liên minh trên lĩnh vực quân sự là quá trình giai cấp công nhân cùng với
giai cấp nông nhân và nhân dân lao động khác để thành lập đội quân cách
mạng, thực hiện nhiệm vụ bảo vệ thành quả của cách mạng, đủ sức trấn áp
mọi sự phản kháng của kẻ thù.
Nói tóm lại, sự phát triển mới của Lênin về lý luận về liên minh giai cấp
là đã vận dụng thành công những tư tưởng của Mác - Ăngghen vào điều kiện
lich sử mới, làm rõ được tính tất yếu, vị trí vai trị và nội dung cụ thể của vấn
đề liên minh giai cấp trong giai đọan giai cấp vơ sản đấu trabnh giành chính
quyền và khi đã thiết lập được chun chính vơ sản. Đồng thời cũng đã vạch
ra những biện pháp cơ bản để tăng cường, củng cố khối liên minh giữa giai
cấp công nhân với giai cấp nông dân và các tầng lớp lao động khác trong xã
hội trong tiến trình xây dựng chủ nghĩa xã hội ở Nga. Là người trực tiếp lãnh
đạo cuộc cách mạng xã hội chủ nghĩa tháng Mười Nga, lãnh đạo công cuộc
xây dựng chủ nghĩa xã hội với các chương trình cơng nghiệp hóa, hiện đại
hóa, điện khí hóa, hợp tác hóa…Lênin đã khởi xướng hàng loạt chính sách
của Nhà nước Xô viết liên quan đối với nông dân (đặc biệt là với trung nông);
coi vấn đề nông dân như vấn đề hàng đầu của công cuộc xây dựng chủ nghĩa


17
xã hội; coi chun chính vơ sản là sự lãnh đạo chính trị với đa số nhân dân lao
động là số đông là nông dân, trên cơ sở liên minh cơng nơng (từ thực tiễn
nước Nga); phát huy vai trị của Nhà nước Xơ viết trong việc giải quyết hài
hịa các lợi ích của cơng – nơng – trí thức; bằng nhiều chính sách nhằm phát
triển lực lượng sản xuất trong nông nghiệp, nông thôn; kết hợp nâng cao đời
sống vật chất và tinh thần cho nông dân lao động…
Tiến hành cách mạng xã hội chủ nghĩa từ một nước đa số nông dân, Lê
nin rút ra một kết luận vô cùng quan trọng đối với nhiều nước: “Thắng lợi của

cách mạng xã hội chủ nghĩa tháng Mười Nga không phải ở chỗ giai cấp công
nhân chiếm số đông mà là ở chỗ giai cấp công nhân đã lôi kéo được, thực
hiện được vai trị lãnh đạo đối với đơng đảo quần chúng nhân dân, ở chỗ được
sự ủng hộ của đông đảo nông dân nghèo và bị phá sản.” [6; 219]
Kế thừa những tư tưởng của chủ nghĩa Mác - Lênin về vấn đề liên minh
giai cấp trong cách mạng vơ sản. Trong q trình xây dựng chủ nghĩa xã hội
hiện thực, các Đảng cộng sản đã vận dụng sáng tạo lý luận về liên minh giai
cấp vào trong những điều kiện lịch sử cụ thể và đã sáng tạo ra nhiều hình thức
liên minh giai cấp mới như: các hội liên hiệp cơng nơng, các tổ chức chính
quyền nhõn dõn v mt trn t quc...Nhiều Đảng Cộng sản còn có những
phát triển khối liên minh công nông thành khối liên minh giữa giai cấp công
nhân với giai cấp nông dân và tầng lớp trí thức (Việt Nam); có Đảng Cộng sản
lại khẳng định rằng, trí thức nằm trong thành phần giai cấp công nhân, nên chỉ
cần sử dụng thuật ngữ liên minh giữa giai cấp công nhân với giai cấp nông dân
là đầy đủ (Trung Quốc); rất nhiều Đảng Cộng sản luôn coi vấn đề liên minh
giữa giai cấp công nhân với giai cấp nông dân là một nguyên tắc bất di bất
dịch trong quá trình xây dựng chđ nghÜa x· héi...
Tóm lại, có thể bằng những thuật ngữ khác nhau, các hình thức liên
minh khác nhau, song thực chất các khối liên minh đó đều là sự liên minh
giữa giai cấp công nhân với giai cấp nông dân và các tầng lớp lao động khác
nhằm tập hợp lực lượng tiến hành thành công sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa


