MỤC LỤC
Trang
MỞ ĐẦU
3
Chương 1. NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ Ý THỨC QUỐC
PHÒNG VÀ AN NINH CỦA CÁN BỘ CHỦ CHỐT
XÃ, PHƯỜNG, THỊ TRẤN TỈNH BẾN TRE
10
1.1. Quan niệm về ý thức quốc phòng và an ninh của cán bộ chủ
chốt xã, phường, thị trấn tỉnh Bến Tre
10
1.2. Những nhân tố quy định đến ý thức quốc phòng và an
ninh của cán bộ chủ chốt xã, phường, thị trấn tỉnh Bến Tre
Chương 2. THỰC TRẠNG VÀ GIẢI PHÁP CƠ BẢN NÂNG
30
CAO Ý THỨC QUỐC PHÒNG VÀ AN NINH CỦA
CÁN BỘ CHỦ CHỐT XÃ, PHƯỜNG, THỊ TRẤN
TỈNH BẾN TRE HIỆN NAY
2.1. Thực trạng ý thức quốc phòng và an ninh của cán bộ
41
chủ chốt xã, phường, thị trấn tỉnh Bến Tre hiện nay
2.2. Yêu cầu và giải pháp cơ bản nâng cao ý thức quốc
41
phòng và an ninh của cán bộ chủ chốt xã, phường, thị
trấn tỉnh Bến Tre hiện nay
KẾT LUẬN
58
83
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
84
PHỤ LỤC
90
MỞ ĐẦU
2
1. Lý do chọn đề tài
Dựng nước và giữ nước là quy luật ngàn đời của dân tộc ta. Trải dài suốt
chiều dài lịch sử, nó trở thành quy luật tồn tại và phát triển của đất nước. Và
ngày nay, Đảng ta xác định hai nhiệm vụ chiến lược xây dựng và bảo vệ Tổ
quốc cũng không nằm ngoài quy luật đó, nên việc trang bị ý thức quốc phòng và
an ninh cho mọi tầng lớp nhân dân là hết sức quan trọng. Ý thức quốc phòng và
an ninh phát triển vững chắc là cơ sở quan trọng cho việc thực hiện thắng lợi hai
nhiệm vụ xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa, góp phần
nâng cao giác ngộ chính trị, củng cố cơ sở nền tảng cho quá trình nhận thức về
nhiệm vụ quốc phòng và an ninh của đất nước và xây dựng khu vực phòng thủ
địa phương. Ý thức quốc phòng và an ninh của cán bộ chủ chốt xã, phường, thị
trấn là bộ phận quan trọng của công tác giáo dục, bồi dưỡng kiến thức quốc
phòng và an ninh cho các đối tượng nhằm phát triển toàn diện năng lực và phẩm
chất của lực lượng này, nhằm củng cố nền quốc phòng toàn dân, an ninh nhân
dân, phát triển kinh tế và xã hội làm thất bại âm mưu và hoạt động “diễn biến
hòa bình”, bạo loạn lật đổ của các thế lực thù địch thực hiện thắng lợi hai nhiệm
vụ chiến lược xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa nói
chung, xây dựng khu vực phòng thủ tỉnh nói riêng.
Trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc đa số cán bộ chủ chốt xã,
phường, thị trấn tỉnh Bến Tre có tinh thần yêu nước, ý thức quốc phòng và an ninh
tốt, chấp hành nghiêm đường lối, chính sách của Đảng, pháp luật của Nhà nước,
góp phần tích cực vào sự nghiệp giải phóng dân tộc và xây dựng quê hương đất
nước. Bên cạnh đó, công tác giáo dục, bồi dưỡng kiến thức quốc phòng và an ninh
cho các đối tượng trên địa bàn nói chung, cho đối tượng này nói riêng đã được các
cấp ủy, chính quyền, mặt trận Tổ quốc, các đoàn thể, các cơ quan chức năng và
toàn dân ở địa phương quan tâm lãnh đạo, chỉ đạo, tổ chức thực hiện chặt chẽ đạt
kết quả tốt, nhận thức trong xây dựng nền quốc phòng toàn dân, chuẩn bị tiến
hành chiến tranh nhân dân của các đối tượng được nâng lên đáng kể góp phần
thiết thực vào nhiệm vụ bảo vệ Tổ quốc Việt Nam Xã hội chủ nghĩa.
3
Tuy nhiên, trước những yêu cầu ngày càng cao của nhiệm vụ bảo vệ Tổ
quốc, sự phát triển của tình hình, nhiệm vụ chính trị của địa phương, nhất là
công tác quân sự, quốc phòng địa phương, việc bồi dưỡng ý thức quốc phòng và
an ninh của cán bộ chủ chốt xã, phường, thị trấn của tỉnh còn bộc lộ những hạn
chế, bất cập cả về nội dung, chương trình, phương pháp và lực lượng tiến hành,
kết quả đạt được chưa thực sự vững chắc, điều đó đòi hỏi cần phải có biện pháp
khắc phục kịp thời, nhằm nâng cao chất lượng công tác này ngày càng tốt hơn.
Ngày nay, sự nghiệp bảo vệ Tổ quốc có sự phát triển mới cả về yêu cầu,
nhiệm vụ, nội dung, phương thức đòi hỏi người dân phải có nhận thức đúng về âm
mưu, thủ đoạn của các thế lực thù địch đối với cách mạng Việt Nam trong đó có
đội ngũ cán bộ chủ chốt xã, phường, thị trấn. Chính vì thế, Đảng ta khẳng định:
“Đẩy mạnh công tác thông tin, tuyên truyền, giáo dục nâng cao ý thức trách
nhiệm của toàn Đảng, toàn dân, toàn quân, của các cấp, các ngành, của mỗi cán
bộ, đảng viên và từng người dân đối với nhiệm vụ bảo vệ Tổ quốc”. [26, tr.150]
Vì vậy, việc nghiên cứu đề tài “Ý thức quốc phòng và an ninh của cán
bộ chủ chốt xã, phường, thị trấn tỉnh Bến Tre hiện nay” là vấn đề cấp thiết
cả phương diện lý luận và thực tiễn hiện nay.
2. Tình hình nghiên cứu có liên quan đến đề tài
* Nhóm các công trình, bài viết tiêu biểu nghiên cứu về quốc
phòng toàn dân
Tác giả Nguyễn Anh Dũng (1981), “Chính sách ngụ binh ư nông
các thời Lý Trần- Lê sơ (thế kỷ XI- thế kỷ XV)”[17]. Tác giả đã đi sâu
nghiên cứu những kinh nghiệm xây dựng quốc phòng, xây dựng lực lượng
vũ trang và tiến hành chiến tranh bảo vệ đất nước của tổ tiên ta dưới các
triều đại Lý, Trần, Lê sơ. GS. Bùi Phan Kỳ (2014) “Học thuyết quân sự Việt
Nam thời đại Hồ Chí Minh”[38] tập trung nghiên cứu làm sáng tỏ những nội
dung chủ yếu về học thuyết quân sự Việt Nam trước thời đại Hồ Chí Minh; sự
phát triển và nâng lên tầm cao mới của học thuyết quân sự Việt Nam trong
thời đại Hồ Chí Minh; dự báo sự phát triển của học thuyết quân sự Việt Nam
4
thời đại Hồ Chí Minh trong những thập niên đầu thế kỷ XXI. Các tác giả đã
phân tích thực tiễn cuộc đấu tranh giành và giữ nền độc lập dân tộc, thực tiễn
đấu tranh chống ngoại xâm và các loại hình chiến tranh khác đã diễn ra trong
lịch sử Việt Nam; tham khảo, tiếp thu có chọn lọc các học thuyết quân sự của
nước ngoài, đồng thời tìm ra điểm khác biệt không cho phép du nhập nguyên
xi khái niệm của họ về học thuyết quân sự... Tác giả nghiên cứu sâu sắc
những quan điểm cơ bản trong tư tưởng quân sự của chủ tịch Hồ Chí
Minh từ Cách mạng tháng Tám đến kháng chiến chống Mỹ, rút ra những
tư tưởng cốt lõi về bạo lực cách mạng của quần chúng nhân dân, kết hợp
đấu tranh quân sự và đấu tranh chính trị. Kết hợp giữa kinh tế và quốc
phòng, xây dựng và củng cố khối đại đoàn kết toàn dân, tăng cường sự
lãnh đạo của Đảng về mọi mặt. Nguyễn Vĩnh Thắng (2010) “Quốc Phòng
- an ninh trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam” [49] đã
luận giải quan điểm của các nhà kinh điển chủ nghĩa mác về quốc phòng
và an ninh, chỉ ra quan điểm của Đảng ta về vấn đề này. Đồng thời, đề cập
tính tất yếu phải phải tăng cường, củng cố quốc phòng, an ninh trong giai
đoạn mới của thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội ở nước ta.
