Tải bản đầy đủ (.doc) (37 trang)

SKKN NANG CAO KI NANG VIET VAN MIEU TA CHO HOC SINH LOP 4

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (691.42 KB, 37 trang )

MỤC LỤC
A. PHẦN MỞ ĐẦU
ĐẶT VẤN ĐỀ
I. Lý do chọn đề tài ……………………………………………………Trang 2
II. Sơ lược cơ sở lí luận ………………………………………………..Trang 3
III. Đối tượng nghiên cứu ……………………………………………..Trang 3
IV.Thời gian nghiên cứu ……………………………………………...Trang 4
V. Nhiệm vụ nghiên cứu ………………………………………………Trang 4
VI. Phương pháp nghiên cứu ………………………………………….Trang 4
B. PHẦN NỘI DUNG
CHƯƠNG I : CƠ SỞ LÍ LUẬN
1.1 Ý nghĩa ………………………………………………………..….Trang 5
CHƯƠNG II : THỰC TRẠNG
2.1 Về phía giáo viên………………………………………………......Trang 7
2.2 Về phía học sinh ………………………………………………......Trang 7
CHƯƠNG III : CÁC BIỆN PHÁP
3.1 Bồi dưỡng vốn sống ……………………………………..……...Trang 11
3.2 Dạy Tập làm văn tích hợp qua phân môn Tập đọc.........................Trang 12
3.3 Dạy Tập làm văn tích hợp qua phân môn Luyện từ và câu............Trang 14
3.4 Dạy Tập làm văn tích hợp qua phân môn Chính tả ……………...Trang 15
3.5 Dạy Tập làm văn tích hợp qua phân môn Giáo dục kĩ năng sống..Trang 16
CHƯƠNG IV. DẠY VIẾT BÀI VĂN
4.1 Giúp học sinh nắm chắc yêu cầu đề.. .…………………...............Trang 18
4.2 Hướng dẫn học sinh quan sát .…………………………………...Trang 18
4.3 Rèn kĩ năng lập dàn bài chi tiết...............................................…..Trang 24
4.4 Dựng đoạn và viết bài văn..................................……………….. Trang 26
4.5 Đưa nghệ thuật vào bài văn........................…………………….. Trang 26
4.6 Đưa cảm xúc vào bài văn ………………………………………. Trang 27
4.7 Kết quả…………………………………………………………...Trang 28
C. PHẦN KẾT LUẬN
I. Kết quả đạt được …………………………………………………..Trang 34


II. Bài học kinh nghiệm …………………………………………….. Trang 34
III. Ý kiến đề xuất ……………………………………………………Trang 36
Tài liệu tham khảo.....……………………………………………….. Trang 37

A. PHẦN MỞ ĐẦU


SKKN : “ Nâng cao kĩ năng viết văn miêu tả cho học sinh lớp 4”

ĐẶT VẤN ĐỀ
I. LÍ DO CHỌN ĐỀ TÀI
Phân môn Tập làm văn có vị trí đặc biệt trong quá trình dạy học tiếng Việt
bởi vì nó sử dụng và hoàn thiện một cách tổng hợp các kiến thức và kĩ năng mà
các phân môn Tiếng Việt khác đã hình thành. Trong đời sống, muốn người khác
nhận ra những điều mình đã nhìn thấy, đã sống, đã trải qua… chúng ta phải miêu
tả. Trong văn học, các câu chuyện, các cuốn tiểu thuyết, thậm chí ngay cả trong
văn nghị luận hay văn viết thư, nhiều lúc ta cũng chen vào các đoạn văn miêu tả
nên có thể nói văn miêu tả có một vị trí quan trọng trong sáng tác văn chương.
Cũng vì thế văn miêu tả chiếm một vị trí đặc biệt quan trọng trong chương trình
tập làm văn bậc tiểu học.
Dạy tốt phân môn Tập làm văn nói chung và kiểu bài văn miêu tả nói riêng
là vấn đề được nhiều giáo viên tiểu học quan tâm. Chương trình thay sách tiểu
học phát huy bốn kĩ năng nghe, nói, đọc, viết trong môn Tiếng Việt. Học sinh
tiểu học ngay từ lớp 1, 2, 3 đã được tiếp xúc với nhiều dạng văn bản khác nhau,
có nội dung gần gũi với cuộc sống và kĩ năng giao tiếp của các em với cộng
đồng. Đó là một ưu điểm không ai phủ nhận. Tuy nhiên, chương trình mới cũng
chuyển tải sự thay đổi cả về nội dung và kĩ năng rèn luyện lẫn hình thức, biện
pháp và quy trình lên lớp. Là giáo viên, nhất là giáo viên dạy lớp 4, 5 không ai
tránh khỏi những trăn trở, băn khoăn là làm thế nào giúp học sinh rèn luyện tốt kĩ
năng làm bài Tập làm văn, nhất là văn miêu tả.

Để hoàn thành bài văn học sinh thường rất khó khăn. Do đặc điểm tâm lí,
học sinh tiểu học còn ham chơi, khả năng tập trung chú ý quan sát chưa tinh tế,
năng lực sử dụng ngôn ngữ chưa phát triển tốt, dẫn đến khi viết văn học sinh còn
thiếu vốn hiểu biết về đối tượng chưa biết cách quan sát đối tượng, sự vật xung
quanh…hoặc không biết cách diễn đạt điều muốn viết. Đối với giáo viên đây
cũng là phân môn khó dạy. Giáo viên còn thiếu linh hoạt trong vận dụng phương
pháp và chưa sáng tạo trong việc tổ chức các hoạt động học tập của học sinh. Vì
2


SKKN : “ Nâng cao kĩ năng viết văn miêu tả cho học sinh lớp 4”

vậy, không phải giờ dạy văn nào cũng đạt hiệu quả mong muốn, và không phải
giáo viên nào cũng dạy tốt phân môn này. Việc tìm tòi phương pháp để hướng
dẫn học sinh quan sát, tìm ý, lập dàn ý, tưởng tượng,…còn nhiều hạn chế. ?
Chúng ta đã tự hào tiếng Việt ta phong phú, giàu hình ảnh, đa dạng về nghĩa, có
sức biểu cảm sâu sắc. Nhưng một thực tế làm buồn lòng những thầy cô giáo
chúng ta đó là khi chấm bài, tôi thấy đa số học sinh đã biến các bài văn miêu tả
thành văn kể, liệt kê một cách khô khan, nghèo nàn về từ, diễn đạt rườm rà tối
nghĩa.
Từ hiện thực trên tôi tự hỏi: “ Làm thế nào để giúp các em có kĩ năng viết
được bài văn thuộc thể loại văn miêu tả? Để giúp các em có thể vẽ lại bằng lời
những sự vật, đồ vật, cây cối, loài vật xung quanh mình? Giúp các em có cơ hội
bộc lộ cảm xúc của cá nhân, mở rộng tâm hồn và phát triển nhân cách”. Trả lời
câu hỏi này, những năm học gần đây, tôi đã cố gắng dùng mọi khả năng và kinh
nghiệm của mình để rèn cho các em có một kiến thức nhất định và xây dựng kĩ
năng viết văn cho các em. Trong khuôn khổ bài viết này, tôi mạnh dạn trình bày
một vài kinh nghiệm “ Nâng cao kĩ năng viết văn miêu tả cho học sinh lớp 4”
với hi vọng góp phần nâng cao trình độ của bản thân, nâng cao chất lượng dạy học Tập làm văn lớp 4. Qua đây, tôi mong muốn nhận được nhiều ý kiến trao đổi
của đồng nghiệp để đề tài thực sự có giá trị trong dạy- học .

