Tải bản đầy đủ (.doc) (253 trang)

LUẬN án TIẾN sĩ đẩy NHANH QUÁ TRÌNH CHUYỂN đổi nền NÔNG NGHIỆP nước TA lên nền NÔNG NGHIỆP HÀNG hóa

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.03 MB, 253 trang )

MỞ ĐẦU

1. Tính cấp thiết của đề tài
Việt Nam là nước nông nghiệp, hiện có 80% dân cư và trên 70%
lực lượng lao động xã hội sống ở nông thôn, trong đó có hơn 80% lực
lượng lao động làm việc trong nông nghiệp [66, 13]. Bởi thế, sản xuất
nông nghiệp được coi là mặt trận hàng đầu, quan trọng nhất trong nền kinh
tế quốc dân. Việc chuyển nền nông nghiệp từ tình trạng sản xuất nhỏ,
mang nặng tính chất tự cung tự cấp, độc canh và thuần nông, thành một
nền nông nghiệp hàng hóa nhiều thành phần, vận động theo cơ chế thị
trường, định hướng XHCN, là một vấn đề có ý nghĩa quyết định trong việc
phát triển kinh tế - xã hội ở nước ta hiện nay. Quá trình chuyển đổi đó
nhanh hay chậm, tùy thuộc rất nhiều vào diễn biến của quá trình thị trường
hóa kinh tế nông nghiệp, quá trình đưa các hộ nông dân vào con đường
phát triển sản xuất hàng hóa. Từ năm 1979 cho đến nay, Đảng và Nhà
nước ta đã có nhiều chủ trương chính sách (Chỉ thị 100-CT/TW, của Ban
Bí thư Trung ương (năm 1981), Nghị quyết 10 của Bộ Chính trị (4-1988),
Nghị quyết Trung ương V (khóa VII), Luật đất đai (1993), Nghị quyết Đại
hội VIII, Nghị định 64CP (1993), Luật HTX (1997), Chỉ thị 68 CT/TW
(1996)... nhằm thúc đẩy quá trình chuyển biến đó và đã đạt được nhiều
thành tựu rõ rệt, khởi sắc, nhất là về mặt sản xuất lương thực. Tuy nhiên,
cơ cấu kinh tế nông nghiệp, nông thôn vẫn còn chậm chuyển đổi sang sản
xuất hàng hóa có hiệu quả. Cho đến nay, trong số 9,5 triệu hộ sản xuất
nông nghiệp mới có khoảng 30% số hộ trong sản xuất nông sản hàng hóa
với các mức độ khác nhau [15,132], tỷ suất hàng hóa trong nông nghiệp
còn thấp, thị trường còn nhỏ lẻ, phân tán, nặng tính chất mùa vụ, sức mua
của nông dân thấp, số hộ nghèo còn nhiều; các lợi thế so sánh trong trồng
trọt, chăn nuôi, cây lương thực, thực phẩm hàng năm và cây công nghiệp

1



lâu năm..., trên mỗi vùng đất nước còn chưa được khai thác tổng hợp và
tối ưu nhất.
Đẩy nhanh quá trình chuyển nền nông nghiệp nước ta lên nông
nghiệp hàng hóa là một vấn đề còn mới mẻ, những kết quả đạt được mới
chỉ là bước đầu, nhưng đặt trong nguy cơ tụt hậu, trong xu thế và yêu cầu
của quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước, trong xu hướng hội
nhập quốc tế, thì vấn đề này được đặt ra hết sức cấp thiết cả về lý luận và
thực tiễn, cần phải tiếp tục nghiên cứu và giải quyết.
2. Tình hình nghiên cứu
Ở nước ngoài đã có nhiều công trình nghiên cứu, giới thiệu về quá
trình phát triển kinh tế nông thôn tự cung tự cấp sang kinh tế hàng hóa,
quá trình công nghiệp hóa đất nước bắt đầu từ việc phát triển kinh tế nông
nghiệp, trong đó đề cập đến quá trình hình thành và phát triển nông nghiệp
hàng hóa trên địa bàn nông thôn * .
Ở trong nước, trong những năm gần đây, có một số công trình
nghiên cứu đã đề cập đến những khía cạnh khác nhau của quá trình
chuyển nông nghiệp nước ta lên sản xuất hàng hóa **.
Viện Kinh tế kỹ thuật thương nghiệp: Thông tin chuyên đề về "Cải cách lưu thông hàng hóa
nông thôn Trung Quốc".
+ PAO: Ảnh hưởng của chính sách nông nghiệp. Kinh nghiệm các nước.... UBKHXH. Hà Nội,
1991.
+ PAO: Kỹ thuật giống cây trồng. Nxb Nông Nghiệp. H. 1991.
*
*
Nguyễn Sinh Cúc: Thực trạng nông nghiệp... 1976 - 1990. Nxb Thống Kê 1991.
+ Cù Xuân Dư: Chất lượng hạt giống cây trồng với công tác kiểm nghiệm, kiểm định... HĐKH
7/1991.
+ Trần Đức: HTX và thời vàng son của kinh tế gia đình. Chương IV. Nxb Tư tưởng. H. 1991.
+ Trần Đức: Sở hữu và cây đời.

+ Phạm Thắng: Sản xuất nông nghiệp đòi hỏi hoàn thiện dịch vụ cung ứng vật tư phân bón. Trung
tâm thông tin. UBXHNN. Thông tin chuyên đề kinh tế dịch vụ.
+ Đỗ Thế Tùng: Việc thực hiện khoán 10 - Những vấn đề đặt ra và giải pháp. Nghiên cứu lý luận,
số 3/1991.
+ Lưu Văn Sùng: Về quá trình đổi mới quản lý trong nông nghiệp ở Tiền Giang. Nghiên cứu lý
luận, số 5/1990.
+ Lưu Văn Sùng và... Hợp tác hóa nông nghiệp - một số giải pháp từ cơ sở. Nxb Sự Thật. H. 1990.
+ Cao Viết Lợi: Mấy ý kiến về cho vay hộ nông dân sản xuất nông nghiệp. Tạp chí ngân hàng s ố
5/1991.
+ GS.TS. Lương Xuân Qùy: Những biện pháp kinh tế tổ chức và quản lý để phát triển kinh tế nông
nghiệp hàng hóa và đổi mới cơ cấu kinh tế nông thôn Bắc Bộ. Nxb Nông nghiệp. Hà Nội. 1996.
*

2


Và một số luận án, tài liệu khác, đề cập đến các vấn đề: Phát triển
kinh tế hộ, phát triển kinh tế hợp tác, củng cố và hoàn thiện quan hệ sản
xuất trong nông nghiệp, nâng cao hiệu quả sử dụng lao động trong nông
nghiệp, về sự hình thành và kết hợp các lợi ích kinh tế trong nông nghiệp,
về vai trò của Nhà nước đối với sự phát triển kinh tế - xã hội nông thôn...
Nhưng các tác giả thường chỉ đề cập một số vấn đề cụ thể nào đó
của nền nông nghiệp hàng hóa (chẳng hạn về tổ chức quản lý, về phát
triển cơ sở hạ tầng, về sở hữu, về phát triển kinh tế hộ...) hoặc chỉ tập
trung nhấn mạnh mặt tổ chức quản lý, hoặc kinh tế - kỹ thuật.
Một số tác giả có bàn đến sự phát triển kinh tế hàng hóa nông thôn
Việt Nam... nhưng mới chỉ là những khái quát chung, những nét phác thảo,
chứ chưa đi sâu bàn một cách cơ bản, hệ thống những giải pháp nhằm đẩy
nhanh sự phát triển nông nghiệp hàng hóa ở Việt Nam. Do vậy những kết
quả nghiên cứu đó còn thiếu tính hệ thống, toàn diện. Mặt khác, do giới

