Tải bản đầy đủ (.doc) (209 trang)

LUẬN án TIẾN sĩ THỊ TRƯỜNG TIÊU THỤ HÀNG NÔNG sản của VIỆT NAM TRONG bối CẢNH hội NHẬP AFTA

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (823.39 KB, 209 trang )

1

MỞ ĐẦU

1. Tính cấp thiết của đề tài
Việt Nam cho đến nay về cơ bản vẫn là một nước nông nghiệp với
hơn 80% dân số và 70% lực lượng lao động của cả nước sinh sống bằng nghề
nông. Sự phát triển của ngành sản xuất nông nghiệp có ảnh hưởng rất lớn tới
sự phát triển của cả nền kinh tế, tới an ninh lương thực quốc gia và sự ổn định
chính trị - xã hội của Việt Nam.
Trong quá trình chuyển nền kinh tế sang cơ chế thị trường có sự quản
lý điều tiết của nhà nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa (XHCN), ngành
sản xuất nông nghiệp cũng như các ngành kinh tế khác ở Việt Nam đã thu
được những thành tựu khá ngoạn mục. Từ một nước thiếu lương thực thường
xuyên, Việt Nam chẳng những đã đảm bảo được an ninh lương thực quốc gia
mà còn trở thành một nước có số lượng gạo xuất khẩu đứng thứ hai thế giới.
Ngành sản xuất nông nghiệp đã đáp ứng được đầy đủ nhu cầu trong nước và
cung cấp nhiều mặt hàng nông sản xuất khẩu ra nước ngoài với số lượng ngày
càng tăng, thu về một lượng ngoại tệ không nhỏ, phục vụ cho quá trình công
nghiệp hóa, hiện đại hóa (CNH, HĐH) đất nước.
Tuy nhiên, nền sản xuất nông sản hàng hóa của Việt Nam hiện nay
vẫn còn đang ở trình độ thấp và phát triển thiếu ổn định. Lượng nông sản
hàng hóa tuy chưa nhiều và chưa đa dạng nhưng hiện tượng ứ đọng sản phẩm,
ách tắc trong khâu lưu thông thường xuyên diễn ra; giá cả hàng nông sản lên
xuống thất thường. Điều này có ảnh hưởng không nhỏ tới sản xuất và đời
sống của hàng chục triệu hộ nông dân, tới sự phát triển của sản xuất nông
nghiệp và tới cả nền kinh tế. Do vậy, vấn đề giải quyết "đầu ra" cho các nông
sản hàng hóa là vấn đề cấp bách, được bàn thảo thường xuyên tại các cuộc
họp, hội nghị của Đảng và Chính phủ. Đặc biệt, trong bối cảnh hội nhập



2

AFTA, khi hàng rào quan thuế và phi quan thuế phải dỡ bỏ, Việt Nam phải
mở cửa thị trường cho hàng nông sản của các nước trong khu vực, hàng nông
sản của Việt Nam phải cạnh tranh gay gắt không chỉ ở thị trường khu vực, thị
trường thế giới mà ở ngay tại thị trường nội địa. Mở rộng và phát triển thị
trường "đầu ra" cho các hàng nông sản luôn là vấn đề khó giải quyết ngay cả
đối với các nước có nền nông nghiệp phát triển.
Chính vì vậy, "Thị trường tiêu thụ hàng nông sản của Việt Nam
trong bối cảnh hội nhập AFTA" được tác giả chọn làm đề tài luận án tiến sĩ.
2. Tình hình nghiên cứu đề tài
Các công trình khoa học đã công bố có liên quan đến đề tài (đề tài
khoa học các cấp, sách chuyên khảo, các bài báo trên các tạp chí...) có thể
phân thành 4 loại sau đây:
a) Các công trình khoa học nghiên cứu về thị trường tiêu thụ hàng nông
sản ở nước ta nói chung hay ở từng vùng - lãnh thổ, từng địa phương nói
riêng:
- Trần Đình Hiên: Những vấn đề kinh tế chủ yếu của thị trường tiêu
thụ sản phẩm nông nghiệp Việt Nam”, Luận án tiến sĩ Kinh tế, trường Đại học
quốc dân Hà Nội, 1992.
- Đặng Phong Vũ: Thị trường tiêu thụ nông phẩm của đồng bằng sông
Cửu Long hiện nay. Đặc điểm và phương hướng phát triển, Luận án tiến sĩ
kinh tế, Học viện Chính trị Quốc gia Hồ Chí Minh, Hà Nội, 2003.
- "Những giải pháp chủ yếu thúc đẩy tiêu thụ nông sản hàng hóa ở
nước ta". Trích báo cáo đề án: Thúc đẩy tiêu thụ hàng hóa để phát triển sản
xuất nông nghiệp, thủy sản ở nước ta, Tạp chí Kinh tế và dự báo, số 6, 2000.
- Học viện Tài chính, Viện Khoa học Tài chính: Các giải pháp tài chính
mở rộng thị trường tiêu thụ nông sản hàng hóa, Nxb Tài chính, Hà Nội, 2003.



3

Các công trình trên đã đi sâu nghiên cứu về sự bất cập giữa khả năng
sản xuất, cung ứng hàng nông sản với việc tiêu thụ hàng nông sản ở thị trường
trong nước cũng như ở ngoài nước. Từ đó kiến nghị các biện pháp vừa đẩy
mạnh sản xuất hàng nông sản, vừa đổi mới cơ chế, chính sách đẩy mạnh lưu
thông, tiêu thụ hàng nông sản.
b) Các công trình khoa học nghiên cứu về sự phát triển nông nghiệp,
nông thôn ở nước ta trong điều kiện hội nhập kinh tế khu vực và quốc tế:
- Lê Xuân Đình: Nông nghiệp Việt Nam trong quá trình hội nhập quốc
tế, Tạp chí Cộng sản, số 11, 6/2000.
- Lương Văn Tự - Thứ trưởng Bộ Thương mại: Nông nghiệp Việt Nam
trước thách thức của hội nhập kinh tế, Tạp chí Cộng sản, số 11, 6/2001.
- PGS.TS Vũ Trọng Khải: Lợi thế và các bất lợi thế của nông sản Việt
Nam trong bối cảnh tự do hóa thương mại, Tạp chí Nông nghiệp và Phát triển
nông thôn, số 6/2001.
- TS. Phạm Văn Linh: Chủ động hội nhập kinh tế quốc tế với việc đẩy
nhanh công nghiệp hóa, hiện đại hóa nông nghiệp, nông thôn nước ta giai
đoạn 2001-2010, Tạp chí Nông nghiệp và Phát triển nông thôn, số 5/2002.
- Nguyễn Văn Nam: Ảnh hưởng của AFTA, WTO đến sản xuất và xuất
khẩu gạo của Việt Nam, Tạp chí Kinh tế và dự báo, số 6, 1999.
- Nguyễn Thanh Vân: Thương mại thế giới và xuất khẩu nông sản của
Việt Nam, Tạp chí Nông nghiệp và Phát triển nông thôn, số 1, 2001.
- TS. Bùi Thị Lý: Chính sách trợ cấp nông sản của các nước phát triển
và những tác động tới thương mại hàng nông sản của các nước đang phát
triển, Tạp chí Những vấn đề kinh tế thế giới, số 9, 2004. Phân tích những rào
cản do trợ cấp ở các nước phát triển trong việc mở rộng thị trường tiêu thụ
nông sản của các nước đang phát triển.
- Trần Mạnh Tảo: Các vòng đàm phán Uragoay về nông nghiệp và tác
động thực tiễn của chúng, Tạp chí Những vấn đề kinh tế thế giới, số 2, 2003.