18
xã hội, chủ nghĩa cộng sản vì mục tiêu cao cả là giải phóng giai cấp, giải
phóng xã hội và giải phóng con người.
Q trình phát triển lý luận chủ nghĩa xã hội khoa học về liên minh giai
cấp là một tất yếu lịch sử, nó xuất phát từ thực tiễn phát triển của phong trào
cộng sản và công nhân quốc tế và thực tiễn cách mạng xã hội chủ nghĩa. Thực
tiễn đã chứng minh: ở đâu, lúc nào xây dựng được khối liên minh vững chắc

thì cách mạng tiến lên và giành thắng lợi; ngược lại thì cách mạng trì trệ, thụt
lùi, thậm chí sụp đổ - đó cũng là quy luật tất yếu trong sự phát triển của phong
trào cộng sản và công nhân quốc tế.
2. Sự vận dụng lý luận chủ nghĩa Mác – Lênin về liên minh giai cấp
của Đảng Cộng sản Việt Nam
2.1. Thực hiện liên minh cơng - nơng và trí thức trong cách mạng
dân tộc dân chủ nhân dân
Trước Cách mạng Tháng Tám (1945), Việt Nam là một nước thuộc địa,
nửa phong kiến. Giai cấp cơng nhân cịn ít, tầng lớp trí thức mới ra đời, nông
dân chiếm đại đa số. Song nhờ có ánh sáng của chủ nghĩa Mác - Lênin, ngay
từ khi chuẩn bị thành lập Đảng, Chủ tịch Hồ Chí Minh và nhiều đồng chí tiền
bối đã nhận thức đúng vai trị lịch sử của giai cấp cơng nhân, lực lượng cách
mạng to lớn của giai cấp nông dân và vai trị "ngịi pháo" cách mạng của tầng
lớp trí thức. Tại Hội nghị Quốc tế nông dân lần thứ nhất ở Mátxcơva (tháng
10-1923), Chủ tịch Hồ Chí Minh đã nói: "... chỉ trở thành quốc tế thật sự khi
mà không những nông dân phương Tây, mà cả nông dân phương Đông, nhất
là nông dân ở các nước thuộc địa...) đều tham gia Quốc tế...". Nǎm 1927,
Người lại nói thêm: cơng nơng là gốc cách mệnh cịn học trị, nhà bn nhỏ,
điền chủ nhỏ ... là bầu bạn cách mệnh của công nông thôi.
Từ một người Việt Nam yêu nước nồng nàn, Hồ Chí Minh đã quyết chí
tìm đường cứu nước và đã bắt gặp con đường cách mạng vô sản sau khơng ít
chơng gai, gian khổ, hiểm nguy của gần mười năm bôn ba. Khi đã bắt gặp chủ


19
nghĩa Mác - Lênin, trực tiếp là “chủ nghĩa Lênin”, chủ tịch Hồ Chí Minh đã
vừa truyền bá vừa vận dụng sáng tạo những nguyên lý của chủ nghĩa Mác –
Lênin, trong đó có ngun lý về liên minh cơng nông và các tầng lớp lao động
khác tạo động lực cho cách mạng Việt Nam.
Tiến hành cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân từ một nước thuộc địa,

nửa phong kiến với hơn 90% dân số là nông dân, ngay từ rất sớm, chủ tịch Hồ
Chí Minh đã xác định “công nông là chủ cách mệnh…công nông là cái gốc
Cách mệnh.” [7; 266]
Trước yêu cầu bức xúc phải giành độc lập dân tộc, tự do cho Tổ quốc và
nhân dân, Chủ tịch Hồ Chí Minh chủ trương đồn kết, tập hợp rộng rãi các
lực lượng của dân tộc bao gồm các giai cấp, các tầng lớp nhằm chống đế
quốc, song Người luôn luôn quán triệt quan điểm “công nông là cái gốc cách
mệnh”, ln đặt lợi ích dân tộc gắn liền với lợi ích của cơng nơng: “Trong khi
liên lực với các giai cấp, phải rất cẩn thận, không khi nào nhượng bộ một chút
lợi ích gì của cơng nơng mà đi vào đường thỏa hiệp.” [8; 3]
Nhờ vận dụng lý luận về liên minh công nông và các tầng lớp lao động
khác của chủ nghĩa Mác – Lênin, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã có cơng lao to lớn
trong tổ chức lực lượng cơ bản, tạo thành động lực của cách mạng, giành
thắng lợi rực rỡ trong cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân.
Sau khi cách mạng tháng Tám thành cơng, vấn đề tổ chức chính quyền,
giữ gìn và xây dựng chính quyền nhà nước là vấn đề cốt tử. Chủ tịch Hồ Chí
Minh đã vận dụng quan điểm của Lênin về “nguyên tắc cao nhất của chuyên
chính vô sản” vào điều kiện Việt Nam, khi Người khẳng định: “Nhà nước ta
là Nhà nước dân chủ nhân dân, dựa trên nền tảng liên minh công nông do giai
cấp cơng nhân lãnh đạo.” [9; 586]
Cơng cuộc gìn giữ chính quyền, gìn giữ và bảo vệ thành quả của cuộc
cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân được thể hiện qua công cuộc kháng
chiến trường kỳ, gian khổ. Trong cuộc kháng chiến kiến quốc này, Chủ tịch


