Tải bản đầy đủ (.doc) (148 trang)

Luận văn thạc sỹ: Nghiên cứu hệ thống kiểm soát nội bộ tại công ty Cổ phần tập đoàn Thái Bình

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.18 MB, 148 trang )

TRƯỜNG ĐẠI HỌC KINH TẾ QUỐC DÂN

PHẠM KIM NGÂN

NGHIÊN CỨU HỆ THỐNG KIỂM SOÁT NỘI BỘ
TẠI CÔNG TY CỔ PHẦN TẬP ĐOÀN THÁI BÌNH
Chuyên ngành: Kế toán kiểm toán và phân tích

Người hướng dẫn khoa học:
TS. PHAN TRUNG KIÊN

Hà Nội - 2015


LỜI CAM ĐOAN


LỜI CẢM ƠN
Qua thời gian học tập và nghiên cứu tại Trường Đại học Kinh tế Quốc dân tôi
đã được Quý thầy/cô của trường đặc biệt là thầy/cô khoa Kế toán Kiểm toán và
Phân tích đã giảng dạy tận tình giúp tôi có được những kiến thức quý báu để ứng
dụng vào trong công việc chuyên môn của mình cũng như hoàn thành Luận văn tốt
nghiệp.
Tôi xin chân thành cảm ơn toàn thể Quý Thầy/Cô trường đại học Kinh tế Quốc
dân, đặc biệt là Quý Thầy/Cô khoa Kế toán Kiểm toán và Phân tích đã truyền đạt
cho tôi những kiến thức quý báu trong suốt thời gian học tập tại Trường.
Tôi xin gửi lời biết ơn sâu sắc đến Thầy TS. Phan Trung Kiên đã trực tiếp
hướng dẫn, giúp đỡ tôi trong suốt thời gian qua để có thể hoàn thành Luận văn này.
Tôi xin chân thành cảm ơn toàn thể Ban giám đốc Công ty cổ phần tập đoàn
Thái Bình cũng như các đơn vị cơ sở của công ty đã dành thời gian quý báu để trả
lời phỏng vấn và cung cấp thông tin hữu ích để tôi có thể thực hiện được nghiên cứu


và hoàn thành bài luận văn này.
Hà Nội, ngày … tháng … năm 2015
Học viên thực hiện
Phạm Kim Ngân


MỤC LỤC
Qua những phân tích trong luận văn, từ đó rút ra những đánh giá về thực
trạng hoạt động kiểm soát nội bộ tại công ty và đơn vị cơ sở,
có thể thấy được công ty và đơn vị cơ sở đã có những hoạt
động đánh giá và kiểm soát nội bộ đạt những hiệu quả nhất
định, tuy nhiên công ty và các đơn vị cơ sở vẫn chưa đưa ra
được những quy trình chuẩn tạo sự chủ động trong công tác
KSNB tại đơn vị mình. Trong chương này, luận văn đã nêu ra
được những kết quả đạt được cũng như hạn chế, nhược
điểm giúp các nhà quản trị chú ý và có biện pháp hoàn thiện hệ
thống KSNB trong những kỳ tiếp theo...................................iv
Mặc dù các nhà quản trị đã nắm bắt được vai trò quan trọng và sự cần thiết
của KSNB trong công tác điều hành nhưng khi áp dụng vào thực
tiễn lại là vấn đề mới mẻ, và có những đặc thù riêng trong từng
đối tượng, từng ngành nghề điều này gây ra tình trạng khó
khăn và hạn chế trong quá trình nhìn nhận rủi ro của các quyết
định kiểm soát trong đơn vị cũng như các đơn vị cơ sở.........iv


DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT
KSNB
HTKSNB
COSO


Kiểm soát nội bộ
Hệ thống Kiểm soát nội bộ
The Committee of Sponsoring Organizations of the Treadway
Commission-Ủy ban thuộc Hội đồng quốc gia Hoa kỳ về chống

AICPA

gian lận
American Institue of Certificated Public Accountant-Viện kiểm

AAA
FEI
IMA
IIA
HĐQT
VAS
HVN
GTGT
Công ty
Đại lý
Khách sạn
UNC
KH


toán độc lập Hoa Kỳ
Hội kế toán Hoa Kỳ
Hiệp hội các nhà quản trị tài chính
Hiệp hội kế toán viên quản trị
Hiệp hội kiểm toán viên nội bộ

Hội đồng Quản trị
Chuẩn mực kế toán Việt Nam
Honda Việt Nam
Giá trị gia tăng
Công ty cổ phần tập đoàn Thái Bình
Đại lý Honda Ô tô Long Biên
Khách sạn Speranza
Uỷ nhiệm chi
Khách hàng
Giám đốc

BCTC

Báo cáo tài chính

HTTT

Hệ thống thông tin


DANH MỤC BẢNG BIỂU, SƠ ĐỒ
BẢNG
Qua những phân tích trong luận văn, từ đó rút ra những đánh giá về thực
trạng hoạt động kiểm soát nội bộ tại công ty và đơn vị cơ sở,
có thể thấy được công ty và đơn vị cơ sở đã có những hoạt
động đánh giá và kiểm soát nội bộ đạt những hiệu quả nhất
định, tuy nhiên công ty và các đơn vị cơ sở vẫn chưa đưa ra
được những quy trình chuẩn tạo sự chủ động trong công tác
KSNB tại đơn vị mình. Trong chương này, luận văn đã nêu ra
được những kết quả đạt được cũng như hạn chế, nhược

điểm giúp các nhà quản trị chú ý và có biện pháp hoàn thiện hệ
thống KSNB trong những kỳ tiếp theo...................................iv
Mặc dù các nhà quản trị đã nắm bắt được vai trò quan trọng và sự cần thiết
của KSNB trong công tác điều hành nhưng khi áp dụng vào thực
tiễn lại là vấn đề mới mẻ, và có những đặc thù riêng trong từng
đối tượng, từng ngành nghề điều này gây ra tình trạng khó
khăn và hạn chế trong quá trình nhìn nhận rủi ro của các quyết
định kiểm soát trong đơn vị cũng như các đơn vị cơ sở.........iv


TRƯỜNG ĐẠI HỌC KINH TẾ QUỐC DÂN

PHẠM KIM NGÂN

NGHIÊN CỨU HỆ THỐNG KIỂM SOÁT NỘI BỘ
TẠI CÔNG TY CỔ PHẦN TẬP ĐOÀN THÁI BÌNH
Chuyên ngành: Kế toán kiểm toán và phân tích