4

- Phạm Đỗ Chí, Đặng Kim Sơn, Trần Nam Bình, Nguyễn Tiến Triển
(chủ biên): Làm gì cho nông thôn Việt Nam? - Nxb Thành phố Hồ Chí Minh,
Trung tâm Kinh tế Châu Á - Thái Bình Dương (VAPEC), Thời báo Kinh tế
Sài Gòn. Ngoài những vấn đề chung về phát triển nông nghiệp nông thôn,
công trình trên còn phân tích tác động của những cam kết hội nhập Kinh tế
quốc tế (AFTA, AC-FTA, Hiệp định thương mại Việt Nam – Hoa Kỳ) đến sự
phát triển của ngành nông nghiệp Việt Nam.
Và một số tác giả khác như GS.TS Nguyễn Sinh Cúc, GS Nguyễn
Điền, GS Bùi Huy Đáp… trong khi nghiên cứu các vấn đề về phát triển nông
nghiệp nông thôn Việt Nam thời kỳ đổi mới và hội nhập kinh tế quốc tế, có
bàn đến vấn đề thị trường tiêu thụ hàng nông sản.
Các công trình trên đã đi sâu nghiên cứu về con đường đi lên của nông
nghiệp, nông thôn nước ta. Vấn đề thị trường trong và ngoài nước chỉ được đề
cập đến như một trong nhiều giải pháp để ổn định, phát triển nông nghiệp,
nông thôn.
c) Các công trình khoa học nghiên cứu về thị trường tiêu thụ từng mặt
hàng nông sản trong điều kiện mở cửa, hội nhập:
- Bộ Tài chính - Trung tâm Thông tin và Thẩm định giá miền Nam TS. Nguyễn Văn Thọ: Một số biện pháp hoàn thiện chiến lược Marketing
xuất khẩu gạo Việt Nam, Nxb Thành phố Hồ Chí Minh, 2003. Công trình đã
đề cập đến các giải pháp phát triển thị trường cho gạo Việt Nam.
- Nguyễn Trường Đảnh: Chiến lược thị trường xuất khẩu nông sản
tỉnh Cần Thơ, Luận văn thạc sĩ kinh tế - Trường Đại học Kinh tế Thành phố
Hồ Chí Minh, 1996.
- Nguyễn Đông Phong: Chiến lược thâm nhập thị trường thế giới
hàng nông sản của Thành phố Hồ Chí Minh, Luận án phó tiến sĩ kinh tế,
chuyên ngành: kinh tế, quản lý và kế hoạch hóa kinh tế quốc dân, mã số

5.02.05, Đại học Kinh tế Thành phố Hồ Chí Minh.


5

- Trung tâm thông tin thương mại: Một số vấn đề về sản xuất - mậu
dịch nông sản trên thế giới, 1993.
- Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn: Sản xuất và thị trường một
số nông sản chủ yếu trên thế giới, Thông tin chuyên đề, số 2/1996 và số 2/1997.
- Kim Quốc Chính, Dự báo khả năng xuất khẩu gạo của Việt Nam
thời kỳ 2001 - 2010, Tạp chí Nghiên cứu kinh tế, số 1, 2001.
- Nguyễn Sinh Cúc: Sản xuất và xuất khẩu cà phê. Thực trạng và giải
pháp, Tạp chí Con số và sự kiện, số 8, 2002.
- Thái Sơn: Xuất khẩu cao su - những dấu hiệu khả quan, Báo Quốc
tế, số ra ngày 11 - 17/4/2002.
- Trần Đức Vui: Định hướng xuất khẩu chè của Việt Nam đến 2010,
Tạp chí Kinh tế châu Á - Thái Bình Dương, số 5(46), 2003,
- Hoàng Thịnh Lâm: Để phát triển tiêu thụ rau quả, Tạp chí Thương
mại, số 17, 2004.
Các công trình trên đã đi sâu nghiên cứu về chiến lược cũng như về
các biện pháp tiêu thụ đối với từng mặt hàng như: lúa gạo, cà phê, cao su, dầu
dừa, hồ tiêu...
d) Các công trình khoa học nghiên cứu về sự hội nhập kinh tế quốc tế,
trong đó có sự hội nhập vào khu vực mậu dịch tự do ASEAN/AFTA của nước
ta:
- GS.TS Nguyễn Đình Hương, GS.TS Vũ Đình Bách: Quan hệ
thương mại Việt Nam - ASEAN và chính sách thuế xuất nhập khẩu của Việt
Nam,
Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 1999.
- TS. Hoàng Xuân Thọ (Chủ nhiệm đề tài): Ảnh hưởng của việc gia

nhập khu vực mậu dịch tự do ASEAN (AFTA) đến nền kinh tế Việt Nam trên


6

phương diện thương mại và sản xuất, Viện Nghiên cứu Thương mại - Bộ
Thương mại, Hà Nội, 1996.
- TS. Nguyễn Xuân Thắng: Khu vực mậu dịch tự do ASEAN và tiến
trình hội nhập của Việt Nam, Nxb Thống kê, Hà Nội, 1999.
- Trung tâm thông tin thương mại: Thị trường Việt Nam thời kỳ hội
nhập AFTA, Nxb Tổng hợp, Thành phố Hồ Chí Minh, 2003. Phân tích thị
trường hàng hóa của Việt Nam nói chung và thị trường hàng nông sản nói
riêng trong giai đoạn hội nhập AFTA và đưa ra dự báo về thị trường một số
mặt hàng xuất nhập khẩu chủ yếu của Việt Nam đến năm 2010 và 2020.
- Vũ Đức Đạm: Khu vực mậu dịch tự do ASEAN với công cuộc phát
triển kinh tế Việt Nam, Tạp chí Những vấn đề kinh tế thế giới, số 6, 1996.
- Trần Quang Lâm - Nguyễn Khắc Thân: Hội nhập kinh tế Việt Nam ASEAN - những đặc trưng kinh nghiệm và giải pháp, Nxb Thống kê, Hà Nội,
1999.
- Đào Thị Ngọc Minh: Việt Nam gia nhập ASEAN và ảnh hưởng của
nó đối với sự phát triển kinh tế ở Việt Nam, Luận án tiến sĩ kinh tế, Học viện
Chính trị Quốc gia Hồ Chí Minh, 2001.
- Lê Thị Anh Vân: Đổi mới chính sách nhằm thúc đẩy xuất khẩu hàng
hóa của Việt Nam trong quá trình hội nhập kinh tế quốc tế, Nxb Lao động,
Hà Nội, 2003.
Các công trình trên đã nghiên cứu quá trình hội nhập kinh tế quốc tế và
ảnh hưởng của sự hội nhập này tới sự phát triển nền kinh tế nước ta nói
chung, sản xuất nông nghiệp nói riêng và trong chừng mực nhất định có xem
xét tới vấn đề tiêu thụ hàng nông sản cũng như các sản phẩm hàng hóa
khác...
Qua các công trình khoa học mà tác giả được biết đã nêu ở trên, chưa

có công trình nào nghiên cứu riêng về thị trường tiêu thụ hàng nông sản trong
bối cảnh hội nhập AFTA dưới góc độ kinh tế chính trị. Vì vậy, đây là đề tài


7

độc lập, không trùng tên và nội dung với các công trình khoa học đã công bố
ở trong và ngoài nước.
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu của luận án
* Mục đích của luận án
Trên cơ sở hệ thống hóa và khái quát những vấn đề lý luận về thị
trường; chỉ rõ những đặc điểm và yếu tố tác động đến TTTTNS; đặc biệt là
những tác động của quá trình hội nhập AFTA đến thị trường này của Việt
Nam, luận án có mục đích đề xuất các giải pháp để mở rộng và phát triển
TTTTNS của Việt Nam nhằm ổn định sản xuất và kinh doanh hàng nông sản
trong bối cảnh hội nhập AFTA hiện nay.
* Nhiệm vụ của luận án
- Nghiên cứu làm rõ đặc điểm của TTTTNS của Việt Nam và những
tác động ảnh hưởng của quá trình hội nhập AFTA đến thị trường này.
- Phân tích thực trạng TTTTNS của Việt Nam trong bối cảnh hội nhập
AFTA và những vấn đề đang đặt ra cho thị trường này trong tiến trình hội
nhập AFTA hiện nay.
- Trên cơ sở phân tích những vấn đề nói trên, luận án đưa ra một số
quan điểm cơ bản và giải pháp để mở rộng và phát triển TTTTNS của Việt
Nam trong tiến trình hội nhập sâu hơn vào AFTA.
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
Luận án tập trung nghiên cứu thị trường tiêu thụ một số hàng nông sản
chủ yếu của ngành trồng trọt (lúa gạo, cây công nghiệp, rau quả...) từ khi Việt
Nam bắt đầu thực hiện lộ trình cắt giảm thuế theo CEPT/AFTA tức là từ năm
1996 đến nay.