20
Hồ Chí Minh ln ln đề cao vai trị của nông dân, với tư cách là người bạn
đồng minh trung thành của giai cấp công nhân. Người khẳng định: Nước ta là
một nước nơng nghiệp. Hơn chín mươi phần trăm nơng dân ta là trung, bần,
cố nơng…Nói tóm lại, nơng dân là một lực lượng rất to lớn của dân tộc, một

đồng minh rất trung thành của giai cấp công nhân. Muốn kháng chiến kiến
quốc thành công, muốn độc lập thống nhất thật sự ắt phải dựa vào lực lượng
nông dân.
Trong quá trình tiến hành cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân, Đảng ta
đã dày công xây dựng khối liên minh cơng, nơng và trí thức cách mạng. Đảng
chú ý giáo dục tinh thần yêu nước theo quan điểm của chủ nghĩa Mác - Lênin
cho công nhân, nông dân và trí thức để đồn kết, tập hợp họ chiến đấu dưới
ngọn cờ của Đảng, chống đế quốc và tay sai. Sở dĩ đạt được những thành quả
cách mạng đó là nhờ Đảng ta đã nhận thức và vận dụng đúng đắn một số vấn
đề cơ bản sau:
* Sớm nhận thức vị trí các giai cấp trong liên minh
Vào cuối những nǎm 20 của thế kỷ này, số lượng công nhân Việt Nam
chỉ chiếm 1,2% dân số. Tuy còn trẻ và ít, song giai cấp cơng nhân Việt Nam có
đủ bản chất chung của giai cấp công nhân quốc tế; đồng thời cịn có những đặc
điểm riêng, rất thuận lợi trong việc giành và giữ quyền lãnh đạo cách mạng.
Đánh giá về giai cấp công nhân Việt Nam, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã nói: chỉ
có giai cấp cơng nhân là dũng cảm nhất, cách mạng nhất, luôn luôn gan góc
đương đầu với bọn đế quốc thực dân. Với lý luận cách mạng tiên phong và
kinh nghiệm của phong trào vô sản quốc tế, giai cấp công nhân ta đã tỏ ra là
người lãnh đạo xứng đáng nhất và đáng tin cậy nhất của nhân dân Việt Nam.
Chiếm hơn 90% dân số, nông dân nước ta là một lực lượng cách mạng to
lớn, sớm có ý thức dân tộc và dân chủ. Nông dân Việt Nam chưa từng đi theo
giai cấp tư sản khơng phải vì giai cấp tư sản Việt Nam ra đời sau giai cấp
cơng nhân, mà vì giai cấp tư sản Việt Nam yếu về kinh tế, bạc nhược về chính


21
trị, không thể đáp ứng được yêu cầu của nông dân và của dân tộc. Nơng dân
Việt Nam có tinh thần cách mạng, nhưng họ không thể là lực lượng lãnh đạo
cách mạng dân tộc dân chủ vì họ khơng gắn liền với một phương thức sản