N
gười hướng dẫn khoa học:
TS. PHAN TRUNG KIÊN

Hà Nội - 2015


i

TÓM TẮT LUẬN VĂN

Kiểm soát nội bộ (KSNB) tốt cho phép doanh nghiệp quản lý hữu hiệu và hiệu

quả các nguồn lực kinh tế trong công ty, góp phân hạn chế tối đa những rủi ro phát
sinh trong quá trình sản xuất kinh doanh, giúp doanh nghiệp đứng vững trước sự
cạnh tranh ngày càng gay gắt trên thị trường.
Công ty cổ phần tập đoàn Thái Bình là công ty đang bước đầu xây dựng và
hoàn thiện KSNB nên gặp nhiều khó khăn và vướng mắc như: sự hiểu biết về
KSNB ở lãnh đạo các cấp còn hạn chế, hệ thống báo cáo chưa rõ ràng và chưa có
quy trình cụ thể, chất lượng hệ thống thông tin chưa cao, bộ máy công ty còn thiết
một số bộ phận quan trọng như kiểm soát nội bộ…, xuất phát từ vai trò và thực
trạng về KSNB của công ty, tác giả đã chọn đề tài “Nghiên cứu hệ thống KSNB tại
công ty Cổ phần tập đoàn Thái Bình”. Luận văn tiến hành nghiên cứu, hệ thống
hóa những vấn đề lý luận chung về KSNB trong doanh nghiệp và tìm hiểu thực
trạng KSNB tại công ty, rút ra những phân tích, đánh giá thực trạng, trên cơ sở đó
đưa ra những ý kiến và giải pháp để hoàn thiện KSNB tại công ty.
Luận văn được kết cấu thành 4 chương:
Chương 1: Giới thiệu chung về đề tài nghiên cứu
Chương 2: Cơ sở lý luận của Kiểm soát nội bộ trong doanh nghiệp
Chương 3: Thực trạng Hệ thống KSNB trong công ty
Chương 4: Một số kiến nghị nhằm hoàn thiện hệ thống KSNB tại công ty
CHƯƠNG I: GIỚI THIỆU CHUNG VỀ ĐỀ TÀI NGHIÊN CỨU
Trong Chương 1: luận văn bày cụ thể các vấn đề về:
- Tính cấp thiết của đề tài nghiên cứu
- Tổng quan về các công trình nghiên cứu về KSNB của các tác giả đi trước

trong và ngoài nước;


ii

- Mục tiêu nghiên cứu của đề tài;
- Đối tượng, phạm vi và thời gian nghiên cứu của đề tài;

- Phương pháp nghiên cứu:
Trong luận văn, tác giả sử dụng biện pháp thu thập thông tin, phân tích, đánh giá,
tổng hợp đối với các tài liệu, thông tin thu thập được. Dựa vào các tài liệu thứ cấp, kết
quả quan sát thực tế, phỏng vấn trực tiếp, tác giả sử dụng phương pháp phân tích tổng
hợp để nhận xét và đưa ra đề xuất hoàn thiện hệ thống KSNB tại Công ty.
CHƯƠNG 2
CƠ SỞ LÝ LUẬN CỦA KIỂM SOÁT NỘI BỘ TRONG DOANH NGHIỆP
Chương 2 của luận văn trình bày lý kết quả nghiên cứu cơ sở lý luận về KSNB
trong doanh nghiệp bao gồm các nội dung:
- Bản chất của Kiểm soát nội bộ trong Doanh nghiệp
Khái niệm KSNB bắt đầu được sử dụng vào đầu thế kỷ XX trong các tài liệu
về kiểm toán. Lúc đó, KSNB được hiểu như là một biện pháp để bảo vệ tiền không
bị các nhân viên gian lận. Sau đó, khái niệm này dần được mở rộng. KSNB không
chỉ dung lại ở việc bảo vệ tài sản (không chỉ có tiền) mà còn nhằm đảm bảo việc ghi
chép kế toán chính xác, nâng cao hiệu quả hoạt động và khuyến khích tuân thủ các
chính sách của nhà quản lý.
Theo COSO 1992, nội dung của KSNB thực chất là các hoạt động, biện pháp,
kế hoạch, quan điểm, nội quy chính sách và nỗ lực của mọi thành viên trong tổ chức
để đảm bảo cho tổ chức đó hoạt động hiệu quả và đạt được những mục tiêu đặt ra một
cách hợp lý. Sau khi ban hành vào năm 1992 COSO có những sửa đổi và bổ sung
vào năm 2004 và năm 2009 nhằm bổ sung và nêu rõ hơn thành phần giám sát trong
KSNB của một doanh nghiệp. Từ khi ban hành vào năm 1992, sau một thời gian
hơn 20 năm, nội dung của COSO không chỉ phục vụ cho công tác tài chính kế toán
mà còn mở rộng đối với phạm vi toàn doanh nghiệp.
Theo báo cáo COSO về KSNB được cấu thành bởi 05 bộ phận bao gồm: Môi
trường kiểm soát; đánh giá rủi ro; các hoạt động kiểm soát; thông tin, truyền thông
và giám sát.


iii


Môi trường kiểm soát: phản ánh sắc thái chung của đơn vị, chi phối ý thức
kiểm soát của mọi thành viên trong đơn vị và là nền tảng của bộ phận khác trong
KSNB. Môi trường kiểm soát được thiết lập trong nội bộ tổ chức và có ảnh hưởng
đến nhận thức kiểm soát của tất cả các nhân viên trong công ty.
Đánh giá rủi ro: những gì có thể đe dọa việc đạt được một mục tiêu nào đó
hay có thể hiểu nó là những nguy cơ một hành động hay một sự việc có ảnh hưởng
bất lợi đến việc đạt được những mục tiêu cũng như việc thực hiện thành công những
chiến lược kinh doanh. Với mỗi một mục tiêu của từng phòng ban, các rủi ro nên
được nhận diện. Khi nhận diện rủi ro cần bao quát cả rủi ro bên trong và rủi ro
bên ngoài.
Hoạt động kiểm soát: là các biện pháp, quy trình, thủ tục đảm bảo chỉ thị của
Ban lãnh đạo trong giảm thiểu rủi ro và tạo điều kiện cho tổ chức đạt được mục tiêu
đặt ra được thực thi nghiêm túc trong toàn tổ chức. Hoạt động kiểm soát của doanh
nghiệp được cụ thể hóa bởi các thủ tục kiểm soát.
Thông tin và truyền thông: Mục đích chính của KSNB là tập hợp những thông
tin đáng tin cậy về các hoạt động của doanh nghiệp để sẵn sàng cung cấp cho những
người cần thiết. Một hệ thống thông tin hữu hiệu phải đảm bảo các mục tiêu kiểm
soát chi tiết.
Giám sát: là quá trình đánh giá chất lượng của hệ thống kiểm soát nội bộ.
Giám sát có vai trò quan trọng trong KSNB, nó giúp cho KSNB duy trì được sự hữu
hiệu trong các thời kỳ khác nhau.
Đến năm 2013 COSO đã được điều chỉnh, từ đó bản hướng dẫn này đã giới
thiệu 17 nguyên tắc mở rộng dựa trên mô hình kết cấu bởi 5 thành phần cấu thành
của một hệ thống KSNB theo bản gốc năm 1992.