5. Phương pháp nghiên cứu
Luận án được thực hiện trên cơ sở phương pháp luận và lý luận kinh


8

tế chính trị học của chủ nghĩa Mác - Lênin về kinh tế hàng hóa, về thị trường
và dựa trên các quan điểm đường lối chính sách của Đảng và Chính phủ, cùng
với sự chọn lọc các lý thuyết kinh tế học hiện đại về phát triển thị trường hàng
hóa nói chung và TTTTNS nói riêng.
Trong quá trình thực hiện luận án, tác giả sử dụng một số phương
pháp cụ thể như: nghiên cứu lý thuyết và tổng kết thực tiễn, phương pháp
phân tích và tổng hợp, hệ thống, thống kê và một số phương pháp khác.
6. Những đóng góp mới của luận án
- Trình bày một cách có hệ thống những đặc điểm của TTTTNS và
những nhân tố tác động đến sự mở rộng và phát triển thị trường này.
- Phân tích những tác động của sự hội nhập AFTA đến TTTTNS của
Việt Nam và những vấn đề đang đặt ra cho thị trường này trong bối cảnh hội
nhập AFTA.
- Nêu những quan điểm cơ bản và đề xuất hệ thống giải pháp nhằm
mở rộng và phát triển TTTTNS của Việt Nam trong giai đoạn tiếp theo của
quá trình hội nhập AFTA nói riêng và hội nhập kinh tế quốc tế nói chung.
Đề tài có ý nghĩa thực tiễn và là tài liệu tham khảo cho các nhà hoạch
định chính sách cũng như đối với những người làm công tác nghiên cứu và
giảng dạy trong lĩnh vực này.
7. Kết cấu của luận án
Ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo và phụ lục,
luận án được trình bày trong 3 chương, 8 tiết.



9

Chương 1
THỊ TRƯỜNG TIÊU THỤ HÀNG NÔNG SẢN
VÀ TÁC ĐỘNG CỦA HỘI NHẬP AFTA ĐẾN THỊ TRƯỜNG
TIÊU THỤ HÀNG NÔNG SẢN CỦA VIỆT NAM

1.1. ĐẶC ĐIỂM VÀ NHỮNG NHÂN TỐ TÁC ĐỘNG ĐẾN VIỆC MỞ RỘNG
THỊ TRƯỜNG TIÊU THỤ HÀNG NÔNG SẢN

1.1.1. Đặc điểm của thị trường tiêu thụ hàng nông sản
1.1.1.1. Khái niệm về thị trường và thị trường tiêu thụ hàng nông sản
Thị trường là yếu tố không thể thiếu được của nền sản xuất hàng hóa.
Sự xuất hiện và phát triển của thị trường không phải là ngẫu nhiên mà là kết
quả tất yếu của sự ra đời và phát triển của sản xuất và trao đổi hàng hóa.
Trong xã hội nguyên thủy, vì trình độ sức sản xuất quá thấp, phân
công lao động chưa hình thành, sản phẩm lao động làm ra rất hạn chế, nên
không thể có sản phẩm dư thừa để trao đổi, do đó không có cơ sở vật chất để
hình thành thị trường. Với sự phát triển của lực lượng sản xuất và phân công
lao động xã hội, sản phẩm lao động đã có dư thừa, việc trao đổi hàng hóa bắt
đầu xuất hiện, thị trường cũng theo đà đó mà hình thành. Chợ là hình thái thị
trường sớm nhất được hình thành.
Cùng với sự phát triển của lực lượng sản xuất và phân công lao động
xã hội, sản xuất và quan hệ trao đổi hàng hóa ngày càng phát triển, thị trường
cũng được phát triển toàn diện, trở thành khâu then chốt của hoạt động kinh tế
của con người, nối liền toàn bộ quá trình tái sản xuất, từ sản xuất đến tiêu dùng.
Cơ sở kinh tế khách quan của sự hình thành và phát triển thị trường
chính là sự phân công lao động xã hội. Trong tác phẩm Bàn về cái gọi là thị
trường, V.I. Lênin đã chỉ rõ rằng: "Khái niệm thị trường hoàn toàn không tách



10

rời khái niệm phân công xã hội được. Sự phân công này như Mác đã nói là cơ
sở của mọi nền sản xuất hàng hóa. Hễ ở đâu và khi nào có phân công xã hội
và sản xuất hàng hóa thì ở đó và khi ấy có thị trường" [54, tr. 114]. Phân công
lao động xã hội, sản xuất hàng hóa và thị trường là những khái niệm không
thể tách rời nhau. Sản xuất hàng hóa là cách tổ chức của nền kinh tế xã hội,
trong đó sản phẩm đều do những người sản xuất riêng biệt sản xuất ra. Mỗi
người chuyên làm ra một thứ sản phẩm nhất định, thành thử muốn thỏa mãn
các nhu cầu xã hội thì cần phải mua bán sản phẩm trên thị trường. Trong nền
sản xuất hàng hóa, những đơn vị kinh tế không thuần nhất được hình thành,
số lượng những ngành kinh tế riêng biệt tăng lên. Các phương thức khác nhau
trong việc chế biến nguyên liệu (và các thao tác khác nhau của sự chế biến
đó) lần lượt tách ra khỏi nông nghiệp để trở thành những ngành công nghiệp
độc lập và đem trao đổi sản phẩm của mình lấy sản phẩm nông nghiệp; do đó
bản thân nông nghiệp cũng trở thành ngành sản xuất hàng hóa và trong đó
cũng diễn ra quá trình chuyên môn hóa như vậy. Chính sự phát triển ngày
càng cao ấy của sự phân công xã hội là nhân tố chủ yếu trong quá trình hình
thành thị trường trong nước. Sản xuất hàng hóa phát triển đưa đến chỗ làm
tăng thêm số lượng các ngành công nghiệp riêng biệt và độc lập; xu hướng
của sự phát triển này là nhằm biến việc sản xuất không những từng sản phẩm
riêng mà cả việc sản xuất từng bộ phận riêng của sản phẩm; và không những
việc sản xuất sản phẩm mà thậm chí cả từng thao tác trong việc chế biến sản
phẩm thành sản phẩm tiêu dùng, thành một ngành công nghiệp riêng biệt. Do
đó giới hạn phát triển của thị trường trong xã hội là do giới hạn chuyên môn
hóa lao động quyết định, mà sự chuyên môn hóa đó, xét về bản chất của nó, là
vô cùng tận, cũng như sự tiến bộ kỹ thuật vậy [54, tr. 115].
Vậy thế nào là thị trường? Nhà kinh tế học người Anh, Đavit Begg có
nêu khái niệm thị trường như sau: "Thị trường là biểu hiện thu gọn của quá

