1
MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Hoạt động thương mại - ngoại thương nói chung, kinh doanh xuất nhập
khẩu nói riêng trên phạm vi toàn quốc trong những năm đổi mới đã có những
chuyển đổi phù hợp với cơ chế thị trường, bước đầu đạt hiệu quả và đóng góp
nhất định vào sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước theo định
hướng xã hội chủ nghĩa. Đây là một trong những điều kiện tiên quyết có vai
trò quan trọng trong việc tranh thủ vốn, kỹ thuật, công nghệ tiên tiến hiện đại
của các nước phát triển nhằm đổi mới thiết bị công nghệ để khai thác được
tiềm năng, lợi thế của đất nước và là cầu nối giữa kinh tế trong nước với kinh
tế thế giới. Vì thế ngoại thương được Đảng, Nhà nước ta xác định là nhiệm vụ
chiến lược lâu dài của đất nước.
Trong những năm qua, thương mại Quảng Ninh đã khẳng định được vị
thế là ngành kinh tế quan trọng trong phát triển kinh tế - xã hội của tỉnh.
Thương mại, trong đó có hoạt động xuất nhập khẩu đã đóng góp đáng kể vào
ngân sách, giải quyết được việc làm, cải thiện đời sống và giữ được sự ổn
định trên thị trường góp phần điều chỉnh cơ cấu kinh tế hợp lý.
Quảng Ninh là tỉnh ở phía Đông Bắc của Việt Nam, có nhiều lợi thế về vị
trí địa lý: Đường bộ; cảng biển; biên giới với Trung Quốc; cửa khẩu quốc tế,
quốc gia; thị trường trong nước, khu vực, quốc tế và có điều kiện, tiềm năng để
sản xuất, khai thác, chế biến các mặt hàng tiêu dùng và xuất khẩu. Đồng thời có
sự quan tâm về chủ trương, cơ chế chính sách, đầu tư thích hợp của tỉnh để phát
triển thương mại nói chung, xuất nhập khẩu nói riêng… Tuy nhiên, hoạt động
XNK trong giai đoạn hiện nay ở địa phương cũng như trong cả nước có nhiều
khó khăn, phức tạp và còn nhiều vấn đề cần phải được làm rõ cả lý luận và thực
tiễn, do đó tôi lựa chọn đề tài "Phương hướng, giải pháp đẩy mạnh xuất nhập
2
khẩu trong tình hình mới qua thực tế ở Quảng Ninh" làm luận án Tiến sĩ kinh
tế.
2. Tình hình nghiên cứu đề tài
Phát triển xuất nhập khẩu là vấn đề quan tâm của các nhà nghiên cứu,
thực tiễn, các nhà lãnh đạo và quản lý, nổi bật lên có các công trình sau:
+ Võ Đại Lược (chủ biên), Đổi mới kinh tế Việt Nam và chính sách
kinh tế đối ngoại, Nxb Khoa học xã hội, Hà Nội, 1995.
+ PGS.TS Nguyễn Đình Hỷ và GS.TS Vũ Đình Bách, Quan hệ thương
mại Việt Nam - ASEAN và chính sách xuất nhập khẩu của Việt Nam, Nxb
Chính trị quốc gia, Hà Nội, 1999.
+ Chính sách thương mại và đầu tư của Việt Nam, Viện Kinh tế Thế
giới, Nxb Khoa học xã hội, Hà Nội, 1997.
+ PGS.TS Hoàng Đức Thân, Chính sách thương mại trong điều kiện
hội nhập, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2001.
+ Nguyễn Thị Thư, Tỷ giá hối đoái: chính sách và tác động của nó đối
với ngoại thương qua thực tiễn một số nước, Luận án tiến sĩ kinh tế, Trung
tâm Khoa học Xã hội và Nhân văn, Hà Nội, 2001.
Trong các công trình trên, các tác giả đã tiếp cận trên phạm vi cả nước,
hoặc giới hạn vào một góc độ hay phạm vi nhất định như: Chính sách thương
mại, công cụ, chính sách cụ thể. Tuy vậy chưa có một công trình cụ thể nào
nghiên cứu đến hoạt động XNK của một địa phương như ở Quảng Ninh.
3. Mục đích, nhiệm vụ của luận án
Mục đích của luận án được tập trung vào:
- Hệ thống hóa những vấn đề lý luận, chính sách xuất nhập khẩu của
Việt Nam thời gian qua.
- Đưa ra những luận cứ nhằm hoàn thiện những phương hướng và giải
pháp phát triển XNK của Quảng Ninh trong thời gian tới.
3
Nhiệm vụ của luận án:
- Làm rõ thêm cơ sở lý luận về nội dung, chính sách và công cụ của
xuất nhập khẩu trong xu thế hội nhập và phát triển.
- Đánh giá thực trạng hoạt động xuất nhập khẩu của tỉnh Quảng Ninh
trong thời gian 1996 – 2002 (có tham khảo thêm số liệu trước năm 1996).
- Đề xuất các phương hướng và giải pháp góp phần đẩy mạnh hoạt
động xuất nhập khẩu của địa phương trong thời gian tới.
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
Luận án chỉ tập trung phân tích đánh giá thực trạng xuất nhập khẩu của
tỉnh Quảng Ninh trong thời gian 1996-2002. Một số biểu có lấy số liệu từ năm
1991 để chứng minh.
5. Phương pháp nghiên cứu
- Phương pháp chủ yếu trong quá trình nghiên cứu là phương pháp luận
của chủ nghĩa Mác - Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh.
- Sử dụng các phương pháp lôgíc và lịch sử, phương pháp chuyên gia,
phân tích, so sánh, tổng hợp, tiếp thu, kế thừa có chọn lọc các lý thuyết kinh
tế, kinh nghiệm của một số nước và các công trình khoa học đã có trước đó.
6. Những đóng góp mới của luận án
- Hệ thống hóa cơ sở lý thuyết về hoạt động, cơ chế, chính sách, công
cụ xuất nhập khẩu và rút ra những bài học ở Việt Nam trong xu thế hội nhập
khu vực và quốc tế.
- Đánh giá có phân tích thực trạng hoạt động, cơ chế, chính sách, cơ
chế của xuất nhập khẩu của địa phương trong thời kỳ đổi mới, đặc biệt là
trong việc nối lại quan hệ với Trung Quốc và một số nước khác.
- Đề xuất các giải pháp chủ yếu nhằm đẩy mạnh hoạt động xuất nhập
khẩu của Quảng Ninh trong thời kỳ công nghiệp hóa, hiện đại hóa.
4
7. Kết cấu của luận án
Ngoài phần mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo, nội dung
luận án gồm 3 chương 8 tiết.
Chương 1
CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ XUẤT NHẬP KHẨU
1.1. SỰ CẦN THIẾT KHÁCH QUAN CỦA HOẠT ĐỘNG XUẤT NHẬP
KHẨU ĐỐI VỚI PHÁT TRIỂN KINH TẾ QUỐC DÂN
1.1.1. Nhận thức về xuất nhập khẩu và vai trò của nó đối với nền
kinh tế quốc dân
1.1.1.1. Nhận thức về ngoại thương, thương mại quốc tế
Thương mại quốc tế có nghĩa là lĩnh vực phân phối, lưu thông hàng hóa
và dịch vụ với nước ngoài hoặc là sự trao đổi hàng hóa, dịch vụ giữa các nước
chủ yếu thông qua hoạt động mua, bán hàng hóa [8, tr. 6-10].
