Tải bản đầy đủ (.doc) (91 trang)

LUẬN văn THẠC sĩ xây DỰNG ý THỨC CHÍNH TRỊ của SINH VIÊN THÀNH PHỐ hồ CHÍ MINH TRƯỚC tác ĐỘNG của TOÀN cầu hóa HIỆN NAY

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (504.2 KB, 91 trang )

BẢNG CHỮ VIẾT TẮT
CHỮ VIẾT ĐẦY ĐỦ

CHỮ VIẾT TẮT

Cao đẳng
Chủ nghĩa xã hội
Công nghiệp hóa, hiện đại hóa
Đại học
Kinh tế thị trường
Nhà xuất bản
Toàn cầu hóa
Tư bản chủ nghĩa


CNXH
CNH, HĐH
ĐH
KTTT
NXB
TCH
TBCN

Thành phố Hồ Chí Minh
Xã hội chủ nghĩa
Ý thức chính trị

TP.HCM
XHCN
YTCT


MỤC LỤC
Trang
MỞ ĐẦU

3


2

Chương

MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN VỀ

1

Ý THỨC CHÍNH TRỊ CỦA SINH VIÊN THÀNH
PHỐ HỒ CHÍ MINH TRƯỚC TÁC ĐỘNG CỦA
1.1.

TOÀN CẦU HÓA HIỆN NAY
Ý thức chính trị của sinh viên Thành phố Hồ Chí Minh

10

và tác động của toàn cầu hóa đến ý thức chính trị của
1.2.

sinh viên Thành phố Hồ Chí Minh hiện nay
Thực trạng ý thức chính trị của sinh viên Thành phố Hồ


10

Chí Minh hiện nay trước tác động của toàn cầu hóa và
Chương

nguyên nhân của thực trạng đó
MỤC TIÊU, YÊU CẦU VÀ MỘT SỐ GIẢI PHÁP

2

CƠ BẢN XÂY DỰNG Ý THỨC CHÍNH TRỊ CỦA

36

SINH VIÊN THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH TRƯỚC
2.1.

TÁC ĐỘNG CỦA TOÀN CẦU HÓA HIỆN NAY
Mục tiêu, yêu cầu xây dựng ý thức chính trị của sinh

49

viên Thành phố Hồ Chí Minh trước tác động của toàn
2.2.

cầu hóa hiện nay
Một số giải pháp cơ bản xây dựng ý thức chính trị của

49


sinh viên Thành phố Hồ Chí Minh trước tác động của
toàn cầu hóa hiện nay
KẾT LUẬN
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
PHỤ LỤC

54
82
84
87


3

MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Thanh niên – sinh viên là rường cột của nước nhà, chủ nhân tương lai
của đất nước, “là lực lượng xung kích trong xây dựng và bảo vệ Tổ quốc, một
trong những nhân tố quyết định sự thành bại của sự nghiệp công nghiệp hóa –
hiện đại hóa đất nước, hội nhập quốc tế và xây dựng chủ nghĩa xã hội”[6,
tr.41]. Thanh niên – sinh viên được đặt vào vị trí trung tâm chiến lược bồi
dưỡng, phát huy nhân tố và nguồn lực con người. Chăm lo, phát triển thanh
niên – sinh viên vừa là mục tiêu, vừa là động lực bảo đảm cho sự ổn định và
phát triển vững bền của đất nước. Đồng thời, thanh niên – sinh viên cũng chỉ
có thể phát huy vai trò đặc biệt quan trọng ấy một cách đầy đủ khi YTCT của
họ thường xuyên được xây dựng, bồi dưỡng và hoàn thiện.
Thành phố Hồ Chí Minh là một thành phố lớn, một trong những trung tâm
kinh tế phát triển năng động, sầm uất, trung tâm giao lưu quốc tế của cả nước,
đồng thời cũng là địa bàn hết sức phức tạp. Sinh viên TP.HCM là tầng lớp xã
hội đặc thù, với sự năng động, sáng tạo trong học tập, với ý chí vươn lên trong

cuộc sống, thích tìm tòi và dễ thích nghi với cái mới. Song, do nhận thức chính
trị - xã hội còn hạn chế, sự trải nghiệm và vốn sống chưa nhiều nên YTCT của
họ cũng dễ bị ảnh hưởng bởi những tác động tiêu cực từ nhiều phía.
Là xu thế khách quan trong tiến trình phát triển của lịch sử nhân loại,
TCH chính là quá trình nhất thể hóa nhiều lĩnh vực của đời sống xã hội, đặc
biệt là kinh tế, khoa học và công nghệ. Cơn lốc của TCH làm gia tăng phân
công lao động quốc tế, KTTT phát triển sâu rộng trên phạm vi toàn thế giới,
khoa học và công nghệ phát triển nhanh, mạnh tác động tới tính chất và trình
độ của lực lượng sản xuất theo hướng hiện đại hóa, xã hội hóa và quốc tế hóa.
Bên cạnh mặt tích cực, quá trình TCH cũng bộc lộ không ít mặt trái, mâu
thuẫn với bản chất của CNXH, tác động tiêu cực đến nhiều lĩnh vực khác
nhau của đời sống, trong đó có YTCT của sinh viên TP.HCM.


4

Thực tế cho thấy, trước tác động của TCH, bên cạnh đại bộ phận sinh
viên TP.HCM say mê trong học tập, có nhận thức chính trị khá tốt, có bản lĩnh
chính trị vững vàng, có mục tiêu, lý tưởng cao đẹp, lối sống trong sạch, lành
mạnh, chấp hành nghiêm pháp luật và chịu khó trau dồi, rèn luyện để trở thành
những chủ nhân tương lai của đất nước, vẫn còn một bộ phận không nhỏ sinh
viên nhận thức chính trị kém, thái độ chính trị không đúng đắn, ý chí cách mạng
không kiên định, thiếu lý tưởng, thiếu niềm tin vào sự lãnh đạo của Đảng, vào
tương lai của đất nước, từ đó đã có những biểu hiện tiêu cực, vi phạm pháp luật,
có hành vi chống đối, đi ngược lại lợi ích quốc gia, dân tộc. Chính vì vậy, tác giả
chọn “xây dựng ý thức chính trị của sinh viên Thành phố Hồ Chí Minh trước
tác động của toàn cầu hóa hiện nay” để nghiên cứu với mong muốn góp phần
làm rõ những vấn đề lý luận, thực tiễn về YTCT của sinh viên TP.HCM trước
tác động của TCH, trên cơ sở đó đề xuất một số giải pháp cơ bản để xây dựng
YTCT của sinh viên TP.HCM trong bối cảnh TCH hiện nay.

2. Tình hình nghiên cứu liên quan đến đề tài
Trong thời gian qua đã có nhiều công trình, bài viết, nhiều tác giả đi sâu
nghiên cứu về TCH, về YTCT, công tác giáo dục đạo đức, lối sống và lý
tưởng cách mạng cho sinh viên Việt Nam nói riêng và thanh niên nói chung
trong bối cảnh TCH. Tiêu biểu là một số công trình sau đây:
- Nhóm các đề tài về toàn cầu hóa
Toàn cầu hoá của Uỷ ban Đối ngoại Quốc hội Cộng hòa Pháp, Nxb
Chính trị quốc gia, Hà Nội 2000. Nội dung cuốn sách đề cập quá trình TCH,
những cơ hội và thách thức, những tác động tích cực và những mặt trái về
kinh tế, chính trị, văn hóa, xã hội, môi trường mà nó đưa lại đối với thế giới
nói chung và với nước Pháp nói riêng.
Nền quốc phòng toàn dân trong điều kiện toàn cầu hóa kinh tế của Viện
Khoa học xã hội nhân văn quân sự, Nxb Quân đội nhân dân, Hà Nội 2002. Công