II. SƠ LƯỢC CƠ SỞ LÍ LUẬN.
- Xuất phát từ mục đích, mục tiêu giáo dục cấp học, lớp học.
- Xuất phát từ vị trí, nhiệm vụ và yêu cầu của phân môn Tập làm văn.
- Xuất phát từ một số tồn tại và vướng mắc trong quá trình dạy học văn
miêu tả của giáo viên và học sinh.
- Xuất phát từ kinh nghiệm trực tiếp giảng dạy.
III. ĐỐI TƯỢNG NGHIÊN CỨU.
1. Học sinh lớp 4B- Trường Tiểu học ...................
2. Chương trình phân môn Tập làm văn lớp 4.
IV. THỜI GIAN NGHIÊN CỨU.
3


SKKN : “ Nâng cao kĩ năng viết văn miêu tả cho học sinh lớp 4”

Từ tháng 9 năm 2012 đến nay
V. NHIỆM VỤ NGHIÊN CỨU.
Để đạt được mục đích nghiên cứu, tôi xác định mình phải giải quyết các
nhiệm vụ sau:
1. Tìm hiểu thực trạng của việc dạy phân môn Tập làm văn.
2. Một số giải pháp để nâng cao kĩ năng viết văn miêu tả cho học sinh.
VI. PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU.
1. Thu thập tài liệu, đọc sách và các tài liệu tham khảo.
2. Điều tra khảo sát thực tế.
3. Sử dụng các phương pháp khác: Phân tích ngôn ngữ, so sánh đối
chiếu, thống kê và xử lí các số liệu thu được.

4



SKKN : “ Nâng cao kĩ năng viết văn miêu tả cho học sinh lớp 4”

B. PHẦN NỘI DUNG
CHƯƠNG I.
CƠ SỞ LÍ LUẬN
1.1. Ý nghĩa của việc nâng cao kĩ năng viết văn cho học sinh lớp 4.
Theo quan điểm tích hợp, các phân môn của bộ môn Tiếng Việt được tập
hợp lại xung quanh trục chủ điểm và các bài đọc. Nhiệm vụ cung cấp kiến
thức và rèn luyện kĩ năng gắn bó chặt chẽ với nhau. Như vậy, muốn dạy- học
có hiệu quả Tập làm văn miêu tả (tả đồ vật, cây cối, con vật, ..) nhất thiết
người giáo viên phải dạy tốt các phân môn Tập đọc, Kể chuyện, Chính tả,
Luyện từ và câu…. Vì trong các bài đọc, trong câu chuyện, trong các bài tập
Luyện từ và câu thường xuất hiện các đoạn văn, khổ thơ có nội dung miêu tả
rất rõ về đồ vật, cây cối, con vật, con người,...
Bài tập làm văn nếu không sáng tạo sẽ trở thành một bài văn khô cứng,
góp nhặt của người khác, nội dung bài văn sẽ không hồn nhiên, trong sáng,
mới mẻ như tâm hồn của các tác giả nhỏ tuổi.
Nhìn chung, nhiều năm nay, nhà trường chúng ta đã chú ý đến việc nâng
cao chất lượng môn học này nhưng chưa tạo cho công việc này những điều kiện
đầy đủ. Nhiều học sinh thực sự lúng túng khi phải bắt tay vào xây dựng dàn ý,
viết một đoạn văn bản, chữa lỗi dùng từ, đặt câu,…bằng tiếng mẹ đẻ của mình.
Giờ học Tập làm văn lẽ ra phải là giờ sinh động, hấp dẫn lại trở nên buồn tẻ,
tạo nên không khí "không thích học". Làm văn là một hoạt động giao tiếp, việc
rèn luyện kĩ năng làm văn vừa cần phải sử dụng đúng từ ngữ, diễn đạt mạch
lạc, trôi chảy, sinh động phù hợp với đối tượng giao tiếp và phải lôi cuốn, hấp
dẫn người đọc…
Để đạt được mục tiêu trên, việc bồi dưỡng nâng cao kĩ năng viết văn miêu
tả cho học sinh lớp 4 đặt ra những nhiệm vụ sau :
- Bồi dưỡng hứng thú học tập làm văn cho học sinh.
5



SKKN : “ Nâng cao kĩ năng viết văn miêu tả cho học sinh lớp 4”

- Bồi dưỡng vốn sống, bổ sung vốn từ ngữ thông qua việc dạy tích hợp
phân môn Tập làm văn với các môn học khác.
- Dạy kĩ năng làm văn cho học sinh.
- Bồi dưỡng kĩ năng cảm thụ văn học cho học sinh.

6


SKKN : “ Nâng cao kĩ năng viết văn miêu tả cho học sinh lớp 4”

CHƯƠNG II
THỰC TRẠNG DẠY HỌC
PHÂN MÔN TẬP LÀM VĂN LỚP 4 HIỆN NAY
2.1 Về phía giáo viên
Theo chương trình sách giáo khoa lớp 4, văn miêu tả chiếm 30/62 tiết tập
làm văn của cả năm học. Văn miêu tả bao gồm các kiểu bài: tả đồ vật, tả cây
cối, tả con vật. Như vậy, việc rèn kĩ năng làm văn miêu tả cho học sinh là việc
làm vô cùng quan trọng và cần thiết. Điều đó tạo tiền đề vững chắc để học
sinh làm được những bài văn hay, viết được những câu văn súc tích, giàu hình
ảnh, diễn đạt rõ ý, cảm xúc chân thật, sinh động và sáng tạo. Đây cũng là điều
kiện giúp các em học tốt văn tả người và tả cảnh trong chương trình lớp 5.
Là một giáo viên trực tiếp giảng dạy trên lớp, tôi nhận thấy rằng các em
rất ngại học phân môn Tập làm văn. Bởi vì, ở lớp 3 các em chỉ mới học viết
đoạn văn kể về người thân, kể về người lao động trí óc… Lên lớp 4, các em
mới bắt đầu học cách lập dàn ý, dựng đoạn và viết thành bài văn hoàn chỉnh.
Học sinh chưa nhận thức được mức độ cần đạt và tính trừu tượng của bài văn