trình mà thông qua đó các quyết định của các gia đình về tiêu dùng các mặt


11

hàng nào, các quyết định của các công ty về sản xuất cái gì, sản xuất thế nào,
các quyết định của người công nhân về việc làm bao lâu, cho ai, đều được
dung hòa bởi sự điều chỉnh giá" [48, tr. 11]. Thực ra, định nghĩa này chỉ là
khái quát các biểu hiện bên ngoài của các quá trình kinh tế chứ không vạch ra
được bản chất bên trong của các quá trình đó. Như C. Mác đã viết: "Thị
trường nghĩa là lĩnh vực trao đổi" [60, tr. 876], là nơi diễn ra sự tác động lẫn
nhau giữa người sản xuất và người tiêu dùng (bao gồm tiêu dùng cho sản xuất
và tiêu dùng cho cá nhân); hay có thể nói, thị trường giống như người môi
giới đóng vai trò trung gian, thu xếp điều hòa nhu cầu của người tiêu dùng và
sự hạn chế về kỹ thuật trong tay người sản xuất. Như vậy, thị trường là tổng
thể các yếu tố và điều kiện để thực hiện hàng hóa; các yếu tố và điều kiện này
liên hệ, tác động lẫn nhau theo những quy luật khách quan, phản ánh các
quan hệ kinh tế giữa các chủ thể tham gia thị trường.
Trên thị trường người bán là người sở hữu hàng hóa. Mục đích của họ
đến thị trường là để bán hàng. Vì vậy, đối với họ thị trường là tổng hợp những
điều kiện, yếu tố, môi trường để thực hiện giá trị của hàng hóa, nhằm thu về
chi phí sản xuất và lợi nhuận dưới hình thái tiền, để bảo tồn và tái sản xuất mở
rộng. Còn người mua là người có tiền, họ đến thị trường với mục đích mua
sắm hàng hóa để tiêu dùng. Đối với họ, thị trường là tổng hợp những điều
kiện, yếu tố, môi trường giúp họ có thể tìm thấy và thỏa mãn các nhu cầu mua
sắm hàng hóa dịch vụ cho tiêu dùng, phù hợp với khả năng thanh toán của họ.
Như vậy, thông qua thị trường cả người mua và người bán đều tìm thấy lợi
ích của mình ở việc thỏa mãn nhu cầu của phía bên kia. Chính điều quan
trọng ấy đã dẫn dắt họ gặp nhau và thực hiện được các quan hệ kinh tế, điều
hòa hợp lý các quan hệ lợi ích giữa họ với nhau. Mọi hoạt động của thị trường

diễn ra thuận lợi hay không, vấn đề mấu chốt chính là ở chỗ nó có khả năng
xử lý tốt mối quan hệ về lợi ích kinh tế giữa các thành viên tham gia thị
trường hay không.
Thị trường hoạt động theo một cơ chế nhất định - cơ chế thị trường.


12

Cơ chế thị trường là toàn bộ những phương thức vận hành phù hợp với các
quy luật khách quan của thị trường, trong đó bao gồm những quan hệ, những
hình thức, phương pháp vốn có của nền kinh tế hàng hóa, từ đó gây ra những
lực hút, lực đẩy theo những xu hướng nhất định và chi phối ba vấn đề kinh tế
cơ bản là: sản xuất cái gì, bằng cách nào và cho ai? Quan hệ cung - cầu với hệ
thống giá cả, thuế khóa, luật pháp... chính là những hình thức và phương pháp
để thực hiện cơ chế thị trường. Trong cơ chế này, thị trường có vai trò trực
tiếp hướng dẫn các chủ thể kinh doanh lựa chọn lĩnh vực hoạt động, mặt
hàng, qui mô cũng như hình thức tổ chức sản xuất kinh doanh. Giá cả, quan
hệ cung - cầu, quan hệ cạnh tranh là những yếu tố cơ bản nhất của cơ chế thị
trường.
Theo lý luận về giá trị lao động của C. Mác, giá cả là sự biểu hiện bằng
tiền của giá trị hàng hóa - được quyết định bởi khối lượng lao động xã hội cần
thiết chứa trong hàng hóa đó. Trong đời sống thực tế, giá cả cao hay thấp
ngoài sự quyết định ở giá trị hàng hóa, còn chịu ảnh hưởng khá lớn của cung cầu trên thị trường. Cầu lớn hơn cung thì giá cả tăng lên, cầu nhỏ hơn cung thì
giá cả hạ xuống. Thông qua sự thay đổi giá cả có thể thấy được tình hình cung
- cầu trên thị trường, thấy được mức độ hiếm, thiếu hay thừa tương đối của
hàng hóa. Vì thế giá cả là tín hiệu hướng dẫn sự lựa chọn của người sản xuất,
người kinh doanh và người tiêu dùng. Sự biến động của giá cả có thể đưa đến
sự biến động về cung - cầu, sản xuất và tiêu dùng. Khi giá cả của một loại
hàng hóa nào đó tăng lên thì người sản xuất sẽ tăng cường sản xuất loại hàng
đó (vì sẽ thu được lợi nhuận siêu ngạch), nhưng khi giá cả tăng lên sẽ làm cho

người tiêu dùng giảm bớt nhu cầu về hàng hóa đó. Khi giá cả hạ xuống, nói
chung người sản xuất sẽ giảm bớt sản xuất mặt hàng này, còn nhu cầu của
người tiêu dùng về mặt hàng này sẽ tăng lên. Thông qua quá trình này, giá cả
điều tiết qui mô sản xuất của xí nghiệp, điều tiết sự phân bố tài nguyên giữa
các ngành và sự cân bằng cung - cầu của xã hội. Sự lên xuống của giá cả


13

giống như "bàn tay vô hình" điều tiết lợi ích của mọi người, chỉ huy hành
động của người sản xuất và tác động tới tâm tư của người tiêu dùng. Nhưng
giá cả chỉ có thể phát huy được tính điều tiết trên với tiền đề là có đủ tính đàn
hồi và thị trường có đầy đủ tính cạnh tranh, nếu không thì sự "điều tiết" của
giá cả thông qua quan hệ cung - cầu sẽ bị tổn hại. Ví dụ, dưới cơ chế tập trung
bao cấp trước đây, thể chế quản lý giá cứng nhắc, trong suốt thời kỳ dài giá cả
không hề thay đổi, thì giá cả ấy đã không phản ánh được giá trị của hàng hóa,
không phản ánh được quan hệ cung - cầu trên thị trường; và do đó đã mất đi
các chức năng cần có của giá cả. Tóm lại, tín hiệu của cơ chế thị trường là giá
cả thị trường. Sự biến động của giá phụ thuộc trước hết vào giá trị thị trường
của hàng hóa, giá trị (hay sức mua) của tiền và thông qua quan hệ cung - cầu,
cạnh tranh trên thị trường.
Việc thực hiện các hành vi mua bán hàng hóa trên thị trường đòi hỏi
phải có những phương tiện vật chất nhất định như: cửa hàng, kho tàng,
phương tiện vận chuyển, phương tiện đo lường, đường sá, thông tin, các dịch
vụ thanh toán, quảng cáo... Các điều kiện và phương tiện trên đây phục vụ
trực tiếp quá trình lưu thông và mua bán hàng hóa. Do đó mức độ hoàn hảo
hay không hoàn hảo của nó có ảnh hưởng lớn tới thời gian và quá trình mua
bán, đến nhịp độ hoạt động của thị trường. Thời gian và không gian để tiến
hành thuận lợi và có hiệu quả các hành vi mua bán hàng hóa, dịch vụ đều là
những điều kiện quan trọng đối với thị trường. Các yếu tố thuộc về môi

trường như pháp luật về kinh doanh, các chính sách và chiến lược kinh tế, các
vấn đề về môi trường tự nhiên - xã hội đều ảnh hưởng đến sự vận động và
phát triển của thị trường.
Trên những góc độ khác nhau, người ta phân loại các thị trường khác
nhau như thị trường trong nước, thị trường ngoài nước, thị trường hàng hóa,
thị trường tiền tệ..., thị trường "đầu vào" (còn gọi là thị trường yếu tố sản
xuất), thị trường "đầu ra" (thị trường tiêu thụ sản phẩm)...