xuất mới và không có hệ tư tưởng độc lập. Họ cũng khơng có khả nǎng xây
dựng một chế độ xã hội mới. Dưới thời đế quốc Pháp thống trị, các nhà yêu
nước như Phan Đình Phùng, Phan Bội Châu, Phan Chu Trinh, Nguyễn Thái
Học, v.v., đã kêu gọi nhân dân, trong đó có nông dân, đấu tranh chống đế
quốc Pháp để giữ nước nhưng chưa có ai đề ra đường lối cách mạng dân chủ
triệt để, khả dĩ tập hợp nông dân chống địa chủ phong kiến, giành lại ruộng
đất, để cứu nước và cứu lấy mình.
Chủ tịch Hồ Chí Minh và những người Cộng sản Việt Nam thấu hiểu
điều mong muốn thiết tha nhất của nông dân. Từ khi thành lập, Đảng Cộng
sản Việt Nam đã chủ trương "lãnh đạo dân cày nghèo làm thổ địa cách mạng
đánh trúng bọn đại địa chủ và phong kiến". Đường lối cách mạng dân tộc dân
chủ đúng đắn của Đảng và Chủ tịch Hồ Chí Minh đã làm cho phong trào nơng
dân từng bước xích lại gần với phong trào cơng nhân. Trong q trình lãnh
đạo cách mạng, Đảng còn chỉ rõ mục tiêu, nội dung và đối tượng của liên
minh trong từng thời kỳ nhằm từng bước thực hiện mục tiêu chủ yếu trước
mắt là giải phóng dân tộc. Nhờ kết hợp thực hiện đúng đắn hai khẩu hiệu
chiến lược "độc lập dân tộc" và "người cày có ruộng" với việc giải quyết yêu
cầu cụ thể của từng cuộc đấu tranh trong từng thời kỳ cách mạng, Đảng đã
lãnh đạo nông dân đi theo giai cấp công nhân đấu tranh, từng bước giành lại
những quyền lợi thiết thân cho dân tộc và giai cấp; đồng thời Đảng giáo dục
để loại bỏ dần những hành động tiêu cực trong phong trào nông dân như cục
bộ, địa phương, hẹp hịi, mê tín dị đoan, v.v..
Đảng coi trọng khả nǎng cách mạng của tầng lớp trí thức. Đế quốc Pháp
thống trị nước ta vừa làm phân hoá, mai một tầng lớp trí thức phong kiến,
đồng thời tạo ra tầng lớp trí thức mới - trí thức tư sản. Nhưng một mặt do chế


22
độ chuyên chế về chính trị, độc quyền về kinh tế, nên tầng lớp này khơng có
cơ sở kinh tế - chính trị để phát triển. Mặt khác, do truyền thống yêu nước của

dân tộc và sự thu hút của phong trào cơng nơng nên phần lớn trí thức Việt
Nam đã tích cực tham gia phong trào giải phóng dân tộc, chống đế quốc và
tay sai. Từ khi phong trào yêu nước lâm vào khủng hoảng về đường lối, nhiều
trí thức đã đứng ra tổ chức phong trào chống đế quốc Pháp, lập ra một số tổ
chức và đảng cách mạng như: Tâm Tâm Xã (1923), Phục Việt, Tân Việt cách
mạng Đảng (1926-1930), Hội kín của Nguyễn An Ninh (1927-1929), Đảng
thanh niên của Trần Huy Liệu (1928), Việt Nam quốc dân Đảng của Nguyễn
Thái Học (1927-1930), v.v..
Tuy có tinh thần phản đế, nhưng lúc đầu họ chịu ảnh hưởng của hệ tư
tưởng dân chủ tư sản kiểu cũ nên không thể tự tìm ra con đường cứu nước
đúng đắn, khơng thể đóng vai trị lãnh đạo cách mạng. Sự thất bại của cuộc
khởi nghĩa Yên Bái (9-2-1930) do Việt Nam Quốc dân Đảng tổ chức với khẩu
hiệu "không thành công cũng thành nhân" đã thể hiện quan điểm bấp bênh
tiểu tư sản và sự bất lực của đảng này. Từ khi Nguyễn Ái Quốc lập ra Việt
Nam thanh niên cách mạng đồng chí hội - tổ chức tiền thân của Đảng, những
trí thức yêu nước đã từng bước chịu ảnh hưởng tư tưởng cứu nước của Người
và chuyển dần từ lập trường cách mạng dân tộc dân chủ kiểu cũ sang lập
trường cách mạng dân tộc dân chủ kiểu mới của giai cấp công nhân. Đảng
luôn luôn coi trọng việc giác ngộ, tập hợp những trí thức cách mạng vào hàng
ngũ của mình và các đồn thể cách mạng khác, làm cho họ trở thành một
"động lực" cách mạng quan trọng. Đảng luôn luôn uốn nắn những quan điểm
tư tưởng lệch lạc mang tính chất tiểu tư sản, biểu hiện ở một số chủ trương
như: thanh đảng, thanh hội của xứ uỷ Trung Kỳ (20-5-1931) hay "trí, phú, địa,
hào đào tận gốc, trốc tận rễ", vận dụng rập khuôn kinh nghiệm cách mạng
ruộng đất của Trung Quốc vào điều kiện nước ta.