iv

CHƯƠNG 3: THỰC TRẠNG KIỂM SOÁT NỘI BỘ TẠI

CÔNG TY CỔ PHẦN TẬP ĐOÀN THÁI BÌNH
Chương 3 Luận văn trình bày về thực trạng KSNB tại công ty cổ phần Tập
đoàn Thái Bình. Trong chương này, luận văn đã trình bày khái quát về:
Đặc điểm hoạt động của công ty: Trong nền kinh tế đầy biến động công ty
không chỉ thực hiện tham gia một ngành nghề kinh doanh xe ô tô nguyên chiếc công
ty đã thực hiện đa dạng hóa hoạt động kinh doanh sang lĩnh vực kinh doanh khách
sạn. Với mỗi ngành hàng kinh doanh khác nhau đều có những đặc điểm riêng biệt
ảnh hưởng tới hoạt động kinh doanh của các doanh nghiệp hoạt động trong lĩnh vực
đó, từ đó ảnh hưởng tới công tác kiểm soát nội bộ của chính doanh nghiệp. Theo
đó,tùy vào mỗi ngành nghề hoạt động kinh doanh đơn vị có hoạt động kiểm soát nội
bộ tương ứng với đặc trưng của ngành cũng như phù hợp với đặc điểm của đơn vị.
Tiếp đến, luận văn có trình bày về thực trạng tổ chức KSNB công ty trong hai
lĩnh vực bán xe ô tô nguyên chiếc và lĩnh vực kinh doanh lưu trú khách sạn. Tác giả
lần lượt đi vào xem xét, phân tích thực trạng 5 yếu tố: môi trường kiểm soát nội bộ,
các rủi ro kiểm soát, các hoạt động kiểm soát, hệ thống thông tin và hoạt động giám
sát đối với các chu trình bán hàng và mua hàng của hai hoạt động kinh doanh này.
Qua những phân tích trong luận văn, từ đó rút ra những đánh giá về thực trạng hoạt
động kiểm soát nội bộ tại công ty và đơn vị cơ sở, có thể thấy được công ty và đơn vị cơ
sở đã có những hoạt động đánh giá và kiểm soát nội bộ đạt những hiệu quả nhất định,
tuy nhiên công ty và các đơn vị cơ sở vẫn chưa đưa ra được những quy trình chuẩn tạo
sự chủ động trong công tác KSNB tại đơn vị mình. Trong chương này, luận văn đã nêu
ra được những kết quả đạt được cũng như hạn chế, nhược điểm giúp các nhà quản trị chú
ý và có biện pháp hoàn thiện hệ thống KSNB trong những kỳ tiếp theo.
Mặc dù các nhà quản trị đã nắm bắt được vai trò quan trọng và sự cần thiết của
KSNB trong công tác điều hành nhưng khi áp dụng vào thực tiễn lại là vấn đề mới
mẻ, và có những đặc thù riêng trong từng đối tượng, từng ngành nghề điều này gây
ra tình trạng khó khăn và hạn chế trong quá trình nhìn nhận rủi ro của các quyết
định kiểm soát trong đơn vị cũng như các đơn vị cơ sở.



v

CHƯƠNG 4: MỘT SỐ KIẾN NGHỊ HOÀN THIỆN KIỂM SOÁT NỘI
BỘ TẠI CÔNG TY CỔ PHẦN TẬP ĐOÀN THÁI BÌNH
Chương 4, trên cơ sở phân tích thực trạng về KSNB tại công ty ở Chương 3,
Luận văn đã nêu ra những ảnh hưởng của các yếu tố cấu thành KSNB tới tính hiệu
lực trong công tác KSNB tại từng đơn vị cơ sở:
-

Ảnh hưởng các yếu tố cấu thành Kiểm soát nội bộ tới tính hiệu lực

trong hoạt động kinh doanh xe ô tô nguyên chiếc.
-

Ảnh hưởng các yếu tố cấu thành Kiểm soát nội bộ tới tính hiệu lực

trong hoạt động kinh doanh khách sạn.
Từ những phân tích ở chương 3 và ảnh hưởng của các yếu tố cấu thành KSNB
tới tính hiệu lực trong công tác KSNB luận văn đưa ra một số giải pháp nhằm hoàn
thiện KSNB của Công ty cổ phần tập đoàn Thái Bình cũng như các đơn vị cơ sở:
Một số đề xuất cải thiện KSNB trong hoạt động kinh doanh tại Đại lý;
Một số đề xuất cải thiện KSNB trong hoạt động kinh doanh tại Khách sạn;
Một số đề xuất cải thiện KSNB trong hoạt động kinh doanh trên toàn công ty.
KẾT LUẬN
Đề tài “Nghiên cứu hệ thống KSNB tại công ty Cổ phần tập đoàn Thái Bình”
đã đưa ra được những nội dung cơ bản về cơ sở lý luận chung và thực trạng công
tác KSNB tại công ty Cổ phần tập đoàn Thái Bình. Từ đó chỉ ra được những ưu
điểm và các mặt còn tồn tại, nêu rõ nguyên nhân để có căn cứ đề xuất các giải pháp
hoàn thiện theo mục tiêu đặt ra.
Với những nội dung đã thực hiện, luận văn đã đáp ứng được mục tiêu nghiên

cứu, tuy nhiên do tính chất phức tạp của công tác KSNB cũng như do đặc thù của
công ty tham gia nhiều ngành nghề kinh doanh có những đặc thù khác nhau do đó
có những điểm khác nhau trong công tác kiểm soát, đồng thời do thời gian cũng như
trình độ chuyên môn còn hạn chế, luận văn không tránh khỏi những thiếu sót. Tác
giả rất mong được sự đóng góp ý kiến của các thầy cô giáo cùng các cô, chú, anh,
chị chuyên gia để luận văn được hoàn thiện hơn.
Trong quá trình nghiên cứu, tác giả xin chân thành gửi lời cảm ơn đến
TS.Phan Trung Kiên đã tận tình hướng dẫn trong quá trình hoàn thiện luận văn này.


TRƯỜNG ĐẠI HỌC KINH TẾ QUỐC DÂN

PHẠM KIM NGÂN

NGHIÊN CỨU HỆ THỐNG KIỂM SOÁT NỘI BỘ
TẠI CÔNG TY CỔ PHẦN TẬP ĐOÀN THÁI BÌNH
Chuyên ngành: Kế toán kiểm toán và phân tích

Người hướng dẫn khoa học:
TS. PHAN TRUNG KIÊN

Hà Nội - 2015


1

CHƯƠNG 1
GIỚI THIỆU CHUNG VỀ ĐỀ TÀI NGHIÊN CỨU
1.1 Tính cấp thiết của đề tài
Trong giai đoạn hiện nay, tình hình kinh tế thế giới gặp nhiều khó khăn.