Ngoại thương là phạm trù kinh tế phản ánh sự trao đổi hàng hóa giữa
nước này với nước khác thông qua các hoạt động bán và mua (gọi là xuất khẩu nhập khẩu) [39, tr. 16].
Ngoại thương thực hiện chức năng lưu thông hàng hóa giữa trong nước
với nước ngoài [31, tr. 42].
Xuất nhập khẩu là một phạm trù kinh tế phản ánh hoạt động trao đổi,
mua bán hàng hóa của một quốc gia với phần còn lại của thế giới.
Toàn bộ hoạt động XNK giữa các nước được gọi là thương mại quốc tế
(mậu dịch quốc tế, hay còn gọi là mậu dịch thế giới) [59, tr. 235-236].
Như vậy XNK là hoạt động kinh doanh ở phạm vi quốc tế hay còn gọi
là việc mua bán hàng hóa với nước ngoài nhằm phát triển sản xuất, kinh
5
doanh và đời sống. Hoặc có thể hiểu một cách đơn giản: Xuất nhập khẩu
(hoặc ngoại thương) là những hoạt động cụ thể trong trao đổi, mua bán hàng
hóa của các chủ thể kinh tế với các đối tác nước ngoài, còn thương mại quốc
tế tổng hóa tất cả các hoạt động xuất nhập khẩu giữa các quốc gia [22, tr.
527].
Hoạt động xuất nhập khẩu phân biệt với hoạt động thương mại nội địa
ở chỗ: phạm vi hoạt động vượt qua biên giới quốc gia; có sự tham gia kinh
doanh của chủ thể nước ngoài; địa điểm sản xuất và địa điểm tiêu thụ hàng
hóa thường ở hai quốc gia khác nhau; thanh toán thường sử dụng các đồng
tiền có khả năng chuyển đổi.
Xuất nhập khẩu bao gồm: xuất khẩu và nhập khẩu. Theo định nghĩa
truyền thống, xuất khẩu là hoạt động kinh tế, theo đó hàng hóa, dịch vụ được
sản xuất tại nước này nhưng được bán và tiêu dùng ở nước khác. Nhập khẩu
là hoạt động kinh tế, theo đó hàng hóa, dịch vụ được sản xuất tại một nước
khác nhưng được để sản xuất và tiêu dùng ở nước mua về [22, tr. 372]. Như
vậy thông thường hàng hóa phải được vận chuyển qua biên giới quốc gia.
Hoạt động xuất nhập khẩu hình thành và phát triển từ rất lâu và quy mô
của nó ngày càng mở rộng với tốc độ ngày càng cao. Các nhà nghiên cứu rút
ra những kết luận cơ bản làm cơ sở cho các quốc gia hoạch định chính sách và
tác động cụ thể vào hoạt động xuất nhập khẩu. Tùy theo mục đích, nhận thức
và phương pháp nghiên cứu các nhà nghiên cứu kinh tế, chính trị đã đưa ra
các lý thuyết về hoạt động thương mại quốc tế. Nhìn chung các lý thuyết
thương mại quốc tế rất khác nhau và đều đã góp phần hoặc là giải thích bản
chất của hoạt động xuất nhập khẩu hoặc minh chứng cho sự tác động chính
sách của Chính phủ vào lĩnh vực này.
a) Học thuyết thương mại quốc tế dựa trên lợi thế tuyệt đối (A.Smith)
6
Adam Smith (1723-1790) là người đầu tiên đưa ra sự phân tích có tính
hệ thống về nguồn gốc thương mại quốc tế. Ông đã xây dựng mô hình thương
mại đơn giản dựa trên ý tưởng về lợi thế tuyệt đối để giải thích thương mại
quốc tế có lợi thế như thế nào đối với các quốc gia. Nếu quốc gia A có thể sản
xuất mặt hàng X rẻ hơn quốc gia B, và quốc gia B có thể sản xuất mặt hàng Y
rẻ hơn so với quốc gia A thì lúc đó mỗi quốc gia nên tập trung vào sản xuất
mặt hàng mà mình có hiệu quả hơn và xuất khẩu mặt hàng này sang quốc gia
kia [48, tr. 358]. Trong trường hợp này mỗi quốc gia được coi là có lợi thế
tuyệt đối về sản xuất từng mặt hàng cụ thể. Nhờ có chuyên môn hóa sản xuất
và trao đổi mà cả hai quốc gia đề trở nên sung túc hơn.
b) Học thuyết thương mại quốc tế dựa trên lợi thế so sánh và mô hình
thương mại D.Ricardo (1772-1823)
Khi đánh giá lý thuyết lợi thế tuyệt đối của A.Smith, D.Ricardo đã cho
rằng, trên thực tế lợi thế tuyệt đối của mỗi quốc gia không có nhiều, hơn nữa
thực tế cho thấy là phần lớn các quốc gia tiến hành buôn bán với nhau không
chỉ ở những mặt hàng có lợi thế tuyệt đối mà còn đối với cả những mặt hàng
dựa trên lợi thế tương đối - một khái niệm rộng hơn và khái quát hơn nhiều so
với lợi thế tuyệt đối. Nội dung của học thuyết lợi thế tương đối được D.Ricardo
diễn đạt qua ví dụ về sự trao đổi khăn mặt và rượu vang giữa Anh và Bồ Đào
Nha. Ông dựa trên các giả định sau để xây dựng mô hình lợi thế so sánh:
- Anh và Bồ Đào Nha cùng sản xuất khăn mặt và rượu vang.
- Năng lượng lao động của hai quốc gia này khác nhau và năng suất lao
động ở Anh cao hơn Bồ Đào Nha về khăn và rượu.
- Sự cạnh tranh bình đẳng trên thị trường.
- Sở thích về hai mặt hàng ở tại hai nước này như nhau.
- Lao động được tự do di chuyển trong nội bộ từng nước, nhưng không
7
có sự di chuyển sang nước khác.
Mặc dù hai nước này không có lợi thế tuyệt đối khi so sánh với nhau
nhưng cả hai nước này đều có thể tìm ra lợi thế tương đối qua sự phân công
lao động quốc tế.
Từ đó, ông rút ra kết luận: Mọi nước đều có lợi khi tham gia vào phân
công lao động quốc tế, bởi vì: Phát triển xuất nhập khẩu cho phép mở rộng
khả năng tiêu dùng của một nước. Nguyên nhân chính là do chuyên môn hóa
sản xuất một số sản phẩm nhất định của mình để đổi lấy hàng nhập khẩu từ
các nước khác thông qua con đường thương mại quốc tế. Mặt khác, những
nước kém lợi thế tuyệt đối hơn so với nước khác, vẫn có thể và có lợi khi
tham gia vào phân công lao động và thương mại quốc tế vì mỗi nước đó đều
có những lợi thế so sánh nhất định về một số mặt hàng khác.
Như vậy có thể kết luận rằng, một trong những điểm cốt yếu nhất của
học thuyết lợi thế so sánh là những lợi ích do chuyên môn hóa sản xuất và
Thương mại quốc tế phụ thuộc vào lợi thế so sánh chứ không phải lợi thế tuyệt
đối. Lợi thế so sánh là điều kiện cần và đủ đối với lợi ích của thương mại quốc
tế. Lợi thế tuyệt đối của A.Smith chỉ là trường hợp đặc biệt của lợi thế so sánh.
Về khía cạnh chuẩn tắc của học thuyết, D.Ricardo không có gì khác với
A.Smith, nghĩa là ông vẫn ủng hộ tự do xuất nhập khẩu khuyên cáo các Chính
phủ tích cực thúc đẩy, khuyến khích tự do Thương mại quốc tế.