23
* Giải quyết kịp thời quyền lợi thiết thân của cơng nhân, nơng dân và
tầng lớp trí thức

Cách mạng Tháng Tám thắng lợi, nước Việt Nam dân chủ cộng hoà ra
đời. Các giai cấp cơng nhân, nơng dân và trí thức cách mạng trở thành người
làm chủ đất nước và tham gia xây dựng chính quyền. Đảng hết sức quan tâm
giải quyết quyền lợi của nông dân và nhân dân lao động khi có điều kiện. Sau
Cách mạng Tháng Tám, cǎn cứ vào chủ trương của Chính phủ lâm thời, ngày
20-11-1945, ủy ban nhân dân Bắc Bộ đã ra thông tư giảm tơ 25%. Ngày 14-71949, Chính phủ ra sắc lệnh giảm tô và từng bước thực hiện cải cách ruộng
đất, Đảng đã chia cho nông dân 177.000 ha ruộng đất, trong đó có 18.400 ha
ruộng đất tịch thu của thực dân Pháp, 39.600 ha ruộng đất của đại địa chủ và
119.000 ha ruộng đất công.
Khi cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp bước vào giai đoạn quyết
liệt, tháng 10-1953, Đảng phát động phong trào quần chúng đòi triệt để giảm
tơ và thực hiện cải cách ruộng đất. Tuy có phạm một số sai lầm, nhưng Đảng
đã lãnh đạo nông dân các tỉnh miền Bắc giành thêm 456.000 ha ruộng đất từ
tay địa chủ. Chế độ chiếm hữu ruộng đất của địa chủ, phong kiến ở các tỉnh
miền Bắc bị xố bỏ. Quyền sở hữu ruộng đất của nơng dân lao động được
Nhà nước thừa nhận. Cũng trong thời gian này, từ tỉnh Quảng Trị đến các tỉnh
ở Nam Bộ, dưới sự lãnh đạo của các đảng bộ địa phương, nông dân đã được
chia cấp hơn 750.000 ha ruộng đất. ở nhiều nơi địa tơ phong kiến đã giảm, có
nơi chỉ còn 15%. Thành quả về cách mạng ruộng đất có ý nghĩa hết sức to
lớn. Nó làm tǎng thêm nguồn sức mạnh của nhân dân trong quá trình cách
mạng. Thành quả ấy chẳng những động viên cổ vũ giai cấp nông dân mà cả
giai cấp công nhân và tầng lớp trí thức, bởi lẽ giai cấp cơng nhân và phần lớn
trí thức đều xuất thân từ giai cấp nơng dân và nhân dân lao động, chẳng
những họ có kẻ thù chung là đế quốc và phong kiến đại địa chủ, đại tư sản
làm tay sai, mà cịn có quan hệ gia đình, xã hội hết sức gần gũi với nông dân.


24
Phần đất người nông dân được chia không chỉ là lợi ích riêng của họ mà
người cơng nhân, người trí thức ít nhiều đều có lợi ích chung. Vì vậy, vấn đề