hạn lịch sử, ít nhiều chịu sự chi phối của lối tư duy cũ, trong khi nền kinh
tế cả nước đã và đang chuyển hướng mạnh mẽ sang kinh tế thị trường có
sự quản lý của Nhà nước, theo định hướng xã hội chủ nghĩa (đặc biệt là
sau Nghị quyết Trung ương 5 - Khóa VII, Luật đất đai, Luật HTX, Nghị
+ PTS. Nguyễn Xuân Nguyên. Khuynh hướng phân hóa hộ nông dân trong phát triển sản xuất hàng
hóa. Nxb CTQG Hà Nội 1995.
+ Tổ chuyên đề nông thôn thuộc Ban nông nghiệp TW Đảng. "Kinh tế - xã hội nông thôn Việt Nam
ngày nay. H. 1993.
+ PTS. Trần Đình Hiền (Đại học kinh tế quốc dân). Những vấn đề kinh tế chủ yếu của thị trường
tiêu thụ sản phẩm nông nghiệp Việt Nam". H. 1993.
+ PTS. Nguyễn Văn Trung. Một số vấn đề kinh tế hàng hóa trong nông nghi ệp Việt Nam từ góc độ
kinh tế hộ. Trường Đại học kinh tế quốc dân. H. 1994.
+ PTS Đăng Lễ Nghi, Nguyễn Thị Phương Loan: Nông nghiệp, nông thôn và nông dân n ước ta qua
10 năm đổi mới, Thông tin những vấn đề lý luận (phục vụ lãnh đạo), số 20+21/1998.
+ PTS. Phan Thanh Khiết. Những quá trình kinh tế - xã hội chuyển kinh tế tự nhiên của Tây Nguyên
lên kinh tế h trong chặng đường đầu tiên của thời kỳ quá độ. Học viện Nguyễn Ái Quốc. H. 1993.
+PTS. Nguyễn Văn Tuấn. Dịch vụ sản xuất nông nghiệp cho hộ tự chủ sản xuất kinh doanh để phát
triển sản xuất hàng hóa ở đồng bằng Bắc Bộ. Luận án PTS. Năm bảo vệ: 1993. Người hướng
dẫn khoa học: PGS.PTS. Đỗ Thế Tùng.
+ PTS. Nguyễn Quang Hồng. Phát triển nông nghiệp hàng hóa định hướng XHCN ở Việt Nam. Luận
án PTS. Năm bảo vệ: 1993. Người hướng dẫn khoa học: GS.PTS. Trần Ngọc Hiên.
+ PTS. Vũ Văn Yên. Kinh tế hộ nông dân trong sự phát triển kinh tế hàng hóa ở nước ta hiện nay.
Luận án PTS. Năm bảo vệ: 1994. Người hướng dẫn khoa học: PGS.PTS Đoàn Tr ọng Nhã.

3


định 64CP, Chỉ thị 68TW) nên một số quan niệm, phương hướng, giải
pháp đã đưa ra không còn phù hợp với thực tiễn hiện nay, đòi hỏi phải
được xem xét, bổ sung trong điều kiện mới.

Tiếp thu các thành tựu nghiên cứu về vấn đề này, tác giả luận án đã
cố gắng vận dụng tư duy kinh tế mới vào việc khảo sát, nghiên cứu thực
tiễn, chỉ ra có hệ thống những thành công và hạn chế, những khó khăn và
thuận lợi, những xu hướng phát triển mới, từ đó nêu ra các quan điểm,
phương hướng và giải pháp cơ bản nhằm đẩy nhanh sự phát triển nền nông
nghiệp hàng hóa, đáp ứng có hiệu quả yêu cầu của sự nghiệp công nghiệp
hóa, hiện đại hóa đất nước trong những năm tới.
3. Mục đích, nhiệm vụ và giới hạn của luận án
- Mục đích của luận án:
Mục đích của luận án là làm sáng rõ những vấn đề lý luận và thực
tiễn của quá trình phát triển nền nông nghiệp hàng hóa nước ta, từ đó nêu
ra phương hướng và đề xuất những giải pháp chủ yếu nhằm đẩy nhanh sự
phát triển nền nông nghiệp hàng hóa trong điều kiện nền kinh tế thị
trường, định hướng xã hội chủ nghĩa.
- Để đạt được mục đích trên, luận án có những nhiệm vụ sau:
+ Làm rõ vai trò của việc phát triển nền nông nghiệp hàng hóa và
tính quy luật của sự hình thành và phát triển nền nông nghiệp hàng hóa
trong điều kiện nền kinh tế thị trường ở nước ta.
+ Nghiên cứu thực trạng của sản xuất nông sản hàng hóa ở nước ta
hiện nay, nêu được kinh nghiệm đẩy nhanh sự phát triển nông nghiệp hàng
hóa của một số nước và sự cần thiết cấp bách ở Việt Nam.
+ Đề xuất những giải pháp chủ yếu nhằm đẩy nhanh sự phát triển
nền nông nghiệp hàng hóa ở Việt Nam hiện nay.

4


- Giới hạn phạm vi nghiên cứu của luận án:
Để nghiên cứu việc đẩy nhanh sự phát triển nền nông nghiệp hàng
hóa nước ta, cần có sự tiếp cận từ nhiều phía. Dưới góc độ khoa học kinh

tế chính trị, luận án chỉ tập trung nghiên cứu những quá trình, những đặc
trưng, phương hướng và một số giải pháp chủ yếu nhằm đẩy nhanh quá
trình phát triển nông nghiệp hàng hóa ở nước ta, chứ không đi vào những
vấn đề cụ thể của kinh tế ngành nông nghiệp, không khảo sát toàn bộ kinh
tế hàng hóa nông thôn.
Về thời gian, luận án chủ yếu khảo sát sự vận động của nền nông
nghiệp hàng hóa ở Việt Nam chủ yếu từ sau Chỉ thị 100 của Ban bí thư
Trung ương Đảng Cộng sản Việt Nam đến nay.
4. Cơ sở lý luận và phương pháp luận
Tác giả luận án nghiên cứu trên cơ sở vận dụng tư duy kinh tế của
chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, các quan điểm của Đảng và
Nhà nước ta về phát triển nền nông nghiệp hàng hóa định hướng XHCN.
Tác giả luận án sử dụng phương pháp phân tích thống kê để xử lý
các số liệu, nghiên cứu những vấn đề có tính quy luật của sự phát triển nền
nông nghiệp hàng hóa theo nội dung đề ra.
- Ngoài những phương pháp chung, phổ biến trong nghiên cứu lý
luận (như phương pháp duy vật biện chứng, duy vật lịch sử, phương pháp
trừu tượng hóa khoa học, phương pháp lịch sử - lôgic...) tác giả đặc biệt
chú ý tới các phương pháp điều tra xã hội học, khảo sát thực tế, trao đổi ý
kiến, phỏng vấn... để rút ra những kết luận cập nhật và có căn cứ khoa học
xác đáng, phục vụ cho mục tiêu nghiên cứu của đề tài.
Trong trao đổi ý kiến, tác giả chọn đối tượng chủ yếu là các hộ
nông dân, chủ nhiệm các HTX, các cán bộ trực tiếp chỉ đạo phòng nông
nghiệp các địa phương, các chuyên gia về nông nghiệp, nông thôn.