Năm 1815, nhà kinh tế học R.Forrens đã bổ sung học thuyết của A.Smith
thành "Thuyết lợi ích so sánh", sau đó hầu hết lợi thế tương đối - Ricardo
được tiếp thu phát triển mạnh mẽ. Năm 1817 trong tác phẩm "Chính trị, kinh
tế học và nguyên lý thuyết khóm" thành thuyết "Lợi thế so sánh". Ngay Các
Mác khi nghiên cứu về TMQT cũng đồng ý với D.Ricardo và cho rằng "hàng
hóa được sản xuất ở nước mà ở đó chúng có giá rẻ nhất và được vận chuyển
đến để tiêu thụ ở nước mà ở đó chúng có giá đắt nhất" [46].
8
c) Học thuyết thương mại quốc tế dựa trên cơ sở chi phí cơ hội
Nội dung học thuyết này là mở rộng lý thuyết cổ điển về thương mại
quốc tế trên cơ sở giả định chi phí cơ hội là tăng dần nhằm làm cho lý thuyết
này trở nên thực tế hơn và có tính khái quát hơn. Phần đầu nêu lên bản chất và
các lý do dẫn đến chi phí cơ hội tăng dần, tiếp theo yếu tố cầu được đưa vào
kết hợp với yếu tố cung xác định điểm cân bằng. Lợi ích từ thương mại được
chỉ ra trong cả hai trường hợp phân tích cân bằng tổng quát và phân tích cân
bằng bộ phận. Cuối cùng khái niệm đường cũng được giới thiệu và sử dụng
để xác định điều kiện thương mại quốc tế cân bằng.
C1. Chi phí cơ hội và lợi thế so sánh
Chi phí cơ hội (còn được gọi là tỷ lệ chuyển đổi cận biên) của mặt hàng
X, là số lượng mặt hàng Y cần được cắt giảm để sản xuất thêm một đơn vị
hàng hóa X, trong hai quốc gia thì quốc gia nào có chi phí cơ hội của X thấp
hơn thì sẽ có lợi thế so sánh về mặt hàng này. Trong mô hình D. Ricardo chi
phí cơ hội là không đổi và được xác định bằng độ dốc của đường giới hạn khả
năng sản xuất. Về thực chất, chi phí cơ hội là cách phát biểu khác của giá cả
hàng hóa tương quan. Như vậy kết luận rút ra cũng giống như những gì đạt
được trong mô hình Ricardo. Tuy nhiên, xác định lợi thế so sánh dựa vào khái
niệm chi phí cơ hội ưu việt hơn so với phương pháp của Ricardo ở chỗ không
cần đưa ra bất kỳ giả định gì về lao động.
Khái niệm chi phí cơ hội cũng được vận dụng trong trường hợp có
nhiều yếu tố sản xuất tuy nhiên khi đó chi phí cơ hội không phải là cố định
mà xu hướng tăng dần trường hợp có tính thực tế hơn này sẽ được xem xét ở
các phần tiếp theo.
C2. Chi phí cơ hội tăng dần và đường giới hạn khả năng sản xuất
Chi phí cơ hội của một mặt hàng mà tăng dần nếu như để sản xuất thêm
một đơn vị mặt hàng đó thì cần phải cắt giảm một số lượng tăng dần các mặt
9
hàng khác. Trong trường hợp đó đường giới hạn khả năng sản xuất sẽ không
phải là một đường thẳng mà là một đường cong lồi ra phía ngoài. Hình 1.1
cho thấy để sản xuất thêm một đơn vị thép thì lượng cao su bị cắt giảm ngày
càng tăng. Tại sao lại như vậy? Lý do là vì tính thích hợp của các yếu tố sản
xuất đối với từng mặt hàng. Một yếu tố sản xuất nào đó có thể được sử dụng
rất hiệu quả trong sản xuất một mặt hàng nhất định nhưng lại tỏ ra kém hiệu
quả hoặc hoàn toàn không có hiệu quả trong sản xuất những mặt hàng khác.
Cao su
Hình 1.1: Chi phí cơ hội tăng dần
0
1
2
3
Thép
Với chi phí cơ hội tăng dần thì cũng được biểu thị bằng đường giới hạn
khả năng sản xuất như ở hình 1. Mỗi điểm trên đường đó cho thấy số lượng
hai mặt hàng được sản xuất ra khi toàn bộ nguồn lực của quốc gia được sử
dụng. Độ dốc của đường tiếp tuyến tại mỗi điểm đó sẽ chỉ ra chi phí cơ hội
hoặc mức giá tương quan (hay còn gọi là tỷ lệ chuyển đổi cận biên - MRT)
giữa hai mặt hàng. Khi điểm sản xuất dịch chuyển xuống dưới theo đường
giới hạn khả năng sản xuất thì chi phí cơ hội của thép (hay giá của thép tính
theo cao su) sẽ tăng dần.
C3. Mô hình thương mại với chi phí cơ hội tăng dần
10
Có thể rút ra một vài so sánh giữa mô hình thương mại mới (chi phí cơ
hội tăng dần) với mô hình Ricardo (chi phí cơ hội không đổi). Thứ nhất, cả
hai mô hình đều có chung kết luận rằng thương mại làm tăng sản xuất mặt
hàng mà quốc gia có lợi thế so sánh, làm thay đổi giá cả tương quan của các
mặt hàng ở các quốc gia và hình thành lên một mức giá quốc tế thống nhất,
đồng thời gia tăng tiêu dùng mặt hàng mà quốc gia không có lợi thế so sánh.
Thứ hai, khác với mô hình của Ricardo trong đó từng quốc gia thực hiện
chuyên môn hóa hoàn toàn, mô hình thương mại mới được đặc trưng bởi
chuyên môn hóa không hoàn toàn, mỗi quốc gia tiếp tục sản xuất cả hai mặt
hàng, trong đó mặt hàng mà quốc gia có lợi thế so sánh được sản xuất với số
lượng lớn hơn.
Hình 1.2 chứng minh mô hình thương mại và chi phí cơ hội của hai
quốc gia: Trung Quốc và Việt Nam với hai mặt hàng cao su và thép.
Hình 1.2- Chi phí cơ hội tăng dần và thương mại quốc tế
Cao su
Cao su
Trung Quốc
Việt Nam
S
S C’M
P’A
PM
I
PA
P’M
T
C’A
K
Thép
T
Thép
d) Lý thuyết tân cổ điển về thương mại quốc tế
Như đã nêu ở trên, hạn chế của lý thuyết cổ điển về thương mại quốc tế
là ở chỗ nó cho rằng thương mại diễn ra trên cơ sở có sự chênh lệch năng suất
lao động giữa các quốc gia. Vào đầu thế kỷ 20, hai nhà kinh tế học người
11
Thụy Điển là Eli Heckscher (1879-1952) và Bertil Ohlin (1899-1979) đã nhận
thấy rằng chính mức độ sẵn có của các yếu tố sản xuất ở các quốc gia khác
nhau và mức độ sử dụng các yếu tố sản xuất để làm ra các mặt hàng khác
nhau mới là các nhân tố quan trọng quy định thương mại. Lý thuyết mà họ
xây dựng thường được gọi là Định lý Heckscher - Ohlin (viết tắt là H-O) hay
lý thuyết tân cổ điển về thương mại quốc tế.