*Nhóm các công trình, bài viết tiêu biểu nghiên cứu về giáo
dục quốc phòng
Đề tài khoa học cấp Nhà nước do Trung tướng, Phó giáo sư, tiến sĩ, nhà
giáo nhân dân Lê Minh Vụ chủ nhiệm đề tài, “Đổi mới giáo dục quốc phòng
trong hệ thống giáo dục quốc gia”, năm 2006 [62]. Đề tài trình bày, làm rõ các
khái niệm: quốc phòng, giáo dục quốc phòng trong hệ thống giáo dục quốc gia,
đề tài đi sâu phân tích quá trình phát triển tư duy lý luận của Đảng về quốc
phòng và giáo dục quốc phòng qua từng giai đoạn cách mạng, nhất là trong sự
nghiệp đổi mới đất nước. Đề tài khẳng định, đổi mới giáo dục quốc phòng là
đổi mới toàn diện tất cả các nội dung, biện pháp cấu thành giáo dục quốc
phòng, từ nhận thức đến hành động; từ nội dung, chương trình, phương pháp
giáo dục đến đánh giá kết quả; từ cơ chế tổ chức quản lý đến người dạy, người
5
học, điều kiện đảm bảo và chế độ chính sách. Yêu cầu đổi mới giáo dục quốc
phòng phải hợp lý, đồng bộ, thống nhất và phù hợp với đối tượng người học.
Và đề tài “Xây dựng ý thức bảo vệ Tổ quốc trong thời kỳ mới”[63] năm 2009. Đề
tài đã làm sáng rõ hơn về cơ sở khoa học của việc xác định mục tiêu, nhiệm vụ,
quan điểm, tưởng chỉ đạo, xác định phương châm, phương hướng và đề xuất các
giải pháp khả thi để xây dựng nền quốc phòng toàn dân, củng cố thế trận chiến
tranh nhân dân, xây dựng ý thức bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa cho
mọi người dân Việt Nam trong thời kỳ mới.
Cục Nhà trường, Bộ Tổng Tham mưu, “Giáo dục quốc phòng đối với cán bộ
công chức của Đảng, Nhà nước và đoàn thể”[16], Đề tài khoa học cấp Bộ Quốc
phòng, năm 2001; Lê Văn Yên (chủ biên), “Tăng cường công tác giáo dục quốc
phòng an ninh trong giai đoạn hiện nay”[64], Nguyễn Bá Dương (chủ biên), “Tư duy
lý luận của Đảng ta về đổi mới giáo dục quốc phòng trong tình hình hiện nay”[23]
năm 2010. Đề tài đã quán triệt sâu sắc quan điểm của chủ nghĩa Mác và Lênin, tư
tưởng Hồ Chí Minh và quan điểm của Đảng ta về giáo dục, giáo dục quốc phòng, các
công trình này đã đi sâu phân tích làm rõ cơ sở lý luận, thực tiễn của vấn đề nghiên
cứu. Đặc biệt, các công trình đã làm rõ một số khái niệm liên quan như: giáo dục, bồi
dưỡng kiến thức quốc phòng, giáo dục quốc phòng đối với cán bộ công chức trong
hệ thống chính trị; chỉ rõ vai trò, đặc điểm và những vấn đề có tính nguyên tắc đối
với công tác giáo dục, bồi dưỡng kiến thức quốc phòng cho cán bộ, công chức trong
hệ thống chính trị; đánh giá thực trạng và rút ra một số kinh nghiệm giáo dục quốc
phòng, tổ chức, phương pháp bồi dưỡng kiến thức quốc phòng cho đội ngũ cán bộ
này. Từ dự báo những nhân tố tác động, các công trình đã xác định phương hướng,
yêu cầu và những giải pháp chủ yếu nâng cao chất lượng giáo dục quốc phòng, tổ
chức, phương pháp bồi dưỡng kiến thức quốc phòng cho đội ngũ cán bộ công chức
trong hệ thống chính trị. Các công trình khoa học trên là những tài liệu quan trọng, có
giá trị cả về lý luận và thực tiễn để tác giả có thể nghiên cứu, tham khảo, kế thừa, vận
dụng vào quá trình thực hiện luận văn.
6
* Nhóm các công trình tiêu biểu nghiên cứu về phát triển ý
thức quốc phòng
Tác giả Dương Văn Nhị (2004), Luận văn thạc sĩ triết học: “Phát triển ý
thức quốc phòng của sĩ quan phân đội trong quân đội nhân dân Việt Nam hiện
nay”, [46] tác giả đã phân tích những vấn đề lý luận và thực tiễn về phát triển ý thức
quốc phòng của đội ngũ sĩ quan phân đội trong Quân đội nhân dân Việt Nam, từ đó
đề xuất những định hướng và một số giải pháp cơ bản nhằm phát triển ý thức quốc
phòng của đội ngũ sĩ quan câp phân đội hiên nay. Hà Công Chờ (2007), luận văn
thạc sĩ triết học “Phát triển ý thức quốc phòng của học viên bồi dưỡng kiến thức
quốc phòng ở Trường Quân sự Quân khu VII hiện nay”[14], tác giả đã chỉ rõ thực
chất, đặc điểm, nghiên cứu, đánh giá thực trạng và đề xuất những giải pháp cơ bản
phát triển ý thức quốc phòng của học viên bồi dưỡng kiến thức quốc phòng ở
Trường Quân sự Quân khu VII hiện nay. Dương Quang Hiển, “Phát triển ý thức
quốc phòng của học viên, sinh viên ở nước ta hiện nay”[28] tác giả đã bàn đến phát
triển ý thức quốc phòng cho học viên, sinh viên ở nước ta hiện nay. Và các bài báo
khoa học của Nguyễn Huy Hoàng (2014) “Nâng cao chất lượng giáo dục quốc
phòng - an ninh đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ xây dựng và bảo vệ Tổ Quốc trong thời
kỳ mới” [27], tạp chí giáo dục, số 317, Đại tướng Ngô Xuân Lịch (2016) “Quân
đội nhân dân Việt Nam tiếp tục phát huy vai trò nòng cốt trong sự nghiệp tăng
cường quốc phòng, bảo vệ Tổ quốc”[43] tạp chí quốc phòng toàn dân 2/2016.
Như vậy, các công trình, bài báo khoa học nêu trên, đã bàn khá kỹ, toàn
diện về công tác giáo dục quốc phòng và bồi dưỡng kiến thức quốc phòng và an
ninh cho các đối tượng ở nước ta. Nhưng chưa có công trình nào nghiên cứu về
vấn đề ý thức quốc phòng và an ninh cho cán bộ chủ chốt xã, phường, thị trấn tỉnh
Bến Tre hiện nay dưới góc độ triết học. Vì vậy, vấn đề “ Ý thức quốc phòng và an
ninh của cán bộ chủ chốt xã, phường, thị trấn tỉnh Bến Tre hiện nay” là đề tài mới,
độc lập, không trùng lắp với các công trình khoa học đã công bố.