14

Các hoạt động trao đổi, mua bán có thể diễn ra ở những địa điểm cụ
thể như chợ, cửa hàng, trung tâm thương mại... Ngày nay thị trường hiện đại
còn bao gồm cả những nơi buôn bán không cố định: dựa vào quảng cáo,
buôn bán trung gian... Đặc biệt cùng với sự phát triển của công nghệ thông
tin, hình thức buôn bán trao đổi qua mạng điện tử hay còn gọi là thương mại
điện tử (TMĐT) đã xuất hiện và đang ngày càng phát triển. Tuy mới hình
thành nhưng hình thức TMĐT đã nhanh chóng khẳng định được vị thế của
mình trong đời sống kinh tế quốc tế. Theo các số liệu thống kê gần đây,
TMĐT đã phát triển rất nhanh và với tốc độ ngày càng cao: nếu năm 1997,
tổng doanh số TMĐT trên thế giới mới đạt xấp xỉ 18 tỷ USD, thì đến năm 1999
đã đạt gần 80 tỷ USD; năm 2000 con số đó đã vượt qua mức 180 tỷ USD. Tổ
chức hợp tác kinh tế Châu Á - Thái Bình Dương (APEC) đã đưa ra số liệu dự
báo đến năm 2020 doanh số của hoạt động kinh doanh trên mạng toàn cầu có
thể lên tới 1000 tỷ USD, riêng các nước APEC sẽ là 600 tỷ USD [79, tr. 11].
Sự phát triển của TMĐT (E - Commerce) đã dẫn đến những thay đổi về chất
trong thương mại nhất là thương mại quốc tế, làm cho thị trường thế giới
được gần gũi hơn, doanh nghiệp được thuận lợi hơn trong việc tiếp cận và
mở rộng thị trường, làm cho thương mại thế giới được hữu hiệu hơn, giảm
chi phí, giấy tờ,...

Khi nông nghiệp phát triển theo hướng nông nghiệp thương phẩm, tức
là các sản phẩm của nông nghiệp được sản xuất ra để mua bán trao đổi trên thị
trường, thì TTTTNS cũng xuất hiện.
TTTTNS là nơi diễn ra các hoạt động trao đổi mua bán những sản
phẩm do các ngành nông nghiệp sản xuất ra, như sản phẩm của các ngành
chăn nuôi, trồng trọt, nuôi trồng hải thủy sản, lâm nghiệp và các sản phẩm chế
biến từ các nguyên liệu của các ngành trên. Ở đây các yếu tố, các điều kiện,
các phương tiện và môi trường để thực hiện giá trị hàng nông sản cũng giống
như các thị trường hàng hóa thông thường khác.


15

Tuy nhiên, do sản xuất nông nghiệp và các nông phẩm có những tính
chất và đặc điểm khác biệt so với các ngành sản xuất khác nên thị trường tiêu
thụ nông sản cũng có một số những nét đặc trưng riêng.
1.1.1.2. Đặc điểm của thị trường tiêu thụ hàng nông sản
Đối tượng của TTTTNS chính là các nông sản hàng hóa. Tính chất khác
biệt của hàng nông sản làm cho thị trường nông sản có một số đặc điểm riêng.
* Hàng nông sản mang tính thời vụ và tính khu vực (vùng miền)
Ngành sản xuất nông nghiệp phụ thuộc rất nhiều vào các yếu tố tự
nhiên như đất đai, khí hậu, vị trí địa lí... Quy mô, sản lượng của các ngành sản
xuất nông nghiệp như trồng trọt luôn bị chi phối bởi giới hạn về đất đai, thời
tiết, sâu - dịch bệnh... Nông sản từ cây trồng lại có quy luật sinh trưởng và
phát triển tự nhiên, không giống như các sản phẩm công nghiệp. Ngay trong
cùng một loại cây, con, các giống khác nhau cũng có quy luật sinh trưởng
không giống nhau. Do đó quá trình tái sản xuất các nông sản luôn gắn liền và
phụ thuộc vào quá trình sinh trưởng theo quy luật tự nhiên của cây trồng.
Phần lớn các nông sản được thu hoạch theo mùa - vụ, tập trung vào một số
thời gian nhất định trong năm. Tính chất tươi sống của đa số các loại nông sản

lại đòi hỏi phải được tiêu dùng trong một thời gian ngắn sau thu hoạch nếu
không có phương pháp chế biến và bảo quản tốt.
Thu hoạch theo mùa vụ, tính chất tươi sống của một số nông sản (như
hoa trái, rau, màu) có ảnh hưởng tác động rất lớn tới thị trường tiêu thụ. Vào
mùa vụ nếu không có các phương pháp bảo quản và chế biến tốt chỉ một ách
tắc nhỏ trên thị trường có thể gây ứ đọng và dẫn đến làm giảm hoặc có thể
mất hẳn giá trị sử dụng của các loại hàng nông sản này, gây thiệt hại rất lớn
cho người sản xuất.
Ngoài ra, mỗi một vùng, một nước, một khu vực đều có những đặc
điểm riêng về đất đai, vị trí địa lý, khí hậu... Do vậy, mỗi vùng đều có những


16

lợi thế riêng để phát triển một ngành sản xuất nông nghiệp nào đó như trồng
cây công nghiệp, cây lương thực, cây ăn trái. Ở nước ta, riêng đồng bằng sông
Cửu Long, sông Hồng thích hợp với cây lương thực, cây ăn trái... Điều kiện
khí hậu và thổ nhưỡng còn tạo cho một số vùng có những loại nông sản đặc
trưng mà nếu trồng ở nơi khác thì sẽ không thu được nông sản cùng chủng
loại về chất lượng. Điều đó lý giải vì sao một số nông phẩm luôn đi kèm với
tên một địa danh nhất định. Ví dụ như ở nước ta có xoài cát Hòa Lộc, bưởi
Biên Hòa, nhãn lồng Hưng Yên, chè Thái Nguyên... Ngày nay với sự phát
triển của khoa học kỹ thuật, công nghệ sinh học, người ta đã có thể trồng một
số sản phẩm đặc sản ở nhiều nơi. Tuy nhiên, hương vị riêng có gắn với quê
hương của đặc sản thì, theo nhiều người, vẫn không thể có được.
Chính vì vậy, thị trường hàng nông sản ở mỗi vùng có những nét đặc
trưng riêng gắn liền với các chủng loại sản phẩm nông nghiệp của từng vùng.
Những đặc điểm trên của ngành sản xuất nông nghiệp và các loại nông
sản có ảnh hưởng rất lớn tới giá cả và quan hệ cung - cầu trên TTTTNS.



Giá cả hàng nông sản có tính không ổn định

Cũng như giá các loại hàng hóa khác, giá hàng nông sản được hình
thành trên cơ sở giá trị thị trường với sự tác động ảnh hưởng của quan hệ
cung - cầu. Tuy nhiên do tính chất thời vụ của nông sản, giá cả hàng nông sản
thường dao động nhiều hơn so với hàng công nghiệp. Đầu mùa vụ khi lượng
nông sản trên thị trường còn ít, giá nông sản có thể rất cao, đến chính vụ, do
nông sản nhiều, giá xuống rất thấp, nhiều khi thấp hơn cả chi phí sản xuất,
đến cuối vụ giá lại lên do lượng cung giảm dần. Thông thường giá ở chính vụ
bằng khoảng 50- 60% giá đầu vụ và bằng 55-65% so với giá cuối vụ [33, tr. 8].
Giá nông sản vào mùa nghịch còn có thể cao gấp 4-6 lần so với chính mùa.
Trong cơ chế thị trường sự biến động của giá cả luôn tác động làm
thay đổi quan hệ cung - cầu về hàng hóa theo xu hướng là cân bằng cung cầu. Tuy nhiên, do những đặc điểm riêng biệt của sản xuất nông nghiệp và
hàng nông sản nên tác động của giá nông sản đến quan hệ cung - cầu về nông


17

sản cũng có những nét đặc thù riêng.


Về cung - cầu và độ co giãn cung - cầu của hàng nông sản.