D1. Khái niệm hàm lượng các yếu tố và mức độ dồi dào của các yếu
tố:
Định lý H-O được xây dựng dựa trên hai khái niệm cơ bản (hay mức
độ sử dụng) các yếu tố và mức độ dồi dào của các yếu tố.
Một mặt hàng được coi là sử dụng nhiều (một cách tương đối) lao động
nếu tỷ lệ giữa lượng lao động và các yếu tố khác (như vốn hoặc đất đai) sử
dụng để sản xuất ra một đơn vị mặt hàng đó lớn hơn tỷ lệ tương ứng các yếu
tố đó để sản xuất ra một đơn vị mặt hàng thứ hai. Tương tự, nếu tỷ lệ giữa vốn
và các yếu tố khác là lớn hơn thì mặt hàng được coi là có hàm lượng vốn cao.
Chẳng hạn, mặt hàng X được coi là có hàm lượng lao động cao nếu:
Lx Ly
>
Kx Ky
Trong đó: LX và LY là lượng lao động cần thiết để sản xuất ra một đơn
vị X và Y, còn KX và KY là lượng vốn cần thiết để sản xuất ra một đơn vị X và
Y, một cách tương ứng.
Một quốc gia được coi là dồi dào về lao động (hay về vốn) nếu tỷ lệ
giữa lượng vốn (hay lượng lao động) và các yếu tố sản xuất khác của quốc gia
đó lớn hơn tỷ lệ tương ứng của các quốc gia khác. Cũng tương tự như trường
hợp hàm lượng các yếu tố, mức độ dồi dào của một yếu tố sản xuất của một
quốc gia được đo không phải bằng số lượng tuyệt đối, mà bằng tương quan
giữa số lượng yếu tố đó với các yếu tố sản xuất khác của quốc gia.
12
D2. Định lý H - O
Xuất phát từ các khái niệm cơ bản trên thì nội dung của Định lý H - O
có thể được tóm tắt như sau:
Một quốc gia sẽ XK những mặt hàng mà việc sản xuất đòi hỏi sử dụng
nhiều một cách tương đối yếu tố sản xuất dồi dào, rẻ của quốc gia đó và nhập
khẩu hàng hóa mà việc sản xuất nó cần nhiều yếu tố đắt và tương đối khan
hiếm hơn ở nước đó [49, tr.598-605].
Định lý H-O được xây dựng dựa trên một loạt giả thiết đơn giản sau đây:
- Thế giới bao gồm 2 quốc gia, 2 yếu tố sản xuất (lao động và vốn), và
2 mặt hàng;
- Công nghệ sản xuất là giống nhau giữa 2 quốc gia;
- Sản xuất mỗi mặt hàng có hiệu suất không đổi theo quy mô, còn mỗi
yếu tố sản xuất thì có năng suất cận biên giảm dần;
- Hàng hóa khác nhau về hàm lượng các yếu tố sản xuất, và không có
sự hoán vị về hàm lượng các yếu tố sản xuất tại bất kỳ mức giá cả yếu tố
tương quan nào;
- Cạnh tranh hoàn hảo tồn tại trên cả thị trường hàng hóa và thị trường
yếu tố sản xuất;
- Chuyên môn hóa là không hoàn toàn;
Các yếu tố sản xuất có thể di chuyển tự do trong mỗi quốc gia, nhưng
không thể di chuyển giữa các quốc gia;
- Sở thích là giống nhau giữa hai quốc gia;
- Thương mại là tự do, chi phí vận chuyển là bằng 0.
Hình 1.3 minh họa cho mô hình thương mại tự do H-O.
13
Hình 1.3. Mô hình thương mại H-O
Cao su
A1
D3. Các mệnh đề khác của Định lý H-O
CA giả thiết đơn giản trên, ngoài Định lý H-O còn có thể rút
Trên cơ sở các
I2
M sung khác liên quan đến mối liên hệ giữa mức độ trang
ra một số mệnh đềCbổ
K
bị các yếu tố, thương mạiI quốc tế, giá cả hàng hóa và giá cả các yếu tố, tác
0
M
0
động của sự gia tăng mức cùng các yếu tố, và vấn đề phân phối thu nhập.
M1
L
Định lý cân bằng giá cả yếu tố sản xuất: Thương mại tự do sẽ làm cho
giá cả các yếu tố sản xuất có xu hướng trở nên cân bằng, và nếu hai quốc gia
0
Thép
tiếp tục sản xuất hai mặt hàng (tức thực hiện chuyên môn hóa không hoàn
toàn) thì giá cả các yếu tố sẽ thực sự trở nên cân bằng.
Định lý Rybczynski: Tại mức giá hàng hóa tương quan không đổi thì sự
gia tăng mức cung của một yếu tố sản xuất sẽ làm gia tăng sản lượng mặt
hàng sử dụng nhiều yếu tố đó, và làm giảm sản lượng của mặt hàng kia.
Định lý Stolper - Samuelsson: nếu giá tương quan của một mặt hàng
nào đó tăng lên thì giá tương quan của yếu tố được sử dụng nhiều một cách
tương đối để sản xuất ra mặt hàng đó sẽ tăng lên, còn giá tương quan của yếu
tố kia sẽ giảm xuống.
e) Các lý thuyết hiện đại về thương mại quốc tế
Các lý thuyết mới này có thể phân thành ba nhóm căn cứ vào cách tiếp
cận của chúng: lý thuyết dựa hiệu suất theo quy mô; lý thuyết liên quan đến
công nghệ; lý thuyết liên quan đến cầu.
E.1. Thương mại dựa trên hiệu suất tăng dần theo quy mô
Một trong những lý do quan trọng dẫn đến thương mại quốc tế là tính
hiệu quả tăng dần theo quy mô. Sản xuất được coi là có hiệu quả nhất khi
được tổ chức trên quy mô lớn. Lúc đó một sự gia tăng đầu vào với tỷ lệ nào
14
đó sẽ dẫn tới sự gia tăng đầu ra (sản lượng) với tỷ lệ cao hơn. Cần lưu ý rằng,
các mô hình thương mại H-O và D. Ricardo đều dựa trên giả định về hiệu suất
không đổi theo quy mô. Trong trường hợp hiệu suất tăng dần thì đường giới
hạn khả năng sản xuất thường là một đường cong lồi về phía gốc tọa độ, và
khi đó chi phí cơ hội giảm dần. Điều này cho phép thương mại giữa các nền
kinh tế giống nhau diễn ra một cách cùng có lợi. Có thể minh họa bằng đồ thị
sau:
Hình 1.4. Thương mại dựa trên hiệu suất tăng dần theo quy mô
Ô tô
Thương mại dựa trên sự biến đổi công nghệ
UE2.
A1
Trong lý thuyết của D. Ricardo, thương mại hình thành do có sự khác
I2
CM giữa
I3 các quốc gia. Về phần mình, sự khác biệt về
biệt vềS năng suất lao động
I
R lao1 động lại là kết quả của sự khác biệt về công nghệ sản xuất. Còn
năng suất
M
Định lý H-O là mộtAmô hình thương mại tĩnh, với công nghệ được giả định là
E
giống nhau giữa các quốc gia. Về thực chất thì các lý thuyết thương mại liên
quan đến
cận
Máy
baychủ yếu của lý thuyết
0 công nghệ cũng theo đuổi cách tiếp
Ricardo, nhưng điểm khác là ở chỗ sự khác biệt về công nghệ được coi không
TNV
phải là yếu tố tĩnh và tồn tại mãi mãi: nó chỉ là hiện tượng tạm thời và gắn
liền với một quá trình động, liên tục phát triển.