Khủng hoảng kinh tế Mỹ và thế giới bắt đầu từ năm 2007 đã đang tiếp tục diễn biến
ngày một phức tạp và lan rộng. Một trong những tác động rõ nhất đó là tình trạng
sụt giảm của thương mại toàn cầu thể hiện ở sự sụt giảm nhập khẩu hàng loạt hàng
hoá tiêu dùng và các nguyên vật liệu từ thị trường bên ngoài. Hội nhập kinh tế quốc
tế cũng đặt ra nhiều thách thức với các doanh nghiệp Việt Nam, các doanh nghiệp
có sức cạnh tranh kém, quy mô nhỏ có nguy cơ phá sản rất cao. Theo số liệu của
Tổng cục Thống kê trong năm 2014, cả nước có 67.823 doanh nghiệp gặp khó khăn
buộc phải giải thể, hoặc tạm ngừng hoạt động. Số lượng doanh nghiệp giải thể phần
lớn là những doanh nghiệp có quy mô vốn dưới 10 tỷ đồng. Điều này cho chúng ta
thấy vấn đề phòng ngừa rủi ro là một vấn đề hết sức cấp bách hiện nay. Bên cạnh
đó, trong xu hướng hội nhập và phát triển của nền kinh tế cùng với các quy định
pháp lý liên quan và sự cạnh tranh quyết liệt của thị trường làm ảnh hưởng trực tiếp
đến hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp, do vậy mỗi doanh nghiệp cần
phải nâng cao cách thức quản lý của mình để các hoạt động sản xuất kinh doanh
luôn phát triển đảm bảo an toàn hiệu quả. Trong mọi hoạt động của doanh nghiệp,
chức năng kiểm tra kiểm soát luôn giữ vai trò quan trọng trong quá trình quản lý
doanh nghiệp và việc này luôn được thực hiện chủ yếu bởi công tác KSNB.
KSNB là một hệ thống các chính sách và thủ tục nhằm bảo vệ tài sản của đơn
vị, đảm bảo độ tin cậy của các thông tin, bảo đảm việc thực hiện chế độ chính sách
của Nhà nước, đảm bảo hiệu quả của các hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh
nghiệp. KSNB là một chức năng thường xuyên của đơn vị, tổ chức trên cơ sở xác
định rủi ro có thể xảy ra trong từng khâu công việc để tìm ra biện pháp ngăn chặn
nhằm thực hiện có hiệu quả tất cả các mục tiêu đặt ra của đơn vị.


2

Một hệ thống KSNB vững mạnh sẽ đem lại cho tổ chức các lợi ích như: giảm
bớt nguy cơ rủi ro tiềm ẩn trong sản xuất kinh doanh, bảo vệ tài sản, tiền bạc, thông
tin..., đảm bảo tính chính xác của các số liệu, đảm bảo mọi thành viên tuân thủ nội

quy, quy chế, quy trình hoạt động của tổ chức cũng như các quy định của luật pháp,
đảm bảo tổ chức hoạt động hiệu quả, sử dụng tối ưu các nguồn lực và đạt được mục
tiêu đặt ra…
Hiện nay, theo quy định mới nhất của Luật Doanh nghiệp năm 2014, ở Việt
Nam có 4 loại hình công ty chủ yếu bao gồm: Doanh nghiệp Nhà nước, Công ty
Trách nhiệm hữu hạn, Công ty hợp danh và Công ty cổ phần. Với đặc điểm của loại
hình Công ty cổ phần như: Cổ đông có thể là tổ chức, cá nhân; số lượng cổ đông
tối thiểu là 03 và không hạn chế số lượng tối đa; Cổ đông chỉ chịu trách nhiệm về
các khoản nợ và nghĩa vụ tài sản khác của doanh nghiệp trong phạm vi số vốn đã
góp vào doanh nghiệp; Cổ đông có quyền tự do chuyển nhượng cổ phần của mình
cho người khác… vì vậy loại hình doanh nghiệp này chiếm một tỷ lệ lớn. Đồng thời
với sự cởi mở hơn trong chính sách của Nhà nước đối với các Doanh nghiệp tạo
điều kiện thuận lợi cho các Doanh nghiệp kinh doanh, thì mô hình công ty cổ phần
kinh doanh đa lĩnh vực ngành nghề ngày càng xuất hiện nhiều hơn, từ các Tập đoàn
kinh tế tới các Doanh nghiệp nhỏ và vừa. Nếu như ở các Tập đoàn kinh tế lớn, hệ
thống KSNB được xây dựng bài bản theo quy chuẩn, thì vấn đề này ở các Doanh
nghiệp nhỏ và vừa chưa được quan tâm đúng mức, đồng thời chính việc kinh doanh
đa lĩnh vực ngành nghề này dẫn đến những yếu kém trong khâu kiểm soát đối với
chính các ngành nghề mà họ tham gia kinh doanh như: Doanh nghiệp chưa chú
trọng quan tâm đến rủi ro, quan tâm chưa đúng mực hoặc quá muộn; không có
khuôn khổ đánh giá rủi ro thống nhất trong doanh nghiệp; doanh nghiệp thực hiện
việc quản lý rủi ro một cách rời rạc, thiếu tập trung; công tác quản lý rủi ro ngày
càng bị coi nhẹ trong doanh nghiệp; …
Tất cả các yếu kém trong khâu kiểm soát nói trên đều xuất phát từ việc xây
dựng hệ thống KSNB trong doanh nghiệp, có thể thấy rằng việc xây dựng hệ thống
KSNB tại các doanh nghiệp nhỏ và vừa hiện nay còn chưa thực sự gắn với quản lý