5

trình khoa học này đã đề cập và làm rõ một số vấn đề như: TCH kinh tế tác động
như thế nào đến xây dựng và củng cố quốc phòng; đặc điểm, yêu cầu, nội dung,
biện pháp xây dựng nền quốc phòng toàn dân, xây dựng quân đội nhân dân trong
bối cảnh TCH; vấn đề tăng cường sự lãnh đạo của Đảng, quản lý của Nhà nước
đối với sự nghiệp củng cố quốc phòng, bảo vệ Tổ quốc trước tác động của TCH.
Phong trào chống mặt trái của toàn cầu hóa và vấn đề đặt ra với Việt
Nam, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội 2008. Trước những tác động tiêu cực
của TCH, từ những năm 80 của thế kỷ XX những người tiến bộ, những nhà
hoạt động tích cực, những phong trào dân chủ… bắt đầu tập hợp lại, tìm ra
những phương án khả thi của một TCH khác. Dưới khẩu hiệu “Một thế giới
khác là có thể”, Phong trào chống mặt trái của TCH có mặt ở khắp nơi trên
thế giới, tạo nên một “đội quân lữ hành cách mạng”, đang góp phần điều
chỉnh quá trình TCH để quá trình này mang tính nhân bản hơn. Để góp phần

tìm hiểu phong trào chống mặt trái của TCH, tập thể các tác giả do TS.
Nguyễn Thị Quế, PGS, TS. Nguyễn Hoàng Giáp và ThS. Mai Hoài Anh đã
bắt tay nghiên cứu. Công trình này đã khái quát về xu thế TCH; phân tích
những nhân tố chủ yếu dẫn tới sự ra đời của phong trào chống TCH; mục tiêu,
tính chất, nội dung, các hình thức đấu tranh chủ yếu chống mặt trái TCH;
những kết quả và xu hướng của phong trào chống mặt trái của TCH; những
vấn đề đặt ra với Việt Nam trước xu thế TCH và một số khuyến nghị.
- Nhóm các đề tài về ý thức chính trị:
Phát triển ý thức chính trị xã hội chủ nghĩa trong xã hội và quân đội
thời kỳ đổi mới của PGS, TS Lê Văn Quang, Nxb Quân đội nhân dân 2001.
Đã trình bày những vấn đề bản chất của quá trình phát triển biện chứng của
YTCT XHCN trong xã hội và quân đội, đồng thời đề xuất về mặt phương
pháp luận để tăng chiều sâu và tính phong phú, đa dạng trong phát triển
YTCT XHCN ở Việt Nam hiện nay.


6

Bản chất quá trình phát triển ý thức chính trị xã hội chủ nghĩa của sĩ
quan cấp phân đội Quân đội nhân dân Việt Nam, Luận văn Thạc sĩ, tác giả
Trần Xuân Bình, Học viện Chính trị - Quân sự, năm 1997, đã đi sâu làm rõ
khái niệm về YTCT, YTCT XHCN, phát triển YTCT XHCN của sĩ quan cấp
phân đội Quân đội nhân dân Việt Nam; làm rõ bản chất của quá trình phát triển
YTCT XHCN của sĩ quan cấp phân đội trong quân đội ta, rút ra một số vấn đề
có tính nguyên tắc, thực trạng, nguyên nhân và đề xuất một số giải pháp nhằm
phát triển YTCT XHCN của sĩ quan cấp phân đội Quân đội nhân dân Việt Nam.
Quá trình phát triển ý thức chính trị ở học viên sĩ quan pháo binh hiện nay,
Luận văn thạc sĩ, tác giả Phùng Văn Ngọc, Học viện Chính trị - Quân sự, năm
1997. Phát triên YTCT XHCN của học viên Học viện Kỹ thuật quân sự hiện nay,
Luận văn Thạc sĩ, tác giả Vũ Văn Lan, Học viện Chính trị - Quân sự, năm 2001.

Định hướng ý thức chính trị xã hội chủ nghĩa của học viên đào tạo giáo
viên khoa học xã hội – nhân văn cấp phân đội ở Học viện Chính trị Quân sự hiện nay, Luận văn Thạc sỹ Triết học, tác giả Đinh Văn Lễ, Học
viện Chính trị - Quân sự, năm 2003. Tác giả đã tập trung làm rõ khái niệm
YTCT XHCN, biểu hiện đặc điểm, vai trò của định hướng YTCT XHCN
của học viên đào tạo giáo viên khoa học xã hội – nhân văn ở Học viện
Chính trị - Quân sự. Trên cơ sở đánh giá thực trạng YTCT XHCN, thực
trạng định hướng YTCT XHCN và nguyên nhân của thực trạng đó trong
quá trình giáo dục - đào tạo ở Học viện, tác giả đã chỉ ra một số yêu cầu,
giải pháp chủ yếu nhằm thực hiện tốt định hướng YTCT XHCN của học
viên đào tạo giáo viên khoa học xã hội – nhân văn ở Học viện.
Phát triển ý thức chính trị xã hội chủ nghĩa của học viên dân tộc thiểu
số ở Học viện Chính trị - Quân sự hiện nay, Luận văn Thạc sỹ Triết học, tác
giả Nguyễn Văn Quyền, Học viện Chính trị - Quân sự, năm 2005. Trong bối
cảnh chủ nghĩa đế quốc đứng đầu là Mỹ và các thế lực thù địch đang tìm mọi
cách chống phá cách mạng nước ta trên mọi lĩnh vực của đời sống xã hội, đặc


7

biệt là lĩnh vực chính trị - tư tưởng. Đối tượng và địa bàn chống phá của
chúng thường tập trung vào đồng bào dân tộc thiểu số đang sinh sống ở
những vùng rừng núi xa xôi hẻo lánh, có trình độ dân trí thấp, cuộc sống còn
nhiều khó khăn... Sự chống phá đó đã tác động tiêu cực đến sự phát triển
YTCT XHCN của học viên là con em đồng bào dân tộc thiểu số đang học tập,
rèn luyện tại Học viện Chính trị - Quân sự. Bởi vậy, yêu cầu và nhiệm vụ cấp
bách đối với Học viện Chính trị - Quân sự là phải quan tâm phát triển YTCT
XHCN của học viên dân tộc thiểu số, đảm bảo cho họ khi ra trường có đủ
trình độ, năng lực và phẩm chất chính trị, đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ của quân
đội trong tình hình mới, đặc biệt là nhiệm vụ xây dựng “trận địa lòng dân” ở
các vùng rừng núi, biên giới và hải đảo của Tổ quốc. Vì vậy tác giả đã tập

trung làm rõ thực chất phát triển YTCT XHCN của học viên dân tộc thiểu số,
trên cơ sở đó đánh giá tình hình và đề ra các giải pháp.
Nâng cao ý thức chính trị xã hội chủ nghĩa của đội ngũ sỹ quan cấp
phân đội ở Binh đoàn Hương giang hiện nay, Luận văn thạc sỹ triết học, tác giả
Nguyễn Thế Học, Học viện Chính trị - Quân sự, năm 2005. Nâng cao ý thức
chính trị của học viên đào tạo sỹ quan hậu cần cấp phân đội ở Học viện Hậu cần
Quân đội nhân dân Lào hiện nay, Luận văn thạc sỹ xây dựng đảng, tác giả Sẻng
Thoong Vu Nang, Học viện Chính trị - Quân sự, năm 2006. Xây dựng ý thức
chính trị xã hội chủ nghĩa cho hạ sỹ quan, binh sỹ ở Sư đoàn 1 Quân đội nhân
dân Lào hiện nay, Luận văn thạc sỹ triết học, tác giả Sơn Thạ Nu Kẹo Mưn
Hương, Học viện Chính trị, năm 2008. Các đề tài này đã làm rõ thêm khái niệm
về YTCT, YTCT XHCN. Đồng thời, các tác giả đã đi vào nghiên cứu những biểu
hiện của YTCT XHCN của các đối tượng khác nhau (đội ngũ sỹ quan cấp phân
đội ở Binh đoàn Hương giang, học viên đào tạo sỹ quan hậu cần cấp phân đội ở
Học viện Hậu cần Quân đội nhân dân Lào, hạ sỹ quan, binh sỹ ở Sư đoàn 1 Quân
đội nhân dân Lào). Các tác giả cũng đã tập trung đánh giá thực trạng và đề xuất
những giải pháp cơ bản nhằm phát triển YTCT XHCN của các đối tượng nêu