3. Mục đích, nhiệm vụ nghiên cứu
* Mục đích nghiên cứu
7
Làm rõ lý luận, thực tiễn về ý thức quốc phòng và an ninh của cán bộ chủ
chốt xã, phường, thị trấn, trên cơ sở đó đề xuất những giải pháp cơ bản nâng cao
ý thức quốc phòng và an ninh của cán bộ chủ chốt xã, phường, thị trấn tỉnh Bến
Tre hiện nay.
* Nhiệm vụ nghiên cứu
- Làm rõ những vấn đề lý luận về ý thức quốc phòng và an ninh của cán bộ
chủ chốt xã, phường, thị trấn tỉnh Bến Tre.
- Đánh giá thực trạng ý thức quốc phòng và an ninh của cán bộ chủ chốt
xã, phường, thị trấn tỉnh Bến Tre hiện nay.
- Xác định yêu cầu và đề xuất những giải pháp cơ bản nâng cao ý thức quốc
phòng và an ninh của cán bộ chủ chốt xã, phường, thị trấn tỉnh Bến Tre hiện nay.
4. Đối tượng, phạm vi nghiên cứu
* Đối tượng nghiên cứu
Ý thức quốc phòng và an ninh của cán bộ chủ chốt xã, phường, thị trấn tỉnh Bến Tre.
* Phạm vi nghiên cứu
Tập trung nghiên cứu ý thức quốc phòng và an ninh của cán bộ chủ chốt
xã, phường, thị trấn trên địa bàn tỉnh Bến Tre hiện nay. Các tư liệu, số liệu điều
tra khảo sát phục vụ cho việc nghiên cứu, chủ yếu từ năm 2011 đến nay.
5. Cơ sở lý luận, thực tiễn và phương pháp nghiên cứu
* Cơ sở lý luận nghiên cứu
Đề tài dựa trên cơ sở lý luận của chủ nghĩa Mác và Lênin, tư tưởng Hồ
Chí Minh, đường lối, nghị quyết của Đảng, luật pháp của Nhà nước về xây
dựng nền quốc phòng toàn dân, chiến tranh nhân dân, bảo vệ Tổ quốc xã hội
chủ nghĩa, và công tác giáo dục, bồi dưỡng quốc phòng và an ninh cho các
đối tượng thuộc hệ thống chính trị ở nước ta.
* Cơ sở thực tiễn nghiên cứu
Cơ sở thực tiễn của đề tài là thực tiễn bồi dưỡng kiến thức quốc phòng và
an ninh cho cán bộ chủ chốt xã, phường, thị trấn những năm qua ở tỉnh Bến Tre;
8
các tài liệu, báo cáo sơ kết, tổng kết về công tác quân sự, quốc phòng địa
phương, về công tác giáo dục quốc phòng và an ninh, bồi dưỡng kiến thức quốc
phòng và an ninh cho các đối tượng, trong đó có cán bộ chủ chốt xã, phường, thị
trấn tỉnh Bến Tre hiện nay; các tư liệu, số liệu và kết quả điều tra khảo sát thực tế
bồi dưỡng kiến thức quốc phòng và an ninh cho cho cho cán bộ chủ chốt xã,
phường, thị trấn tỉnh Bến thời gian qua.
* Phương pháp nghiên cứu
Trên cơ sở phương pháp luận của chủ nghĩa duy vật biện chứng và duy
vật lịch sử, luận văn sử dụng các phương pháp nghiên cứu của khoa học
chuyên ngành và liên ngành, trong đó, chú trọng các phương pháp: lôgíc, lịch
sử, phân tích, tổng hợp, điều tra xã hội học, tổng kết thực tiễn và phương pháp
chuyên gia để làm sáng tỏ vấn đề nghiên cứu.
6. Ý nghĩa của đề tài
Kết quả nghiên cứu của đề tài góp phần cung cấp thêm cơ sở khoa
học, giúp cấp ủy, chính quyền, Hội đồng giáo dục quốc phòng và an ninh
các cấp của tỉnh Bến Tre, Đảng uỷ, Bộ chỉ huy quân sự tỉnh, Ban chỉ huy
quân sự huyện, thành phố thuộc tỉnh, Đảng uỷ, Ban giám hiệu Trường
Chính trị, Trường Quân sự tỉnh, các tổ chức, các lực lượng có liên quan
lãnh đạo, chỉ đạo và tổ chức thực hiện có hiệu quả hơn đối với công tác
bồi dưỡng kiến thức quốc phòng và an ninh cho cho cán bộ chủ chốt xã,
phường, thị trấn tỉnh Bến Tre hiện nay.
Luận văn có thể sử dụng làm tài liệu tham khảo ở các tỉnh, thành phố trực
thuộc Trung ương và phục vụ cho công tác nghiên cứu, giảng dạy, bồi dưỡng
kiến thức quốc phòng và an ninh ở các nhà trường trong và ngoài quân đội.
7. Kết cấu của đề tài
Đề tài kết cấu gồm: mở đầu; 2 chương (4 tiết); kết luận; danh mục tài
liệu tham khảo và phụ lục.
9
Chương 1
NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ Ý THỨC QUỐC PHÒNG VÀ AN
NINH CỦA CÁN BỘ CHỦ CHỐT XÃ, PHƯỜNG, THỊ TRẤN
TỈNH BẾN TRE
1.1. Quan niệm về ý thức quốc phòng và an ninh của cán bộ chủ chốt
xã, phường, thị trấn tỉnh Bến Tre
1.1.1. Ý thức quốc phòng và an ninh và ý thức quốc phòng và an
ninh của cán bộ chủ chốt xã, phường, thị trấn tỉnh bến Tre
Thuật ngữ quốc phòng và an ninh dùng để phản ánh một phương diện
hết sức quan trọng trong đời sống thực tiễn của xã hội. Thực tiễn phát triển và
biến đổi ở nhiều quốc gia trong vài thập kỷ vừa qua cho thấy, toàn bộ đời
sống xã hội của một quốc gia được khái quát thành nhiều bộ phận cơ bản của
nhóm quan hệ xã hội hay những phương diện khác nhau. Song hai phương
diện chủ yếu là kinh tế - xã hội và quốc phòng và an ninh có quan hệ hữu cơ,
mật thiết, phụ thuộc lẫn nhau, trong đó kinh tế - xã hội được hiểu là toàn bộ
đời sống xã hội, đời sống kinh tế, sinh hoạt văn hóa tinh thần của cộng đồng
dân cư. Còn quốc phòng và an ninh là phòng thủ quốc gia và an ninh cho đất
nước. Có thể coi hai phương diện này là hai điều kiện cần và đủ cho sự tồn tại và
phát triển bình thường của một quốc gia. Toàn bộ hoạt động kinh tế - xã hội để
tạo lập những giá trị nhằm thỏa mãn các nhu cầu sinh hoạt và phát triển của con
người và xã hội công dân. Tuy nhiên, đất nước có được đời sống kinh tế - xã hội
bình thường, các thiết chế chính trị xã hội phải được tổ chức vận hành theo
những nguyên tắc nhất định, theo những trật tự nhất định mà phá vỡ nó trật tự xã
hội sẽ bị rối loạn, nền sản xuất xã hội sẽ bị trì trệ. Do đó, xã hội cần một sự bảo
đảm an toàn, an ninh và thiết lập một trật tự với sự tuân thủ những quy tắc của
đời sống xã hội bảo đảm an toàn cho trật tự đó.