Cung về nông sản là khối lượng hàng nông sản mà những người sản
xuất kinh doanh bán ra thị trường ở một thời điểm nhất định. Do sản xuất
nông nghiệp mang tính mùa vụ và tính vùng rõ rệt nên cung về hàng nông sản
trên thị trường cũng mang tính mùa vụ và tính vùng. Trong khi đó, nhu cầu
tiêu dùng nông sản lại rải đều suốt năm và ở tất cả các vùng trong cả nước.
Điều đó gây ra tình trạng khối lượng nông sản cung ứng ra thị trường không

cân bằng với khối lượng mà xã hội yêu cầu, cả về thời gian và địa điểm tiêu
dùng. Ngay sau khi thu hoạch, do tính chất tươi sống của nông sản, do nhu
cầu tiêu dùng (nhu cầu tiêu dùng cá nhân và tiêu dùng cho sản xuất) người
sản xuất buộc phải bán nhiều nông sản ra thị trường bất kể giá cả nông sản
trên thị trường cao hay thấp. Cùng một thời điểm tất cả các nhà sản xuất cùng
đưa nông sản bán ra thị trường đã làm cho cung vượt quá nhu cầu của xã hội
tại thời điểm đó. Cung lớn hơn cầu làm cho giá cả giảm, thậm chí có lúc giảm
thấp hơn chi phí sản xuất; người sản xuất có thể bị lỗ vốn, nhưng họ không
thể giữ sản phẩm của mình lại để chờ đến khi nào giá trên thị trường tăng mới
đưa sản phẩm ra bán, vì nếu làm như vậy họ sẽ không có vốn để tiếp tục thực
hiện chu kỳ sản xuất mới. Mặt khác, tính chất tươi sống của nhiều loại nông
sản không cho phép họ làm như vậy do "hàng hóa càng dễ hư hỏng thì nó
càng cần phải được tiêu dùng nhanh hơn, do đó cần phải được bán nhanh hơn
sau khi được sản xuất ra" [61, tr. 195].
Ngược lại, vào lúc giáp hạt, người sản xuất bán ra ít, cung nhỏ hơn
cầu dẫn đến giá hàng nông sản tăng cao trên thị trường, nhưng cũng không vì
thế mà người sản xuất có thể tăng cung ngay để thu được nhiều lợi nhuận
hơn, bởi số nông sản còn lại có hạn mức, nếu là lương thực họ còn phải để
dành cho tiêu dùng thường xuyên.


18

Khi giá cả hàng nông sản tăng lên, người sản xuất không thể lập tức
tăng cung về loại hàng đó trên thị trường không chỉ vì tính chất thời vụ của
hàng nông sản mà còn vì qui mô, sản lượng của sản xuất nông nghiệp bị giới
hạn bởi yếu tố đất đai. Nếu đất đai cho sản xuất nông nghiệp đã được sử dụng
hết, sản lượng nông sản không thể tăng nếu như kỹ thuật sản xuất không thay
đổi. Tuy nhiên, khả năng điều chỉnh sản lượng trong dài hạn sẽ lớn hơn vì
nông dân có thể khai hoang, đầu tư cho đất, ứng dụng khoa học kỹ thuật nhằm

tăng năng suất. Nhưng ngay cả trong dài hạn, khả năng cung ứng hàng nông
sản vẫn bị hạn chế vì quỹ đất đai có hạn. Như vậy có thể thấy, sức cung của
hàng nông sản thấp hơn nhiều so với hàng công nghiệp, kể cả trong ngắn hạn
và trong dài hạn.
Cũng như cung về hàng nông sản, độ co giãn của cầu về nông sản
cũng có điểm khác biệt so với cầu hàng công nghiệp. Cầu về nông sản là khối
lượng hàng nông sản mà người tiêu dùng cần mua và có thể mua được với
một giá nhất định vào một thời điểm nhất định trên thị trường. Nhu cầu về
nông sản rất đa dạng: nhu cầu về nguyên liệu cho công nghiệp chế biến, nhu
cầu tiêu dùng cho cá nhân, nhu cầu cho xuất khẩu ...
Trong các mặt hàng nông sản, lương thực thực phẩm là mặt hàng đáp
ứng nhu cầu cơ bản thiết yếu cho đời sống con người. Nhu cầu của từng
người về mặt hàng này tùy thuộc vào đòi hỏi sinh lý nhất định, vào thể trạng
của mỗi người. Dù giá nông sản có lên thật cao, vì sự sống, nhu cầu về lương
thực thực phẩm cũng không thể cắt giảm đáng kể. Điều này khác với nhu cầu
về các hàng công nghiệp: khi giá cả tăng cao người tiêu dùng có thể cắt giảm
đáng kể nhu cầu về các mặt hàng này.
Khi giá cả hàng nông sản xuống thấp, nhu cầu về nông sản cũng
không thể tăng đáng kể vì khả năng tiêu thụ có hạn của từng người.
Đối với các mặt hàng nông sản là nguyên liệu cho công nghiệp chế
biến, độ co giãn của cầu có lớn hơn nhóm hàng lương thực thực phẩm. Tuy


19

nhiên nó cũng bị hạn chế bởi tính chất tươi sống khó bảo quản của hàng nông
sản và bị giới hạn bởi công suất máy móc chế biến. Nói chung độ co giãn của
cung - cầu hàng nông sản thấp hơn độ co giãn của cung - cầu hàng công
nghiệp. Vì thế giá cả hàng nông sản trồi sụt rất nhiều, nhất là trong ngắn hạn,
so với hàng công nghiệp. Nếu để thị trường tự do điều tiết, không có sự can

thiệp nào từ phía ngoài qua nhập khẩu, xuất khẩu, hoặc thay đổi tồn kho để
giúp cân bằng cung - cầu, thì khi được mùa lớn hoặc vào thời điểm thu hoạch,
giá xuống rất thấp; khi mất mùa hoặc giáp hạt, giá lên rất cao vì độ co giãn
của cầu và của cung đối với giá nông sản đều rất thấp. Dù giá nông sản tăng
cao, nhu cầu về hàng nông sản cũng không thể cắt giảm đáng kể và cung cũng
không thể tăng ngay vì nông dân không thể tăng ngay sản lượng mà phải đợi đến
mùa kế tới; nếu là cây lâu năm hoặc vật nuôi thì chu kỳ phản ứng cũng phải
tới vài năm. Và ngược lại, khi giá giảm xuống thấp cũng vậy. Đây chính là đặc
điểm nổi trội khác biệt của thị trường hàng nông sản so với hàng công nghiệp.


Tính độc quyền trong sản xuất kinh doanh hàng nông sản thấp

Sự khác biệt của sản xuất nông nghiệp cũng làm cho cạnh tranh trên
thị trường tiêu thụ nông sản có những đặc điểm riêng. Về cơ bản, thị trường
nông sản là một thị trường cạnh tranh hoàn hảo, ở đó mỗi người sản xuất chỉ
cung ứng ra thị trường phần nông sản rất nhỏ so với tổng sản lượng cung của
xã hội. Mỗi người sản xuất không thể độc quyền được lượng cung nên họ
cũng không độc quyền được giá cả. Họ tham gia thị trường hay rút khỏi thị
trường cũng không ảnh hưởng đến mức giá đã hình thành trên thị trường.
Người sản xuất nông sản không thể độc quyền quyết định giá cả, mà phải
chấp nhận mức giá đã hình thành khách quan trên thị trường. Chính sự vận
động đó đã tạo ra tính hai mặt trực tiếp tác động đến sản xuất, lưu thông, đến
thu nhập của người sản xuất và người tiêu dùng nông sản. Trong điều kiện
cầu tăng chậm, cung của người sản xuất tăng thì người tiêu dùng có lợi, người
sản xuất bị thiệt hại. Nếu người sản xuất thu hẹp cung để được giá, có lợi, thì