8

trên.
Tuy nhiên, chưa có đề tài chuyên biệt nào đi sâu nghiên cứu một cách hệ
thống về xây dựng YTCT của sinh viên TP.HCM trước tác động của TCH hiện
nay. Những đề tài trên đã cung cấp cơ sở khoa học lý luận và thực tiễn quan
trọng để tác giả đi sâu nghiên cứu những vấn đề mà đề tài của tác giả đặt ra.
3. Mục đích, nhiệm vụ, đối tượng, phạm vi nghiên cứu của luận văn
* Mục đích nghiên cứu của luận văn
Làm rõ một số vấn đề lý luận và thực tiễn về YTCT của sinh viên TP.HCM
trước tác động của TCH, từ đó luận văn đề xuất một số giải pháp cơ bản để xây

dựng YTCT của sinh viên TP.HCM trước tác động của TCH hiện nay.
* Nhiệm vụ nghiên cứu của luận văn
- Làm rõ khái niệm, nội dung YTCT của sinh viên TP.HCM hiện nay và
sự tác động của TCH đến YTCT của sinh viên TP.HCM hiện nay.
- Phân tích thực trạng YTCT của sinh viên TP.HCM trước tác động của
TCH hiện nay.
- Làm rõ yêu cầu và một số giải pháp cơ bản để xây dựng YTCT của
sinh viên TP.HCM trước tác động của TCH hiện nay.
* Đối tượng nghiên cứu của luận văn
Nghiên cứu về YTCT của sinh viên TP.HCM trước tác động của TCH.
* Phạm vi nghiên cứu của luận văn
Ý thức chính trị của sinh viên một số trường ĐH, CĐ ở TP.HCM, chủ
yếu là sinh viên hệ chính quy, thời gian từ 2005 đến nay.
4. Cơ sở lý luận, thực tiễn và phương pháp nghiên cứu của luận văn
* Cơ sở lý luận của luận văn
Luận văn được thực hiện trên cơ sở lý luận chủ nghĩa Mác - Lênin, tư
tưởng Hồ Chí Minh và các quan điểm của Đảng Cộng sản Việt Nam về YTCT
và TCH, đồng thời kế thừa có chọn lọc những giá trị của các công trình


9

nghiên cứu có liên quan đến đề tài.
* Cơ sở thực tiễn của luận văn
Thực trạng YTCT của sinh viên TP.HCM trong những năm qua (từ năm
2005 đến năm 2011), thông qua các số liệu báo cáo thống kê, báo cáo tổng kết
của các cơ quan chức năng Đảng, chính quyền và các tổ chức chính trị xã hội,
cùng kết quả điều tra khảo sát thực tế của tác giả.
* Phương pháp nghiên cứu
Luận văn sử dụng kết hợp các phương pháp luận của chủ nghĩa duy vật

biện chứng và chủ nghĩa duy vật lịch sử; phương pháp lịch sử - lôgíc, phân
tích và tổng hợp, thống kê, so sánh, khảo sát thực tế, điều tra xã hội học, các
phương pháp chuyên ngành và liên ngành khác.
5. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của luận văn
- Kết quả nghiên cứu của luận văn sẽ góp phần hoàn thiện cơ sở lý luận
về YTCT của sinh viên TP.HCM trước tác động của TCH hiện nay; góp phần
xây dựng YTCT của sinh viên nói chung và sinh viên TP.HCM nói riêng
trước tác động của TCH.
- Kết quả luận văn có thể làm tài liệu tham khảo cho các công trình khoa
học, công tác nghiên cứu, giảng dạy, tổng kết thực tiễn, khái quát lý luận liên
quan đến sự tác động của TCH đến YTCT của sinh viên nói chung và sinh
viên TP.HCM nói riêng.
6. Kết cấu của luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục các tài liệu tham khảo, phụ lục,
luận văn gồm 2 chương, 4 tiết.


10

Chương 1
MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN
VỀ Ý THỨC CHÍNH TRỊ CỦA SINH VIÊN THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH
TRƯỚC TÁC ĐỘNG CỦA TOÀN CẦU HÓA HIỆN NAY

1.1. Ý thức chính trị của sinh viên Thành phố Hồ Chí Minh và tác
động của toàn cầu hóa đến ý thức chính trị của sinh viên Thành phố Hồ
Chí Minh hiện nay
1.1.1. Ý thức chính trị của sinh viên Thành phố Hồ Chí Minh hiện
nay
* Chính trị

Chính trị là lĩnh vực phức tạp trong đời sống tinh thần của xã hội. Chính trị
xuất hiện khi trong xã hội nảy sinh quan hệ giai cấp, trong xã hội có sự phân chia
thành các giai cấp và sự đối kháng giai cấp. Về bản chất, chính trị phản ánh mối
quan hệ giữa các giai cấp, là biểu hiện tập trung của kinh tế, của những lợi ích
căn bản của các giai cấp và quan hệ, tác động lẫn nhau giữa các dân tộc, các tập
đoàn người có lợi ích khác nhau và đối lập nhau trong xã hội có giai cấp.
Theo Từ điển Tiếng Việt, chính trị là: "1. Những vấn đề về tổ chức và
điều khiển bộ máy nhà nước trong nội bộ một nước, và về quan hệ về mặt nhà
nước giữa các nước với nhau; 2. Những hoạt động của một giai cấp, một
chính đảng, một tập đoàn xã hội nhằm giành hoặc duy trì quyền điều khiển bộ
máy nhà nước; 3. Những hiểu biết về mục đích, đường lối, nhiệm vụ đấu
tranh của một giai cấp, một chính đảng nhằm giành hoặc duy trì quyền điều
khiển bộ máy nhà nước; 4. Những hoạt động nhằm nâng cao giác ngộ chính
trị cho quần chúng, tổ chức quần chúng thực hiện mọi đường lối, những
nhiệm vụ chính trị nhất định"[34, tr.163].
Khi bàn về vấn đề chính trị, V.I.Lênin cho rằng, chính trị là mối quan hệ
giữa các giai cấp, các đảng phái, các dân tộc về mặt nhà nước, "Chính trị là


11

biểu hiện tập trung của kinh tế"[20, tr.349]. Như vậy, chính trị là lĩnh vực đấu
tranh giữa các giai cấp, đấu tranh giữa các dân tộc, đấu tranh giữa các đảng
phái để giành và giữ chính quyền. Chính trị của một giai cấp do địa vị kinh tế
của nó chi phối, quyết định. Giai cấp nào chiếm địa vị thống trị đời sống xã
hội về mặt kinh tế sẽ trở thành giai cấp thống trị về mặt chính trị; ngược lại,
sự thống trị về kinh tế của một giai cấp nhất định chỉ được bảo đảm đầy đủ
bằng quyền lực chính trị, quyền lực của nhà nước. Nhà nước là công cụ chủ
yếu để thực hiện và bảo đảm lợi ích của giai cấp thống trị xã hội. Do đó:
“Chính trị không thể không chiếm vị trí hàng đầu so với kinh tế”[20, tr.349].