lớp 4. Chưa đặt kĩ mục tiêu khi thực hiện viết bài văn. Một số giáo viên do
chạy theo thành tích và để đảm bảo thời gian cho các tiết học khác nên trong
những tiết dạy tập làm văn thường gò cả lớp làm theo một khuôn mẫu để dễ
hướng dẫn hoặc có khi đọc cả bài văn mẫu cho học sinh chép rồi học thuộc
thành ra bài nào cũng như bài ấy chẳng có gì khác nhau cả. Giáo viên sợ phải
gợi ý cho học sinh viết theo nhiều hướng khác nhau thì khi học sinh gặp khó
khăn sẽ không thể giải quyết tình huống được.
2.2 Về phía học sinh
Để có được một kĩ năng, thông thường buộc phải trải qua nhiều bước
luyện tập từ thấp đến cao, lúc đầu phải làm theo mẫu, sau đó mới có thể vận
dụng sáng tạo. Nhưng trên thực tế, học sinh thường nhảy cóc qua một số bước,
7


SKKN : “ Nâng cao kĩ năng viết văn miêu tả cho học sinh lớp 4”

phần tập và phần luyện thường bị coi nhẹ. Phần đông vẫn chưa có thói quen
chuẩn bị bài chu đáo trước khi đến lớp. Kĩ năng phân tích đề, lập dàn ý chi tiết,
làm bài văn,… còn nhiều hạn chế. Các em sắp xếp ý còn lộn xộn, lủng củng,
nhớ đâu viết đó, bài viết thiếu trọng tâm hình ảnh trong bài văn rời rạc, ít liên
tưởng hoặc chỉ là sao chép một cách sống sượng bài văn mẫu. Năng lực cảm thụ
văn học của học sinh chưa đồng đều dẫn đến chất lượng làm văn chưa cao.
Vốn sống và vốn kiến thức văn học của học sinh nhất là học sinh vùng nông
thôn quê chúng tôi còn hạn chế. Đa số các em là con trong những gia đình có bố
mẹ làm nghề nông thuần túy nên số phụ huynh có điều kiện và có ý thức mua
sách báo cho con em mình đọc còn rất ít . Hơn nữa không ít em chưa có thói
quen đọc sách, ham đọc sách vì thế các em ít có sự say mê với các tác phẩm văn
học.
Bài viết của các em còn mắc nhiều lỗi chính tả, Chưa xác định được
trọng tâm đề bài cần miêu tả. Nhiều em thường liệt kê, kể lể dài dòng, diễn

đạt vụng về, lủng củng. Chưa biết dừng lại để nói kĩ một vài chi tiết cụ thể nổi
bật. Vốn từ ngữ nghèo nàn, khuôn sáo, quan sát sự vật còn hời hợt. Hầu hết

các em chưa biết cách sử dụng các biện pháp nghệ thuật như nhân hóa,
so sánh, điệp từ, điệp ngữ, từ láy,… nên bài văn của các em tuy đủ ý
nhưng rất khô khan. Bên cạnh đó còn một số bài viết mắc nhiều lỗi
chính tả. Có em viết hết cả bài văn mà không có lấy một dấu chấm, một
lần xuống dòng. Có em lại chấm phẩy một cách tùy tiện.
Thực trạng học sinh còn nhiều hạn chế như vậy đã làm cho tiết Tập làm
văn trở thành một gánh nặng, một thách thức đối với giáo viên tiểu học. Ý
nghĩ cho rằng Tập làm văn là một phân môn khó dạy, khó học và khó đạt hiệu
quả cao đã là nhận thức chung của nhiều thầy cô giáo dạy lớp 4, lớp 5.
Chính vì những khó khăn và hạn chế nêu trên nên chất lư ợng làm văn của
học sinh trường tôi chưa đạt kết quả như mong muốn. Có những bài văn ngây
ngô cách diễn đạt mộc mạc mà khi đọc lên cả phụ huynh và học sinh phải thật sự
kinh ngạc như những đoạn văn dưới đây :
8


SKKN : “ Nâng cao kĩ năng viết văn miêu tả cho học sinh lớp 4”

Đề: Tả một cây ăn quả mà em thích:
Nhà em có trồng một cây chuối. Đến mùa chuối ra quả. Cả buồng
chuối dài 3 cm. Lúc quả chín mẹ em chia cho hàng xóm, ăn mấy ngày không
hết.
Đề: Tả cái cặp đi học: Bố em mua cho em cái cặp rất to và đẹp, hàng
ngày em đeo nó đến trường, cái cặp đựng được nhiều sách vở, nó to như cái
bình thuốc sâu của mẹ vậy!
Đề: Tả con mèo : Nhà em có nuôi một chú mèo. Lông chú trắng mượt
rất xinh xắn. Đầu chú to và nặng khoảng 5kg.

Những lời văn trên ta thấy rằng các em chưa phân biệt chi tiết nào là
của ngôn ngữ nói. Chi tiết nào là của ngôn ngữ viết. Liên tưởng và so sánh
cần chọn lọc như thế nào.Trong quá trình thực hiện đề tài, tôi cho học sinh
lớp 4B làm bài kiểm tra thu dược kết quả như sau:
Kết quả khảo sát đầu năm học 2012-2013
Khảo sát
Đầu năm

SS

Bài điểm

h/s
23

9-10
6

Bài điểm Bài điểm Bài điểm
7- 8
7

5- 6
7

3- 4
3

Bài điểm
1- 2

0

Kết quả khảo sát đầu năm học 2013-2014
Khảo sát
Đầu

năm

SS
h/s
26

Bài điểm Bài điểm
9-10
4

7- 8
8

Bài điểm
5- 6
10

Bài điểm Bài điểm
3- 4
4

1- 2
0


Kết quả khảo sát đầu năm học 2014-2015
Khảo sát
Đầu

năm

SS
h/s
21

Bài điểm Bài điểm Bài điểm Bài điểm
9-10
4

7- 8
8

5- 6
7

3- 4
2

Bài điểm
1- 2
0

Đây cũng chính là một thực trạng khiến tôi luôn băn khoăn, trăn trở về
cách làm văn nhất là văn miêu tả của học sinh lớp 4 và của cả những năm học
trước. Trước thực tế ấy, tôi đã luôn tìm tòi và suy nghĩ: Làm thế nào để nâng

9


SKKN : “ Nâng cao kĩ năng viết văn miêu tả cho học sinh lớp 4”

cao được hiệu quả làm văn cho học sinh? Cuối cùng tôi cũng tìm được một số
biện pháp để nâng cao kĩ năng làm văn miêu tả cho học sinh lớp 4. Tôi đã áp
dụng những biện pháp này vào việc dạy làm văn cho học sinh lớp 4B trường
Tiểu học ................... trong năm học từ 2012 đến 2015 và tiếp tục đưa vào áp
dụng trong những năm học tiếp theo. Thật đáng mừng qua ba năm áp dụng
chất lượng làm văn của học sinh lớp tôi đã được nâng cao một cách rõ rệt. Tôi
xin mạnh dạn chia sẻ cùng các bạn đồng nghiệp .