3


rủi ro trong doanh nghiệp. HTKSNB chủ yếu hoạt động với chức năng kiểm tra các
thông tin quá khứ về kinh tế tài chính, tìm nguyên nhân của những sai phạm đã xảy
ra mà chưa thực sự chú trọng vào việc dự đoán rủi ro có thể xảy ra trong tương lai
hay có các biện pháp phòng ngừa hữu hiệu. Xuất phát từ những phân tích ở trên và
thực trạng về hệ thống KSNB tại Công ty cổ phần tập đoàn Thái Bình, tác giả đã
lựa chọn đề tài: “Nghiên cứu hệ thống KSNB tại công ty Cổ phần tập đoàn Thái
Bình” làm luận văn của mình.
1.2 Tổng quan đề tài nghiên cứu
KSNB có vai trò và ý nghĩa vô cùng quan trọng trong công tác quản lý. Do đó,
trên thực tế trong hoạt động thực tiễn và lý luận đề tài về KSNB luôn được các
doanh nghiệp chú trọng quan tâm chú ý. Hiện nay có rất nhiều công trình nghiên
cứu về KSNB của các nhà nghiên cứu đề cập đến khái niệm về kiểm soát. Một số
công trình nghiên cứu đã được biết đến như: “Các nguyên tắc kiểm toán” của tác
giả O.Ray Wittington và Kurt Pany (1995), “Kiểm toán nội bộ hiện đại – Đánh giá
các hoạt động và hệ thống kiểm soát” của tác giả Victor Z.Bimk và Herbert Witt
(1941), “Kiểm toán – một phương pháp liên kết” của các tác giá Alvin A.Arens và
James Loebecke, “Kiểm toán” của tác giả Jack C.Robertson (1996), “Kiểm toán nội
bộ hiện đại kế thừa quan điểm của Bink” của tác giả Robert R.Moller (2005). Các tổ
chức và hiệp hội nghề nghiệp trong lĩnh vực kiểm toán, chẳng hạn như Liên đoàn kế
toán quốc tế đã đưa ra khái niệm về hệ thống KSNB trong chuẩn mực kiểm toán
IAS 400. Hiệp hội các tổ chức tài trợ của Ủy ban Quốc gia về chống gian lận trong
báo cáo tài chính của Mỹ COSO, được thành lập từ sự kết hợp các tổ chức nghề
nghiệp khác nhau đã đưa ra khái niệm về KSNB vào năm 1992 nhằm thống nhất
quan niệm về KSNB phục vụ cho các mục đích sử dụng khác nhau.
Tại Việt Nam, việc nghiên cứu về KSNB cũng được nhiều tác giả quan tâm.
Có thể kể đến như PGS.TS Ngô Trí Tuệ và các đồng tác giả (2004) với đề tài cấp
Bộ “Xây dựng hệ thống kiểm soát nội bộ với việc tăng cường quản lý tài chính tại
Tổng công ty Bưu chính Viễn Thông Việt Nam”, các đề tài luận văn thạc sỹ của tác
giả Trần Thị Minh Thư (2001) với đề tài “Hoàn thiện hệ thống kiểm soát nội bộ



4

trong các tổng công ty nhà nước ở Việt Nam”, tác giả Nguyễn Thị Mỹ (2004) với đề
tài “Hoàn thiện hệ thống kiểm soát nội bộ của Trung tâm Bưu chính – Công ty viễn
thông quân đội Viettel”, tác giả Nguyễn Lệ Chi (2006) với “Hoàn thiện chính sách
tiền lương với việc tăng cường kiểm soát nội bộ và nâng cao hiệu quả hoạt động của
công ty Xuân Hòa”, đề tài Luận án Tiến sỹ của tác giả Phạm Bính Ngọ (2011) về “Tổ
chức hệ thống Kiểm soát nội bộ trong các đơn vị dự toán trực thuộc Bộ Quốc
Phòng”, đề tài Luận án Tiến sỹ của tác giả Bùi Thị Minh Hải (2012) về “Hoàn thiện
hệ thống kiểm soát nội bộ trong các doanh nghiệp may mặc ở Việt Nam”…
Từ tổng quan trên cho thấy, tuy đã có rất nhiều đề tài nghiên cứu về KSNB
trong các ngành, lĩnh vực khác nhau nhưng chưa có đề tài nào nghiên cứu về KSNB
tại Công ty Cổ phần tập đoàn Thái Bình. Vì lý do trên, tác giả tập trung nghiên cứu
và phân tích các yếu tố cấu thành của KSNB. Bên cạnh đó, luận văn còn tập trung
vào việc cụ thể hóa lý luận chung vào các lĩnh vực kinh doanh kết hợp với phân tích
thực trạng KSNB tại Công ty Cổ phần tập đoàn Thái Bình. Từ đó nêu ra ý kiến và
các đề xuất nhằm hoàn thiện KSNB tại công ty.
1.3 Mục tiêu nghiên cứu
Đề tài hướng đến mục tiêu đánh giá thực trạng của KSNB trong doanh nghiệp
trên cơ sở: tìm hiểu và xác định cơ sở lý luận cho việc xem xét thực trạng KSNB trong
doanh nghiệp. Các yếu tố cơ bản của KSNB trong Công ty là gì; khảo sát, phân tích,
đánh giá thực trạng hệ thống KSNB tại Công ty cổ phần tập đoàn Thái Bình.
Các câu hỏi nghiên cứu:
1. Bản chất của Kiểm soát nội bộ trong doanh nghiệp là gì?
2. Cơ sở để phân tích thực trạng KSNB trong doanh nghiệp?
3. Thực trạng của hệ thống KSNB tại doanh nghiệp hiện nay như thế nào?
1.4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu:
Đề tài tập trung nghiên cứu hệ thống KSNB tại Công ty cổ phần tập đoàn Thái



5

Bình đối với việc kiểm soát hoạt động kinh doanh trong các lĩnh vực ngành nghề
kinh doanh hiện tại của công ty bao gồm lĩnh vực kinh doanh xe ô tô nguyên chiếc
và kinh doanh dịch vụ khách sạn. Bên cạnh đó, trong đề tài cũng đề cập tới các yếu
tố cấu thành hệ thống KSNB, tuy nhiên do giới hạn về mặt thời gian tác giả thực
hiện nghiên cứu tập trung đi sâu vào nghiên cứu các yếu tố: môi trường kiểm soát,
hoạt động kiểm soát, các rủi ro và giám sát kiểm soát
Phạm vi nghiên cứu:
Do Công ty cổ phần Tập đoàn Thái Bình là doanh nghiệp kinh doanh thương
mại 100% vốn tư nhân, vì vậy đứng trước những biến động kinh tế phức tạp hiện
nay, cũng như các Doanh nghiệp khác Công ty cũng thực hiện mở rộng ngành nghề
kinh doanh. Trong đề tài, phạm vi không gian nghiên cứu được thực hiện không chỉ
tại Công ty mà còn được thực hiện tại Đại lý thực hiện hoạt động kinh doanh Ô
tô_Honda ô tô Long Biên và hoạt động kinh doanh khách sạn_Khách sạn Speranza
Hotel. Thời gian nghiên cứu tập trung vào thời gian từ năm 2012 đến nay khi hoạt
động kinh doanh mở rộng sang các lĩnh vực mới.
1.5. Phương pháp nghiên cứu
Để thực hiện thu thập dữ liệu cho luận văn, tôi thực hiện việc thu thập các số
liệu sơ cấp thông qua việc thực hiện phỏng vấn trực tiếp các nhân viên thuộc các
bộ phận trong đơn vị cũng như đơn vị cơ sở: Phỏng vấn những cán bộ trực tiếp liên
quan đến công tác kế toán, các bộ phận liên quan đến hoạt động kinh doanh xe ô tô
nguyên chiếc cùng dịch vụ đi kèm, các bộ phận liên quan đến hoạt động kinh doanh
nhà hàng. Bên cạnh đó để có thể đánh giá khách quan và đa dạng hóa công tác thu
thập thông tin, tôi đã thực hiện quan sát trực tiếp hoạt động kiểm soát tại một số
khâu, phỏng vấn các cán bộ trực tiếp thực hiện công việc kế toán, quản lý, kinh
doanh… thu thập các báo cáo liên quan đến vấn đề nghiên cứu để nắm bắt và có
đầy đủ thông tin làm cơ sở cho việc phân tích đánh giá thực trạng của hoạt động