Chính trị là hiện tượng thuộc kiến trúc thượng tầng của xã hội có giai cấp.
Cấu trúc của chính trị bao gồm: hệ tư tưởng chính trị; cương lĩnh, đường lối
chính trị; hệ thống chính trị và hoạt động chính trị.
* Ý thức
Ý thức là sự phản ánh hiện thực khách quan vào bộ não con người, là
hình ảnh chủ quan của thế giới khách quan. Chủ nghĩa Mác - Lênin cho rằng,
ý thức là sự phản ánh hiện thực khách quan vào trong bộ não con người một
cách năng động sáng tạo, ý thức không phải là bản sao giản đơn, thụ động
hiện thực. Bởi vì, ý thức là của con người, mà con người là một thực thể xã
hội năng động sáng tạo, ý thức phản ánh thế giới khách quan trong quá trình
con người tác động cải tạo thế giới. Ý thức không phải là một hiện tượng tự
nhiên thuần tuý mà là một hiện tượng xã hội bắt nguồn từ thực tiễn lịch sử xã hội, phản ánh những quan hệ xã hội khách quan. Lênin viết: ý thức con
người không chỉ phản ánh thế giới khách quan mà còn sáng tạo ra nó.
Như vậy, bản tính tự nhiên của con người thông qua hoạt động lao động
sản xuất, trao đổi ngôn ngữ, giao tiếp và các quan hệ xã hội được hình thành
và bộc lộ ra, được xã hội hóa trở thành các phẩm chất xã hội của con người.
Do vậy, ý thức của con người là một hiện tượng lịch sử, là hình ảnh chủ quan


12

của thế giới khách quan, nó nảy sinh, tồn tại và phát triển gắn liền với quá
trình phát triển của lịch sử - xã hội, phản ánh tồn tại xã hội trong từng giai
đoạn của lịch sử xã hội. Ý thức có cấu trúc phức tạp, bao gồm nhiều yếu tố
quan hệ với nhau như: tri thức, tình cảm, ý chí, niềm tin.
Tri thức là yếu tố cơ bản, cốt lõi, là kết quả của quá trình con người nhận
thức, phản ánh thế giới. Ý thức mà thiếu tri thức thì chỉ còn là niềm tin mù
quáng, ngược lại, tri thức mà thiếu tình cảm, niềm tin, ý chí sẽ dẫn đến thiếu
định hướng, thờ ơ, dè dặt, đứng ngoài cuộc.
Tình cảm là những thái độ cảm xúc ổn định của con người đối với những

sự vật, hiện tượng của hiện thực khách quan, phản ánh ý nghĩa của chúng
trong mối liên hệ với nhu cầu và động cơ của họ. Phải có tình cảm mãnh liệt
thì tri thức mới đạt đến độ sâu sắc và phải thông qua tình cảm thì tri thức mới
biến thành hành động thực tế, mới phát huy được sức mạnh của mình.
Ý chí là mặt năng động của ý thức, biểu hiện ở năng lực thực hiện những
hành động có mục đích, đòi hỏi phải có sự nỗ lực khắc phục khó khăn; năng
lực này không phải tự nhiên mà có và không phải ai cũng có như nhau. Ý chí
điều chỉnh hành vi tích cực nhất ở con người, trong ý chí có cả mặt năng động
của tri thức, lẫn mặt năng động của tình cảm, đạo đức.
Niềm tin là một phẩm chất của con người, thể hiện sự tin tưởng của cá nhân,
cộng đồng người vào một chân lý, một chuẩn mực, một giá trị nhất định nào đó,
có tác dụng thúc đẩy hoạt động thực tiễn của họ. Niềm tin là một bộ phận cao
nhất, phức tạp nhất trong thế giới quan của con người, là sự thống nhất một cách
hữu cơ giữa nhận thức, tình cảm và ý chí của con người, thúc đẩy hoạt động của
con người phù hợp với quy luật hay chuẩn mực.
* Ý thức chính trị
Ý thức chính trị là một hình thái ý thức xã hội, phản ánh tồn tại xã hội,
xuất hiện trong xã hội có giai cấp và nhà nước, tồn tại trong những giai đoạn


13

nhất định của lịch sử xã hội loài người.
Ý thức chính trị là hệ thống các quan điểm, tư tưởng lý luận, tâm lý và
tình cảm của một giai cấp về địa vị và vai trò lịch sử, về mục tiêu và nhiệm
vụ chính trị, về đường lối chiến lược và sách lược của giai cấp đó trong một
giai đoạn nhất định của lịch sử. Về bản chất, YTCT là sự phản ánh các quan
hệ chính trị, kinh tế, xã hội giữa các giai cấp, các dân tộc và các quốc gia,
biểu hiện tập trung ở tư tưởng và thái độ của các giai cấp đối với quyền lực
nhà nước. So với các hình thái ý thức xã hội khác như đạo đức, tôn giáo,

thẩm mỹ, triết học… thì YTCT và ý thức pháp quyền giữ vai trò chi phối
mạnh mẽ nhất đối với tồn tại xã hội.
Xét dưới cấp độ phản ánh, YTCT được phân chia thành hai cấp độ
khác nhau. Cấp độ thấp là tâm lý chính trị, hay còn gọi là YTCT thông
thường được biểu hiện ở những cảm xúc, tình cảm chính trị, kinh nghiệm
của con người về quyền lợi, địa vị của giai cấp, về lợi ích kinh tế cơ bản
của giai cấp. Tâm lý chính trị phản ánh trực tiếp cuộc sống sinh hoạ t
thường ngày của xã hội, được hình thành một cách tự phát trong xã hội có
sự phân chia giai cấp. Do đó, nó thường biến động, thay đổi và không ổn
định. Mặc dù là tự phát nhưng tâm lý chính trị vẫn mang tính giai cấp và bị
chi phối bởi địa vị chính trị cơ bản của giai cấp mà nó phản ánh. Tâm lý
chính trị cũng có vai trò nhất định trong đời sống xã hội, là điều kiện để
con người trong các giai cấp tiếp thu tốt hơn hệ tư tưởng chính trị. Tâm lý
chính trị là cầu nối để hệ tư tưởng chính trị thâm nhập và phát huy vai trò
quyết định trong đời sống xã hội.
Cấp độ cao của YTCT là hệ tư tưởng chính trị. Hệ tư tưởng chính trị là
hệ thống quan điểm, tư tưởng chính trị của một giai cấp nhất định, phản ánh
trực tiếp, tập trung lợi ích của giai cấp ấy, được diễn tả một cách lôgíc và hệ
thống dưới dạng các học thuyết chính trị – xã hội. Hệ tư tưởng chính trị được
thể hiện trong cương lĩnh chính trị, đường lối chiến lược, sách lược của các


14

chính đảng và chính sách, pháp luật của nhà nước. Khác với tâm lý chính trị,
hệ tư tưởng chính trị không hình thành tự phát, mà được hình thành một cách
tự giác thông qua quá trình đấu tranh giai cấp, cách mạng xã hội, do nhu cầu
cải tạo xã hội. Hệ tư tưởng chính trị được các nhà lý luận, các nhà tư tưởng
tiên tiến, các lãnh tụ vĩ đại của các giai cấp xây dựng và truyền bá trong quần
chúng nhân dân thông qua các phong trào xã hội. Hệ tư tưởng chính trị