ruộng đất của nông dân là một nội dung cơ bản của cách mạng dân tộc dân
chủ nhân dân ở nước ta. Ngoài quyền lợi ruộng đất, nhân dân ta nói chung,
cơng - nơng và tầng lớp trí thức nói riêng cịn được hưởng những quyền lợi
khác khơng kém phần quan trọng. Đó là quyền tự do tư tưởng, tự do tín
ngưỡng, tự do tổ chức, tự do hội họp, tự do đi lại trong nước và tự do xuất
dương, v.v., đã được Đảng ta công bố trong Chương trình của Việt Minh (2511-1941) và ngày càng tạo điều kiện để thực hiện những quyền lợi đó. Đảng
chủ trương khuyến khích và giúp đỡ, tạo điều kiện cho trí thức, vǎn nghệ sĩ
phát triển tài nǎng bằng việc lập các trường chuyên môn huấn luyện, đào tạo
nhân tài của đất nước ngày càng đông đảo. Những kết quả về cách mạng
ruộng đất và việc thực hiện quyền tự do, dân chủ cũng như về cách mạng vǎn
hoá, khoa học, kỹ thuật trong mấy chục nǎm qua đã làm tǎng sự gắn bó giữa
cơng nhân, nơng dân và trí thức đối với Đảng, với chế độ mới mà nhân dân ta
đang xây dựng.
*Xác định đúng các mối quan hệ trong quá trình cách mạng
Với lý luận Mác - Lênin soi đường, Chủ tịch Hồ Chí Minh và Đảng ta đã
sớm giải quyết đúng mối quan hệ giữa độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội,
vạch ra đường lối cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân tiến lên chủ nghĩa xã
hội. Trên quan điểm giải phóng dân tộc gắn liền với giải phóng xã hội, Đảng
ta giải quyết hợp lý mối quan hệ giữa nhiệm vụ chống đế quốc với nhiệm vụ
chống phong kiến. Giải quyết đúng đắn hai nhiệm vụ chiến lược ở giai đoạn
cách mạng dân tộc dân chủ, bảo đảm cho Đảng ta vừa củng cố được liên minh
cơng nhân, nơng dân và trí thức, vừa lôi kéo được những người thuộc tầng lớp
trên (tư sản dân tộc, địa chủ vừa và nhỏ) có tinh thần chống đế quốc vào mặt
trận dân tộc thống nhất; vừa ngǎn ngừa, sửa chữa kịp thời những sai lầm tả,
hữu khuynh trong việc thực hiện đường lối cách mạng. Liên minh công nhân,


25
nơng dân và trí thức được củng cố, phong trào cách mạng ở hai địa bàn chiến
lược thành phố và nơng thơn, gắn bó chặt chẽ với nhau, hỗ trợ và thúc đẩy lẫn

nhau tạo thành sức mạnh tổng hợp của cách mạng. Trong mối quan hệ giữa
hai địa bàn chiến lược này, Đảng coi trọng cả hai địa bàn, nhưng đánh giá
thành phố là địa bàn xung yếu, vì nếu phong trào công nhân và nhân dân lao
động (lao động chân tay và trí óc) ở thành phố yếu thì khởi nghĩa quần chúng
khơng thể trở thành tổng khởi nghĩa để giành thắng lợi.
Trong khi khẳng định vị trí lãnh đạo của giai cấp công nhân, động lực
cách mạng là các giai cấp công nhân, nông dân và tầng lớp trí thức, Đảng ta
hết sức quan tâm xây dựng Mặt trận dân tộc thống nhất, coi đó là một trong
những nguyên nhân thắng lợi của cách mạng. Đảng ta xác định liên minh
cơng, nơng và trí thức là nền tảng của Mặt trận dân tộc thống nhất. Tổng kết
công tác mặt trận, tại Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ II, Đảng ta chỉ rõ:
"Mặt trận dân tộc thống nhất lấy liên minh công nông và lao động trí thức làm
nịng cốt và do giai cấp cơng nhân lãnh đạo". Khối liên minh này được củng
cố vững chắc bao nhiêu thì Mặt trận dân tộc thống nhất càng có điều kiện mở
rộng bấy nhiêu. Có thể nói, khơng củng cố được liên minh cơng, nơng và trí
thức thì cũng khơng thể có Mặt trận dân tộc thống nhất.
2.2. Những bước phát triển mới của liên minh công, nông và trí thức
trong xây dựng chủ nghĩa xã hội
Trong quá trình xây dựng chủ nghĩa xã hội ở miền Bắc, tư tưởng về liên
minh công nông được Chủ tịch Hồ Chí Minh chỉ rõ từ tầm quan trọng của
nơng nghiệp, nông dân trong phát triển cơ cấu kinh tế công nghiệp, nông
nghiệp như “hai chân của nền kinh tế nước nhà”. Người đã chỉ rõ: Nước ta là
một nước nông nghiệp, muốn phát triển công nghiệp, phát triển kinh tế nói
chung phải lấy việc phát triển nơng nghiệp làm gốc, làm chính. Nếu khơng
phát triển nơng nghiệp thì khơng có cơ sở để phát triển cơng nghiệp vì nơng


×