Xét về ngữ nghĩa, thuật ngữ quốc phòng và an ninh là từ ghép có hai bộ
phận quốc phòng và an ninh. Thuật ngữ đó cũng phản ánh hai bộ phận hay hai
lĩnh vực rất quan trọng trong đời sống của một đất nước, hoạt động phòng thủ
10
của một quốc gia bảo đảm hòa bình trong quan hệ đối ngoại với các quốc gia
khác, sẵn sàng chiến đấu chống lại sự xâm lăng của kẻ thù từ bên ngoài; và
hoạt động giữ gìn an ninh cho Nhà nước, cho thể chế chính trị xã hội được
thiết lập trên cơ sở pháp luật của quốc gia, bảo đảm địa vị thống trị của Nhà
nước (hoặc Đảng cầm quyền, lãnh đạo Nhà nước đó).
Để hiểu rõ thuật ngữ “quốc phòng và an ninh”, cần hiểu các thành tố
cấu thành trong thuật ngữ đó. Thành tố “quốc phòng” phản ánh hoạt
động quốc phòng, trên thực tế đã hình thành lâu đời, gắn liền với lịch sử
quốc gia dân tộc. Tuy nhiên về bản chất cùng với sự phát triển của các
quốc gia cũng như quan hệ quốc tế của các nước nội hàm của quốc
phòng có sự thay đổi. Khái niệm quốc phòng được sử dụng ở các quốc
gia khác nhau, cũng diễn tả những nội dung không tương đồng nhau về
điều kiện hoàn cảnh lịch sử cụ thể. Ở Việt Nam, theo từ điển giải thích
thuật ngữ quân sự của Bộ Tổng tham mưu giải thích: Quốc phòng - Hoạt
động của một nước nhằm bảo vệ độc lập, chủ quyền, toàn vẹn lãnh thổ
và nhân dân bằng sức mạnh quân sự. Pháp luật Việt Nam quy định:
“Quốc phòng là công cuộc giữ nước bằng sức mạnh tổng hợp của toàn
dân tộc, trong đó sức mạnh quân sự là đặc trưng, lực lượng vũ trang
nhân dân làm nòng cốt.”[47, tr.1].
Thành tố “an ninh” có xuất xứ từ “an ninh quốc gia”. Thực ra khái
niệm an ninh quốc gia có lịch sử phát triển khá phức tạp. Trước đây, thời kỳ
xây dựng Nhà nước kiểu mới chúng ta chưa dùng khái niệm “an ninh quốc
gia”. Những năm 80 của thế kỷ trước, khái niệm “an ninh quốc gia” hầu như
chưa được sử dụng trong các văn bản chính thức, tài liệu của lực lượng công
an nhân dân, mà chỉ xuất hiện cụm từ an ninh chính trị, trật tự an toàn xã hội,
nói tắt là an ninh - trật tự. Vào những năm cuối của thập niên của thế kỷ XX,
khái niệm “an ninh quốc gia” dần dần được sử dụng rộng rãi. Khái niệm này
được tiếp cận, mổ xẻ với nhiều phượng diện khác nhau. Trong “an ninh quốc
11
gia” không chỉ dừng lại ở toàn vẹn lãnh thổ, mà phải là toàn vẹn mọi loại
hình lãnh thổ của Tổ quốc.
An ninh quốc gia có mặt xuyên suốt trong hầu hết các lĩnh vực của đời
sống xã hội, cả đối nội và đối ngoại. Nói đến an ninh quốc gia ở phạm vi này
là nói đến phòng thủ đất nước, xử lý các quan hệ đối ngoại để giữ yên bờ cõi,
chống chiến tranh xâm lược. An ninh quốc gia theo nghĩa rộng nhất được xác
định tại điều 3 Luật an ninh quốc gia 2004 “là sự ổn định, phát triển bền vững
của chế độ xã hội chủ nghĩa và Nhà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt
Nam; sự bất khả xâm phạm độc lập, chủ quyền, thống nhất toàn vẹn thổ của
Tổ quốc”. Khái niệm an ninh quốc gia tiếp tục được cụ thể hóa trong Từ điển
bách khoa Công an nhân dân: “sự ổn định và phát triển bền vững của chế độ
xã hội, độc lập chủ quyền, thống nhất, toàn vẹn lãnh thổ và các lợi ích quan
trọng khác”[56, tr.24] của một quốc gia. Nói cách khác, xâm phạm đến quốc
phòng, cũng là xâm phạm an ninh quốc gia; sự vững mạnh của hệ thống quốc
phòng, sự an toàn, bền vững của nền quốc phòng toàn dân cũng là yếu tố mà
công tác quốc phòng toàn dân phải bảo đảm.
Tóm lại, quốc phòng gắn liền với quốc gia, còn an ninh gắn liền với
nhà nước. Quan hệ giữa quốc phòng và an ninh cũng có bản chất giống như
mối quan hệ giữa quốc gia và nhà nước. Hai hiện tượng này có phương
diện trùng khít, giao thoa lẫn nhau, không thể tách một cách riêng rẽ giữa
hai thành tố này. Một quốc gia muốn ổn định phát triển bền vững điều kiện
cần và đủ phải giữ vững ổn định an toàn về nhà nước, lãnh thổ và dân cư.
Khi sử dụng thuật ngữ “quốc phòng và an ninh” không có nghĩa là phép
cộng đơn giản gán ghép của hai thành tố này, hay đơn thuần là sự cộng lại
giữa hai khu vực hoạt động thực tiễn trên. Từ lâu các nhà lý luận quân sự
Việt Nam cũng đã khẳng định: quốc phòng gắn chặt với giữ vững an ninh
chính trị và trật tự an toàn xã hội. Quốc phòng và an ninh trở thành một
phạm trù có tính chất khái quát cao, đan quyện vào nhau không thể tách rời
bất cứ một thành tố nào.
12
Đảng ta xác định xây dựng thành công chủ nghĩa xã hội và bảo vệ vững
chắc Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa là hai nhiệm vụ chiến lược của cách
mạng nước ta “Kết hợp có hiệu quả giữa nhiệm vụ xây dựng chủ nghĩa xã hội
và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa”[26, tr.146]. Theo quan điểm đó,
trong bất kỳ hoạt động nào đều phải gắn kết với vấn đề quốc phòng và an ninh,
yêu cầu mọi người dân phải có ý thức quốc phòng và an ninh đúng đắn.
Ý thức là sự phản ánh hiện thực khách quan vào bộ não con người, là
hình ảnh chủ quan của thế giới khách quan. Chủ nghĩa Mác - Lênin cho rằng, ý
thức là sự phản ánh hiện thực khách quan vào trong bộ não con người một cách
năng động sáng tạo, ý thức không phải là bản sao giản đơn, thụ động hiện thực;
ý thức là của con người, mà con người là một thực thể xã hội năng động sáng
tạo, ý thức phản ánh thế giới khách quan trong quá trình con người tác động cải
tạo thế giới. Ý thức không phải là một hiện tượng tự nhiên thuần tuý mà là một
hiện tượng xã hội bắt nguồn từ thực tiễn lịch sử - xã hội, phản ánh những quan
hệ xã hội khách quan. V.I.Lênin viết: ý thức con người không chỉ phản ánh thế
giới khách quan mà còn sáng tạo ra nó.
Như vậy, bản tính tự nhiên của con người thông qua hoạt động lao
động sản xuất, trao đổi ngôn ngữ, giao tiếp và các quan hệ xã hội được hình
thành và bộc lộ ra, được xã hội hóa trở thành các phẩm chất xã hội của con
người. Do vậy, ý thức của con người là một hiện tượng lịch sử, là hình ảnh
chủ quan của thế giới khách quan, nó nảy sinh, tồn tại và phát triển gắn liền
với quá trình phát triển của lịch sử - xã hội, phản ánh tồn tại xã hội trong
từng giai đoạn của lịch sử xã hội.