20


người tiêu dùng bị thiệt. Trong thương mại quốc tế, nếu Chính phủ cho nhập
nông sản hỗ trợ tiêu dùng thì nông dân nước đó bị thiệt.
Đối với những nông sản xuất khẩu, cạnh tranh trên thị trường quốc tế
có ảnh hưởng lớn đến thị trường nội địa. Những thay đổi về giá cả ở thị
trường nội địa thường là kết quả của sự biến động giá ở thị trường quốc tế.
Về mặt kinh tế, những đặc điểm của thị trường nông sản đặt ra một số
vấn đề cần giải quyết để cho thị trường vận động một cách bình thường như:
- Do nhu cầu về nông sản là một đòi hỏi của dân cư tất cả các vùng, nhất
là lương thực thực phẩm nên việc phát triển kết cấu hạ tầng, đặc biệt là giao
thông vận tải có ý nghĩa rất lớn đối với việc lưu thông hàng hóa ở khắp các
vùng.
- Do độ co giãn của cung - cầu nông sản có những đặc điểm riêng của
nó nên việc dự trữ thương mại có ý nghĩa đặc biệt quan trọng đối với việc bảo
vệ lợi ích của người sản xuất và người tiêu dùng.
- Việc đáp ứng nhu cầu khách hàng ở tất cả các vùng về nông sản đòi
hỏi chính sách hỗ trợ của Nhà nước thì hàng hóa mới đến được vùng cao, các
vùng sâu, vùng xa, vì chi phí lưu thông để đưa hàng đến các vùng này rất cao,
có lúc gấp nhiều lần giá trị của hàng hóa, trong lúc khả năng thanh toán của
dân cư ở những vùng này lại rất hạn hẹp.
- Do hàng nông sản được sản xuất ở rất nhiều vùng khác nhau, tính
chất của sản phẩm là hàng tươi sống, khó bảo quản, nên sự phát triển công
nghiệp chế biến và việc liên kết nông nghiệp với công nghiệp và thương mại
dịch vụ trên từng địa bàn, hình thành những tổ hợp nông công thương mại
dịch vụ trên từng vùng là một đòi hỏi khách quan của quá trình phát triển
nông nghiệp hàng hóa.
1.1.2. Những nhân tố tác động đến việc mở rộng và phát triển thị
trường tiêu thụ hàng nông sản


21


Sự phát triển của TTTTNS chịu sự tác động ảnh hưởng của một số
nhân tố sau:
Thứ nhất: Trình độ chuyên môn hóa của sản xuất nông nghiệp.
Giới hạn phát triển của thị trường trong xã hội là do giới hạn chuyên
môn hóa lao động quyết định, "qui mô của thị trường gắn chặt với trình độ
chuyên môn hóa của lao động xã hội" [54, tr. 94], mà sự chuyên môn hóa đó,
xét về bản chất của nó, là vô cùng tận, cũng như sự tiến bộ kỹ thuật vậy. Quá
trình chuyên môn hóa lao động xã hội đã tạo ra những ngành, những lĩnh vực
sản xuất độc lập với nhau và do đó tạo ra nhu cầu trao đổi sản phẩm giữa các
ngành khác nhau. Sự chuyên môn hóa càng cao thì nhu cầu trao đổi càng lớn.
Trong nông nghiệp, "sự phát triển của nông nghiệp thương phẩm biểu
hiện trong việc chuyên môn hóa nông nghiệp" [54, tr. 84]. Chính mức độ tập
trung chuyên môn hóa trong các ngành sản xuất nông nghiệp như trồng trọt,
chăn nuôi... đã tạo ra nhu cầu trao đổi sản phẩm "giữa các vùng nông nghiệp,
giữa các doanh nghiệp nông nghiệp, giữa các nông sản khác nhau" [54, tr. 84],
nghĩa là tạo ra thị trường ngay trong các ngành sản xuất nông nghiệp. Sự phát
triển nông nghiệp thương phẩm dẫn đến giảm giá nông sản, nhất là giá ngũ
cốc, tất yếu kích thích chuyên môn hóa nông nghiệp và dẫn đến tăng trao đổi
nông sản. Ví dụ: giá ngũ cốc rẻ khiến một số nông dân bỏ việc trồng lúa để
trồng thứ cây khác, hoặc làm các việc khác có lợi hơn. Điều này cũng dẫn đến
việc hình thành các vùng chuyên canh và càng thúc đẩy việc trao đổi, càng
mở rộng thị trường. Nhưng việc phát triển sản xuất hàng hóa trong nông
nghiệp có đặc điểm khác trong công nghiệp ở chỗ tùy điều kiện cụ thể của
từng vùng mà một trong những sản phẩm nông nghiệp được phát triển mạnh
mẽ trước, rồi tất cả những mặt hàng kinh doanh khác đều phải thích ứng với
sản phẩm chính đó. Ví dụ: việc chăn nuôi súc vật lấy sữa dẫn đến trồng các
thứ cỏ cho súc vật ăn, dẫn đến chế biến bảo quản, vận chuyển các sản phẩm từ
sữa; cặn bã do việc làm pho mát thải ra được dùng vào vỗ béo gia súc để bán



22

v.v...
Sự chuyên môn hóa sản xuất trong nông nghiệp sẽ làm cho năng suất
lao động tăng lên, lực lượng sản xuất phát triển mạnh mẽ hơn, sản phẩm được
sản xuất ra nhiều hơn, chất lượng sản phẩm được nâng cao hơn do có điều
kiện ứng dụng tiến bộ khoa học - công nghệ mới và do đó qui mô trao đổi tức
thị trường cũng phát triển. Mặt khác, do sản xuất nông nghiệp chịu sự ảnh
hưởng lớn từ sự tác động của các điều kiện tự nhiên như đất đai, thời tiết, sâu
bệnh... nên việc chuyên môn hóa sản xuất còn tạo điều kiện cho nông dân đúc
kết kinh nghiệm đối phó với những thất thường của thời tiết cũng như dịch bệnh,
kinh nghiệm chăm sóc cây trồng vật nuôi, hạn chế được những tổn thất do
thiên tai dịch bệnh gây ra, góp phần làm tăng năng suất lao động và sản lượng
nông sản, góp phần tăng cung cho thị trường mà không cần phải đầu tư thêm.
Thứ hai: Cơ cấu các ngành sản xuất nông nghiệp.
Vấn đề có tính chất quyết định cho việc phát triển sản xuất nông sản
hàng hóa, mở rộng thị trường tiêu thụ nông sản, tạo được thế cạnh tranh, đứng
vững trên thị trường trong nước và quốc tế - đó là phải có một cơ cấu sản xuất
nông sản thích ứng với nhu cầu của thị trường, có khả năng khai thác tối đa
các tiềm năng nguồn lực, thế mạnh đặc thù của từng vùng, từng địa phương
(về đất đai, khí hậu, giao thông...) để sản xuất ra các loại nông phẩm phù hợp
với nhu cầu của thị trường với chi phí thấp nhất. Đặc biệt trong điều kiện lưu
thông hàng hóa phát triển như hiện nay và sự "mở cửa" hội nhập với nền kinh
tế thế giới, một cơ cấu sản xuất nông sản không chỉ đòi hỏi phải phù hợp với
nhu cầu của thị trường trong và ngoài nước mà còn phải phát huy được lợi thế
so sánh của từng vùng đối với từng loại nông sản. Miền Đông Nam Bộ có rất
nhiều khu công nghiệp lớn tập trung, với dân số đô thị chiếm 75-80% dân số
trong toàn vùng, nhu cầu về lương thực thực phẩm là rất lớn. Tuy nhiên vùng
này chỉ có thế mạnh về các loại cây công nghiệp ngắn ngày và dài ngày và