kiểm soát tại công ty phục vụ cho nghiên cứu của Luận văn.
Từ thông tin, số liệu thu thập được qua nguồn dữ liệu sơ cấp, bằng việc tổng
hợp và phân tích thông tin dữ liệu của đơn vị để có thể đưa ra được những dữ liệu


6

thứ cấp phục vụ cho nghiên cứu trong luận văn. Đồng thời tác giả còn dựa trên
những tài liệu, khung lý thuyết cơ bản về KSNB cũng như các quy định của pháp
luật liên quan tới lĩnh vực hoạt động của đơn vị, các quy định về điều lệ hoạt động
chiến lược phát triển của công ty để phục vụ cho đề tài nghiên cứu của mình.
1.6. Kết cấu luận văn:
Luận văn được kết cấu thành 4 chương như sau:
Chương 1: Giới thiệu chung về đề tài nghiên cứu
Chương 2: Cơ sở lý luận của Kiểm soát nội bộ trong doanh nghiệp
Chương 3: Thực trạng Hệ thống KSNB trong công ty
Chương 4: Một số kiến nghị nhằm hoàn thiện hệ thống KSNB tại công ty

Kết luận chương 1
Trong chương này tác giả đã nêu lên tính cấp thiết của đề tài nghiên cứu, tìm
hiểu tổng quan các vấn đề nghiên cứu liên quan để đưa ra cơ sở cho việc lựa chọn
đề tài nghiên cứu của tác giả. Từ đó, tác giả đưa ra mục tiêu nghiên cứu của đề tài là
làm rõ và hệ thống hóa cơ sở lý luận về KSNB và hệ thống KSNB trong doanh
nghiệp, phân tích đặc điểm của doanh nghiệp, khảo sát phân tích thực trạng về hệ
thống KSNB tại Công ty Cổ phần tập đoàn Thái Bình, đặt ra các vấn đề và câu hỏi
nghiên cứu về hệ thống KSNB tại công ty, sử dụng một số phương pháp nghiên cứu
khoa học và đưa ra một số kiến nghị đối với các vấn đề nói trên.


7


CHƯƠNG 2
CƠ SỞ LÝ LUẬN CỦA KIỂM SOÁT NỘI BỘ TRONG
DOANH NGHIỆP
2.1. Bản chất của Kiểm soát nội bộ trong Doanh nghiệp
Từ khi có hoạt động kinh doanh, những người điều hành đều phải sử dụng các
biện pháp để kiểm soát các hoạt động tại đơn vị mình. Hoạt động kinh doanh càng phát
triển thì chức năng kiểm soát càng chiếm một vị trí quan trọng trong quá trình quản lý.
Thông qua các hoạt động kiểm soát, nhà quản lý đánh giá và chấn chỉnh việc thực hiện
nhằm đảm bảo đạt được các mục tiêu đề ra với hiệu quả cao nhất. Để thực hiện chức
năng kiểm soát, nhà quản lý sử dụng công cụ chủ yếu là KSNB của đơn vị. Khái niệm
KSNB lúc đầu được sử dụng như là một phương pháp giúp cho Kiểm toán viên độc lập
xác định phương pháp hiệu quả nhất trong việc lập kế hoach kiểm toán, đến chỗ được
coi là một bộ phận chủ yếu của hệ thống quản lý hữu hiệu.
Khái niệm KSNB bắt đầu được sử dụng vào đầu thế kỷ XX trong các tài liệu
về kiểm toán. Lúc đó, KSNB được hiểu như là một biện pháp để bảo vệ tiền không
bị các nhân viên gian lận. Sau đó, khái niệm này dần được mở rộng. KSNB không
chỉ dung lại ở việc bảo vệ tài sản (không chỉ có tiền) mà còn nhằm đảm bảo việc ghi
chép kế toán chính xác, nâng cao hiệu quả hoạt động và khuyến khích tuân thủ các
chính sách của nhà quản lý.
Năm 1977, sau vụ bê bối Watergate, quốc hội Hoa Kỳ đã thông qua Luật hành
vi hối lộ ở nước ngoài. Điều luật này nhấn mạnh việc KSNB nhằm ngăn ngừa
những khoản thanh toán bất hợp pháp và dẫn đến việc yêu cầu ghi chép rất đầy đủ
trong mọi hoạt động. Lần đầu tiên, hoạt động KSNB trong các tổ chức được đề cập
đến trong một văn bản pháp luật. Năm 1985, sau sự đổ bể của các công ty cổ phần
có niêm yết làm cho các nhà làm luật Hoa Kỳ quan tâm đến việc KSNB của các
doanh nghiệp. Nhiều quy định, hướng dẫn về KSNB của các cơ quan chức năng
Hoa Kỳ được ban hành trong giai đoạn này như: Ủy ban ban chuẩn mực kiểm toán
Hoa Kỳ năm 1998, Ủy ban chứng khoán Hoa Kỳ năm 1998, tổ chức nghiên cứu
kiểm toán nội bộ năm 1991… Những quy định này một mặt làm phong phú khái