thường gắn với các tổ chức chính trị, thông qua các tổ chức chính trị mà các
giai cấp tiến hành đấu tranh cho lợi ích của giai cấp mình. Tuy nhiên, không
phải tất cả các giai cấp đều có hệ tư tưởng chính trị, chỉ có giai cấp nào đại
diện cho một phương thức sản xuất nhất định mới có hệ tư tưởng chính trị.
Giai cấp nào đại diện cho một phương thức sản xuất tiến bộ, cách mạng sẽ đề
ra hệ tư tưởng chính trị tiến bộ và cách mạng, phù hợp với nguyện vọng của
đông đảo quần chúng nhân dân lao động, tác động tích cực đến sự phát triển
xã hội ; ngược lại, sẽ tác động tiêu cực, kìm hãm sự phát triển xã hội.
Ý thức chính trị, đặc biệt là hệ tư tưởng chính trị của giai cấp nắm quyền
thống trị có vai trò rất quan trọng đối với sự phát triển xã hội. Đối với cơ sở
kinh tế, thông qua tổ chức nhà nước, nó tác động trở lại cơ sở kinh tế, "nó có
thể, trong những giới hạn nhất định làm thay đổi cả cơ sở kinh tế"[21, tr.101].
Mặt khác, hệ tư tưởng chính trị còn giữ vai trò chủ đạo, chi phối toàn bộ đời
sống tinh thần của xã hội. Nó thâm nhập vào các hình thái ý thức xã hội khác
và định hướng chính trị đối với các hình thái ý thức xã hội đó.
Như vậy, hệ tư tưởng chính trị của giai cấp thống trị xã hội có vai trò to
lớn đối với toàn bộ đời sống xã hội. Mọi lĩnh vực, mọi tổ chức, mọi lực
lượng, mọi thành viên trong xã hội đều chịu sự tác động, chi phối của hệ tư
tưởng chính trị của giai cấp thống trị xã hội. Đối với từng thành viên trong xã
hội, hệ tư tưởng chính trị của giai cấp thống trị chi phối đến sự hình thành,
phát triển phẩm chất và năng lực của họ thông qua sự định hướng về mô hình


15

nhân cách và xác lập các hệ giá trị để giáo dục, đào tạo, bồi dưỡng con người.
* Ý thức chính trị của sinh viên Thành phố Hồ Chí Minh hiện nay
Thành phố Hồ Chí Minh là thành phố đông dân nhất, đồng thời cũng là
trung tâm kinh tế, chính trị, văn hóa, giáo dục quan trọng của Việt Nam. Năm
1698, Nguyễn Hữu Cảnh cho lập phủ Gia Định, đánh dấu sự ra đời thành phố.

Khi người Pháp vào Đông Dương, để phục vụ công cuộc khai thác thuộc địa,
thành phố Sài Gòn được thành lập và nhanh chóng phát triển, trở thành một
trong hai đô thị quan trọng nhất Việt Nam, được mệnh danh Hòn ngọc Viễn
Đông hay Paris Phương Đông. Sài Gòn là thủ đô của Liên Bang Đông Dương
giai đoạn 1887 - 1901. Năm 1954, Sài Gòn trở thành thủ đô của Việt Nam
Cộng Hòa và thành phố hoa lệ này trở thành một trong những đô thị quan
trọng của vùng Đông Nam Á. Việt Nam Cộng Hòa sụp đổ năm 1975, lãnh thổ
Việt Nam hoàn toàn thống nhất. Ngày 2 tháng 7 năm 1976, Quốc hội nước
Việt Nam thống nhất quyết định đổi tên Sài Gòn thành “Thành phố Hồ Chí
Minh”, theo tên vị Chủ tịch nước đầu tiên của Việt Nam Dân Chủ Cộng Hòa.
Về vị trí địa lý, TP.HCM hiện nay, bắc giáp tỉnh Tây Ninh, đông giáp hai
tỉnh Đồng Nai và Bình Dương, tây giáp tỉnh Long An, nam thông ra biển.
Nằm trong vùng chuyển tiếp giữa miền Đông Nam Bộ và Tây Nam Bộ,
TP.HCM ngày nay bao gồm 19 quận và 5 huyện, tổng diện tích 2.095,239
km2. Theo kết quả điều tra dân số chính thức vào thời điểm 0 giờ ngày 1 tháng
4 năm 2009 thì dân số thành phố là 7.123.340 người (chiếm 8,34% dân số Việt
Nam), mật độ trung bình 3.419 người/km2. Tuy nhiên, nếu tính những người
cư trú không đăng ký thì dân số thực tế của thành phố vượt trên 8 triệu người.
Thành phố Hồ Chí Minh là đô thị lớn nhất nước ta, có vị trí chính trị
quan trọng, là trung tâm kinh tế, văn hóa, khoa học - công nghệ, đầu mối giao
lưu quốc tế. Giữ vai trò quan trọng trong nền kinh tế Việt Nam, TP.HCM tập
trung nhiều khu công nghiệp, khu chế xuất với nhiều nhà máy, xí nghiệp, khu
công nghệ cao, Thành phố chiếm khoảng 20.2% tổng sản phẩm và 27,9% giá


16

trị sản xuất công nghiệp của cả nước.
Là một trung tâm văn hóa, TP.HCM tập trung nhiều trường đại học, viện
nghiên cứu lớn với hàng ngàn nhà khoa học, nhà nghiên cứu cùng với rất nhiều

trường cao đẳng, trung cấp, trung tâm dạy nghề. Các hội văn học, nghệ thuật trên
địa bàn thành phố qui tụ nhiều tài năng của nhiều lĩnh vực nghệ thuật. Nơi đây
cũng tập trung nhiều khu sinh thái, vui chơi giải trí lớn, thu hút không chỉ nhân dân
thành phố mà cả các tỉnh thành khác và du khách quốc tế. Năm 2007, thành phố
đón khoảng 3 triệu khách du lịch quốc tế, tức 70% lượng khách vào Việt Nam.
Mức sống của người dân TP.HCM ngày càng cao, là địa phương có mức
thu nhập bình quân cao nhất cả nước, trình độ dân trí cao nhất trong vùng và
so với mặt bằng chung của cả nước, mức độ và số lượng người nhập cư vào
Thành phố cao nhất cả nước.
Những năm qua, TP.HCM luôn duy trì nhịp độ tăng trưởng kinh tế ở
mức khá cao, tác động tích cực đối với sự phát triển kinh tế của các tỉnh lân
cận và của cả nước. Sự năng động và sáng tạo của thành phố đã có những
đóng góp quan trọng trong việc hình thành, phát triển đường lối, chủ trương,
chính sách của Đảng và Nhà nước như phát triển kinh tế thị trường định
hướng XHCN, hội nhập quốc tế…
Tuy vậy, TP.HCM đang phải đối diện với những vấn đề của một đô
thị lớn có tốc độ phát triển và dân số tăng nhanh. Đó là tình hình an ninh
trật tự rất phức tạp, các tệ nạn xã hội còn phổ biến và gầ n như ngoài tầm
kiểm soát; tình trạng phân hóa giàu nghèo còn quá xa; cơ sở hạ tầng, điện
và nước chưa đảm bảo, các hệ thống dịch vụ, giáo dục, y tế, bưu chính
đều quá tải, “cuộc chiến” trong mặt trận giao thông vẫ n chưa đến hồi kết,
số điểm ngập nước tăng theo mỗi mùa mưa, đô thị phát triển theo vết dầu
loang, qui hoạch chắp vá, qui hoạch treo và mang tính đối phó, đầu cơ…
và quan trọng hơn cả là chưa có một trình độ cao về quản lý và điều hành