Ý thức quốc phòng và an ninh có nhiều luận giải, nghiên cứu tiếp cận theo
những hướng khác nhau. Lý luận chủ nghĩa Mác - Lênin đã quan niệm về ý thức
quốc phòng và an ninh với chỉ ra nội hàm của nó, Người khẳng định: “Một cuộc
cách mạng chỉ có giá trị khi nào nó biết tự bảo vệ”[41, tr.145]. Đó là một bài học
được rút ra một cách sâu sắc từ thực tiễn các cuộc cách mạng trên thế giới. Trong
13
quá trình xây dựng và bảo vệ Tổ quốc ông cha ta luôn chăm lo phòng giữ từ
khi nước chưa nguy, lo trị nước từ khi chưa loạn, luôn có phương án tốt để
gìn giữ đất nước yên bình. Đó là truyền thống tốt đẹp của dân tộc ta. Đảng ta
và Chủ tịch Hồ Chí Minh đã kế thừa phát huy truyền thống đó. Khi nước nhà
độc lập, ngày 02 tháng 9 năm 1945 chủ tịch Hồ Chí Minh đã tuyên bố trước
thế giới: “Nước Việt Nam có quyền hưởng tự do và độc lập, và sự thật đã
thành một nước tự do độc lập. Toàn thể dân tộc Việt Nam quyết đem tất cả
tinh thần và lực lượng, tính mạng và của cải để giữ vững quyền tự do, độc lập
ấy”[29, tr.3]. Đây là một lời tuyên bố đanh thép, hùng hồn trong bản
Tuyên ngôn độc lập, thể hiện ý chí quyết tâm, cũng như ý thức giữ gìn
trọn vẹn non sông đất nước của dân tộc ta. Ý thức quốc phòng và an ninh
ở Việt Nam sớm được hình thành và phát triển từ đời này qua đời khác,
trở thành giá trị tư tưởng chính trị tinh thần văn hoá đạo đức nhân văn,
khoa học nghệ thuật và còn mang cả ý nghĩa giá trị về mặt kinh tế. Quan
niệm về ý thức quốc phòng và an ninh ở nước ta có rất nhiều nét độc đáo
và chứa đựng những yếu tố hiện đại mang bản sắc riêng của nền quốc
phòng Việt Nam đó là nền quốc phòng toàn dân.
Ở nước ta, ý thức quốc phòng và an ninh là một bộ phận của ý thức
chính trị bao gồm tri thức, tình cảm, ý chí và niềm tin về chính trị xã
hội… về nhiệm vụ phòng thủ và bảo vệ an ninh của đất nước của cộng đồng
xã hội được hình thành trong quá trình dựng nước và giữ nước của dân tộc
ta, thể hiện sâu sắc về ý thức bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa, ý
thức về xây dựng nền quốc phòng toàn dân, an ninh nhân dân, ý thức về xây
dựng lực lượng vũ trang nhân dân. Ý thức quốc phòng và an ninh thuộc phạm
trù ý thức chính trị nhưng không đồng nhất với ý thức bảo vệ Tổ quốc. Từ
cách tiếp cận của triết học có thể hiểu ý thức quốc phòng và an ninh theo hai
cấp độ. Cấp độ thứ nhất, là cấp độ phản ánh hệ tư tưởng lý luận. Cấp độ thứ
hai là cấp độ phản ánh tâm lý và xã hội. Song đều phản ánh thực tiễn bảo vệ
14
Tổ quốc, khả năng phòng thủ đất nước, bảo vệ an ninh quốc gia, giữ chắc khu
vực phòng thủ ở địa phương.
Ý thức quốc phòng và an ninh được thể hiện ở tinh thần yêu nước nồng
nàn, lòng tự tôn dân tộc, cảnh giác với sự chống phá của cách mạng Việt
Nam, tin tưởng vào sự lãnh đạo của Đảng, không bao giờ khuất phục trước
mọi kẻ thù. Đó là tinh thần kiên cường, bất khuất, tự lực, tự cường, không để
kẻ thù lợi dụng, cũng như phân biệt, nhận dạng “tự diễn biến” trong nội bộ. Ý
thức quốc phòng và an ninh phản ánh tri thức, nghệ thuật, cũng như bản lĩnh
của mỗi cán bộ đảng viên trong bảo vệ nền tảng tinh thần độc lập, tự chủ của
mỗi người. Đó chính là sự giác ngộ quyền lợi, nghĩa vụ, trách nhiệm của mỗi
người đối với sự hưng thịnh, suy vong của quốc gia.
Ý thức quốc phòng và an ninh là sự phản ánh hiện thực hoạt động quốc
phòng và an ninh. Do đó, ý thức quốc phòng và an ninh của một quốc gia
không phải là một khái niệm chung chung, trừu tượng mà phản ánh hoạt động
quốc phòng và an ninh cụ thể của một quốc gia. Xét về bản chất, ý thức quốc
phòng và an ninh sự phản ánh hiện thực những hoạt động cụ thể về quốc phòng
và an ninh. Đó là kết quả tổng hợp của nhiều chủ thể, nên ở đâu các chủ thể quan
tâm, đầu tư đúng đắn về ý thức quốc phòng và an ninh thì ở đó, mỗi người dân
có ý thức quốc phòng và an ninh được nâng cao, qua đó an ninh chính trị, trật tự
an toàn xã hội, cũng như chủ quyền, lãnh thổ được giữ vững.
Bên cạnh đó, với tư cách là một hình thái ý thức xã hội ý thức quốc
phòng và an ninh là sự phản ánh thực tiễn nhiệm vụ vận hành quốc phòng và
an ninh cũng như nhiệm vụ phòng thủ quốc gia, giữ gìn an ninh chính trị, trật
tự an toàn xã hội cấp độ Nhà nước. Với tư cách là cá nhân thì ý thức quốc
phòng và an ninh phải được chuyển hóa vào nhận thức, tình cảm, ý chí, niềm
tin của mỗi người dân mà trong đó cán bộ cơ sở đặc biệt là cán bộ chủ chốt
xã, phường thị trấn đóng vai trò quan trọng.
* Cán bộ chủ chốt xã, phường, thị trấn tỉnh Bến Tre
15
Cán bộ là một hiện tượng lịch sử gắn liền với sự xuất hiện và phát
triển của xã hội loài người. Cán bộ là những người giữ chức chỉ huy, quản
lý, chuyên môn nghiệp vụ trong tổ chức chính trị và xã hội nhất định có
nhiệm vụ điều phối hoạt động của các các thành viên nhằm đạt mục đích
đề ra. Họ giữ vai trò nòng cốt quyết định quan trọng sự thành công hay
thất bại của một tổ chức nhất định.
Cán bộ giữ vai trò chủ chốt, liên quan mật thiết đến sự tồn tại, phát triển
của Đảng, của chế độ. Quyết định sự thành bại của cách mạng. V.I.Lênin khẳng
định: “Trong lịch sử, chưa hề có một giai cấp nào giành được quyền thống trị,
nếu nó không đào tạo ra được trong hàng ngũ của mình những lãnh tụ chính trị,
những đại biểu tiên phong có đủ khả năng tổ chức và lãnh đạo phong trào”[40,
tr.473]. Trong tác phẩm “Sửa đổi lối làm việc”, Hồ Chí Minh đó chỉ rõ: “cán bộ
là những người đem chính sách của Đảng, của Chính phủ giải thích cho dân
chúng hiểu rõ và thi hành; đồng thời đem tình hình của dân chúng báo cáo cho
Đảng, cho Chính phủ hiểu rõ, để đặt chính sách cho đúng”[32, tr.269].