5


5. Những đóng góp mới về mặt khoa học của luận án
- Hệ thống hóa các đặc điểm, vai trò, xu hướng tất yếu và ý nghĩa

thực tiễn của việc đẩy nhanh sự phát triển nông nghiệp hàng hóa trong
điều kiện nền kinh tế vận động theo cơ chế thị trường có sự quản lý của
Nhà nước định hướng lên CNXH ở Việt Nam.
- Dựa vào những số liệu, tư liệu và kết quả nghiên cứu, khảo sát
thực tế, luận án đã tập trung đánh giá thực trạng phát triển nông nghiệp
hàng hóa ở nước ta từ năm 1976 đến nay, từ đó rút ra những bài học cần
thiết cho việc đẩy nhanh sự phát triển nông nghiệp hàng hóa ở Việt Nam
hiện nay.
- Đề xuất được những giải pháp chủ yếu có tính khả thi nhằm tận
dụng mọi nguồn lực, đẩy nhanh sự phát triển nông nghiệp hàng hóa, làm
đòn bẩy cho sự phát triển toàn diện kinh tế - xã hội nông thôn Việt Nam
trong quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước.
6. Ý nghĩa của luận án
- Làm phong phú thêm cách tiếp cận và quan điểm về phát triển
nền nông nghiệp hàng hóa, định hướng xã hội chủ nghĩa từ những nước
đang phát triển, thông qua chuyển dịch cơ cấu kinh tế, phát triển công
nghiệp nông thôn, phát triển hệ thống thị trường và vai trò kinh tế của Nhà
nước (đối với nông nghiệp, nông thôn), góp phần có thêm nhận thức mới
trong việc thực hiện các giải pháp nhằm phát triển có hiệu quả nền nông
nghiệp hàng hóa, theo cơ chế thị trường, có sự quản lý của Nhà nước, định
hướng xã hội chủ nghĩa.
- Những kết quả nghiên cứu của luận án có thể dùng làm tư liệu
khoa học để tham khảo cho việc xây dựng các chủ trương, biện pháp ở các
địa phương nhằm đẩy mạnh sự phát triển sản xuất nông sản hàng hóa, xóa
đói giảm nghèo, phát triển toàn diện kinh tế - xã hội nông thôn. Đồng thời,

6


có thể làm tư liệu tham khảo trong nghiên cứu và giảng dạy các môn khoa

học kinh tế ở các trường đại học, cao đẳng và các trường của Đảng hiện nay.
7. Kết cấu của luận án
Ngoài phần mở đầu, kết luận và danh mục các tài liệu tham khảo,
4 biểu, 20 phụ lục, luận án gồm 3 chương, 8 tiết, với 222 trang.

7


Chương 1
NHỮNG VẤN ĐỀ CHUNG VỀ SỰ HÌNH THÀNH
VÀ PHÁT TRIỂN NỀN NÔNG NGHIỆP HÀNG HÓA

1.1. NHỮNG QUÁ TRÌNH, ĐẶC TRƯNG, ĐIỀU KIỆN HÌNH THÀNH
VÀ PHÁT TRIỂN NỀN NÔNG NGHIỆP HÀNG HÓA

1.1.1. Những quá trình có tính quy luật trong việc hình thành
và phát triển nền nông nghiệp hàng hóa
1.1.1.1. Đặc điểm của sản xuất nông nghiệp
Nền văn minh nông nghiệp đã tồn tại hàng vạn năm trên trái đất,
cho đến nay, nông nghiệp vẫn là ngành duy nhất sản xuất ra lương thực,
thực phẩm cho con người, người ta có thể không có (hoặc chưa có) nhiều
thứ khác, nhưng không thể thiếu lương thực, thực phẩm để sống và hoạt
động. Dù cho các điều kiện tự nhiên, kinh tế, xã hội của các quốc gia có
khác nhau đến đâu, nông nghiệp vẫn mang tính chất truyền thống lâu đời,
bao gồm những quá trình chọn lọc và phát triển tự nhiên. Vì vậy, cho dù ở
thời đại nào, trình độ kỹ thuật và công nghệ nào thì nông nghiệp vẫn giữ
những đặc điểm riêng khác với công nghiêp. Theo nghĩa rộng, nông
nghiệp bao gồm cả lâm nghiệp, ngư nghiệp và diêm nghiệp. Sản phẩm của
nông nghiệp là kết quả khai thác được từ quá trình sinh trưởng của cây
trồng và vật nuôi, được sử dụng dưới hai dạng chủ yếu là lương thực, thực

phẩm và nguyên liệu cho công nghiệp, và theo ngôn ngữ của kinh tế thị
trường hiện đại thì kinh tế nông nghiệp (cũng như quá trình sản xuất nông
nghiệp) phải bao gồm cả ba cộng đoạn sản xuất - chế biến - tiêu thụ.
Chúng ta có thể nêu lên đặc thù của nông nghiệp như sau:
- Về đối tượng sản xuất: nếu đối tượng của công nghiệp là những
nguyên vật liệu đã qua chế biến hoặc nguyên dạng, thì đối tượng của nông
8


nghiệp lại là những sinh vật sống (cây trồng, vật nuôi) có những chu kỳ
vận động đa dạng, phức tạp.
- Về tư liệu sản xuất: công nghiệp bao gồm máy móc, nhà xưởng
có thể di chuyển, thay đổi, còn nông nghiệp gắn với đất đai, mặt nước... là
những thứ cố định về không gian, có giới hạn về diện tích, không thể di
chuyển thay đổi được.
- Về điều kiện tự nhiên: công nghiệp hầu như không bị ảnh hưởng
bởi những nhân tố thời tiết (mưa, nắng, bão lụt, hạn hán, sâu bệnh...) còn
nông nghiệp lại phụ thuộc rất nhiều bởi các yếu tố này.
Từ đó, có thể nêu lên những đặc điểm của sản xuất nông nghiệp:
(1). Đối tượng của sản xuất nông nghiệp bao gồm nhiều loại cây
trồng và gia súc có yêu cầu khác nhau về môi trường, điều kiện ngoại cảnh
để sinh ra và lớn lên. Vì vậy, muốn đạt kết quả cao trong sản xuất nông
nghiệp, cần có những hiểu biết tường tận để hoạt động sản xuất phù hợp
với các quy luật sinh học của mỗi đối tượng sản xuất. Trong thực tế, người
sản xuất nông nghiệp không hoàn toàn làm chủ được quá trình sản xuất,
mà phải thường xuyên đối phó với những diễn biến bất thường của điều
kiện ngoại cảnh.
(2). Trong nông nghiệp, đất đai là những tư liệu sản xuất chủ yếu
(hoàn toàn khác với công nghiệp, đất đai chỉ là mặt bằng xây dựng nhà
xưởng), đất đai là môi trường sống không thể thiếu được của cây trồng và

gia súc. Trong nông nghiệp, đất đai vừa là đối tượng lao động, vừa là tư
liệu lao động. Nó có những biểu hiện khác nhau về chất lượng, nhưng nếu
được sử dụng hợp lý thì độ phì nhiêu của nó được bảo vệ và tăng lên. Độ
phì nhiêu của đất đai là một yếu tố quyết định năng suất cây trồng và năng
suất lao động trong nông nghiệp. Vì vậy, bảo vệ và không ngừng làm tăng
độ phì nhiêu màu mỡ của đất đai là một trong những nhiệm vụ quan trọng
nhất của người lao động trong nông nghiệp.
9


(3). Sản xuất nông nghiệp có tính thời vụ nhất định: trong nông
nghiệp, hai quá trình tái sản xuất tự nhiên và tái sản xuất kinh tế liên hệ
mật thiết với nhau. Thời gian lao động không trùng khớp với thời gian sản
xuất mà chỉ là một phần của thời gian sản xuất, nằm xen kẽ trong thời gian
sản xuất. Do đó, trong quá trình sản xuất, có những giai đoạn sản xuất
nông nghiệp được tái sản xuất tự nhiên không cần sự tác động của quá
trình kinh tế. Hơn nữa sản xuất có tính thời vụ nên trong nông nghiệp, lao
động, máy móc và các tư liệu sản xuất khác không thể sử dụng liên tục
quanh năm (nhất là ngành trồng trọt). Cho nên việc tìm những biện pháp
để giảm bớt tính thời vụ trong nông nghiệp là một nhiệm vụ của lịch sử,
của các nhà kinh tế và kỹ thuật nông nghiệp. Trong thực tế, người ta đã áp
dụng nhiều biện pháp như: chuyên môn hóa sản xuất kết hợp với kinh
doanh tổng hợp, tăng vụ, xen canh gối vụ, luân canh, chế tạo những máy
móc có tính đa năng hoặc cố gắng làm giảm tối đa những haomòn hữu
hình và vô hình của những tài sản cố định...
(4). Sản xuất nông nghiệp được phân bố trên một phạm vi không
gian rộng lớn và có tính khu vực. Vì đất đai là tư liệu sản xuất chủ yếu nên
sản xuất nông nghiệp được phân bố rộng khắp hầu như trên các vùng lãnh
thổ của cả nước. Mặt khác, do các năng lực tự nhiên của sản xuất lại phân
bổ không đồng đều giữa các vùng, các miền nên điều đó làm cho sản xuất

mang tính khu vực. Điều này đòi hỏi phải xác định phương hướng để đạt
hiệu quả cao nhất và tạo điều kiện để phát triển nông nghiệp toàn diện.
Như vậy, đặc điểm chủ yếu của sản xuất nông nghiệp là một quá
trình không phải dùng công cụ và máy móc để chế biến nguyên liệu thành
sản phẩm như trong công nghiệp mà nhằm mục đích tạo điện kiện thuận
lợi cho các vật sống tạo ra sản phẩm trong một ngoại cảnh biến động. Kết
quả lao động ở đây không chỉ phụ thuộc vào cường độ, tính chất lao động,
mà còn phụ thuộc có khi quyết định vào điều kiện thiên nhiên, thời tiết.
Do đó trong nông nghiệp không thể đo lường và đánh giá lao động bằng
10