17

những hoạt động sống của gần chục triệu con người.
Trước yêu cầu của TCH, đất nước ta đang đẩy mạnh tốc độ phát triển

kinh tế - xã hội để tiến kịp với các nước trong khu vực và trên thế giới. Để
đẩy nhanh quá trình đó, một trong những ưu tiên hàng đầu của Đảng và
Nhà nước ta là phát triển giáo dục - đào tạo, coi đó là “quốc sách hàng
đầu”. Bởi vì “Phát triển, nâng cao chất lượng nguồn nhân lực, nhất là
nguồn nhân lực chất lượng cao là một trong những yếu tố quyết định sự
phát triển nhanh bền vững đất nước”[7, tr.41].
Cùng với sự mở rộng không ngừng của hệ thống giáo dục đào tạo nước
nhà, đào tạo ĐH, CĐ tại TP.HCM trong mấy năm trở lại đây đã có sự phát
triển nhanh chóng cả về chất lượng và số lượng. Hiện nay, theo thống kê của
Hội Sinh viên thành phố Hồ Chí Minh, tính đến cuối năm 2010, Thành phố
có 71 trường ĐH và CĐ, với khoảng 352.230 sinh viên [18, tr.13].
Cũng như sinh viên cả nước, sinh viên TP.HCM là bộ phận ưu tú, nguồn
nhân lực chất lượng cao trong tương lai của Thành phố và đất nước. Sinh viên
TP.HCM là đại biểu của một nhóm xã hội đặc thù gồm những người đang
trong quá trình tích lũy để trở thành những trí thức, hoạt động trong một lĩnh
vực nhất định thuộc các ngành kinh tế, văn hoá, xã hội. Họ là lực lượng trẻ,
tiên phong, đang phát triển mạnh mẽ về thể chất và tinh thần, giàu ước mơ,
hoài bão, có mong muốn vươn lên nắm bắt các tri thức nhân loại để trong thời
gian ngắn nhất sẽ tự hoàn thiện mình về mọi mặt.
Sinh viên TP.HCM xuất thân từ các giai tầng khác nhau của mọi miền đất
nước, kể cả khu vực trung du và miền núi phía Bắc, miền Trung, Tây nguyên, nhiều
nhất là Đông Nam bộ và Tây Nam bộ. Hầu như tỉnh nào cũng có sinh viên đang
theo học tại đây. Sinh viên có tôn giáo chiếm tỷ lệ khá cao và theo nhiều tôn giáo
như Phật giáo, Thiên chúa giáo, Tin Lành, Cao Đài, Hòa Hảo, Hồi giáo và nhiều
tôn giáo khác. Sinh viên TP.HCM là con em của hơn 40 dân tộc anh em với mức


18

thu nhập của gia đình rất khác nhau, văn hóa, lối sống cũng khác nhau rất nhiều.

Sự phong phú về văn hóa, lối sống, phong tục, tập quán, tín ngưỡng, tôn
giáo, thành phần xuất thân, khả năng kinh tế…cùng với môi trường sống năng
động nhưng hết sức phức tạp của TP.HCM, đã tạo cho sinh viên nơi đây có
những nét riêng biệt mà có lẽ chỉ nơi đây mới có. Sự phức tạp ấy tất yếu sẽ
tạo ra sự phức tạp về YTCT cũng như khó khăn trong quá trình xây dựng
YTCT của sinh viên TP.HCM.
Sinh viên là những người vừa mới tốt nghiệp phổ thông, vừa ra khỏi sự
quản lý, kèm cặp chặt chẽ của thầy cô giáo ở nhà trường và gia đình, về sống
chung trong ký túc xá hoặc ở trọ xung quanh các trường ĐH và CĐ. Nghĩa là,
họ vừa mới có cuộc sống tự lập, tự quản và tập thể. Họ rất nhanh nhạy trong
việc tiếp thu các thông tin mới trong khoa học, cũng như những luồng tư tưởng
mới trong xã hội, song khả năng phân tích và chọn lọc lại chưa cao.
Về chính trị, nhận thức của sinh viên còn ở mức độ, điểm xuất phát về
chính trị chưa cao, do đó họ ít hay nhiều còn mơ hồ, lập trường tư tưởng
chưa thực sự vững vàng, dễ dao động, dễ bị lôi kéo. Về văn hoá, sinh viên
còn đang trong giai đoạn tìm kiếm để tự khẳng định mình, nếu không có sự
định hướng họ dễ bị lệch lạc. Về khoa học, hàng ngày sinh viên được tiếp
thu tinh hoa nhân loại trên nhiều lĩnh vực: khối kiến thức khoa họ c đại
cương, kiến thức chuyên sâu (khối kiến thức nghề nghiệp), kiến thức liên
ngành trong trường ĐH, CĐ và trên các hệ thống truyền thông, trên
Internet...song chính điều đó cũng tạo nên sự quá tải nếu sinh viên không
biết tự lựa chọn, chắt lọc kiến thức hoặc không có sự định hướng cụ thể của
đội ngũ giáo viên. Về tổ chức, trong trường sinh viên chịu sự quản lý của
lớp, của khoa và của nhà trường (trực tiếp là phòng công tác sinh viên).
Ngoài ra, sinh viên còn chịu sự lãnh đạo trực tiếp của tổ chức đảng, tổ chức
đoàn và hội sinh viên. Tuy nhiên, phần lớn thời gian còn lại, tức ngoài giờ
lên lớp thì sinh viên gần như không chịu sự quản lý của bất cứ lực lượng nào


19


ngoài pháp luật và ý thức tự quản của mỗi sinh viên.
Sinh viên TP.HCM là lực lượng tiêu biểu của tuổi trẻ Thành phố, nhiệt tình
năng nổ trong học tập, tích cực tham gia các phong trào thi đua và hoạt động xã
hội, gương mẫu đi đầu trong việc thực hiện chủ trương của Đảng, pháp luật của
Nhà nươc, lực lượng cán bộ khoa học kỹ thuật quan trọng trong tương lai của
Thành phố và đất nước. Họ sẽ đóng góp sức lực, trí tuệ và tài năng của mình cho
sự nghiệp CNH, HĐH, xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam XHCN.
Sinh viên TP.HCM là đối tượng trong các trung tâm giao lưu của xã hội,
của các trường ĐH, CĐ trong và ngoài nước, được tiếp cận với nhiều nguồn
thông tin mới, thông qua các hệ thống truyền thông, đây là điều kiện thuận lợi
cho sinh viên học tập, nghiên cứu khoa học và hội nhập quốc tế.
Với đặc điểm và vai trò của sinh viên như đã nêu trên, sinh viên
TP.HCM cũng là đối tượng mà các thế lực thù địch thực hiện “diễn biến hoà
bình” nhằm mục tiêu chống phá cách mạng. “Diễn biến hòa bình” đã len lỏi
vào ký túc xá, giảng đường, đến các hội thảo khoa học... lôi kéo, kích động,
nhằm tạo ra sự bất ổn về chính trị tư tưởng, làm cơ sở cho những vụ gây rối
trật tự an ninh trong đời sống sinh viên và trong xã hội.
Như vậy, ở độ tuổi sinh viên, nhận thức về cuộc sống, quan điểm sống
đang trong quá trình hình thành và từng bước đi vào ổn định, lại chưa được
trải nghiệm nhiều, cùng với đó là sự tác động đa chiều của các yếu tố ngoại
cảnh và quá trình TCH, làm cho không ít sinh viên TP.HCM tỏ rõ sự hạn chế
về nhiều mặt, đặc biệt là YTCT.
Ý thức chính trị của sinh viên Thành phố Hồ Chí Minh hiện nay là tổng
hòa của nhận thức, tình cảm, ý chí và niềm tin chính trị, được biểu hiện qua
hành động, định hướng cho họ trong quá trình học tập, rèn luyện, công tác và
cuộc sống, góp phần tích cực phát huy vai trò của sinh viên trong sự nghiệp
xây dựng và bảo vệ tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa.
Ý thức chính trị của sinh viên TP.HCM về bản chất là YTCT XHCN,