Cán bộ của xã, phường, thị trấn là tập hợp những cán bộ trong hệ thống tổ
chức hành chính ở cơ sở, là những cán bộ, đảng viên phụ trách một lĩnh vực
công tác cụ thể của tổ chức đảng, chính quyền hay đoàn thể ở xã, phường, thị
trấn, có số lượng, cơ cấu, tiêu chuẩn theo quy định của Nhà nước. Cán bộ chủ
chốt của Đảng, Nhà nước là những người nắm giữ những chức lãnh đạo, quản
lý trong tổ chức đảng, chính quyền, ban, ngành, đoàn thể từ Trung ương đến
địa phương, là lực lượng nòng cốt của cách mạng.
Từ những phân tích trên có thể quan niệm: cán bộ chủ chốt xã, phường,
thị trấn, thị trấn tỉnh Bến Tre là những cán bộ đảng viên của Đảng, Nhà nước;
đảm nhiệm cương vị lãnh đạo, quản lý điều hành trong tổ chức đảng, chính
quyền ở xã, phường, thị trấn; là lực lượng quan trọng trong tổ chức, lãnh đạo,
chỉ đạo và điều hành toàn bộ quá trình thực hiện đường lối, chủ trương của
Đảng, chính sách, luật pháp của Nhà nước, chỉ thị, nghị quyết các cấp của địa
16
phương; lãnh đạo địa phương phát triển kinh tế và xã hội và công tác quân sự
quốc phòng ở địa phương.
Cán bộ chủ chốt xã, phường, thị trấn tỉnh Bến Tre, bao gồm: Bí thư, Phó
bí thư, Thường trực đảng uỷ, Chủ tịch, Phó chủ tịch Ủy ban nhân dân, Chủ tịch Ủy
ban Mặt trận Tổ quốc Việt Nam [59, tr.3]. Theo quy định của Chính phủ, trong công
tác giáo dục quốc phòng và an ninh, đội ngũ cán bộ này thuộc đối tượng 3.
Mặc dù có những đặc điểm tâm lý từng khu vực khác nhau, độ chênh lệch
về tuổi tác cũng như trình độ, cũng có sự khác nhau nhất định. Về trình độ
học vấn, cán bộ chủ chốt xã, phường, thị trấn những người có trình độ học vấn
tương đối cao và từng bước cán bộ chủ chốt tự nâng cao trình độ. Hiện tại, trình
độ của bí thư đảng ủy là đại học, cao đẳng chiếm trên 52,44%, các chức danh
khác trình độ cao đẳng đại học cũng từng bước nâng lên đáng kể. Ngoài trình độ
chuyên môn hầu hết cán bộ chủ chốt xã, phường, thị trấn đã qua trung, cao cấp
chính trị. Họ là những cán bộ, đảng viên được rèn luyện, trưởng thành từ các
cương vị lãnh đạo, chính quyền của các xã, phường, hoặc các ban, ngành, đoàn
thể trên địa bàn tỉnh, tích lũy được nhiều kinh nghiệm lãnh đạo, tổ chức, quản lý,
điều hành hoạt động của địa phương. Một số cán bộ chủ chốt xã, phường, thị
trấn đã qua chiến tranh hoặc đã từng phục vụ trong lực lượng vũ trang, trong các
ngành nghề khác. Thế hệ cán bộ trẻ được đào tạo cơ bản, kế thừa được những kinh
nghiệm, truyền thống quý báu của đất nước, của dân tộc trong quá trình dựng nước
và giữ nước. Theo đánh giá của đề án số: 3532/ĐA-UBND về “Kiện toàn, nâng cao
chất lượng đội ngũ cán bộ, công chức xã, phường, thị trấn từ nay đến năm 2020”
của Ủy ban nhân dân tỉnh Bến Tre đánh giá: đội ngũ cán bộ cấp xã hiện nay đáp
ứng cơ bản việc thực hiện nhiệm vụ chính trị ở địa phương. Chất lượng đội ngũ cán
bộ được nâng lên rất nhiều so với trước đây”[59, tr.15].
Về chức trách nhiệm vụ, mỗi cương vị công tác có những yêu cầu đặc thù
riêng, nhưng cán bộ chủ chốt xã, phường, thị trấn đều được giao trọng trách là
những người đứng đầu tổ chức Đảng, chính quyền, ban ngành, đoàn thể ở quận
huyện nên có trách nhiệm rất cao với công việc. Hầu hết quan tâm đến mọi mặt
17
công tác của cơ quan, tổ chức được phân công phụ trách, có khả năng bao quát
công việc, nhanh nhạy trong xử lý các tình huống theo đúng chủ trương, đường
lối, chính sách của Đảng. Cương vị công tác cũng đòi hỏi cán bộ chủ chốt xã,
phường, thị trấn hàng ngày phải giải quyết rất nhiều công việc, không chỉ công
tác chuyên môn mà còn nhiều công việc khác liên quan đến mọi mặt hoạt động
của tổ chức Đảng, chính quyền, ban, ngành, đoàn thể thuộc quyền.
Từ quan niệm về quốc phòng và an ninh gắn với đối tượng là cán bộ chủ
chốt xã, phường, thị trấn tỉnh Bến Tre, có thể quan niệm: Ý thức
quốc phòng và an ninh của cán bộ chủ chốt xã, phường, thị trấn
tỉnh Bến Tre là một bộ phận của ý thức chính trị, bao gồm tri
thức, tình cảm, niềm tin, bản lĩnh, tâm trạng, truyền thống, thói
quen, trách nhiệm, và ý chí quyết tâm về nhiệm vụ bảo vệ Tổ
quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa, xây dựng nền quốc phòng toàn
dân, an ninh nhân dân, xây dựng lực lượng vũ trang cơ sở trong
khu vực phòng thủ tỉnh Bến Tre.
Bản chất ý thức quốc phòng và an ninh của cán bộ chủ chốt xã,
phường, thị trấn tỉnh Bến Tre mang bản chất giai cấp công nhân. Vì ý thức
quốc phòng và an ninh là nhân tố không thể thiếu trong hệ thống nhân tố
chính trị tinh thần, thể hiện trong việc phục vụ lợi ích giai cấp, đặc biệt giữ
vững an ninh chính trị ở địa phương tạo lập thế trận khu vực phòng thủ vững
chắc. Ý thức quốc phòng và an ninh của cán bộ chủ chốt xã, phường, thị trấn
mang bản chất ý thức quốc phòng và an ninh của Đảng Cộng sản Việt Nam.
Xét ở góc độ này, ý thức quốc phòng và an ninh của cán bộ chủ chốt xã,
phường, thị trấn thuộc về hình thái ý thức chính trị có mối quan hệ biện chứng
với các hình thái ý thức xã hội khác, mà trước hết là ý thức pháp luật, ý thức
chính trị, ý thức đạo đức, văn hóa,…
Về nội dung cấu trúc của ý thức quốc phòng và an ninh của cán bộ chủ
chốt xã, phường, thị trấn bao gồm: nhiều yếu tố quan hệ với nhau như: tri
thức, tình cảm, ý chí... Trong đó tri thức là yếu tố cơ bản, cốt lõi, là kết quả
18
của quá trình con người nhận thức thế giới, phản ánh thế giới. Để cải tạo tự
nhiên và xã hội, con người phải có tri thức về sự vật hiện tượng, nếu không có
tri thức thì con người hoạt động không có hiệu quả trong thực tiễn, càng có tri
thức về sự vật thì ý thức về sự vật càng sâu sắc.