niệm KSNB nhưng mặt khác dẫn đến yêu cầu phải hình thành một hệ thống lý luận


8

có tính chuẩn mực về KSNB.
Quá trình phát triển của các công ty ở Hoa Kỳ cũng là quá trình phát triển quy
mô của gian lận gây thiệt hại đáng kể cho nền kinh tế. Nhiều ủy ban đã ra đời để
khảo sát và tìm cách để khắc phục, trong đó có Ủy ban quốc gia về chống gian lận
Báo cáo tài chính – gọi tắt là ủy ban Treadway – ra đời năm 1985. COSO là một ủy
ban gồm nhiều tổ chức nghề nghiệp nhằm hỗ trợ cho Ủy ban Treadway. Các tổ
chức nghề nghiệp bao gồm: Hiệp hội kế toán công chứng Hoa Kỳ (AICPA), Hội kế
toán Hoa Kỳ (AAA), Hiệp hội các nhà quản trị tài chính (FEI), Hiệp hội kiểm toán
viên nội bộ (IIA) và Hiệp hội kế toán viên quản trị (IMA). Qua quá trình tìm hiểu
về gian lận COSO đã nhận thấy KSNB có ảnh hưởng rất lớn đến khả năng xảy ra
gian lận. Vì thế, việc nghiên cứu và đưa ra một khuôn khổ chung về KSNB được
đặt ra. Báo cáo này cung cấp một hệ thống lý luận đầy đủ nhất về KSNB cho đến
thời điểm này, kế thừa và phát triển các nghiên cứu trước đó về KSNB.
Theo báo cáo của COSO năm 1992, KSNB là một quá trình do người quản lý,
hội đồng quản trị và các nhân viên của đơn vị chi phối, nó được thiết lập để cung
cấp một sự đảm bảo hợp lý nhằm thực hiện các mục tiêu dưới đây:
- Báo cáo tài chính đáng tin cậy;
- Các luật lệ và quy định được tuân thủ;
- Hoạt động hữu hiệu và hiệu quả.
Đặc điểm nổi bật của báo cáo COSO là một tầm nhìn rộng và mang tính quản
trị, trong đó KSNB không chỉ còn là một vấn đề liên quan đến báo cáo tài chính mà
được mở rộng ra cho các lĩnh vực hoạt động và tuân thủ. Theo COSO 1992, nội dung
của KSNB thực chất là các hoạt động, biện pháp, kế hoạch, quan điểm, nội quy chính
sách và nỗ lực của mọi thành viên trong tổ chức để đảm bảo cho tổ chức đó hoạt
động hiệu quả và đạt được những mục tiêu đặt ra một cách hợp lý.

Trong định nghĩa nói trên, bốn nội dung cơ bản của KSNB là quá trình, con
người, đảm bảo hợp lý và mục tiêu; các nội dung trên được hiểu như sau:
KSNB là một quá trình: KSNB bao gồm một chuỗi các hoạt động kiểm soát hiện
diện ở mọi bộ phận trong đơn vị và được kết hợp với nhau thành một thể thống nhất.
Quá trình kiểm soát là phương tiện để giúp đơn vị đạt được các mục tiêu của mình.
KSNB không chỉ là một thủ tục hay một chính sách được thực hiện ở một vài thời
điểm nhất định mà được vận hành liên tục ở tất cả mọi cấp độ trong doanh nghiệp.
KSNB được thiết kế và vận hành bởi con người: KSNB không chỉ đơn thuần


9

là những chính sách, thủ tục, biểu mẫu… mà phải bao gồm những con người trong
tổ chức như Hội đồng quản trị, Ban giám đốc và các nhân viên. Chính con người
định ra mục tiêu, thiết lập cơ chế kiểm soát ở mọi nơi và thực hiện vận hành chúng.
Cụ thể: HĐQT và các nhà quản trị cấp cao chịu trách nhiệm cho việc thiết lập một
văn hóa phù hợp nhằm hỗ trợ cho quy trình KSNB hiệu quả, giám sát tính hiệu quả
của hệ thống này một cách liên tục. Tất cả các thành viên của tổ chức đều tham gia
vào quy trình này.
KSNB cung cấp một đảm bảo hợp lý: KSNB cung cấp một đảm bảo hợp lý mà
không đảm bảo tuyệt đối là các mục tiêu sẽ được thực hiện. Nguyên nhân bởi luôn
có khả năng tồn tại những yếu kém xuất phát từ sai lầm của con người khi vận hành
hệ thống kiểm soát, dẫn đến việc không thực hiện được mục tiêu. Việc KSNB có
thể làm là ngăn chặn và phát hiện sai phạm nhưng không thể đảm bảo chắc chắn sẽ
không xảy ra sai phạm nữa. Bên cạnh đó, quyết định của KSNB còn tùy thuộc vào
nguyên tắc cơ bản: sự đánh đổi lợi ích-chi phí, chi phí kiểm soát không được vượt
quá lợi ích mong đợi từ quá trình kiểm soát. Vì vậy, KSNB chỉ cung cấp một sự
đảm bảo hợp lí, chứ không đảm bảo tuyệt đối là các mục tiêu sẽ được thực hiện.
Các mục tiêu của KSNB:
KSNB thường do chính những nhà quản lý thiết lập nhằm phục vụ cho các

mục tiêu quản lý của mình. Khi thiết lập và vận hành KSNB, các nhà quản lý luôn
hướng tới các mục tiêu đã lập sẵn
-

Để đảm bảo tính trung thực và đáng tin cậy không chỉ đối với báo cáo tài

chính mà còn đảm bảo tính tin cậy đối với hoạt động kinh doanh thì hệ thống
KSNB cần Giảm bớt nguy cơ rủi ro tiềm ẩn trong kinh doanh (sai sót vô tình gây
thiệt hại, các rủi ro làm chậm kế hoạch, tăng giá thành, giảm chất lượng sản
phẩm...), bảo vệ tài sản khỏi bị hư hỏng, mất mát, hao hụt, gian lận, lừa gạt, trộm
cắp..., đảm bảo tính chính xác của các số liệu kế toán và báo cáo tài chính;
- Đối với tính tuân thủ, KSNB phải đảm bảo hợp lý việc chấp hành luật pháp,
các quy định của Nhà nước và các quy định của đơn vị, đồng thời đảm bảo mọi
thành viên tuân thủ nội quy của công ty cũng như các quy định của luật pháp;
-

Đối với mục tiêu sự hữu hiệu và hiệu quả của các hoạt động, KSNB giúp


10

đơn vị bảo vệ và sử dụng hiệu quả các nguồn lực, bảo mật thông tin, nâng cao uy
tín, mở rộng thị phần, thực hiện các chiến lược kinh doanh của đơn vị.
Sau khi ban hành vào năm 1992 và có những sửa đổi vào năm 2004, các thành
viên trong tổ chức COSO đã nhận thấy rằng việc đánh giá của đội ngũ quản lý một
doanh nghiệp thường tiến hành vào nhũng thời điểm nhất định trong năm, thường
kiểm tra đối với những sự kiện nổi bật cũng như trọng yếu và thường liên quan đến
kiểm toán nội bộ chính doanh nghiệp đó. Tuy nhiên, theo COSO nếu chỉ thực hiện
những điều trên thì việc đánh giá sẽ không được trọn vẹn và đầy đủ, vì nếu một
doanh nghiệp có những cách giám sát hiệu quả thì sẽ làm giảm đi rất nhiều công

việc đánh giá của mình. Chính vì lý do này, vào tháng 2 năm 2009, COSO đã chính
thức ban hành báo cáo về “Những quy định và hướng dẫn về giám sát hệ thống
KSNB” (COSO’s 2009 Guidance on Monitoring Internal Control Systems) nhằm
bổ sung và nêu rõ hơn thành phần giám sát trong KSNB của một doanh nghiệp. Nếu
một hệ thống KSNB không được giám sát thì hệ thống sẽ tự động mất dần dần cho
đến khi nó không còn hữu hiệu trong việc kiểm soát nữa. Giám sát được thực hiện
nhằm đảm bảo cho KSNB doanh nghiệp được hoạt động kiên tục và hiệu quả
(Pforsich & Kramer, 2008). Khi giám sát được thiết kế và vận hành phù hợp tương
thích thì nó sẽ mang lại cho chính doanh nghiệp lợi ích sau:
-