20

được thể hiện dưới các nội dung cơ bản sau:
Thứ nhất, có sự hiểu biết (có tri thức, nhận thức) về chính trị, thể
hiện ở trình độ nhận thức sâu sắc mục tiêu, lý tưởng độc lập dân tộc và
CNXH, những nguyên lý cơ bản của chủ nghĩa Mác – Lênin, tư tưởng Hồ
Chí Minh; hiểu biết và tự giác thực hiện chủ trương, chính sách của Đảng,
pháp luật của Nhà nước; nhận thức sâu sắc về đặc điểm, tình hình và xu
hướng phát triển của thời đại ngày nay, về những thuận lợi, khó khăn, thời
cơ, thách thức của cách mạng nước ta; hiểu biết lịch sử, truyền thống, bản
sắc, giá trị văn hóa dân tộc; nhận thức được trách nhiệm của thanh niên
trong sự nghiệp CNH,HĐH đất nước, về quyền lợi và nghĩa vụ chính trị
của mình; hiểu biết về tình hình chính trị trong nước, quốc tế và nhận thức
được những âm mưu, thủ đoạn của chủ nghĩa đế quốc và các thế lực thù
địch đang chống phá cách mạng Việt Nam nói chung và chống phá thế hệ
thanh niên, sinh viên nói riêng.
Thứ hai, có tình cảm chính trị đúng đắn, tình cảm ấy phải được thể hiện
một cách sâu sắc qua tinh thần yêu nước, yêu Đảng, yêu chế độ XHCN; lòng
trung thành với sự nghiệp cách mạng, với Đảng, với Tổ quốc, nhân dân; lòng
căm thù kẻ xâm lược, chống phá và làm tổn hại đến lợi ích dân tộc, lợi ích đất
nước và cuộc sống nhân dân; đoàn kết, yêu thương nhân dân, yêu thương con
người; có tinh thần nhân đạo sâu sắc; dũng cảm đấu tranh với cái xấu, cái sai,
cái ác để bảo vệ cái đúng, lẽ phải và bảo vệ chân lý; có tình cảm quốc tế trong
sáng trong thế giới hội nhập.
Thứ ba, có ý chí cách mạng kiên định, điều đó thể hiện ở bản lĩnh chính
trị vững vàng, không hoang mang dao động trước những diễn biến phức tạp
của tình hình trong nước và thế giới, cũng như trước sự chống phá quyết liệt
của kẻ thù. Ý chí cách mạng còn thể hiện sâu sắc ở tinh thần cố gắng vượt qua
mọi khó khăn để học tập, rèn luyện, công tác đồng thời không ngại gian khổ,

sẵn sàng nhận và hoàn thành mọi nhiệm vụ của người thanh niên trong sự


21

nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc.
Thứ tư, có niềm tin khoa học về sự lãnh đạo của Đảng, vào khả năng
điều hành và quản lý của Nhà nước; tin tưởng vào sự tất thắng của CNXH và
chủ nghĩa cộng sản trên phạm vi toàn thế giới; tin tưởng vào sức mạnh của
nhân dân, của dân tộc và thời đại; tin tưởng vào thắng lợi của sự nghiệp đổi
mới đất nước do Đảng ta khởi xướng và lãnh đạo. Đồng thời mỗi sinh viên
phải tin tưởng vào khả năng, vào sức lực và trí tuệ của bản thân để vững vàng
tiến thân vào con đường khoa học, sẵn sàng hội nhập.
YTCT của sinh viên TP.HCM hiện nay còn được thể hiện qua hành động,
đó là kết quả cao trong học tập, rèn luyện và công tác; tích cực đấu tranh trên
mặt trận chính trị - tư tưởng, đấu tranh chống các biểu hiện sai trái, thù địch
để bảo vệ nền tảng tư tưởng, bảo vệ chế độ, bảo vệ Tổ quốc và bảo vệ nhân
dân; tích cực và tham gia một cách có hiệu quả các hoạt động chính trị, xã hội
của nhà trường, đoàn, hội và địa phương.
1.1.2. Toàn cầu hóa và những tác động của toàn cầu hóa đến ý thức
chính trị của sinh viên Thành phố Hồ Chí Minh hiện nay
* Toàn cầu hoá
Ngày nay, “Toàn cầu hoá” (Globalization) đang là xu thế khách quan
diễn ra mạnh mẽ và phức tạp, nó tác động tới hầu hết các quốc gia và vùng
lãnh thổ, trong đó Việt Nam không là ngoại lệ.
Xu thế toàn cầu hoá đã được C.Mác, Ph.Ăngghen chỉ ra như một tất yếu
khách quan trong tác phẩm “Tuyên ngôn của Đảng cộng sản”(1848). Trong
tác phẩm này, C.Mác, Ph.Ăngghen đã dự báo rằng, với sự phát triển của lực
lượng sản xuất sẽ dẫn đến sự phân công lao động xã hội rộng rãi làm mở rộng
nhu cầu trao đổi hàng hoá: trao đổi hàng hoá mở rộng ra phạm vi thế giới hình

thành thị trường thế giới, thị trường thế giới đến lượt nó sẽ liên kết các quốc
gia, khu vực trên toàn cầu.


22

Khi lực lượng sản xuất phát triển thì quan hệ sản xuất cũng phát triển
theo cho phù hợp, từ góc độ này C.Mác - Ph.Ăngghen đã chỉ ra nhân tố tác
động và tính chất giai cấp của quốc tế hoá: do bị thúc đẩy bởi việc trao đổi
sản phẩm và các yếu tố của quá trình sản xuất giữa người với người, đặc biệt
là thị trường tiêu thụ mà giai cấp tư sản đã xâm lấn khắp toàn cầu, thiết lập hệ
thống các mạng lưới khai thác tài nguyên và thị trường. Vì mục tiêu lợi
nhuận, giai cấp tư sản đã gây nên quá trình quốc tế hoá, quá trình phương
thức sản xuất tư bản chủ nghĩa lan rộng khắp thế giới. Bên cạnh đó, nhà nước
tư sản còn tiến hành những cuộc chiến tranh xâm lược thuộc địa để tìm kiếm
thị trường: thị trường nguyên liệu, thị trường sức lao động và thị trường tiêu
thụ sản phẩm dồi dào hơn, rẻ hơn, rộng lớn hơn.
Nói tới xu thế trên đây, C.Mác - Ph.Ăngghen đã có nhiều lần đề cập đến.
Hai ông cho rằng: “Đại công nghiệp đã tạo ra thị trường thế giới”[23, tr.598];
và chính “do bóp nặn của thị trường thế giới, giai cấp tư sản đã làm cho sản
xuất và tiêu dùng của tất cả các nước mang tính chất thế giới”[23, tr.601]. Đến
lượt nó, thị trường thế giới “thay cho tình trạng cô lập trước kia của các địa
phương và dân tộc vẫn tự cung tự cấp, ta thấy phát triển những quan hệ phổ biến,
sự phụ thuộc phổ biến giữa các dân tộc mà sản xuất vật chất đã như thế thì sản
xuất tinh thần cũng không kém như thế”[23, tr.602]. Và cũng chính: Nhờ cải
biến mau chóng công cụ sản xuất và làm cho các phương tiện giao thông trở
nên vô cùng tiện lợi, giai cấp tư sản lôi cuốn đến tất cả những dân tộc dã man
nhất vào trào lưu văn minh. Giá rẻ của những sản phẩm của những giai cấp ấy là
trọng pháo bắn thủng tất cả những bức vạn lý trường thành và buộc những người
dã man bài ngoại một cách ngoan cường nhất cũng phải hàng phục [23, tr.602].