Đối với cán bộ chủ chốt xã, phường, thị trấn để hình thành ý thức về
quốc phòng và an ninh không thể thiếu ý thức về nhiệm vụ bảo vệ Tổ quốc xã
hội chủ nghĩa. Đó là những kiến thức và hiểu biết sâu sắc về lịch sử, truyền
thống dân tộc trong sự nghiệp chống giặc ngoại xâm, xây dựng đất nước,
cũng như mối quan hệ không thể tách rời giữa độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã
hội. Hiểu rõ việc thực hiện nghĩa vụ bảo vệ Tổ quốc xã hội chủ nghĩa không
chỉ là trách nhiệm mà còn là tình cảm, niềm yêu mến, lòng tự hào, lòng yêu
nước của mỗi cán bộ xã, phường, thị trấn tỉnh Bến Tre. Qua đó, thấm nhuần
những tri thức cơ bản và trình độ giác ngộ về chính trị trên cơ sở nhận thức
sâu sắc lý luận chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, quan điểm
đường lối của Đảng, chính sách và pháp luật của nhà nước, truyền thống đấu
tranh cách mạng của dân tộc; có tình cảm tốt đẹp đối với Đảng, Bác Hồ và chế
độ xã hội chủ nghĩa, có niềm tin đối với sự lãnh đạo của Đảng và thắng lợi của
công cuộc đổi mới đất nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa. Những kiến thức
cơ bản ấy, trang bị cho cán bộ chủ chốt xã, phường, thị trấn hiểu được sự ưu việt
của chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh. Chỉ có những tư tưởng đó,
mới đem lại cho nhân dân ta có một nền độc lập thực sự, mới đảm bảo đúng
nghĩa: “dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh”[26, tr.25]. Qua
đó, từng cán bộ chủ chốt xã, phường, thị trấn thể hiện hết chức trách, vai trò
của mình trên cương vị là chủ thể đối với hoạt động quốc phòng và an ninh ở
địa phương mình, thể hiện trách nhiệm, tình cảm, lòng tự hào, tinh thần yêu
nước của mình cũng như đóng góp trực tiếp trong xây dựng kế hoạch chiến
đấu trị an của xã, phường, thị trấn.
Tri thức được trang bị trong quá trình bồi dưỡng kiến thức quốc phòng
và an ninh là cơ sở quan trọng để cán bộ chủ chốt xã, phường, thị trấn nhận
19
thức âm mưu, thủ đoạn của kẻ thù đối với cách mạng nước ta hiện nay. Trên
cơ sở đó nhận thức đúng đối tác và đối tượng, về hợp tác và đấu tranh theo
đúng tinh thần của Nghị quyết Trung ương 8 (khóa XI) khẳng định tính hai
mặt tồn tại, đan xen một cách phổ biến trong “mỗi đối tác” và “mỗi đối
tượng”, đòi hỏi cán bộ chủ chốt xã, phường, thị trấn phải có cái nhìn biện
chứng khoa học để trong từng thời điểm cụ thể nhận biết rõ đâu là đối tác để
tranh thủ hợp tác và đâu là đối tượng để đấu tranh. Đây là sự phát triển mới,
nhìn nhận vấn đề linh hoạt hơn, nêu cao tinh thần cảnh giác, vừa hợp tác,
vừa đấu tranh trên tất cả các lĩnh vực. Với quan điểm chỉ đạo chiến lược đó,
chúng ta đã có nhiều chủ trương, chính sách đúng đắn để “thêm bạn, bớt
thù”, tăng cường sự hợp tác hữu nghị với các nước. Nhờ vậy, tranh thủ khai
thác, phát huy được các mặt tích cực của các đối tác để phát triển kinh tế xã hội, hạn chế được những mặt tiêu cực của đối tượng, góp phần bảo đảm
sự ổn định chính trị, trật tự, an toàn xã hội, tạo nền tảng vững chắc để xây
dựng và bảo vệ Tổ quốc.
Ý thức quốc phòng và an ninh của cán bộ chủ chốt xã, phường, thị trấn
tỉnh Bến Tre còn biểu hiện ở tình cảm, niềm tin, bản lĩnh, tâm trạng, truyền
thống của quê hương Đồng Khởi anh hùng. Tình cảm ấy, là một hình thái đặc
biệt của sự phản ánh tồn tại, nó phản ánh quan hệ giữa người với người và
quan hệ giữa con người với thế giới khách quan. Tình cảm là những thái độ
cảm xúc ổn định của con người đối với những sự vật, hiện tượng của hiện
thực khách quan, phản ánh ý nghĩa của chúng trong mối liên hệ với nhu cầu
và động cơ của họ. Tình cảm tham gia vào mọi hoạt động của con người và
trở thành một động lực quan trọng của hoạt động con người. Tri thức biến
thành tình cảm mãnh liệt thì tri thức mới đạt đến độ sâu sắc và phải thông qua
tình cảm thì tri thức mới biến thành hành động thực tế, mới phát huy được sức
mạnh của mình. Nó được biểu hiện ở mỗi cán bộ chủ chốt xã, phường thị trấn
là tình yêu gia đình, làng xóm, quê hương, tình cảm gắn bó với những người
thân trong gia đình, với quần chúng nhân dân lao động ở địa phương,…
20
những giá trị ấy kết tinh thăng hoa thành tình yêu quê hương. Những yếu tố
của truyền thống của tỉnh nhà một nét đặc thù, thẫm thấu ở từng cán bộ chủ
chốt xã, phường, thị trấn tỉnh Bến Tre, là tinh thần Đồng Khởi bất khuất kiên
trung, tinh thần quật cường của khí khái của vùng quê ba dãy cù lao được
Đảng, Nhà nước ghi nhận công lao tuyên dương hai lần danh hiệu Anh hùng
lực lượng vũ trang nhân dân của cha ông để lại. Đó là cơ sở để cán bộ chủ
chốt xã, phường thị trấn tỉnh nhà phát huy nâng lên thành ý thức bảo vệ Tổ
quốc - hạt nhân của ý thức quốc phòng và an ninh của từng cán bộ chủ chốt
xã, phường, thị trấn tỉnh nhà.
Cùng với đó, ý thức quốc phòng và an ninh của cán bộ chủ chốt xã,
phường, thị trấn tỉnh Bến Tre còn thể hiện ở chỗ, không chỉ dừng lại ở tình
yêu quê hương, làng xóm, địa bàn hoạt động của mình mà nó được kết tinh
nâng tầm bởi tình yêu sâu sắc với chế độ xã hội chủ nghĩa, cũng như những
thành tựu mà Đảng và nhân dân ta phấn đấu hơn 30 năm qua. Đại hội Đại
biểu toàn quốc lần thứ XII đã khẳng định những thành tựu của 30 năm đổi
mới: “Sức mạnh về mọi mặt của đất nước được nâng lên; kiên quyết, kiên trì
đấu tranh bảo vệ độc lập, chủ quyền, thống nhất toàn vẹn lãnh thổ và chế độ
xã hội chủ nghĩa. Quan hệ đối ngoại ngày càng được mở rộng và đi vào chiều
sâu; vị thế và uy tín của Việt Nam trên trường quốc tế được nâng cao.” [26,
tr.66]. Chính những thành quả có được trong những năm qua là vô cùng quý
báu, phải đánh đổi bằng mồ hôi, trí tuệ và xương máu của các thế hệ cha anh
đi trước, do đó việc nhận thức giành được những thành quả là vất vả, nhưng
giữ vững những thành quả đó còn khó hơn. Đòi hỏi mỗi cán bộ chủ chốt xã,
phường, thị trấn cần phát huy vai trò trách nhiệm là “những kiến trúc sư” ở
địa phương, lãnh đạo, chỉ đạo trực tiếp cấp ủy, các lực lượng thực hiện thắng
lợi những nhiệm vụ chính trị đặt ra, từng bước có lộ trình cụ thể nâng cao
mức sống của người dân, phấn đấu hoàn thành mục tiêu xây dựng nông thôn
mới cũng như phát huy, giữ vững những tiêu chí đã đạt được, tạo niềm tin
21
vững chắc của nhân dân đối với xã, phường, thị trấn nói riêng của cả nước nói
chung, phát huy được sức mạnh của khối đại đoàn kết toàn dân tộc.