đơn vị giờ lao động trừu tượng cũng không thể trả công (thậm chí hạch
toán) theo khối lượng công việc đã tiến hành, không thể chuyên môn hóa
hẹp theo công đoạn sản xuất, cũng không thể tách lao động quản lý và lao
động thực hiện.
Từ đó, ta thấy rằng: nông nghiệp không chỉ là một ngành kinh tế kỹ thuật như những lĩnh vực khác của hoạt động kinh tế, mà còn là một hệ
thống kinh tế - kỹ thuật - sinh học rất phức tạp. Nông nghiệp bị phụ thuộc
nhiều vào thiên nhiên (dĩ nhiên, để sản xuất một số rau quả đắt tiền dùng
cho xuất khẩu, người ta có thể dùng nhà kính hoặc nhà trồng cây có điều
khiển tự động đảm bảo được độ ẩm, nhiệt độ, ánh sáng cần thiết... song
khó áp dụng rộng rãi vì quá tốn kém, nhất là đối với các nước nghèo).
Những đặc điểm của sản xuất nông nghiệp trên đây không chỉ cho
thấy sự khác biệt giữa nông nghiệp và công nghiệp, mà còn chỉ ra rằng
đơn vị sản xuất cơ bản trong nông nghiệp là từng hộ gia đình nông dân, là
hộ tiểu nông hoặc nông trại, mà không phải là xí nghiệp quy mô lớn với
đông đảo công nhân như trong công nghiệp. Thích hợp nhất đối với nông
nghiệp và lao động cụ thể cùa từng hộ gia đình, gắn bó mật thiết với đất
đai, cây trồng, vật nuôi, để kịp thời ứng phó với những thay đổi bất ngờ
của ngoại cảnh và đòi hỏi của đối tượng lao động khác hẳn với tính chất

lao động của công nhân trong công nghiệp. Do đó, sản xuất nông nghiệp
đòi hỏi người lao động phải làm chủ đất đai, cây trồng, vật nuôi, phải luôn
luôn quan tâm chăm sóc đến đối tượng sản xuất. Có như vậy, họ mới kịp
thời bổ sung, kịp thời điều chỉnh những thao tác kỹ thuật phù hợp với
những diễn biến của ngoại cảnh cây trồng, vật nuôi.
Ngoài những đặc điểm trên đây, nông nghiệp Việt Nam còn có
những đặc điểm riêng, đó là:
(1). Nông nghiệp Việt Nam đang còn là một nền nông nghiệp lạc hậu.
Cho đến nay, nhiều nước đã có nền nông nghiệp phát triển ở trình
độ cao, mọi hoạt động trong sản xuất nông nghiệp đã được cơ giới hóa,
11


điện khí hóa, thủy lợi hóa, hóa học hóa. Một số công việc, nhất là trong
ngành chăn nuôi, đã được tự động hóa. Nhờ đó, năng suất ruộng đất, năng
suất lao động của họ đạt rất cao, tạo ra sự phân công lao động sâu sắc trong
nông nghiệp và toàn bộ nền kinh tế quốc dân. Tỷ lệ lao động trong nông
nghiệp giảm cả tương đối và tuyệt đối, thu nhập của người làm nông
nghiệp ngày càng được nâng cao, khoảng cách giữa thành thị và nông thôn
ngày càng được thu hẹp.
Trong khi đó nông nghiệp nước ta đang ở trình độ rất thấp:
+ Cơ sở vật chất, kỹ thuật của nông nghiệp lạc hậu.
+ Lao động xã hội đại bộ phận tập trung trong nông nghiệp.
+ Sản xuất nông nghiệp còn mang nặng tính tự cấp, tự túc, tỷ suất
nông sản hàng hóa còn thấp.
+ Thu nhập của nông dân thấp, đời sống mọi mặt của họ còn hết
sức khó khăn, sức mua thấp.
+ Thị trường nhỏ lẻ, phân tán, manh mún, mang tính chất mùa vụ.
(2). Nền nông nghiệp nước ta là nền nông nghiệp nhiệt đới, có pha
trộn tính chất ôn đới, nhất là ở miền Bắc.

Đặc điểm này mang lại cho nông nghiệp nước ta một số thuận lợi
khá cơ bản:
+ Chúng ta có nguồn nước phong phú, nguồn ánh sáng dư thừa,
nhờ đó có thể tiến hành sản xuất nông nghiệp quanh năm.
+ Tập đoàn cây trồng và vật nuôi của ta phong phú, đa dạng (có cả
nhiệt đới và ôn đới), nhờ đó rất có điều kiện sản xuất những nông sản có
giá trị kinh tế cao, có khả năng cạnh tranh trên thị trường quốc tế.
Tuy nhiên đặc điểm này cũng đem lại cho nông nghiệp nước ta
những khó khăn không nhỏ, đó là thường xuyên bị sâu bệnh phá hoại.
Ngoài ra, bình quân đất nông nghiệp trên một đầu người của nước ta thấp
cũng là một khó khăn đáng kể. Vì vậy, trong quá trình phát triển nền nông
12


nghiệp nước ta theo hướng sản xuất hàng hóa hiện đại, chúng ta cần tìm
cách phát huy cao độ những mặt thuận lợi và hạn chế đến mức tối đa
những mặt khó khăn của nó, bảo đảm cho nông nghiệp nước ta có sự phát
triển nhanh và vững chắc.
1.1.1.2. Những quá trình có tính quy luật trong việc hình thành
và phát triển nền nông nghiệp hàng hóa
Như chúng ta đã biết, kinh tế nông nghiệp là ngành cơ bản, ngành
gốc, là lĩnh vực bao trùm lãnh thổ kinh tế nông thôn. Nghĩa là sự phát triển
của kinh tế nông nghiệp giữ vai trò quyết định trong kinh tế nông thôn.
Đây là một quá trình phát triển phức tạp, đa dạng. Con người và xã hội
nông thôn đã làm ra lịch sử của mình trên cơ sở những lực lượng sản xuất
và quan hệ sản xuất nhất định, trên cơ sở những thiết chế kinh tế - xã hội
và gắn với những phong tục, tập quán, văn hóa nhất định, trên cơ sở nhận
thức và vận dụng những hiểu biết về những đặc điểm đặc thù của sản xuất
nông nghiệp. Theo đó, các tính quy luật của quá trình hình thành và phát
triển nông nghiệp hàng hóa được diễn ra. Việc nắm bắt, nhận thức, tìm hiểu,

luận giải các quá trình ấy giúp chúng ta có một cách tiếp cận biện chứng
trong quá trình thúc đẩy sự hình thành và phát triển nền nông nghiệp hàng
hóa ở nước ta.
1.1.1.2.1. Quá trình thực hiện các chế độ canh tác trong sản xuất
nông nghiệp
Nói đến sản xuất nông nghiệp trước hết là nói đến cách thức, phương
thức con người khai thác và sử dụng tài nguyên sinh vật, sinh thái làm ra sản
phẩm phục vụ đời sống của mình. Gắn liền với quá trình phát triển của lực
lượng sản xuất, tiến bộ khoa học - kỹ thuật và sự hiểu biết về sinh vật, sinh
thái của loài người, lịch sử phát triển sản xuất nông nghiệp, xét về phương
diện chinh phục và sử dụng tài nguyên thiên nhiên sinh vật, sinh thái, đất đai,
thời tiết khí hậu... đã trải qua nhiều chế độ nông nghiệp từ thấp đến cao.
- Chế độ du canh du mục:

13


Từ khi con người biết gieo trồng và thuần dưỡng được súc vật, lịch
sử loài người bước sang trang chấm dứt thời kỳ mông muội, săn bắn, hái
lượm kéo dài hàng vạn vạn năm và bắt đầu thời kỳ biết sản xuất nông
nghiệp với chế độ du canh du mục. Bằng những chiếc gậy và mồi lửa, con
người sống lang thang, đốt rừng hết mảnh này đến mảnh khác, rồi chọc tỉa,
chờ trời hoặc lùa gia súc đi hết đồng cỏ này đến đồng cỏ khác để từ đất
hay nhờ từ đồng cỏ tự nhiên, kiếm được một ít hạt ngũ cốc, một ít thịt,
sữa nhằm duy trì sự sống. Trong giai đoạn này, sản xuất của con người vẫn
là khai thác tự nhiên và hoàn toàn phụ thuộc vào tự nhiên.
- Chế độ định canh, luân canh bỏ hóa và chăn nuôi thả rông.
Trải qua hàng ngàn năm, đến thời kỳ đồ đồng, đồ sắt, con người đã
biết làm ra cày, cuốc, dao và các công cụ cầm tay khác, đã thấy cần và có
đủ khả năng để định cư, định canh và định chăn thả. Trong sản xuất, các

cộng đồng người đã biết thực hiện luân canh bỏ hóa và chăn nuôi thả rông,
thể hiện sự hiểu biết làm ăn và công sức đóng góp của con người trong sản
xuất nông nghiệp có bước tiến quan trọng. Tuy nhiên về cơ bản vẫn còn
phụ thuộc vào thiên nhiên và vẫn còn là nền nông nghiệp tự nhiên quảng
canh.
- Chế độ nông nghiệp thâm canh cổ truyền trồng trọt kết hợp với
chăn nuôi
Từ khi định canh, định chăn nuôi thả, một mặt nguồn đất đai có độ
phì tự nhiên tốt, dễ khai thác để đưa vào sản xuất ngày càng cạn kiệt, khả
năng mở rộng diện tích ngày càng bị hạn chế và trở nên khó khăn, trong
khi đó dân số lại tăng lên nhanh, nhu cầu về sản phẩm nông nghiệp ngày
càng nhiều. Mặt khác, nhờ cố định làm ăn trên những mảnh đất, những
đồng cỏ nhất định, với những cây trồng và gia súc cụ thể, con người ngày
càng tích lũy được nhiều kinh nghiệm, biết tuyển chọn giống tốt, biết đắp
bờ ruộng, cày sâu bừa kỹ, bón phân hữu cơ, chăm sóc làm cỏ, bắt sâu bắt
bướm, đào mương dẫn nước và tiêu nước, thực hiện luân canh cây trồng và
14


các biện pháp thâm canh khác trong trồng trọt. Về chăn nuôi, con người
cũng đã tuyển lựa được các con giống to khỏe, mắn đẻ, đẻ nhiều. Chăm
bón đồng cỏ tự nhiên, thực hiện luân phiên chăn thả, sử dụng sản phẩm
phụ của ngành trồng trọt làm thức ăn cho gia súc, gia cầm. Trong vườn
quanh nhà, nhiều gia đình đã phát triển sản xuất theo mô hình VAC ở
đồng bằng và mô hình VACR ở trung du miền núi. Những kinh nghiệm đó
được truyền từ đời này qua đời khác và ngày càng được bổ sung thêm,
nâng cao hơn về chất lượng, dần dần trở thành tập quán, thói quen sản
xuất, được đúc kết thành kiến thức thâm cảnh cổ truyền (hay truyền
thống). Qua hàng thế kỷ thâm canh cổ truyền, nhiều vùng thâm canh
truyền thống lúa nước, lúa mỳ trên thế giới hình thành và phát triển, lấy

việc nâng cao năng suất cây trồng gắn liền với việc bảo vệ và nâng cao độ
phì nhiêu của đất và cải thiện môi trường sinh thái làm con đường chủ yếu
để tăng sản phẩm nông nghiệp. Tuy vậy, do thâm canh cổ truyền vẫn còn
giới hạn trong kinh nghiệm của nông dân, trong những biện pháp nông
nghiệp truyền thống, nên các vùng thâm canh chưa cao, năng suất cây
trồng, năng suất vật nuôi và nhất là năng suất lao động tăng lên chậm
không tương xứng với tốc độ tăng dân số.
- Chế độ chuyên canh, thâm canh tiên tiến
Đến nửa đầu thế kỷ 20, công nghiệp cơ khí và hóa học phát triển
tập trung, có khả năng trang bị cho nông nghiệp những vật tư kỹ thuật
hiện đại như năng lượng, động cơ, máy móc có công suất cao, phân bón,
thuốc trừ sâu... Từ đó các trung tâm nghiên cứu cải tạo giống xuất hiện và
hoạt động mạnh mẽ với chức năng nghiên cứu việc ứng dụng các biện
pháp kỹ thuật trồng trọt, chăn nuôi khi sử dụng các vật tư kỹ thuật mới sao
cho thích ứng với điều kiện tự nhiên sinh hoạt và xã hội ở từng vùng. Nhờ
đó chế độ trồng trọt chăn nuôi đa canh tủn mủn và thâm canh cổ truyền
được thay thế bằng chế độ sản xuất chuyên môn hóa và thâm canh hiện
đại. Đặc trưng chủ yếu của chế độ sản xuất nông nghiệp này là:

15


+ Trồng trọt tách rời khỏi chăn nuôi, thực hiện chuyên môn hóa
cao, hình thành các cánh đồng chuyên canh, các chuồng trại nuôi chuyên
để tiện sử dụng các vật tư kỹ thuật mới; nhất là các phương tiện cơ giới
máy móc nông nghiệp.
+ Sử dụng các giống mới có năng suất cao, có khả năng hấp thụ
phân hóa học, thuận tiện cho việc cơ giới hóa và các biện pháp kỹ thuật khác.
+ Tăng nhanh sản lượng trên mỗi đơn vị diện tích (năng suất ruộng
đất) và sản lượng trên mỗi đơn vị lao động (năng suất lao động) để đáp

ứng yêu cầu của công nghiệp hóa và đô thị hóa cả về lương thực, thực
phẩm và nguồn lao động.
+ Tất cả các biện pháp kỹ thuật hiện đại là tập trung khai thác đến
mức tối đa, nếu không muốn nói là kiệt quệ độ phì của đất đai, điều kiện
thuận tiện của môi trường hiện có để đạt mục tiêu kinh tế duy nhất là tăng
năng suất ruộng đất và năng suất lao động, làm cho chất đất ngày càng
giảm xuống, môi trường sinh thái ngày càng xấu đi.
Chế độ nông nghiệp này đã diễn ra chủ yếu từ những năm 50 trở
lại đây với cơ giới hóa là chủ yếu trong những năm 50 - 60, với cuộc cách
mạng xanh và hóa học hóa vào những năm 60 - 80, với hiện đại hóa và
tổng hợp những năm 80 - 90, đã làm cho nông nghiệp thế giới có bước
phát triển nhảy vọt. Nhiều vùng không những đáp ứng đủ nhu cầu nông
sản cho công nghiệp hóa và sau công nghiệp hóa mà còn xuất khẩu ngày
càng nhiều sang các khu vực khác. Song trả giá cho quá trình phát triển
này là đất đai ngày càng nghèo, thiếu chất hữu cơ nghiêm trọng, độ che
phủ quá thấp, thời tiết khí hậu ngày càng khắc nghiệt với nông nghiệp, tài
nguyên đất đai, sinh vật, sinh thái - cơ sở vật chất tự nhiên không thể thiếu
được của sản xuất nông nghiệp - ngày càng bị phá hoại. Trước nguy cơ đó,
với sự tiến bộ của khoa học sinh vật và sinh thái, của công nghệ sinh học,
với sự cung ứng ngày càng nhiều phương tiện kỹ thuật tinh vi, hiện đại của
công nghiệp, đã và đang bắt buộc vào tạo điều kiện cho nông nghiệp