23

các loại cây ăn trái; nếu so với đồng bằng sông Cửu Long thì lại càng không
có lợi thế trong việc trồng lúa gạo. Bởi vậy trong cơ cấu cây trồng của vùng
này, diện tích trồng lúa ngày càng thu hẹp. Nông dân trồng các loại hoa màu
khác có lợi thế hơn, đem trao đổi trên thị trường và mua lúa gạo cho tiêu dùng
cá nhân cũng trên thị trường. Điều này vừa mang lại hiệu quả kinh tế cao vừa
mở rộng được thị trường giữa các vùng và trong cả nước.
Rõ ràng là một cơ cấu sản xuất nông nghiệp hợp lý, khai thác được
tiềm năng, lợi thế của từng vùng và đáp ứng được nhu cầu của thị trường sẽ tạo
được thế cạnh tranh vững chắc trên thị trường trong nước cũng như ngoài nước
và do đó tạo được thị trường tiêu thụ một cách ổn định và ngày càng mở rộng.
Thứ ba: Chất lượng và giá cả hàng nông sản là yếu tố quyết định đảm
bảo cho nông sản hàng hóa cạnh tranh và đứng vững trên thị trường.
Chất lượng sản phẩm phản ánh khả năng tạo nên sự khác biệt của
hàng hóa thuộc doanh nghiệp này so với doanh nghiệp khác, vùng này so với
vùng khác, nước này so với nước khác, làm cho người tiêu dùng đánh giá
được sự tốt hơn so với các hàng hóa khác đang bị cạnh tranh. Đa số các nông
sản lại là các hàng hóa thiết yếu về lương thực thực phẩm, liên quan đến sự
sống, đến sức khỏe của người tiêu dùng. Hơn nữa sự phát triển kinh tế trong
nước cũng như ngoài nước lại cũng làm nhu cầu tiêu dùng của dân cư biến
đổi theo xu hướng ngày càng tốt hơn, cao hơn. Sau khi đã đạt được mục tiêu
ăn no mặc ấm thì sức mua tăng thêm dành cho ăn mặc sẽ tập trung vào việc
nâng cao chất lượng ăn mặc: ăn ngon hơn, mặc đẹp hơn, an toàn thực phẩm
ngày càng được chú trọng hơn. Do đó, cạnh tranh trên thị trường chủ yếu sẽ là
cạnh tranh về chất lượng. Nếu không đặt chất lượng vào vị trí quan trọng,
không đáp ứng được những đòi hỏi của người tiêu dùng về chất lượng ngày
càng cao của nông sản thì sẽ mất dần ngay cả thị trường trong nước vì không

thể cạnh tranh với các nông sản ngoại nhập trong thời đại "mở cửa" hiện nay,


24

chứ chưa nói gì đến việc mở rộng thị trường ra nước ngoài. Có thể thấy rõ
điều đó trên thị trường trái cây ở nước ta trong những năm vừa qua. Giá thành
sản phẩm cũng là một yếu tố quan trọng có ảnh hưởng lớn tới khả năng cạnh
tranh của hàng nông sản, tới khả năng mở rộng thị trường trong điều kiện tự
do hóa thương mại. Cùng một chủng loại sản phẩm, nếu doanh nghiệp nào có
giá thành sản xuất rẻ hơn sẽ có ưu thế hơn trên thị trường. Hiện nay, ưu thế
cạnh tranh của hàng nông sản Việt Nam trên thị trường khu vực và thế giới
chủ yếu là về giá do sử dụng nguồn lao động rẻ và các lợi thế về đất đai, khí
hậu, vị trí địa lý. Tuy nhiên, lợi thế này sẽ mất đi nếu Việt Nam không chú
trọng đến việc áp dụng khoa học - công nghệ để nâng cao năng suất, chất
lượng và đa dạng hóa sản phẩm; nếu không tập trung đầu tư cho khâu bảo
quản và chế biến sau thu hoạch thì phần giá trị gia tăng mà Việt Nam thu được
từ các sản phẩm xuất khẩu sẽ chẳng đáng kể và TTTTNS Việt Nam khó có thể
phát triển bền vững.
Thứ tư: Sự phát triển của công nghiệp chế biến nông sản.
Sản xuất nông sản hàng hóa không thể phát triển nếu thiếu ngành công
nghiệp chế biến nông sản. Thu hoạch theo mùa vụ, hàng nông sản nhất là
hàng nông sản thực phẩm có giá trị sử dụng rất ngắn ngày nếu không được
bảo quản, chế biến. Vì vậy hàng nông sản cần phải được tiêu thụ hết trong
một thời gian nếu không sẽ mất giá trị sử dụng và gây thiệt hại cho người sản
xuất. Một khối lượng nông sản lớn không thể dễ dàng tiêu thụ hết trong một
thời hạn nhất định khi nhu cầu về nông sản (nhất là nông sản thực phẩm) của
dân cư là có giới hạn. Chỉ có công nghiệp chế biến nông sản mới có thể bảo
quản, dự trữ, chế biến thành nhiều sản phẩm đa dạng khác và do đó mới có
thể tiêu thụ hết nông sản cho nông dân trong điều kiện sản xuất mang tính

thời vụ cao và tính chất tươi sống dễ bị hư hỏng của hàng nông sản. Chính vì
thế sự phát triển của ngành công nghiệp chế biến nông sản sẽ tạo ra thị trường
ổn định và vững chắc cho hàng nông sản; thúc đẩy sản xuất nông sản hàng


25

hóa phát triển. Bên cạnh đó công nghiệp chế biến nông sản còn góp phần tăng
thêm giá trị của nông sản phẩm (thông qua chế biến), tạo ra những sản phẩm
mới đa dạng hơn và do đó cũng tạo ra những nhu cầu mới đối với các hàng
nông sản chế biến. Chính điều đó đã góp phần làm cho TTTTNS ngày càng
phong phú, đa dạng hơn và cũng ngày càng được mở rộng hơn.
Thứ năm: Nhu cầu có khả năng thanh toán của dân cư là điều kiện cơ
bản để mở rộng thị trường vì nó tạo ra sức mua của xã hội.
Thị trường là tập hợp những nhu cầu của người tiêu dùng về một loại
hàng hóa nào đó và thể hiện thông qua nhu cầu có khả năng thanh toán của cư
dân. Thị trường sẽ không tồn tại trong thực tế nếu như không có nhu cầu có
khả năng thanh toán của người mua. Sự phát triển về cơ cấu, qui mô của nhu
cầu có khả năng thanh toán của dân cư trong nền kinh tế hàng hóa quyết định
qui mô sản xuất và sự phát triển của thị trường cả chiều rộng lẫn chiều sâu.
Nhu cầu có khả năng thanh toán thường không phản ánh đúng nhu cầu
thực tế của dân cư về một loại hàng hóa nào đó, vì nó phụ thuộc vào mức thu
nhập của dân cư và giá cả của hàng hóa đó trên thị trường. Với một mức giá
ổn định, nhu cầu có khả năng thanh toán tỉ lệ thuận với mức thu nhập của dân
cư. Đối với nước ta, với 80% dân số sống bằng nghề nông thì mức thu nhập
của dân cư và TTTTNS càng có mối quan hệ tác động qua lại chặt chẽ hơn.
Sự phát triển TTTTNS tạo ra mức thu nhập ổn định, có tích lũy cho cư dân
nông thôn, tức là làm cho thu nhập có khả năng thanh toán của đại bộ phận
dân cư tăng lên, tạo ra sức mua cho thị trường hàng hóa nói chung và thị
trường nông sản nói riêng. Thị trường tiêu thụ và giá cả nông sản thiếu ổn

định trong thời gian vừa qua làm cho thu nhập của nông dân không ổn định,
làm giảm sức mua của khu vực nông thôn. Sức mua thấp là một trong những
nguyên nhân làm cho thị trường chậm phát triển, nhất là ở những vùng sâu,
vùng xa, vùng căn cứ cách mạng cũ. Mức thu nhập thấp, sức mua thấp và do
đó mức tiêu thụ thấp ảnh hưởng trực tiếp đến việc kích thích sản xuất nông


×