Lý thuyết về khoảng cách công nghệ được Posner đưa ra vào năm 1961.
Nó dựa trên ý tưởng rằng công nghệ luôn luôn thay đổi dưới hình thức ra đời các
phát minh và sáng chế mới, và điều này tác động đến XK của các quốc gia. Sau
khi một phát minh ra đời, một sản phẩm mới xuất hiện và trở thành mặt hàng mà
quốc gia phát minh có lợi thế tuyệt đối tạm thời.Trong mô hình này sản phẩm
chỉ được XK nếu như thời gian cần thiết để sản phẩm được bắt chước ở nước
ngoài phải dài hơn thời gian để xuất hiện nhu cầu về sản phẩm từ thị trường
nước ngoài.
15
E3. Lý thuyết vòng đời sản phẩm
Về thực chất lý thuyết vòng đời sản phẩm chính là sự mở rộng lý thuyết
khoảng cách công nghệ. Các phát minh có thể ra đời ở các nước giàu, nhưng
điều đó không có nghĩa là quá trình sản xuất sẽ chỉ được thực hiện ở các nước đó
mà thôi. Lý thuyết khoảng cách công nghệ chưa trả lời được câu hỏi là phải
chăng các hãng phát minh sẽ tiến hành sản xuất tại những nước có điều kiện
thích hợp nhất (tài nguyên, các yếu tố sản xuất) đối với mặt hàng mới. Theo
Vernon (1966) các nhân tố cần thiết cho sản xuất một sản phẩm mới sẽ thay đổi
tùy theo vòng đời sản phẩm đó. Thương mại dựa trên vòng đời sản phẩm có thể
được minh họa bằng hình 1.5.
Hình 1.5. Vòng đời sản phẩm và thương mại quốc tế
Nước phát minh
t0
t1
t2
Các nước phát
triển khác
t3
t4
Các nước kém phát
triển
Sau khi nghiên cứu các học thuyết thương mại quốc tế, tôi cho rằng
trong điều kiện hiện nay, Việt Nam nói chung và tỉnh Quảng Ninh nói riêng
có thể vận dụng lý thuyết này để xây dựng chiến lược ngoại thương nói chung
và chiến lược xuất khẩu nói riêng bằng cách:
- Phát triển và sử dụng có hiệu quả nguồn nhân lực - nguồn gốc quan
16
trọng của lợi thế so sánh. Với dân số 80 triệu dân, trong đó 56,4% đang trong
tuổi lao động, đây chính là một lợi thế lớn của Việt Nam, đặc biệt trong lĩnh
vực dệt may, giày dép, hàng thủ công mỹ nghệ và các làng nghề truyền thống,
sản xuất chế biến, lắp ráp, gia công xuất khẩu và các sản phẩm cây công
nghiệp - lĩnh vực được coi là cần thiết lao động.
- Đẩy mạnh chuyên môn hóa sản xuất các sản phẩm cây công nghiệp có
thế mạnh ở từng vùng, từng địa phương, đặc biệt là một số cây công nghiệp có
điều kiện sản xuất ở trong nước và đang được thị trường thế giới ưa chuộng
như: cà phê, cao su, chè, hạt tiêu, lạc, để phát huy lợi thế của địa phương mình,
ngành mình.
- Với các doanh nghiệp không nên sản xuất, kinh doanh tất cả các mặt
hàng mình có khả năng mà chỉ cần xem xét lựa chọn một số mặt hàng mũi
nhọn mà mình có lợi thế nhiều nhất để xuất khẩu và nhập khẩu những mặt
hàng mà trong nước sản xuất kém hiệu quả nhất.
- Các doanh nghiệp cần tránh việc "tranh mua" sản phẩm vì việc đó sẽ
đẩy giá sản phẩm nội địa tăng lên, đồng thời tránh việc "tranh bán" với khách
hàng nước ngoài, điều này sẽ dẫn đến bị ép giá. Thực tế cà phê, cao su của
chúng ta những năm vừa qua chất lượng không kém gì của các nước khác
nhưng giá bán vẫn thấp hơn 20-30 USD/tấn.
- Vận dụng lý thuyết về khoảng cách công nghệ, lý thuyết về vòng đời sản
phẩm, Nhà nước cần đẩy mạnh khuyến khích đầu tư nước ngoài tại Việt Nam,
nhằm tạo ra quá trình chuyển giao công nghệ nhanh chóng. Mặt khác, cần huy
động và sử dụng có hiệu quả các nguồn vốn tích lũy nội địa nhằm tăng cường
đổi mới máy móc thiết bị và công nghệ nâng cao tỷ trọng XK của các sản phẩm
có hàm lượng công nghệ cao, sản phẩm có mức độ tinh chế mang lại hiệu quả
kinh tế cao hơn.
- Chính phủ cần có các biện pháp, chính sách về tỷ giá, về thuế quan và
phi thuế quan phù hợp trong từng giai đoạn để hỗ trợ, kích thích những ngành
17
sản xuất mà mình có lợi thế tuyệt đối hoặc lợi thế so sánh, nhằm tập trung
chuyên môn hóa một cách có hiệu quả nhất đem trao đổi trên thị trường thế
giới (như các mặt hàng dệt may, giày dép, chế biến nông - lâm - thủy hải sản,
hàng thủ công mỹ nghệ...).
Cần có chiến lược đào tạo con người, có chính sách ưu đãi với những
người tài, có năng lực, thậm chí cần đưa đi đào tạo nước ngoài để học hỏi,
tiếp thu thành tựu khoa học kỹ thuật, kinh nghiệm quản lý tiên tiến để phục vụ
cho quá trình phát triển đất nước. Trong điều kiện hội nhập kinh tế quốc tế,
Việt Nam rất thiếu và rất cần một đội ngũ các doanh nhân năng động, am hiểu
nghiệp vụ kinh doanh và luật lệ thương trường. Do đó, việc xây dựng được
đội ngũ các nhà doanh nghiệp như vậy là vấn đề vừa mang tính cấp thiết, vừa
mang tính chiến lược, lâu dài. Trong chiến lược đào tạo, đây phải được coi là
trung tâm và phải được đầu tư thích đáng.
1.1.1.2. Vai trò của xuất nhập khẩu đối với nền kinh tế quốc dân
Xuất nhập khẩu có vai trò quan trọng vì nó mở rộng khả năng tiêu dùng
và sản xuất của mỗi nước. Xuất nhập khẩu cho phép một nước tiêu dùng tất
cả các mặt hàng với số lượng nhiều hơn mức có thể tiêu dùng ở giới hạn khả
năng sản xuất trong nước trong chế độ tự cung tự cấp.
Xuất nhập khẩu đóng vai trò là cầu nối giữa sản xuất và tiêu dùng trên
phạm vi toàn thế giới, nó gắn các quá trình kinh tế trong nước với kinh tế khu
vực, kinh tế thế giới. Ý nghĩa bao trùm là sử dụng có hiệu quả hơn các lực
lượng sản xuất của quốc gia và của thế giới. Xuất nhập khẩu đóng vai trò
quan trọng trong quá trình tăng trưởng và phát triển kinh tế. Thực tế lịch sử
chứng tỏ, các nước đi nhanh trên con đường tăng trưởng và phát triển kinh tế
là các nước có nền ngoại thương mạnh, năng động.