16


chuyển sang chế độ sản xuất tiến bộ hơn, hợp lý hơn, hiện đại hơn - đó là
chế độ nông nghiệp sinh thái bền vững và hiện đại.
- Chế độ nông nghiệp sinh thái bền vững và hiện đại
Chế độ nông nghiệp sinh thái bền vững và hiện đại được xây dựng
trên một quan điểm hoàn toàn mới đối với nông nghiệp. Nông nghiệp bây

giờ không chỉ là một ngành kinh tế sinh vật mà cao hơn nữa là một ngành
kinh tế sinh vật - sinh thái. Đối tượng tác động của con người không chỉ
dừng lại ở đất đai, cây trồng, vật nuôi riêng biệt mà là một tổng hòa sinh
vật - sinh thái, một hệ thống sinh vật - sinh thái. Sản phẩm của nó sản xuất
ra không chỉ là những sản phẩm của cây trồng và vật nuôi, đành rằng
những sản phẩm này ngày càng dồi dào hơn, với chủng loại phong phú
hơn, chất lượng cao hơn và hình vẽ tươi đẹp hơn mà còn là cả môi trường
sinh thái phát triển hài hòa tạo cơ sở tự nhiên vững chắc cho nông nghiệp
phát triển ổn định, lâu bền, đem lại sự trong sạch, tươi mát, dễ chịu cho
cuộc sống con người, mặt khác, nó còn góp phần tích cực tái tạo lại một
phần tự nhiên, đảm bảo sự yên lành của môi trường, đảm bảo nguồn lực tự
nhiên quan trọng cho các thế hệ tương lai.
Nội dung xây dựng một nền nông nghiệp hàng hóa, mang tính chất
sinh thái, bền vững và hiện đại chắc chắn là rất cao và rất phong phú, gắn
liền với việc phát triển một nền nông nghiệp văn minh hiện đại trong thế
kỷ XXI trên cơ sở những phát kiến mới về khoa học sinh vật, vi sinh vật,
sinh thái và các khoa học khác gắn liền với sinh vật và sinh thái, những
công nghệ mới về sinh học, những năng lượng mới, những máy móc tinh
vi được đưa vào sản xuất điều khiển quá trình hoạt động của sinh vật và
sinh thái.
Sinh vật - sinh thái là kết quả tổng hòa của các điều kiện và yếu tố
tự nhiên trên một vùng lãnh thổ, lãnh hải nhất định. Do điều kiện tự nhiên
khác nhau mà có các vùng sinh thái - sinh vật không giống nhau. Hệ sinh
thái - sinh vật biển hoàn toàn khác với hệ sinh thái - sinh vật lục địa. Dưới

17


biển lại được phân ra hệ sinh thái - sinh vật đại dương, hệ sinh thái - sinh
vật thềm lục địa. Trên đất liền bao gồm hệ sinh thái - sinh vật ven biển, hệ

sinh thái - sinh vật đồng bằng, hệ sinh thái - sinh vật trung du vùng đồi
thấp và hệ sinh thái - sinh vật vùng núi. Trong mỗi vùng lớn đó lại bao
gồm nhiều tiểu vùng sinh thái - sinh vật khác nhau do có sự khác nhau nổi
trội về một số yếu tố tự nhiên nào đó. Trên mỗi vùng sinh thái, tiểu vùng
sinh thái đều có tập đoàn cây con tương ứng thích hợp, trong đó có những
loại cây con vừa đóng vai trò chủ yếu trong tập đoàn cây, tập đoàn con vừa
có thể đưa lại hiệu quả kinh tế cao.
Trên mỗi vùng sinh thái và tiểu vùng sinh thái lại có sự khác biệt
nhất định về thời tiết giữa mùa mưa và mùa khô, giữa mùa nóng và mùa
lạnh, vì vậy đã hình thành nên những mùa cây con khác nhau. Ở những
vùng sinh thái có độ chiếu sáng mạnh của mặt trời, có độ ẩm và độ nhiệt
cao thường xuất hiện hệ sinh vật (kể cả trên cạn và dưới nước) nhiều tầng.
Hệ sinh thái và sinh vật tác động qua lại lẫn nhau, luôn tạo điều
kiện thuận lợi cho nhau trong quá trình vận động phát triển. Nếu một bên
vì lý do nào đó bị sút giảm hoặc bị phá hoại thì lập tức bên kia cũng bị ảnh
hưởng tương ứng.
Với nhận thức tổng quát ban đầu về sinh thái và sinh vật, hệ sinh
thái và hệ sinh vật, mối quan hệ hữu cơ giữa chúng với nhau như trên,
trong điều kiện hiện nay muốn có một nền nông nghiệp sinh thái bền vững
thì nhất thiết phải làm tốt những việc có tính nguyên tắc sau đây:
- Trên cơ sở nghiên cứu nắm vững hệ sinh thái, hệ sinh vật cả về
lịch sử và hiện tại của mỗi vùng mà lựa chọn những cây trồng và vật nuôi
có lợi thế so sánh cao trên thị trường, phù hợp với điều kiện sinh thái của
vùng để tập trung phát triển thành các ngành hàng hóa lớn của vùng.
- Xác định và thực hiện công thức kết hợp hợp lý giữa trồng trọt chăn nuôi - thả cá - trồng rừng với mô hình VAC hoặc VACR trong các

18


hộ cũng như trên cả vùng lớn, trong đó các cây con sản xuất hàng hóa

chính đóng vai trò trung tâm.
- Xác định và thực hiện các công thức khoa học về luân canh, xen canh,
gối vụ trên đồng rộng, về kết hợp các cây trồng trong vườn, trên đồi, về tập
đoàn con nuôi trong từng nông trại, về tập đoàn tôm cá trên từng mặt nước...
- Xây dựng và thực hiện các dây chuyền công nghệ nông nghiệp
tiên tiến không chỉ riêng cho từng cây con mà còn tổng hợp cho từng công
thức luân canh kết hợp nói trên.
- Khi du nhập giống mới, chủng loại cây con mới từ ngoài vào, từ
vùng này sang vùng kia, trước khi đưa vào sản xuất đại trà phải thông qua
giai đoạn khảo nghiệm, xem lại sự thích nghi của nó với hoàn cảnh sinh
thái mới. Việc khảo nghiệm chúng phải đặt trong khuôn khổ một công
thức luân canh hay kết hợp nhất định.
Nông nghiệp nước ta hiện đang ở trình độ kết hợp thâm canh
truyền thống với thâm canh hiện đại, đang chuyển từ sản xuất tự cấp tự túc
với nhiều loại cây con tủn mủn sang sản xuất hàng hóa chuyên môn hóa.
Với kiến thức mới về nông nghiệp, với sự mở cửa hòa nhập nền kinh tế,
nền nông nghiệp nước ta với thế giới cho phép ngay từ bây giờ trong chiến
lược phát triển nông nghiệp, một trong những mục tiêu hàng đầu và cơ bản
là hướng tới xây dựng một nền nông nghiệp sinh thái bền vững với các chế
độ nông nghiệp khoa học phù hợp với hệ sinh vật - sinh thái của từng
vùng. Việc phát triển nông nghiệp của cả nước cũng như của mỗi vùng cần
được quy hoạch và thiết kế nhằm hướng tới một nền nông nghiệp sản xuất
hàng hóa lớn, phong phú, đa dạng đồng thời cũng là một nền nông nghiệp
phát triển hài hòa và ngày càng tốt hơn cả về hệ sinh vật và hệ sinh thái.
Muốn vậy, những vấn đề nguyên tắc nêu trên cần được thể hiện trong nội
dung quy hoạch, thiết kế nông nghiệp và được nghiêm túc quán triệt trong
quá trình thực hiện các quy hoạch thiết kế đó.