10


SKKN : “ Nâng cao kĩ năng viết văn miêu tả cho học sinh lớp 4”

CHƯƠNG III
CÁC BIỆN PHÁP
NÂNG CAO KĨ NĂNG VIẾT VĂN MIÊU TẢ
Để nâng cao kĩ năng viết văn cho học sinh lớp 4 đòi hỏi người giáo
viên phải kiên trì và bền bỉ vì đây là một công việc rất khó khăn. Tôi đã tiến
hành những biện pháp sau nhằm nâng cao chất lượng làm văn .
3.1.Bồi dưỡng vốn sống:
Hiện nay, nhiều giáo viên khi dạy làm văn cho học sinh thường thiên về
dạy các kĩ thuật làm bài mà không cung cấp các chất liệu sống, cái tạo nên nội
dung bài viết. Thường giáo viên ra một đề làm văn và hướng dẫn kĩ thuật làm
bài. Còn học sinh thì cố gắng đọc thật nhiều bài văn mẫu, thậm chí có em bê
nguyên bài của người khác vào bài làm của mình. Khi thấy một học sinh ngồi

trước một đề văn hàng 15- 20 phút chưa viết được, giáo viên thường cho rằng
các em không nắm được lí thuyết viết thể văn nọ, thể văn kia mà không hiểu
rằng nguyên nhân đầu tiên làm các em không có hứng thú viết là do các em
đã không tạo được một quan hệ thân thiết giữa mình và đề bài - đối tượng của
miêu tả, nghĩa là các em không có nội dung, không có gì để nói, để viết về
cái đó. Nguyên nhân của tình trạng trên là việc thiếu hụt vốn sống, vốn cảm
xúc. Vì vậy phải bồi dưỡng vốn sống cho các em. Trước hết đó là vốn sống
trực tiếp giáo viên cho các em quan sát, trải nghiệm những gì sẽ phải viết
bằng cách đàm thoại theo một hệ thống câu hỏi. Cho học sinh đóng vai thực
hiện hoặc quan sát tranh ảnh, cảnh vật xung quanh …
Giáo viên cần làm cho vốn sống thực này không cản trở trí tưởng tượng
phong phú của học sinh. Nhưng trí tưởng tượng dù bay bổng đến mấy vẫn
phải có cơ sở, bắt nguồn từ đời sống thực. Một em học sinh ở vùng núi xa xôi
chưa từng thấy một chiếc cặp sách, con gấu bông thì không thể tả đúng chiếc
cặp sách, con gấu bông, cây bàng đang thay lá khi chưa hề nhìn thấy chúng
lần nào và không thể gây ra xúc động khi phải tả con lợn nhà em trong khi
nhà chưa bao giờ nuôi lợn. Cần tổ chức tốt quá trình quan sát, trải nghiệm
11


SKKN : “ Nâng cao kĩ năng viết văn miêu tả cho học sinh lớp 4”

thực tế của học sinh. Khi học sinh quan sát, giáo viên nên đóng vai trò dẫn
dắt, gợi mở, tạo nguồn cảm hứng, khơi dậy suy nghĩ trong các em cần đưa
thêm tranh ảnh để hỗ trợ cho việc quan sát. Sau khi các em đã quan sát, làm
quen với đối tượng rồi thì cần phải ghi lại cụ thể về những gì đã quan sát
được.
3. 2. Dạy Tập làm văn tích hợp thông qua phân môn Tập đọc.
Trong các bài tập đọc thuộc thể loại văn miêu tả thì số lượng từ miêu tả rất
phong phú, sử dụng sáng tạo, hấp dẫn, lôi cuốn người đọc. Sách giáo khoa

Tiếng Việt 4 được biên soạn theo tuần, theo chủ điểm. Thường thì ứng với
mỗi chủ điểm là các dạng tập làm văn mà các em đang học. Vì vậy, thông
qua các bài tập đọc tôi giúp các em chỉ ra từ ngữ miêu tả hay đã được chọn
lọc, gọt giũa. Cách sử dụng nghệ thuật của tác giả rồi chọn một vài trường
hợp đặc sắc để phân tích kĩ giúp học sinh thấy được sự sáng tạo của các nhà
văn khi dùng chúng. Sau đó tôi chốt lại một vài từ yêu cầu các em ghi vào
“sổ từ”, tập đặt câu để hiểu chắc chắn, biến từ đó thực sự là vốn từ của mình.
Ví dụ: Ở bài Tre Việt Nam. ( Tiếng Việt lớp 4 tập 1 trang 41), tôi yêu
cầu các em sau giờ học phải bổ sung vào vốn từ của mình các từ ngữ và hình
ảnh.
- Thân gầy guộc, lá mong manh
- Cây kham khổ vẫn hát ru lá cành.
- Nhọn như chông .
Bài Sầu riêng ( Tiếng Việt lớp 4 tập 2 trang 33).
- Khi phân tích đoạn 1, tôi giúp các em hiểu rằng để tả hương vị đặc
biệt của quả sầu riêng tác giả đã nhấn mạnh qua việc sử dụng các điệp
từ “thơm mùi thơm, béo cái béo, ngọt cái ngọt”
- Khi phân tích đoạn 3 tôi yêu cầu các em chỉ ra biện pháp so sánh
được tác giả sử dụng khi tả về hình dáng cây sầu riêng đó là: “ Thân
nó khẳng khiu, cao vút, thiếu cái dáng cong, dáng nghiêng chiều quằn

12


SKKN : “ Nâng cao kĩ năng viết văn miêu tả cho học sinh lớp 4”

chiều lượn của cây xoài, cây nhãn. Lá nhỏ xanh vàng hơi khép lại
tưởng như lá héo.”