Vai trò của XNK thể hiện trước hết ở vai trò xuất khẩu. Vai trò quan
trọng của XK trong sự phát triển nền kinh tế quốc dân thể hiện ở những mặt
sau đây: Thứ nhất, xuất khẩu là tiến trình tiêu thụ một bộ phận tổng sản phẩm
18
quốc nội ở thị trường nước ngoài để thu ngoại tệ. Nó tạo nên sức mạnh vật
chất của nền ngoại thương một nước. Xuất khẩu vừa thể hiện năng lực cạnh
tranh của một quốc gia vừa tạo nguồn lực ngoại tệ để nhập khẩu. Thứ hai,
xuất khẩu tạo điều kiện để nền kinh tế quốc dân trong nước có thể sản xuất
với quy mô lớn hơn và đạt tới quy mô hiệu quả trên cơ sở chuyên môn hóa và
hợp tác hóa quốc tế, tạo thêm công ăn việc làm, tạo giá trị gia tăng và mở
rộng thị trường tiêu thụ ra nước ngoài. Sản xuất với quy mô lớn lên có thể tạo
thuận lợi cho đầu tư trong nước và quốc tế, cho việc hiện đại hóa kỹ thuật và
công nghệ, cho việc hợp lý hóa sản xuất, qua đó mà tăng năng suất lao động
và hạ giá thành sản phẩm... Thứ ba, xuất khẩu thực chất là đưa chất lượng và
trình độ kỹ thuật trong nước ra đọ sức với thị trường quốc tế, ở đây mọi sản
phẩm đều gặp phải một sự cạnh tranh của các công ty thuộc nhiều nước khác
nhau. Thông qua xuất khẩu có thể tự khẳng định được mình và học hỏi được
kinh nghiệm và trình độ quốc tế, đặc biệt là trình độ kỹ thuật và công nghệ
của các nước phát triển. Đồng thời chúng ta phải phấn đấu hạ giá thành các
sản phẩm để có thể cạnh tranh trên thị trường quốc tế và ngay cả thị trường
Trung Quốc. Thứ tư, xuất khẩu tạo điều kiện vật chất không những cho hoạt
động ngoại thương mà còn giúp tạo lập các mặt cân đối khác của nền kinh tế
quốc dân như cho việc thanh toán trả nợ, cho hoạt động tín dụng, cho việc ổn
định sức mua của đồng tiền trong nước... Đồng thời, thông qua xuất khẩu có
thể tạo điều kiện thuận lợi cho việc thực hiện một chính sách ngoại giao chủ
động và tích cực.
Hoạt động XNK có tác động và lợi ích đến ba loại chủ thể rõ ràng:
Quốc gia (đại biểu là Nhà nước), doanh nghiệp kinh doanh các mặt hàng liên
quan và người tiêu dùng. Trong nhiều trường hợp tác động của xuất nhập
khẩu về lợi ích đến ba loại chủ thể nêu trên rất khác nhau, thậm chí trái ngược
nhau. Điều này sẽ được bàn kỹ hơn ở tiết 1.2. Trong mục này, các tác động
của xuất nhập khẩu chỉ được xem xét ở góc độ chung nhất dưới góc độ toàn
bộ nền kinh tế quốc dân, tức là đứng trên lợi ích kinh tế quốc dân để xem xét.
19
Một điều cần lưu ý nữa là, khi phân tích vai trò của xuất nhập khẩu cần
thấy rõ tính ngược chiều nhau của hai loại xuất khẩu và nhập khẩu. Sự khác
nhau này cũng sẽ được đánh giá và đề cập cụ thể trong tiết 1.2 ở phần dưới,
nhưng ở mục này xuất và nhập khẩu được xem xét trong mối quan hệ biện
chứng với nhau: xuất khẩu là điều kiện để tạo ngoại tệ nhập khẩu, mặt khác
nhập khẩu trong nhiều trường hợp lại là yếu tố thúc đẩy xuất khẩu.
Nói tóm lại, xuất khẩu không phải là hành vi trao đổi hàng hóa và dịch
vụ giản đơn, mà nó có ý nghĩa sâu rộng đối với nền kinh tế quốc dân và đối
với sự hòa nhập của nó vào thị trường quốc tế. Do xuất khẩu quan trọng như
vậy cho nên các quốc gia rất coi trọng chiến lược xuất khẩu và thường áp
dụng chính sách khuyến khích xuất khẩu. Nghị quyết Đại hội IX đã đánh giá
"Tổng kim ngạch xuất khẩu 5 năm đạt trên 51,6 tỷ USD, tăng bình quân hàng
năm trên 21%, gấp 3 lần mức tăng GDP, khối lượng các mặt hàng chủ lực đều
tăng khá. Cơ cấu mặt hàng đã có sự thay đổi một bước. Năm 2000 kim ngạch
xuất khẩu đạt trên 186 USD/người, tuy còn mức thấp, nhưng đã thuộc các
nước có nền ngoại thương phát triển [17, tr. 237].
Nếu như xuất khẩu có vai trò quan trọng như vậy thì vai trò của nhập
khẩu cũng rất to lớn. Vì nếu xác định rõ vấn đề của nhập khẩu và có chính
sách tốt sẽ thúc đẩy sản xuất và xuất khẩu phát triển.
Thứ nhất: nhập khẩu tạo điều kiện cho hàng hóa sản xuất ở nước ngoài
có thể tiêu thụ ở trong nước, làm cho người tiêu dùng trong nước có cơ hội
lựa chọn hàng hóa tốt hơn với giá cả cạnh tranh.
Thứ hai: trong rất nhiều trường hợp nhập khẩu là điều kiện cần thiết để
đẩy mạnh xuất khẩu: thông qua việc nhập máy móc, thiết bị, bí quyết công
nghệ, nguyên vật liệu, bán thành phẩm các cơ sở sản xuất kinh doanh có điều
kiện đẩy mạnh XK. Ngày nay, có những quốc gia xuất khẩu đến 170% GDP
như Singapore là do quốc gia này đã nhập khẩu rất nhiều để phục vụ xuất
khẩu. Nhờ đó, các chỉ tiêu tăng trưởng kinh tế, việc làm, thu nhập tăng cao.
20
Thứ ba: nhập khẩu máy móc, thiết bị chính là kênh cơ bản để các quốc
gia, nhất là các quốc gia đang phát triển đổi mới công nghệ, thực hiện công
nghiệp hóa, hiện đại hóa.
Thứ tư: nhập khẩu hàng hóa chính là tạo điều kiện cho các doanh nghiệp
trong nước phải cạnh tranh trực tiếp trên thị trường nội địa, từ đó đổi mới
công nghệ, tổ chức sản xuất để nâng cao năng lực cạnh tranh.
Đối với nền kinh tế Việt Nam trong giai đoạn vừa chuyển đổi cơ chế
vừa hội nhập mở cửa như hiện nay, vai trò của XNK lại càng quan trọng.
Nhiều nhà khoa học đã khẳng định trong thời đại ngày nay, không một nền
kinh tế quốc dân nào có thể phát triển nhanh nếu không có hoạt động XNK,
mở cửa, hội nhập vào nền kinh tế khu vực và thế giới. Đối với nền kinh tế có
quy mô nhỏ và lạc hậu như Việt Nam, nếu không mở cửa hội nhập vào kinh
tế khu vực và thế giới thì không thể phát triển nhanh được và sẽ vĩnh viễn bị
tụt hậu so với thế giới và khu vực. Quy mô, tốc độ tăng trưởng của tổng kim
ngạch XNK hàng hóa và dịch vụ của Việt Nam có ý nghĩa quyết định đến độ
mở chung của nền kinh tế cũng như nhịp độ hòa nhập vào nền kinh tế thế
giới. Vì thế sự mở rộng hoạt động XNK, đặc biệt là xuất khẩu sẽ là một trong
những tiền đề, động lực trực tiếp thúc đẩy tốc độ của kinh tế Việt Nam hòa
nhập vào kinh tế thế giới.