19



1.1.1.2.2. Quá trình vận động của cơ cấu các ngành nông nghiệp
thông qua hệ thống phân công lao động xã hội
Nông nghiệp là một tổ hợp các ngành kinh tế sinh học cụ thể trong
lĩnh vực nông - lâm - ngư nghiệp. Chúng được hình thành trên cơ sở phân
công lao động xã hội. Trình độ và quy mô sản xuất phát triển đến mức cho
phép tách việc sản xuất các nhóm sản phẩm hay các sản phẩm thành ngành
kinh tế sinh vật cụ thể tương đối độc lập với nhau song lại gắn bó hữu cơ
với nhau trong quá trình phát triển. Các ngành và tiểu thứ ngành sản xuất
trong lĩnh vực nông nghiệp, với quy mô phát triển của mình, kết hợp hữu
cơ với nhau, hình thành nên cơ cấu các ngành nông nghiệp. Đó là cấu trúc
(kết cấu) ngành thể hiện dáng vẻ và trình độ phát triển của nền nông
nghiệp, qua đó có thể thấy được trình độ phân công lao động xã hội trong
nông nghiệp; sự đóng góp của ngành đối với nền kinh tế quốc dân, đối với
sự phát triển của xã hội; mức độ sử dụng tài nguyên sinh vật, sinh thái, đất
đai và lao động - những nguồn vốn quý giá và đầy tiềm năng trong nông
nghiệp; sự phối hợp cân đối giữa các thứ ngành và tiểu thứ ngành trong sự
phát triển ổn định và bền vững của toàn ngành nông nghiệp.
Theo đó, tính chất sản xuất hàng hóa trong nông nghiệp cũng được
thể hiện ra.
Do vậy, cần nắm bắt sự hình thành và tính quy luật chuyển dịch
của cơ cấu các ngành nông nghiệp. Trong thực tiễn, về mặt khoa học,
không phải cứ có loài tài nguyên sinh vật gì thì có ngành sinh vật đó,
không phải có sản xuất thứ gì thì có ngành sản xuất thứ đó, và cũng không
phải ở đâu và lúc nào cũng có thể phát triển được một nền nông nghiệp
toàn diện. Phát triển nông nghiệp toàn diện với việc dịch chuyển cơ cấu
nông nghiệp theo hướng sản xuất hàng hóa có mâu thuẫn với nhau không?
Việc chuyển dịch cơ cấu nông nghiệp có phải chỉ chủ yếu gắn liền với việc
tổ chức phân công lao động trong nội bộ nông nghiệp không?


20


Khi xem xét các phương thức sản xuất nông nghiệp từ thấp tới cao,
chúng ta thấy rằng nó tuân theo các quá trình, các nguyên tắc nghiêm ngặt,
ứng với các trình độ khác nhau của lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất
cùng với các thiết chế, hoàn cảnh kinh tế - xã hội nhất định.
Nông nghiệp là lĩnh vực hoạt động sản xuất đầu tiên của con người.
Khi còn thông qua trồng tỉa lương thực và chăn thả gia súc để lấy sản
phẩm sinh sống, thì phạm trù ngành sản xuất chưa được lịch sử đặt ra. Mãi
đến cuộc phân công lao động xã hội lần thứ nhất - chăn nuôi bước đầu tách
khỏi trồng trọt, sự trao đổi giữa các bộ lạc trồng trọt và các bộ lạc chăn
nuôi còn quá ít ỏi và thất thường. Cùng với quá trình phát triển của lực
lượng sản xuất, với việc nâng cao năng suất lao động của sản xuất lương
thực và chăn thả gia súc, với những kinh nghiệm tích lũy được của loài
người trong sản xuất, trong chế tạo công cụ, tìm kiếm và chinh phục các
cây trồng, vật nuôi mới từ từ ra đời các nghề thủ công và tách thành các hộ
độc lập. Cũng từ đó, hộ gia đình kinh tế cá thể và sở hữu tư nhân được
hình thành và phát triển. Ban đầu, một số cây rau, cây ăn quả và cây công
nghiệp, một số gia súc, gia cầm mới được đưa vào sản xuất thêm trong các
gia đình để bổ sung cho ăn uống của họ, chuẩn bị cho một cuộc phân công
lao động mới và hình thành các ngành sản xuất khác nhau trong nông
nghiệp. Chỉ mãi cho tới sau khi có phân công lao động xã hội lần thứ hai thủ công nghiệp tách khỏi nông nghiệp và sản xuất, trao đổi hàng hóa trở
thành rõ nét hơn tuy vẫn còn ở trình độ sản xuất hàng hóa rất đơn giản, thì
phân công lao động xã hội với việc xuất hiện các ngành mới trong nội bộ
nông nghiệp mới thực sự diễn ra. Nhưng quy mô sản xuất và ý nghĩa kinh
tế của các ngành đó còn nhỏ bé và giới hạn trong từng địa phương, từng
vùng kinh tế tự nhiên, tự cung, tự cấp.
Với quá trình công nghiệp hóa đất nước vừa đòi hỏi nông nghiệp
cung cấp ngày càng nhiều lương thực, thực phẩm, nguyên liệu chế biến và

lao động cho công nghiệp, vừa tạo cơ sở hạ tầng, trang bị thêm nhiều

21


phương tiện vật tư kỹ thuật cho nông nghiệp sản xuất hàng hóa và chuyên
môn hóa, với sự kích thích của sản xuất hàng hóa và cơ chế thị trường, với
sự tiến bộ về khoa học - kỹ thuật nông nghiệp, các hộ nông dân, các cơ sở
sản xuất nông nghiệp đã chuyển dần phương hướng sản xuất của mình từ
tự túc tự cấp sang sản xuất hàng hóa, gắn với thị trường, gắn với xã hội.
Nhiều vùng kinh tế tự nhiên chuyển sang sản xuất những cây, con thích
nghi với điều kiện sinh thái của mình và có lợi thế so sánh hơn các vùng
khác, trên thị trường hình thành những vùng nông nghiệp sản xuất hàng
hóa lớn và chuyên môn hóa cao. Nhiều vùng sinh vật - sinh thái có tài
nguyên tiềm ẩn to lớn, nay trong điều kiện mới về thị trường, về khoa học
- kỹ thuật - công nghệ, đã bật dậy thành những vùng nông nghiệp chuyên
môn hóa và hàng hóa mới. Đồng thời với quá trình hàng hóa hóa và
chuyên môn hóa, các cơ sở sản xuất nông nghiệp, các vùng nông nghiệp,
các ngành sản xuất hàng hóa lớn trong nông nghiệp xuất hiện ngày càng
nhiều với nhiều loại nông phẩm hàng hóa cao cấp và quy mô vượt qua
khỏi phạm vi vùng, mang tính chất quốc gia và có loại mang tính chất
quốc tế. Gắn với quá trình hình thành và phát triển ngày càng phong phú,
đa dạng các ngành kinh tế hàng hóa sinh vật, cây con trong nông nghiệp,
cơ cấu giữa các ngành đó cũng ngày càng phức tạp và luôn biến đổi theo
nhu cầu của xã hội, của thị trường và khả năng tăng lên của con người
trong việc chinh phục và sử dụng các tài nguyên sinh vật và sinh thái từ dễ
đến khó. Từ chỗ chỉ biết khai thác sử dụng một cách thực dụng vì mục
đích kinh tế trước mắt đến chỗ sử dụng hợp lý khoa học, gắn hiệu quả
trước mắt với hiệu quả lâu dài, gắn lợi ích kinh tế với bảo vệ môi trường
sống và cải tạo môi trường sinh thái.