Qua đó, tôi giúp học sinh hiểu rằng người ta có thể mượn hình

ảnh này để ca ngợi một hình ảnh khác (mượn cái không đẹp của cây
sầu riêng để tăng thêm hương vị của trái sầu riêng).
+ Ví dụ 2: Khi dạy đến bài “Hoa học trò” Tiếng việt 4 – Tập 2/43.
Trong phần tìm hiểu bài tôi giúp các em cảm nhận được cái hay, cái
độc đáo qua cách dùng từ của Xuân Diệu. Để giúp người đọc cảm
nhận được số lượng hoa phượng ra nhiều và rất đẹp, ông đã sử dụng
một loạt các điệp từ, điệp ngữ để diễn tả điều đó:
“Phượng không phải là một đóa, không phải vài cành. Phượng đây
là cả một loạt, cả một vùng, cả một góc trời đỏ rực. Mỗi hoa chỉ là
một phần tử của cái xã hội thắm tươi, người ta quên đóa hoa, chỉ
nghĩ đến cây, đến hàng, đến những tán hoa lớn xòe ra như muôn
ngàn con bướm thắm đậu khít nhau”.
Để giúp học sinh hiểu khi quan sát cây cối người ta cần phải phối
hợp nhiều giác quan. Tả lá phượng tác giả viết:
“Lá xanh um, mát rượi, ngon lành như lá me non.”
Chỉ bằng một câu nhưng tác giả đã sử dụng tới ba giác quan: mắt
(xanh um), khứu giác (mát rượi), vị giác (ngon lành).
Vậy qua môn Tập đọc học sinh tích lũy được “vốn liếng” từ không hề
nhỏ. Bằng cách này, tôi đã giúp các em hiểu thêm rằng để có bài văn miêu tả
hay cần biết cách dùng từ và sử dụng biện pháp nghệ thuật hợp lí.
Ví dụ:

Ở giữa biển rộng, cờ đỏ sao vàng phấp phới bay trên những

con tàu lớn. Trăng của các em sẽ soi sáng những ống khói nhà máy chi
chít, cao thẳm rải trên đồng lúa bát ngát vàng thơm …
( Bài Trung thu Độc lập )

13



SKKN : “ Nâng cao kĩ năng viết văn miêu tả cho học sinh lớp 4”

Tiếng sáo diều vi vu trầm bổng. Sáo đơn rồi sáo kép, sáo bè …như
gọi thấp xuống những vì sao sớm.
Bầu trời tự do đẹp như một thảm nhung khổng lồ.
( Cánh diều tuổi thơ )
3.3 Dạy Tập làm văn tích hợp thông qua phân môn Luyện từ và câu.
Trong văn miêu tả thì vốn từ ngữ miêu tả rất quan trọng. Việc giúp học
sinh tích lũy vốn từ ngữ miêu tả và sử dụng nó một cách chính xác, hợp lí là
vấn đề quan trọng của mỗi một giáo viên. Mục tiêu chính của phân môn
Luyện từ và câu là giúp học sinh mở rộng vốn từ, sử dụng từ chính xác, viết
câu đủ ý. Khi dạy về nội dung mở rộng vốn từ theo chủ điểm, tôi giúp học
sinh hiểu rõ nghĩa của từ, các thành ngữ, tục ngữ thuộc chủ điểm đó. Từ đó
các em sẽ biết cách sử dụng chúng cho phù hợp. Không chỉ vậy, tôi còn yêu
cầu các em tìm thêm một số từ đồng nghĩa, trái nghĩa để làm phong phú thêm
vốn từ.
Ví dụ : Tìm từ cùng nghĩa với từ “xanh” : xanh biếc (nước biển), xanh bạt
ngàn (cánh rừng), xanh mượt mà ( lúa đương thì con gái), xanh xao (da),
xanh thẳm (bầu trời)…Vậy tùy từng sự vật có thể lựa chọn từ ngữ cho phù
hợp.

Trong các tiết Luyện từ và câu có nội dung về ngữ pháp, ngoài việc
dạy các em cách viết câu đúng, tôi luôn tìm cách dạy các em cách viết
câu văn có hình ảnh. Trong tất cả các bài tập dùng từ đặt câu, tôi luôn
đặt một câu văn đủ ý bên cạnh một câu văn khác đủ ý nhưng có hình ảnh
để các em so sánh.
Ví dụ: Tả một đồ chơi mà em yêu thích (chú gấu bông)
- Câu 1: Chú gấu bông có bộ lông màu hồng nhạt.
- Câu 2: Chú gấu bông có bộ lông màu hồng nhạt như màu chiếc

khăn quàng cổ của mẹ.
Hoặc tả cây bàng trường em đang mùa thay lá
14


SKKN : “ Nâng cao kĩ năng viết văn miêu tả cho học sinh lớp 4”

- Câu 1 : Chỉ vài hôm, lộc non đã nhú lên.
- Câu 2:

Chỉ vài hôm, lộc non đã tràn đầy trên bàn tay của cây bàng.

Tôi cho học sinh nhận xét xem câu nào hay hơn (100% học sinh trả
lời là câu 2 hay hơn vì nó tạo cho người đọc hình ảnh liên tưởng rất cụ
thể qua việc sử dụng từ và các biện pháp so sánh, nhân hóa…
Việc chọn từ giáo viên nên để học sinh thoải mái, không ép hay áp đặt.
Sau mỗi lần học sinh chọn điền từ tôi cũng để học sinh khác bình luận, nhận
xét xem câu nào hay hơn. Các em học chưa tốt môn văn có thể học hỏi được
nhiều từ, câu của các bạn học sinh năng khiếu giúp các em lựa chọn các câu
văn hay để viết đoạn văn, vừa khiến cho các em thoải mái trong giờ học, vừa
nhớ lâu…

Tóm lại: Với biện pháp này, tôi đã rèn cho học sinh kĩ năng viết câu
văn có hình ảnh, đủ ý.
3.4 Dạy Tập làm văn tích hợp thông qua môn Chính tả.
Như ở phần thực trạng tôi đã trình bày, bài văn của các em bị sai lỗi
chính tả rất nhiều, điều đó gây khó chịu cho người đọc. vì vậy trong tất
cả các tiết chính tả, tôi luôn chú ý rèn cho các em có ý thức viết đúng
chính tả (đây cũng là mục tiêu của các môn Chính tả).
Ngoài ra thông qua giờ chính tả, tôi cũng giúp các em tích lũy thêm

vốn từ ngữ miêu tả và cách sử dụng chúng.
+ Ví dụ 1: Khi dạy bài chính tả tuần 13 Tiếng việt 4 – Tập 1
Thông qua bài tập: “Điền vào chỗ chấm tiếng bắt đầu bằng s/x”.
Sau khi học sinh thực hiện xong yêu cầu, tôi gọi học sinh đọc lại:
Cái Mỹ có một anh lính thật đẹp. Đấy là một anh lính nho nhỏ, xinh
xắn bằng đất mẹ mới mua cho Mỹ phiên chợ huyện hôm qua. Lũ trẻ
trong xóm xúm xít lại, đứa nào cũng muốn cầm, sờ vào cái áo màu
xanh lá cây, cái mũ có ngôi sao, khẩu súng đen bóng và sờ cả vào
khuôn mặt nho nhỏ, hồng hồng của anh ta nữa. Nhưng cái Mỹ chỉ cho
15