Tổng kim ngạch nhập khẩu 5 năm của Việt Nam (1996-2000) khoảng
61 tỷ USD, tăng bình quân hàng năm khoảng 13,3%, tỷ trọng hàng tiêu dùng
trong tổng kim ngạch nhập khẩu giảm đáng kể từ 13% năm 1996 còn 5,2%
năm 2000. Mức chênh lệch nhập khẩu so với kim ngạch xuất khẩu đã từ
49,6% năm 1995 giảm xuống còn 6,3% vào năm 2000.
Đối với quy mô nền kinh tế, xuất nhập khẩu phát triển sẽ thúc đẩy mở
rộng quy mô khai thác các nguồn lực của đất nước và sử dụng có hiệu quả
hơn các nguồn lực, góp phần đẩy nhanh tốc độ tăng trưởng GDP. Đồng thời,
21
nó còn thúc đẩy quá trình phân công lao động xã hội, hình thành và cơ cấu lại
các vùng sản xuất tập trung chuyên môn hóa, thúc đẩy lực lượng sản xuất phát
triển. Phát triển xuất nhập khẩu cùng có nghĩa là chấp nhận cạnh tranh quốc
tế. Tham gia cạnh tranh quốc tế trên thị trường trong và ngoài nước sẽ tạo môi
trường áp lực liên tục buộc các doanh nghiệp Việt Nam phải không ngừng cải
tiến công tác quản lý, áp dụng khoa học kỹ thuật hiện đại, tiết kiệm các nguồn
lực... qua đó nâng cao hiệu quả kinh tế và năng lực sản xuất của các doanh
nghiệp, cũng như toàn bộ nền kinh tế quốc dân.
Đối với cơ cấu nền kinh tế nước ta vẫn đang rất lạc hậu, phát triển xuất
nhập khẩu sẽ trực tiếp thúc đẩy biến đổi cơ cấu nền kinh tế theo hướng công
nghiệp hóa, hiện đại hóa. Mặc dù cơ cấu thương mại, cơ cấu hàng hóa xuất
nhập khẩu có cơ sở khách quan là cơ cấu nền kinh tế, mà trước hết là cơ cấu
sản xuất, nhưng sự biến đổi cơ cấu hàng hóa xuất nhập khẩu vừa là tiền đề
của sản xuất trong nước, đồng thời sự biến đổi cơ cấu hàng hóa xuất nhập
khẩu có tác động tích cực trở lại cơ cấu sản xuất. Theo nghĩa đó thì sự phát
triển của xuất nhập khẩu sẽ trực tiếp phục vụ và thúc đẩy tiến trình biến đổi
cơ cấu nền kinh tế nước ta theo hướng công nghiệp hóa, hiện đại hóa.
Đối với công tác quan hệ đối ngoại nói chung, sự mở rộng XNK sẽ góp
phần mở rộng quan hệ kinh tế đối ngoại của Việt Nam nói riêng, mở rộng
quan hệ đối thoại nói chung, đồng thời góp phần củng cố an ninh, quốc phòng
và tăng cường củng cố vai trò của Việt Nam trên chính trường quốc tế.
Đối với Ngân sách Nhà nước và thu nhập của dân cư, phát triển xuất
nhập khẩu sẽ tăng thu Ngân sách qua nguồn thu thuế xuất nhập khẩu (chủ yếu
là thuế nhập) và tăng thu nhập cho người lao động, trước hết là trong các cơ
sở sản xuất hàng xuất khẩu. Mặt khác, thông qua mở rộng buôn bán quốc tế
sẽ làm tăng thu nhập quốc dân bởi vì thị trường thế giới tạo ra cơ hội để có
thể mua hàng hóa với giá tương đối rẻ, giá này thường thấp hơn giá lưu hành
trong nước, nếu không có trao đổi hàng hóa. Một nền kinh tế nhỏ như Việt
22
Nam thì khả năng thu lãi từ thương mại quốc tế là dễ đạt được. Thông qua mở
rộng xuất khẩu nước ta sẽ có nguồn thu lớn bằng cách xuất khẩu các mặt hàng
sản xuất từ các nguyên liệu rất dồi dào trong nước, đồng thời nhập khẩu các
mặt hàng mà các yếu tố sản xuất ra chúng khan hiếm ở trong nước.
Tuy nhiên, cần lưu ý rằng đối với nền sản xuất quy mô nhỏ của Việt
Nam, tham gia vào thương mại quốc tế và cạnh tranh quốc tế còn nhiều điểm
bất lợi. Do quy mô nhỏ của nền kinh tế nên trong quan hệ buôn bán quốc tế,
lượng hàng xuất nhập khẩu của Việt Nam không có ảnh hưởng đáng kể đến
tình hình cung - cầu trên thị trường thế giới. Vì thế, thông thường các doanh
nghiệp xuất nhập khẩu của ta phải chấp nhận giá do thị trường thế giới xác
định cho cả hàng xuất khẩu và hàng nhập khẩu. Các doanh nghiệp xuất nhập
khẩu Việt Nam bằng các hoạt động của mình cũng không có ảnh hưởng đáng
kể đến mặt hàng, giá cả các hàng XNK trên thị trường thế giới mà buộc phải
mua bán theo mặt bằng giá với bất kể số lượng như thế nào. Xuất nhập khẩu
không những chỉ làm thay đổi số lượng, cơ cấu hàng hóa xuất nhập khẩu cũng
như hàng hóa trên thị trường nước ta mà còn làm thay đổi cả quy mô sản xuất
và tiêu dùng trong nước. Thương mại quốc tế làm nâng giá hàng sản xuất lên
trên mức giá của tình trạng tự cung tự cấp. Thương mại quốc tế cũng làm
giảm giá hàng nhập khẩu thấp hơn mức giá ở tình trạng tự cung tự cấp. Đồng
thời thương mại quốc tế làm tăng giá cả các yếu tố sản xuất vốn rất rẻ mạt và
phong phú của nước ta và làm giảm giá các yếu tố sản xuất khan hiếm.
1.1.2. Những nhân tố tác động đến hoạt động xuất nhập khẩu của một quốc
gia
Hoạt động XNK của một quốc gia chịu sự tác động của rất nhiều nhân
tố. Việc nghiên cứu các nhân tố này có ý nghĩa to lớn một mặt giúp cho việc
hoạch định chính sách và áp dụng các công cụ thúc đẩy xuất nhập khẩu hợp
lý, mặt khác giúp cho chủ thể kinh doanh xuất nhập khẩu phân tích đánh giá
đúng bối cảnh và tình hình thị trường xuất nhập khẩu để đề ra chiến lược và
23
biện pháp kinh doanh có hiệu quả. Dưới giác độ nghiên cứu của luận án, tức
là nghiên cứu giải pháp đẩy mạnh kinh doanh xuất nhập khẩu ở Việt Nam nói
chung và ở Quảng Ninh nói riêng trong điều kiện cơ chế mới hiện nay, có thể
phân loại các nhân tố tác động đến xuất nhập khẩu thành năm nhóm sau đây:
- Nhóm nhân tố thuộc về tự nhiên
Nhóm nhân tố điều kiện tự nhiên có hai loại.