Kinh nghiệm của thế giới và trong nước cho thấy, sự chuyển dịch
cơ cấu các ngành nông nghiệp trong quá trình sản xuất hàng hóa mang
tính quy luật như sau:

22


- Từ nông nghiệp trồng trọt và chăn nuôi mở ra lâm nghiệp và ngư
nghiệp - những ngành có giá trị kinh tế cao nhưng việc sản xuất khó khăn
hơn, đòi hỏi một trình độ cơ sở vật chất - kỹ thuật nhất định và vốn đầu tư
cao hơn. Trong quá trình phát triển, tỷ trọng của lâm và ngư nghiệp lớn lên,
còn tỷ trọng của nông nghiệp thì giảm đi, mặc dù ngành này vẫn tăng trưởng.
- Trong nông nghiệp theo nghĩa hẹp (gồm trồng trọt và chăn nuôi)
trên cơ sở phát triển trồng trọt, trước hết là sản xuất ngũ cốc, rau quả, cây
công nghiệp, chăn nuôi sẽ phát triển nhanh hơn, tỷ trọng của nó lớn dần
lên và đến mức lớn hơn tỷ trọng trồng trọt để đáp ứng nhu cầu ăn ngày
càng ngon, đủ dinh dưỡng cho con người và cũng tương ứng với yêu cầu
ngày càng cao của ngành chăn nuôi về kỹ thuật và vốn đầu tư.
- Trên cơ sở phát triển sản xuất lương thực, nhất là từ khi vượt qua
ngưỡng cửa về nhu cầu lương thực, sản xuất các loại rau đậu cao cấp, cây
ăn quả và cây công nghiệp phát triển nhanh, trở thành những ngành nông
nghiệp hàng hóa lớn, trong đó có nhiều loại sản xuất trở thành ngành xuất
khẩu quan trọng. Do vậy tỷ trọng của các ngành đó lớn lên không ngừng
và tỷ trọng của lương thực thì giảm đi tương ứng.
- Gắn liền với sự phát triển của nền kinh tế, thu nhập và đời sống
của nhân dân được nâng cao, nhu cầu ăn ở, vui chơi giải trí, du lịch, nghỉ
mát của con người cũng tăng lên... Do đó, các ngành sản xuất các cây con
làm nguyên liệu, món ăn đặc sản, sản xuất hoa, cây cảnh, chim, thú, cá
cảnh cũng được phát triển nhanh chóng, đóng góp ngày càng to lớn và
chiếm tỷ trọng ngày càng cao hơn trong giá trị sản lượng và thu nhập nói

chung của nông nghiệp.
Những xu hướng chuyển dịch khách quan trên đây của cơ cấu các
ngành nông nghiệp, một mặt phản ánh yếu tố cốt lõi quyết định xu hướng
chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông nghiệp nói chung trong sản xuất hàng
hóa, mặt khác cũng thể hiện sự phát triển ngày càng hợp lý, tiến bộ, văn
minh của nông nghiệp, nông thôn trong thời đại ngày nay.

23


Song cơ cấu các ngành nông nghiệp và bản thân các ngành đó là có
tính cụ thể đối với từng cơ sở sản xuất nông nghiệp, từng vùng kinh tế
nông nghiệp và mỗi quốc gia. Phát triển những ngành cây con cụ thể gì?
Quy mô đến đâu? Sự kết hợp giữa các ngành đó ra sao? Trong quan hệ tỷ
lệ nào? Rồi vấn đề giá cả, thị trường, chủ thể sản xuất..., thông thường do
các yếu tố chủ yếu sau đây quyết định:
- Các dạng tài nguyên sinh vật cụ thể (cây, con cụ thể), quy mô
diện tích từng cây, số đầu con từng vật nuôi trong tài nguyên nói trên có
thể phát triển được.
- Thị trường và nhu cầu thị trường về các sản phẩm gắn liền với tài
nguyên sinh vật cụ thể của mình. Khả năng vận chuyển và lưu thông hàng
hóa.
- Trình độ khoa học kỹ thuật (bao gồm cả vật tư kỹ thuật và quy
trình công nghệ), nguồn vốn và kỹ năng lao động...
- Sự kết hợp của tập đoàn cây, con, giữa nông-lâm-ngư, giữa cây và
con do điều kiện sinh thái cụ thể đòi hỏi.
Như vậy, hình thù cụ thể giữa các ngành và cơ cấu giữa các ngành
đó trong quá trình sản xuất nông sản hàng hóa rất khác nhau giữa các đơn
vị sản xuất nông nghiệp, giữa các vùng kinh tế nông nghiệp và giữa các
quốc gia. Trong mỗi cơ sở sản xuất, mỗi vùng nông nghiệp, mỗi quốc gia

có những ngành nổi trội, những ngành chuyên môn hóa chủ yếu và những
ngành bổ sung kết hợp trong một cơ cấu nông nghiệp hợp lý. Vị trí giữa
các ngành nổi trội (ngành hàng hóa chủ yếu) và ngành kết hợp được
chuyển đổi theo lợi thế so sánh của từng ngành, từng mặt hàng nông sản
trên thị trường. Mặt khác, với sự biến đổi của cung và cầu, của sự vận
hành của hộp đen kinh tế vĩ mô, của giá cả trên thị trường, một số sản
phẩm bị lỗ buộc phải ngừng sản xuất, và ngượclại một số ngành, mặt hàng
mới lại được phát triển nhanh. Do đó, cơ cấu các ngành, các sản phẩm nông

24


nghiệp không những là cụ thể mà còn luôn biến đổi theo sự phát triển của sản
xuất hàng hóa và thị trường.
Với quan niệm trên, khi nói phát triển nông nghiệp đa dạng, toàn
diện là phải nhấn mạnh đến việc tập trung phát triển những ngành sản xuất
hàng hóa có lợi thế so sánh, đồng thời kết hợp phát triển các cây, con, các
sản phẩm bổ sung để sử dụng hết tiềm năng đa dạng của cơ sở trong một
cơ cấu sản xuất kinh doanh hợp lý. Đứng trên góc độ cả nước, với nhiều
vùng sinh thái đa sạng phức tạp như nước ta, nói phát triển nông nghiệp
toàn diện có nghĩa là trên nền cây trồng, vật nuôi đa dạng và phong phú
đó, phải hình thành và phát triển các vùng sản xuất hàng hóa lớn với cơ
cấu chuyên môn hóa một số cây con hàng hóa có thế mạnh kết hợp với
phát triển tổng hợp, đồng thời phải tập trung đẩy mạnh phát triển và tổ
chức tốt các ngành kinh doanh cây, con xuất khẩu. Chỉ trên cơ sở sản xuất
hàng hóa ấy mới có thể hình thành và phát triển một nền nông nghiệ p toàn
diện, gồm nhiều vùng nông nghiệp chuyên môn hóa, nhiều ngành cây, con
xuất khẩu mạnh trong cơ cấu ngành, vùng và việc bố trí hợp lý lực lượng lao
động ở nước ta hiện nay.
1.1.1.2.3. Quá trình tạo lập, hình thành và phát triển các vùng sản

xuất nông sản hàng hóa
Chúng ta biết rằng, nông nghiệp nằm trải dài trên một không gian
rộng lớn, phức tạp, mang nhiều sắc thái khác nhau về tự nhiên kinh tế giữa
các vùng. Sự khác biệt về các yếu tố tự nhiên giữa các vùng lãnh thổ đã
hình thành nên các vùng tự nhiên khác nhau: vùng địa hình, vùng thổ
nhưỡng, vùng khí hậu, vùng sinh vật và vùng sinh thái. Mỗi loại vùng tự
nhiên trên đây được hình thành bởi các đặc trưng riêng và được phân theo
những tiêu thức nhất định của từng yếu tố. Các vùng đó đan xen vào nhau,
lồng vào nhau, song không trùng khít với nhau. Trước hết là vùng sinh vật,
vùng sinh thái, là cơ sở tự nhiên của việc hình thành các vùng cây trồng và
vật nuôi. Song các vùng cây trồng và vật nuôi đó phát triển với quy mô nào,
25


×