SKKN : “ Nâng cao kĩ năng viết văn miêu tả cho học sinh lớp 4”

mỗi đứa cầm xem một tí vừa đủ để nó hỏi xong một câu”xinh nhỉ?”. Cứ
như là nó sợ để anh lính cười với bạn nó quá lâu.
Hỏi: Đoạn văn trên miêu tả những đồ chơi nào? (anh lính bằng
đất).Tác giả đã sử dụng nghệ thuật gì để miêu tả anh lính bằng đất đó?
Lấy ví dụ. (nghệ thuật nhân hóa gọi đồ chơi bằng từ dùng để gọi con
người: anh lính). Từ đó tôi chỉ cho học sinh cái hay, sáng tạo và tác dụng
của biện pháp nghệ thuật nêu trên.
+ Ví dụ 2: Khi dạy đến bài chính tả tuần 21 – Tiếng việt 4 tập 2.
Trong phần bài tập có bài: “Chọn những tiếng thích hợp trong
ngoặc đơn để hoàn chỉnh bài văn sau.”
Sau khi cho học sinh thực hiện theo yêu cầu của bài. Tôi gọi hai học
sinh đọc lại bài văn. Sau đó tôi đưa ra một số câu hỏi mở rộng nhằm mục
đích có thể vận dụng nó vào việc học phân môn Tập làm văn.
- Bài văn thuộc thể loại văn gì? Kiểu bài gì? (Văn miêu tả, kiểu bài
tả cây cối).
- Tác giả đã quan sát cây theo trình tự nào? (Từng bộ phận của cây)

- Trong bài văn này tác giả đã sử dụng biện pháp nghệ thuật nào?
Lấy ví dụ minh họa. (nghệ thuật so sánh, ví dụ như: thân thẳng
như thân trúc. Năm cánh dài đỏ tía như ức gà chọi, trái kết màu
chín đậm, óng ánh như những hạt cườm…)
- Em học tập được gì khi học bài văn này? (học được cách miêu tả,
cách dùng từ, sử dụng các biện pháp nghệ thuật.)
3.5 Dạy Tập làm văn tích hợp thông qua môn Giáo dục kĩ năng sống.
Học tốt các môn học là chưa đủ mà phải biết áp dụng các kiến
thức đã học vào việc giải quyết các tình huống trong thực tiễn cuộc sống
thì đó mới là điều đáng hoan nghênh. Những câu chuyện trong từng chủ
điểm sẽ là bài học sâu sắc thêm vào đó là những trải nghiệm qua các bài
16


SKKN : “ Nâng cao kĩ năng viết văn miêu tả cho học sinh lớp 4”

tập, trò chơi bồi dưỡng cho các em vốn sống, vốn hiểu biết, kĩ năng giao
tiếp với mọi người, phát triển được tư duy, ngôn ngữ khả năng diễn đạt
hỗ trợ tốt cho việc viết văn nhất là văn miêu tả.
Tóm lại: Thông qua tất cả các môn học này, người giáo viên có thể
khéo léo khai thác để làm giàu vốn từ ngữ cho học sinh (từ ngữ miêu tả)
và giúp học sinh biết cách sử dụng chúng một cách hợp lí. Song do đặc
trưng của môn học, mỗi giờ học chỉ thiên về một mặt nào đó, nó chỉ hỗ
trợ để học sinh học tốt hơn phân môn Tập làm văn. Vì thế người giáo
viên không thể lạm dụng để biến nó thành một giờ dạy Tập làm văn
chính.

17



SKKN : “ Nâng cao kĩ năng viết văn miêu tả cho học sinh lớp 4”

CHƯƠNG IV
DẠY VIẾT BÀI VĂN
Mục tiêu lớn nhất của việc dạy văn là chất lượng của bài viết. Một bài
văn miêu tả hay là một bài văn được kết hợp hài hoà nhiều yếu tố: Nội dung,
nghệ thuật, cảm xúc. Nhiệm vụ của người giáo viên là làm sao để bài văn của
học sinh cần có tất cả các yếu tố đó. Muốn vậy trong mỗi tiết làm văn ta tập
trung giải quyết các nhiệm vụ sau.
4.1.Giúp học sinh nắm chắc yêu cầu của đề bài.
Đây là một việc làm rất quan trọng, bởi nó giúp học sinh định hướng
được công việc mình sẽ làm: Đó là xác định được bài văn thuộc thể loại bài
văn gì? Kiểu bài gì? Đối tượng miêu tả là gì?... Từ đó giúp các em không đi
lạc yêu cầu của đề. Sau khi nêu xong đề bài, tôi ghi lên bảng rồi yêu cầu nhiều
học sinh đọc lại.
Ví dụ: Trong sân trường em có rất nhiều cây bóng mát. Em hãy tả lại
một cây mà em thích.
Tôi hướng dẫn các em như sau:

- Đề bài thuộc thể loại văn gì? (miêu tả)
- Kiểu bài gì? (tả cây cối)
- Đối tượng miêu tả là gì? (cây cho bóng mát)
+ Thảo luận nhóm đôi trả lời câu hỏi:

- Kể tên các loại cây cho bóng mát? (bàng, xà cừ, phượng vĩ,…)
+ Gọi học sinh trình bày kết quả thảo luận.
+ Cả lớp nhận xét.
Sau khi học sinh trả lời xong, tôi chốt lại yêu cầu và dùng phấn màu gạch
chân các từ ngữ quan trọng.
Tóm lại: Theo tôi nếu giáo viên làm rõ yêu cầu như vậy thì chắc chắn

sẽ không có một bài văn nào của học sinh bị lạc đề.
4.2.Hướng dẫn học sinh quan sát.
18


SKKN : “ Nâng cao kĩ năng viết văn miêu tả cho học sinh lớp 4”

Miêu tả là vẽ lại bằng lời những đặc điểm nổi bật của sự vật để
giúp người nghe, người đọc hình dung được các đối tượng ấy (Tiếng Việt
4 tập 1, trang 140), tức là lấy câu văn để biểu hiện các đặc tính, chân tướng sự
vật, giúp người đọc như được nhìn tận mắt, sờ tận tay vào sự vật miêu tả. Đây
là biện pháp được coi là cơ bản nhất. Bởi kết quả của quan sát được thể hiện
rõ trong từng bài làm của học sinh. Em nào quan sát tinh vi, thấu đáo thì em
đó sẽ nhận ra được những nét riêng biệt, đặc sắc của sự vật mình định tả để
thể hiện trong bài viết. Còn em nào quan sát hời hợt, phiếm diện thì bài viết
của các em sẽ khô khan, nông cạn. Vì vậy, khi dạy văn miêu tả, giáo viên chú
ý hướng dẫn học sinh quan sát và miêu tả theo các trình tự hợp lý.
4.2.1 Quan sát theo trình tự không gian:
Quan sát toàn bộ trước rồi đến quan sát từng bộ phận, tả từ xa đến gần, từ
ngoài vào trong, từ trái qua phải,... (hoặc ngược lại).
Ví dụ: Quan sát cây bàng. Tôi hướng dẫn các em quan sát theo trình tự:
+ Quan sát từ xa:

- Hình dáng của cây khi nhìn từ xa.
+ Quan sát khi đến gần:
- Gốc, rễ, thân, cành, lá, hoa, quả.
- Cảnh vật xung quanh tác động đến cây (nắng, gió, khí hậu, chim chóc,
ong bướm, con người…)
Ví dụ: Tả từ xa đến gần: Từ xa nhìn lại, cây bàng như một chiếc ô xanh
khổng lồ che rợp cả một khoảng sân trường. Thân nó to thật, to đến nỗi hai

đứa chúng em vòng tay dang mới hết. Dưới gốc nổi lên những u cục bướu
giống như những cái gáo dừa. Thân bàng hơi nghiêng một chút như tạo dáng
với đất trời. Cành bàng lan tỏa ra nhiều phía.
Ví dụ : Tả từ dưới lên trên “ Cây hồi thẳng, cao, tròn xoe. Cành hồi giòn,
dễ gãy hơn cành khế. Quả hồi phơi mình xoè trên mặt lá đầu cành”.
(Rừng hồi xứ Lạng)
19


SKKN : “ Nâng cao kĩ năng viết văn miêu tả cho học sinh lớp 4”

4.2.2 Quan sát theo trình tự thời gian:
Quan sát con vật lúc nhỏ đến khi lớn lên hay đối với đồ dùng chính là sự
thay đổi về màu sắc về đặc điểm của đồ dùng qua thời gian sử dụng. Đối với
cây cối thì ta có thể chọn tả nó theo từng mùa, từng thời kì phát triển của
cây…
Ví dụ : “Thảo quả trên rừng Đản Khao đã chín nục. Chẳng có thứ quả nào
hương thơm lại ngây ngất kì lạ đến như thế. Mới đầu xuân năm kia, những hạt
thảo quả gieo trên đất rừng qua một năm, đã lớn cao đến bụng người. Một
năm sau nữa, từ một thân lẻ, thảo quả đâm thêm hai nhánh mới. Sự sinh sôi
sao mà mạnh mẽ vậy.”
4.2.3. Quan sát theo trình tự tâm lí:
Khi quan sát cần thấy những đặc điểm riêng, nổi bật nhất, thu hút và gây
cảm xúc mạnh nhất đến bản thân thì quan sát trước, tả trước, các bộ phận
khác tả sau. Khi miêu tả đồ vật, loài vật, tả người nên vận dụng trình tự này
nhưng chỉ nên tả những điểm đặc trưng nhất, không cần phải tả đầy đủ chi tiết
cụ thể của đối tượng.
Ví dụ : “Sầu riêng là loại trái quý ở miền Nam. Hương vị của nó hết sức
đặc biệt, mùi thơm đậm, bay rất xa... Hoa sầu riêng trổ vào cuối năm... Hoa
đậu từng chùm màu trắng ngà. Đứng ngắm cây sầu riêng, tôi cứ nghĩ mãi về

dáng cây kì lạ này. Thân nó khẳng khiu, cao vút, cành ngay thẳng đuột...”.
Tác giả đã tả nét đặc sắc nhất của quả, hoa và dáng cây sầu riêng.
4.2.4 Quan sát bằng nhiều giác quan:
Đây là thao tác quan trọng nhất và có tính chất quyết định nhiều mặt.
Thông thường học sinh chỉ dùng mắt để quan sát. Do đó, kết quả thu được
thường chỉ là các nhận xét và cảm xúc gắn liền với thị giác. Xong tôi đã
hướng dẫn các em biết cách phối hợp nhịp nhàng các giác quan để quan sát.
Những đoạn văn hay và hấp dẫn là những thành công của tác giả trong việc

20


SKKN : “ Nâng cao kĩ năng viết văn miêu tả cho học sinh lớp 4”

dùng nhiều giác quan để quan sát. Tuy nhiên, tuỳ từng kiểu bài ta có những
cách quan sát khác nhau.
Huy động tất cả các giác quan trong quá trình quan sát: Thị giác (nhìn)
thính giác (nghe), khứu giác (ngửi), xúc giác (sờ, nắm), vị giác (nếm). Rèn
luyện thói quen quan sát nhiều góc cạnh của sự vật sẽ giúp học sinh có được
những bài văn “giàu ý”. Tuy nhiên không thể dàn trải mênh mông mà bài văn
phải có trọng tâm. Học sinh biết lựa chọn chi tiết nổi bật, lướt qua chi tiết phụ
để viết sâu dùng “từ đắt”.
Ví dụ: Quan sát cây bàng: Tôi hướng dẫn như sau:
Các em dùng mắt để quan sát từ xa xem hình dáng của nó như thế nào?
trông nó giống cái gì?…(cái ô khổng lồ, lâu đài nấm)
Em hãy dùng tay để sờ xem vỏ của cây bàng như thế nào (sần sùi, hơi
nham nhám)
Em hãy dùng mắt và tai để quan sát và lắng nghe xem trên cây có những
loài vật nào? Chúng làm gỉ? …
Với mỗi bộ phận của cây tôi đều có một câu hỏi gợi ý và giúp các em sử

dụng từ ngữ để ghi lại những gì quan sát được. Nếu giáo viên làm tốt thao tác
này là đã góp phần vào sự thành công của việc rèn kĩ năng quan sát sự vật cho
học sinh.
4.2.5 Quan sát để phát hiện, tìm ra những điểm riêng của sự vật.
Để giúp người đọc phân biệt được đồ vật, con vật, cây cối học sinh định
tả, tôi đã định hướng cho các em tránh lối liệt kê tất cả các bộ phận như một
người thợ lắp ráp một đồ vật nào đó, mà cần phải nhằm vào những chi tiết, bộ
phận có thể khắc họa hình ảnh sự vật ấy một cách rõ rệt, gợi cho em nhiều ấn
tượng nhất. tập trung miêu tả những nét độc đáo và làm hiện lên những nét
riêng của sự vật đó khiến nó không lẫn với các sự vật khác. Tùy vào từng loại
bài miêu tả giáo viên hướng dẫn quan sát theo nhiều cách khác nhau.
* Quan sát đồ vật :
- Quan sát theo trình tự hợp lí từ bao quát đến bộ phận.
21


SKKN : “ Nâng cao kĩ năng viết văn miêu tả cho học sinh lớp 4”

- Quan sát bằng nhiều giác quan mắt nhìn, tay sờ, tai nghe, mũi ngửi,…
- Tìm ra những đặc điểm riêng phân biệt đồ vật này với đồ vật khác,
nhất là những đồ vật cùng loại.
* Quan sát cây cối :
- Quan sát theo trình tự từng thời kỳ phát triển của cây.
- Quan sát từng bộ phận của cây.
- Quan sát theo từng thời kì phát triển của một bộ phận trên cây.
Song dù quan sát theo trình tự nào thì các em cũng phải dừng lại ở bộ
phận chủ yếu, trọng tâm để quan sát kĩ hơn.
* Quan sát loài vật
- Ta quan sát đặc điểm về ngoại hình của con vật định tả đó là bộ lông,
cái đầu, hai tai, đôi mắt, chân, đuôi...