Loại thứ nhất: Liên quan đến sự có sẵn về các nguồn lực tự nhiên như
tài nguyên, khoáng sản, khí hậu... Chính các nhân tố này quyết định lợi thế
tuyệt đối (nhóm sản phẩm có lợi thế do tự nhiên) của sản phẩm hàng hóa sản
xuất ra và do vậy nó quyết định một số mặt hàng quan trọng (thậm chí có ý
nghĩa chiến lược) trong cơ cấu xuất nhập khẩu.
Loại thứ hai: Liên quan đến vị trí địa lý của quốc gia trong quan hệ với
hệ thống giao thông, đặc biệt là hệ thống đường biển, đường sắt và đường
hàng không quốc tế. Chính vị trí địa lý cũng như khoảng cách không gian tới
những thị trường quan trọng không những ảnh hưởng quyết định đến chi phí
vận tải mà còn ảnh hưởng quyết định đến khoảng thời gian cần thiết để xuất
nhập hàng hóa với thị trường thế giới. Những quốc gia không có biển gặp khá
nhiều khó khăn trong việc tổ chức xuất nhập khẩu hàng hóa. Mặt khác, chính
vị trí địa lý thuận lợi sẽ tạo khả năng cho việc phát triển các dịch vụ tái xuất
khẩu và chuyển khẩu cũng như xuất khẩu tại chỗ.
- Nhóm nhân tố thuộc về trình độ phát triển kinh tế và thu nhập của
quốc gia
- Trình độ phát triển kinh tế tác động đến hoạt động XNK trên bốn hướng:
Thứ nhất: Trình độ phát triển thể hiện ở năng lực sản xuất, năng lực
cạnh tranh của các chủ thể kinh tế trực tiếp tham gia XNK và cả ở năng lực tổ
chức, hoạt động chính sách và áp dụng các biện pháp kiểm soát XNK. Một
nền kinh tế phát triển cao tất yếu có nhiều doanh nghiệp mạnh có năng lực
24
cạnh tranh quốc tế và do vậy có khả năng XK và nhập khẩu nhiều sản phẩm.
Thứ hai: Trình độ phát triển kinh tế của quốc gia và kèm theo nó là
trình độ tổ chức sản xuất và công nghệ của các doanh nghiệp có ảnh hưởng
trực tiếp đến việc quốc gia đó sẽ lựa chọn xuất và nhập sản phẩm nào và xuất
nhập với ai. Trong điều kiện hiện nay ta thấy có đến trên 55% lưu lượng xuất
nhập khẩu thực hiện trong nội bộ các nước công nghiệp phát triển, chỉ còn
khoảng 45% là giữa những nước công nghiệp phát triển với các nước đang
phát triển và giao lưu giữa các nước đang phát triển với nhau. Như vậy nếu
một quốc gia như Việt Nam thuộc nhóm các nước đang phát triển thì khả
năng phát triển xuất nhập khẩu chủ yếu là với nhóm các nước công nghiệp
phát triển, trong đó chủ yếu là các nước Đông Á, tiếp đến là với một số nước
EU. Còn đối với các nước đang phát triển khác do điều kiện kinh tế, văn hóa,
tổ chức sản xuất gần giống nhau nên khó tìm ra các mặt hàng xuất nhập chiến
lược mà chủ yếu chỉ có các mặt hàng có lợi thế tuyệt đối.
Thứ ba: Thu nhập của dân cư trực tiếp quyết định đến cơ cấu và quy
mô hàng tiêu dùng nhập khẩu. Khi thu nhập dân cư tăng lên thì nhóm hàng
cao cấp nhập khẩu tăng mạnh, trong khi đó nhóm hàng thứ cấp giảm còn
mạnh hơn. Đây là yếu tố rất đáng chú ý trong điều hành chính sách cả ở tầm
vĩ mô và vi mô. Đây là mối quan hệ biện chứng giữa thu nhập (sản xuất) và
tiêu dùng đã được nhiều nhà kinh tế tổng kết trong nhiều năm và đã được
minh chứng trong nhiều tài liệu và trên thực tế Hoa Kỳ, các nước Tây Âu,
Nhật Bản là ví dụ điển hình.
Thứ tư: Trình độ phát triển kinh tế thể hiện ở các điều kiện kết cấu hạ
tầng bảo đảm cho hoạt động XNK. Các điều kiện kết cấu hạ tầng ở đây bao
gồm cả hạ tầng kỹ thuật (hệ thống giao thông, kho bãi, bến cảng...); hạ tầng
thiết chế – pháp lý (hệ thống luật pháp, ý thức chấp hành pháp luật, các thiết
chế bảo đảm kinh doanh XNK như hải quan, kiểm định, tiêu chuẩn kỹ thuật...);
hạ tầng tài chính (bao gồm hệ thống các ngân hàng thương mại, hệ thống các
25
thiết chế tài chính và độ tin cậy của chúng). Các điều kiện kết cấu hạ tầng nêu
trên có vai trò như những điều kiện cần bảo đảm cho XNK phát triển.
- Nhóm nhân tố thuộc về sự khác biệt về văn hóa: mỗi quốc gia có
truyền thống riêng về lịch sử, văn hóa và điều đó thể hiện trong lối sống.
Chính những vấn đề này lại được thể hiện trong tập quán, thị hiếu thói quen
tiêu dùng của người dân mỗi quốc gia. Để đưa hàng hóa xuất khẩu xâm nhập
vào một thị trường nào đó đòi hỏi phải có sự am hiểu sâu sắc về truyền thống
dân tộc, về nếp sống văn hóa, về lối sống dân cư và từ đó hiểu rõ về thị hiếu,
về thói quen của người tiêu dùng. Thực tế cho thấy, hàng Việt Nam xuất khẩu
sang thị trường Châu Á đã tương đối nhanh chóng được chấp nhận hơn khi
xuất khẩu sang thị trường khác ở Châu Âu và Châu Mỹ do các thị trường
Châu Á gần gũi về văn hóa với người Việt. Bởi vậy đòi hỏi phải có sự nghiên
cứu nghiêm túc về những vấn đề này khi tổ chức xúc tiến hoạt động xuất khẩu
đối với từng khu vực thị trường nhất định.
- Nhóm nhân tố thuộc về đặc điểm và xu hướng vận động của thị trường thế
giới
Đây là nhóm nhân tố mang tính khách quan nhưng có ảnh hưởng trực
tiếp và trong một số trường hợp có ý nghĩa quyết định đến hoạt động xuất
nhập khẩu của một quốc gia. Thị trường thế giới vốn không phải là một khái
niệm đơn giản bởi nó bị phân khúc rất mạnh trên cả giác độ mặt hàng lẫn khu
vực. Tuy nhiên, xét về tổng thể, có thể thấy, thị trường thế giới có một số đặc
điểm đáng lưu ý.
Thứ nhất: Đang diễn ra một sự thay đổi mạnh mẽ trong cơ cấu của hàng
hóa được buôn bán trên thị trường thế giới. Chẳng hạn, tỷ trọng hàng nguyên
liệu thô có xu hướng giảm, tỷ trọng hàng lương thực và thực phẩm cũng có xu
hướng giảm dần, trong khi đó tỷ trọng hàng hóa có trình độ công nghệ cao,
đặc biệt là hàng hóa vô hình và dịch vụ lại tăng nhanh. Về mặt giá cả thì quy
luật giá cánh kéo vẫn tiếp tục thể hiện rõ trong các sản phẩm công nghiệp, đặc