Những phân tích trên của C.Mác - Ph.Ăngghen cho thấy, sự phát triển của
lực lượng sản xuất và quốc tế hoá sản xuất dưới chủ nghĩa tư bản đã làm cho
các nước gắn bó lại với nhau và tạo ra xu thế toàn cầu hoá. Như vậy, có thể
xem toàn cầu hoá là quá trình gia tăng liên kết, ảnh hưởng và tác động sâu


23

sắc lẫn nhau của tất cả các quốc gia, dân tộc trên phạm vi toàn thế giới trên
nhiều lĩnh vực của đời sống xã hội mà xuất phát điểm của nó là từ kinh tế.
Với tính cách là một xu thế khách quan trong tiến trình phát triển của
lịch sử nhân loại, TCH được hình thành trên cơ sở những tiền đề vật chất – kỹ
thuật cụ thể. TCH được biểu hiện trước hết là quá trình phổ biến hóa trên
phạm vi toàn cầu những giá trị, tri thức, những hoạt động, những định chế, mô
hình, … theo chiều hướng đi tới nhất thể hóa nhiều lĩnh vực của đời sống xã hội,
nhưng trước hết là kinh tế và kỹ nghệ. Biểu hiện cụ thể của TCH dễ nhận thấy
nhất, đó là nền sản xuất thế giới dựa trên sự phân công lao động quốc tế rộng rãi;
thị trường thế giới liên hoàn giữa các nước; luồng lưu chuyển nhanh chóng và
khổng lồ về hàng hóa, dịch vụ, đầu tư, tài chính – tiền tệ, công nghệ … trên
phạm vi toàn cầu; mạng lưới dày đặc hàng vạn các công ty xuyên quốc gia; đời
sống văn hóa – xã hội giữa các dân tộc ngày càng có nhiều nét chung,.v.v..
Bản chất khách quan của xu thế TCH được quy định trước hết bởi bốn
yếu tố chủ yếu, đó là sự phát triển cao của lực lượng sản xuất trong thời đại
khoa học – công nghệ; sự gia tăng phân công lao động quốc tế; sự phát triển
sâu rộng của KTTT trên phạm vi toàn thế giới; sự hiện diện của những vấn đề
toàn cầu. Tuy nhiên, TCH ngoài tư cách là một quá trình kinh tế - xã hội,
chính trị, văn hóa còn là hệ quả trực tiếp và gián tiếp của các nhân tố chủ
quan. Sự đan xen giữa cái khách quan và cái chủ quan đã làm cho TCH, về
bản chất, trở thành quá trình đầy mâu thuẫn, chứa đựng cả mặt tích cực lẫn
mặt tiêu cực đối với từng quốc gia, cũng như toàn nhân loại.

Xu thế TCH có nhiều tác động tích cực, tạo ra cơ hội và điều kiện thuận
lợi cho sự phát triển của các quốc gia – dân tộc. Trước hết, dưới tác động của
TCH, các quan hệ kinh tế quốc tế phát triển sâu rộng, tạo cơ hội để mỗi quốc
gia có thể tận dụng được thị trường thế giới cho các hoạt động sản xuất, kinh
doanh. TCH mở ra khả năng cho các quốc gia, nhất là các quốc gia đang phát


24

triển, tham gia nhanh chóng và hiệu quả vào hệ thống phân công lao động quốc
tế, khai thác mọi nguồn lực phục vụ mục tiêu phát triển. Nhờ vậy, các quốc gia
đang phát triển có thể đẩy nhanh quá trình điều chỉnh cơ cấu ngành kinh tế và
rút ngắn thời gian vật chất của công cuộc CNH, HĐH. TCH làm lưu chuyển tự
do các nguồn vốn, công nghệ sản xuất tiên tiến và khoa học quản lý hiện đại, đặt
các yếu tố quan trọng này vào khả năng tiếp cận, sử dụng của mọi quốc gia.
Ngoài ra, TCH còn tạo điều kiện cho tất cả các nước tham gia vào đời
sống quốc tế, bày tỏ chính kiến, bảo vệ lợi ích, tập hợp lực lượng… nhằm
thực hiện mục tiêu chiến lược của mình. Các nước đang phát triển đã khẳng
định vị thế ngày càng cao của mình trong bối cảnh TCH hiện nay thông qua
các diễn đàn khu vực và quốc tế như Liên hợp quốc, ASEAN… Đồng thời,
TCH cũng thúc đẩy mạnh mẽ các hoạt động giao lưu văn hóa và tri thức quốc
tế, tăng cường sự hiểu biết, tin cậy lẫn nhau giữa các dân tộc. TCH, trong tính
khách quan của nó, làm cho tri thức loài người kết tinh ở các phát minh, sáng
chế khoa học, kỹ thuật – công nghệ, kỹ năng quản lý … được phổ biến rộng
rãi toàn thế giới, tạo động lực cho sự bùng nổ trí tuệ nhân loại.
Tuy nhiên, có thể thấy một cách khá rõ ràng những vấn đề chính trị, kinh
tế, văn hóa, xã hội … của tất cả các nước trên thế giới, đặc biệt là những nước
đang phát triển đang chịu những thách thức nặng nề trước cơn lốc của TCH.
Về chính trị: độc lập, tự chủ, an ninh và toàn vẹn lãnh thổ chứa đựng mối
nguy cơ tiềm tàng bị cộng đồng quốc tế có quyền can thiệp. Một hệ thống và

cơ chế quyền lực quốc tế làm cho nhiều quốc gia, nhất là các quốc gia đang
phát triển lo ngại, vì nó được sử dụng làm cơ sở để tăng thêm mức can thiệp
của phương Tây, trực tiếp thách thức chủ quyền chính trị truyền thống.
Về kinh tế: những chủ quyền như định ra chính sách và mục tiêu kinh tế,
kiểm soát điều hòa nguồn tài nguyên và nguồn thông tin, quyền quản lý các
hoạt động kinh tế và khả năng hành động của một nước sẽ bị tác động và
ràng buộc một cách mạnh mẽ bởi các tổ chức kinh tế quốc tế và các công


25

ty xuyên quốc gia; từ đó một nước khó có thể phát triển kinh tế dân tộc
theo chiến lược do tự mình đặt ra.
Các nước phát triển phương Tây thực hiện chính sách “chính trị hóa
kinh tế”, lợi dụng các tổ chức quốc tế như WTO, IMF và WB để giành lợi
ích kinh tế cao hoặc can thiệp vào công việc nội bộ nước khác, thậm chí
dùng những biện pháp rút viện trợ và vốn đầu tư, gây khủng hoảng, kiềm
chế kinh tế các nước đang phát triển.
Một đặc điểm của TCH là sự không đồng đều của nó, là vị trí bất bình
đẳng giữa các nước và các dân tộc tham gia, dẫn đến phân hóa sâu sắc giữa giàu
và nghèo. Như một quy luật, TCH càng phát triển thì khoảng cách giàu nghèo
ngày càng tăng. Điều này phản ánh rất rõ bản chất của TCH TBCN, thuộc tính
của nó không sao giải quyết được tối ưu phúc lợi và công bằng xã hội.
Về văn hóa: những lĩnh vực văn hóa truyền thống, giá trị luân lý, ý thức hệ,
phong tục tập quán của một nước có mối liên hệ và tác động mạnh mẽ với nhau.
Chủ quyền về văn hóa của quốc gia dân tộc như tự chủ lựa chọn và xây dựng
nền văn hóa của riêng mình cũng bị ràng buộc vì tác động hữu hình và vô hình
từ bên ngoài dội vào. Cần nói thêm là với cuộc cách mạng về thông tin – kỹ
thuật, nhất là sau khi Internet được sử dụng rộng rãi thì một nước đang phát triển
rất khó thực hiện được tự chủ về văn hóa và kiểm soát văn hóa. Trong khi đó,

phương Tây dựa vào ưu thế kỹ thuật và văn hóa của mình để tuyên tuyền thực
hiện quan niệm giá trị, lý luận, lối sống của họ, từ đó làm cho văn hóa các dân
tộc bị xói mòn song song với việc phương Tây giữ được bá quyền văn hóa.
Thách thức về xã hội: TCH đang đặt ra thách thức cực kỳ nghiêm
trọng đối với các quốc gia dân tộc về mặt xã hội. Với các cuộc cách mạng
trên các lĩnh vực giao thông vận tải, thông tin, Internet, ngân hàng, tài
chính, .v.v. các tệ nạn xã hội nhanh chóng vượt ra khỏi biên giới quốc gia
như một bệnh dịch thế kỷ lan ra toàn cầu như: ma túy, HIV – AIDS, tham
nhũng, nạn buôn lậu quốc gia và quốc tế, mại dâm, xuất hiện và lan tràn


×