- Những thói quen sinh hoạt và những hoạt động của con vật.
Để tạo cho học sinh hình dung về đối tượng giáo viên chuẩn bị tranh
ảnh hỗ trợ để việc quan sát đạt hiệu quả. Phải quan sát và phải biết cách trả
lời câu hỏi. Thường mỗi câu hỏi học sinh phải trả lời bằng một đoạn văn chứ
không phải một câu cộc lốc. Ví dụ như câu hỏi : Thân cây thế nào? (trong bài
quan sát cây hoa hồng). Tôi không bằng lòng với câu trả lời kiểu: “Thân cây
cao, cành đâm ra mọi phía”. Cao hơn, tôi đòi hỏi ở học sinh sự quan sát tỉ mỉ
(màu sắc, độ cao, to, cách bố trí các cành, cành non, cành già, gai) và trả lời
bằng một đoạn văn.

22


SKKN : “ Nâng cao kĩ năng viết văn miêu tả cho học sinh lớp 4”

Cành

Những chiếc
gai

Cành thấp
Thân cây cao bằng vai em, màu xanh tươi. Cành cây tua tủa đan chéo
vào nhau, vươn ra mọi phía. Đôi ba mầm non mới trồi lên mập mạp đầy sức
sống. Rải rác trên cành lá những chú gai nhọn hoắt đứng nghiêm trang như
những chú lính gác cho nàng công chúa hoa hồng .

Nụ hoa
vừa nở

Lá có rất

nhiều răng
cưa
Lá của nó có màu xanh mơn mởn, hoa có màu đỏ thắm trông như một
ngọn lửa hồng đang rực cháy. Ở mép lá có rất nhiều răng cưa, lá già màu
xanh sẫm, còn lá non màu xanh xám. Nụ hồng có hình ngọn nến, khi nụ còn
bé nó khoác một chiếc áo choàng màu xanh, có nụ thì đã ló dạng màu đỏ của
cánh hoa. Có những bông hoa nở còn xoè cánh đỏ phô nhuỵ vàng và có mùi
thơm thoang thoảng.
23


SKKN : “ Nâng cao kĩ năng viết văn miêu tả cho học sinh lớp 4”

4.3. Rèn kĩ năng lập dàn bài chi tiết cho bài văn miêu tả.
Sau khi hướng dẫn học sinh quan sát, tôi giúp các em có thói quen chọn
lọc các chi tiết quan sát được và sắp xếp chúng thành một dàn bài chi tiết. Kết
quả các em quan sát được bao gồm cả phần thô lẫn phần tinh. Vậy làm thế
nào để giúp các em sàng lọc bỏ phần thô, chỉ giữ lại phần tinh. Để giúp các
em làm công việc đó, tôi yêu cầu các em xác định rõ yêu cầu của đề bài và
đặc điểm đối tượng miêu tả để lược bỏ chi tiết không cần thiết.
Ví dụ: Quan sát cánh đồng lúa quê em.
Nhận thấy nó rất rộng, muốn nhấn mạnh ý này, các em lược bỏ chi tiết
khác (ví dụ: nêu về chiều dài, chiều rộng của cánh đồng) và chỉ giữ lại chi
tiết: “Một vùng trời đất bao la, cò bay thẳng cánh, với những ô vuông và ô
chữ nhật xanh thẫm. Mỗi khi có gió thổi, cả biển lúa lại rung rinh với từng đợt
sóng cuồn cuộn.” Các chi tiết miêu tả trên đã được chọn lọc và gọt giũa.
Sau khi chọn lọc được các chi tiết, nếu các em không biết cách sắp
xếp ý thì bài văn của các em sẽ lủng củng, lộn xộn. Để giúp các em làm tốt kỹ
năng này tôi luôn lưu ý học sinh: một bài văn cho dù dài hay ngắn thì luôn đủ
ba phần:

+ Mở bài: (bằng cách trực tiếp hoặc gián tiếp)
+ Thân bài: có thể gồm nhiều đoạn mỗi đoạn diễn đạt một nội dung.
+ Kết bài: (theo cách mở rộng hoặc không mở rộng.)
Tóm lại: Cho dù làm bài tại lớp hay về nhà, tôi luôn nhắc nhở các em phải
lập nhanh một dàn bài.
Ví dụ:

Dàn ý tả cây cối - cây bàng:

+ Mở bài: Giới thiệu cây bàng:
Ở sân trường em, có lúc nào em không
biết vì khi em tới trường đã thấy nó.
Thân bài:
- Tả bao quát: hình dáng: cây cao đến
tầng hai, như một chiếc ô.
24


SKKN : “ Nâng cao kĩ năng viết văn miêu tả cho học sinh lớp 4”

- Tả chi tiết:
Rễ cây: nhô lên khỏi mặt đất. Thân cây: tròn, màu nâu, xù xì. Tán lá:
xanh um, mát rượi, che kín một khoảng sân trường. Hoa: những chùm hoa
li ti màu trắng xen giữa đám lá xanh. Quả: quả bàng lấp ló chín vàng trong
kẽ lá…
+ Kết bài: Tình cảm của em đối với cây bàng.

- Cây bàng như một gian nhà nhỏ che mưa, che nắng.
- Chăm sóc cây bàng để nó ngày một xanh tốt.
Dàn bài tả con vật – con gà trống

Mở bài:
Giới thiệu con vật mình muốn tả:
– Đó là con gà trống thuộc giống gà tàu lai nòi.
Thân bài:
– Tả bao quát con gà (Lớn bằng chừng nào?
Độ bao nhiêu ký,thân hình ra sao? Màu lông gì?)
– Tả đặc điểm từng bộ phận (Đầu, mào, mắt,
mỏ, cánh, chân, đuôi mỗi bộ phận có những
đặc điểm gì nổi bật?)
– Tả đặt tính hoạt động:
+ Thói quen sinh hoạt của con gà trống (Giờ giấc sinh hoạt sáng, trưa,
chiều, tối)
+ Tính nết, quan hệ với các con gà khác có gì nổi trội ở trong bầy, đàn?

c) Kết bài: Tình cảm của em đối với con vật.
Dàn bài tả đồ vật – cây bút máy
- Mở bài : Giới thiệu cây bút
Đúng vào dịp sinh nhật, mẹ tặng cho em cây bút
máy.
- Thân bài
25


×