Xác định và thay đổi các vấn đề trong hệ thống KSNB cho phù hợp;

-

Tạo nên các thông tin chính xác và đáng tin cậy hơn cho những người sử

dụng để họ có thể ra các quyết định kinh tế;
-

Lập các báo cáo tài chính phù hợp và kịp thời;

-

Cung cấp được báo cáo định kỳ và các cơ sở khác để đánh giá lại đơn vị.

Từ khi ban hành vào năm 1992, sau một thời gian hơn 20 năm, nội dung của
COSO không chỉ phục vụ cho công tác tài chính kế toán mà còn mở rộng đối với
phạm vi toàn doanh nghiệp. Những thay đổi cơ bản của văn bản mới ban hành tập
trung vào 7 điểm chính như sau:

-

Tiếp cận theo hướng mong đợi vào việc quản trị công ty ở tầm vĩ mô;
Hướng đến sự toàn cầu hóa của thị trường và hoạt động kinh doanh mở rộng;
Sự thay đổi trong mô hình kinh doanh phù hợp với biến động của thế giới;
Đáp ứng nhu cầu, mức độ phức tạp, quy định và các chuẩn mực;


11

- Tăng các chiến lược cạnh tranh và trách nhiệm giải trình trước xã hội;
- Sử dụng sự phát triển của công nghệ hiện đại;
- Ngăn ngừa hoặc giảm đi hoặc phát hiện các gian lận trong doanh nghiệp.
Dựa vào 7 khía cạnh chính mà COSO 2013 đã điều chỉnh, từ đó bản hướng
dẫn này đã giới thiệu 17 nguyên tắc mở rộng, theo mô hình kết cấu bởi 5 thành
phần cấu thành của một hệ thống KSNB dựa vào bản gốc năm 1992 theo bảng sau:
Bảng 2.1: Bộ 17 nguyên tắc của COSO 2013

Môi trường
kiểm soát

Đánh giá
rủi ro

1

Thực hiện cam kết nhằm đảm bảo chính trị và giá trị đạo đức

2


Thực hiện trách nhiệm tổng thể

3

Thiết lập cấu trúc, quyền lực và trách nhiệm

4

Thực thi cam kết về năng lực

5

Đảm bảo trách nhiệm giải trình

6

Các mục tiêu phù hợp và cụ thể

7

Xác định và phân tích rủi ro

8

Đánh giá rủi ro gian lận

9

Xác định và phân tích các thay đổi quan trọng


10 Lựa chọn và phát triển các hoạt động kiểm soát
Hoạt động
kiểm soát

11 Lựa chọn và phát triển các kiểm soát chung đối với công nghệ
12 Ứng dụng chính xác và thủ tục

Thông tin
và truyền
thông

Hoạt động
giám sát

13 Sử dụng thông tin phù hợp
14 Truyền thông nội bộ
15 Truyền thông bên ngoài đơn vị
16 Thực hiện đánh giá liên tục và tách biệt
17 Đánh giá và tính truyền thông giữa các nội dung
(Nguồn COSO Organization 2013)

Dù gắn liền với 5 thành phần cơ bản của KSNB nhưng cần phải khẳng định
rằng 17 nguyên tắc này khác biệt cơ bản với các nhân tố tạo thành những thành
phần của hệ thống KSNB theo những hướng dẫn trước đây do COSO công bố, đồng
thời những nhân tố này có phạm vi rộng hơn trong toàn doanh nghiệp.


12

Bên cạnh đó KSNB được hiểu theo quan điểm của Viện kiểm toán độc lập

Hoa Kỳ www.aicpa.org (American Institue of Certificated Public AccountantAICPA) như sau: “KSNB bao gồm kế hoạch của tổ chức và tất cả các phương pháp
phối hợp và đo lường được thừa nhận trong doanh nghiệp để đảm bảo an toàn tài
sản có của họ, kiểm tra sự phù hợp và độ tin cậy của họ, kiểm tra sự phù hợp và độ
tin cậy của dữ liệu kế toán, tăng cường tính hiệu quả của hoạt động và khuyến khích
việc thực hiện các chính sách quản lý lâu dài”.
Tại Việt Nam, KSNB cũng được Bộ tài chính có quy định cụ thể theo
Thông tư số 214/2015/TT-BTC ngày 06 tháng 12 năm 2012 Ban hành hệ
thống chuẩn mực kiểm toán Việt Nam có chuẩn mực kiểm toán VAS 315 về
xác định và đánh giá rủi ro có sai sót trọng yếu thông qua hiểu biết của đơn vị
được kiểm toán và môi trường của đơn vị được quy định và hướng dẫn: Mục
đích của KSNB là KSNB được thiết kế, thực hiện và duy trì nhằm giải quyết
các rủi ro kinh doanh đã được xác định, gây ra nguy cơ đơn vị không đạt được
một trong các mục tiêu liên quan đến:
-

Độ tin cậy của quy trình lập và trình bày BCTC: Thông tin kế toán,

tài chính do bộ máy kế toán xử lý và tổng hợp là căn cứ quan trọng cho việc
hình thành các quyết định của nhà quản lý. Như vậy, các thông tin cung cấp
phải đảm bảo tính kịp thời về thời gian, tính chính xác và tin cậy về thực
trạng hoạt động, phản ánh đầy đủ và khách quan các nội dung chủ yếu của
mọi hoạt động kinh tế, tài chính.
-

Hiệu quả và hiệu suất hoạt động: Các quá trình kiểm soát trong một

đơn vị được thiết kế nhằm ngăn ngừa sự lặp lại không cần thiết các tác
nghiệp, gây ra sự lãng phí trong hoạt động và sử dụng kém hiệu quả các
nguồn lực trong doanh nghiệp. Bên cạnh đó, định kỳ các nhà quản lý thường
đánh giá kết quả hoạt động trong doanh nghiệp được thực hiện với cơ chế

giám sát của hệ thống kiểm soát nội bộ doanh nghiệp nhằm nâng cao khả năng
quản lý, điều hành của bộ máy quản lý doanh nghiệp.
-

Việc tuân thủ pháp luật và các quy định hiện hành: Hệ thống KSNB


×