Ý thức quốc phòng và an ninh của cán bộ chủ chốt xã, phường, thị trấn
còn thể hiện ở ý chí của họ. Ý chí là điểm hội tụ của tri thức và tình cảm
hướng vào hoạt động của con người. Ý chí là mặt năng động của ý thức, biểu
hiện ở năng lực thực hiện những hành động có mục đích, đòi hỏi phải có sự
nỗ lực khắc phục khó khăn; năng lực này không phải tự nhiên hình thành ở
mỗi người và không phải ai cũng có như nhau. Nhờ ý chí quyết tâm mà cán
bộ chủ chốt xã, phường thị trấn tỉnh Bến Tre sẵn khắc phục mọi khó khăn,
sàng tham gia các hoạt động quốc phòng và an ninh, bảo vệ Tổ quốc và tổ
chức được hoạt động của mình, hoàn thành nhiệm vụ quân sự, quốc phòng địa
phương với chất lượng và hiệu quả cao nhất. Nội dung đó được biểu hiện ở
tinh thần cảnh giác cách mạng, giữ vững khu vực chiến đấu trị an ở địa
phương mình. Bên cạnh đó, cán bộ chủ chốt xã, phường, thị trấn cần có tinh
thần tham gia đấu tranh làm thất bại mọi âm mưu, thủ đoạn chống phá của các
thế lực thù địch đối với cách mạng nước ta nhất là tình trạng địch lợi dụng
vấn đề dân tộc, dân chủ, nhân quyền cũng như làm phức tạp hóa các vấn đề
khiếu kiện ở địa phương thành những điểm nóng phức tạp tình hình, chia rẽ
khối đại đoàn kết toàn dân tộc. Và nó thể hiện ở năng lực bảo vệ những tư
tưởng, quan điểm chính trị; năng lực giải quyết những tình huống, nhiệm vụ
chính trị; lập trường giai cấp vững vàng, tinh thần cảnh giác cách mạng cao,
tích cực tìm tòi nghiên cứu, nâng cao trình độ hiểu biết, tự giác tu dưỡng rèn
luyện theo định hướng chính trị và quyết tâm hoàn thành chức trách nhiệm vụ
do tổ chức phân công.
Ý thức quốc phòng và an ninh của cán bộ chủ chốt xã, phường, thị trấn
tỉnh Bến Tre còn thể hiện ở ý thức về xây dựng nền quốc toàn dân, an ninh
nhân dân của chủ thể. Xây dựng nền quốc phòng toàn dân, an ninh nhân dân
tạo nên môi trường hòa bình, giữ vững ổn định chính trị và trật tự an toàn xã
hội để phát triển đất nước. Ý thức xây dựng yếu tố này vững mạnh là điều
22
kiện cơ bản trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc xã hội chủ nghĩa,
khi có tình huống xảy ra sẽ huy động được sức mạnh của toàn thể nhân dân.
Theo quan điểm của Nghị quyết hội nghị Trung ương Đảng lần thứ 8 (khóa
XI) về chiến lược bảo vệ Tổ quốc trong tình hình mới chỉ rõ: kiên định mục
tiêu độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội. Giữ vững môi trường hòa
bình, ổn định để phát triển kinh tế - xã hội là lợi ích cao nhất của đất nước;
đồng thời nâng cao cảnh giác làm thất bại mọi âm mưu hoạt động chống phá,
xâm lược của các thế lực thù địch; không để bị động, bất ngờ. Do đó, cán bộ chủ
chốt xã, phường, thị trấn tỉnh Bến Tre không thể bỏ sức mạnh của "thế trận lòng
dân". Việc tạo lập được sự nhất trí chính trị - tinh thần của nhân dân trong thực
hiện hai nhiệm vụ chiến lược xây dựng và bảo vệ Tổ quốc với lòng tin yêu
Đảng, chế độ, chính quyền ở địa phương là cơ sở của việc phát huy thế trận quốc
phòng toàn dân và an ninh nhân dân gắn kết với nhau. Trong điều kiện hiện nay,
cán bộ chủ chốt xã phường thị trấn tỉnh Bến Tre nhất quán quan điểm chú trọng
phát triển kinh tế, nâng cao đời sống của nhân dân, chú trọng thế mạnh của địa
phương mình tận dụng những thuận lợi tốt nhất và ổn định về kinh tế chú trọng
xậy dựng tiềm lực quốc phòng toàn dân, an ninh nhân dân trên cơ sở các tiềm
lực: chính trị - tinh thần, kinh tế, khoa học, công nghệ và kế hoạch chiến đấu trị
an của xã, phường, thị trấn mình.
Ý thức quốc phòng và an ninh của cán bộ chủ chốt xã, phường, thị trấn
tỉnh Bến Tre còn thể hiện ở ý thức về xây dựng lực lượng vũ trang cơ sở vững
mạnh. Trong đó thấm nhuần quan điểm của Đảng ủy quân sự tỉnh về xây
dựng lực lượng vũ trang cách mạng không phải dựa vào trang bị, vũ khí, mà
là tinh thần chiến đấu của cán bộ, chiến sĩ dưới sự lãnh đạo tuyệt đối và toàn
diện của Đảng. Đảng ủy quân sự tỉnh đã đề ra đường lối tiến hành chiến tranh
nhân dân, và xây dựng lực lượng vũ trang nhân dân, đề ra chiến lược chiến
thuật của chiến tranh nhân dân làm kim chỉ nam cho mọi hoạt động xây dựng,
huấn luyện và chiến đấu của bộ đội địa phương nói chung, dân quân tự vệ, dự
bị động viên nói riêng. Ý thức xây dựng lực lượng vũ trang ở cơ sở, đặc biệt
23
với chủ thể là cán bộ chủ chốt xã, phường, thị trấn không chỉ chú trọng xây
dựng chi bộ quân sự xã, phường, thị trấn vững mạnh, chất lượng chính trị của
dân quân tự vệ thật sự tin cậy, tổ chức huấn luyện đạt chất lượng cao, sẵn
sàng chiến đấu trong mọi tình huống mà còn chú trọng chất lượng dự bị động
viên; xây dựng lực lượng công an; tổ chức tuyển quân đúng luật định, đạt chỉ
tiêu, bảo đảm chất lượng giao quân đáp ứng tình hình, nhiệm vụ quân sự,
quốc phòng và các nhiệm vụ khác khi cần.
Ý thức quốc phòng và an ninh của cán bộ chủ chốt xã, phường, thị trấn
không chỉ đơn thuần là việc lĩnh hội những kiến thức được trang bị trong quá
trình học tập mà nó còn phải thông qua hoạt động thực tiễn thực hiện nhiệm
vụ quân sự, quốc phòng của địa phương mình. Cán bộ chủ chốt xã, phường,
thị trấn tỉnh Bến Tre trong thời gian qua được trang bị toàn diện một số kiến
thức cơ bản về quốc phòng và an ninh thông qua lớp tập huấn về bồi dưỡng
kiến thức quốc phòng cho đối tượng 3. Ý thức quốc phòng và an ninh của cán
bộ chủ chốt xã, phường, thị trấn tỉnh Bến Tre được thể hiện ngày càng sâu sắc
bởi sự hiểu biết quan điểm của chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh,
đường lối của Đảng ta về nhiệm vụ bảo vệ Tổ quốc, những âm mưu, thủ đoạn
chống phá của kẻ thù đối với cán bộ cơ sở. Đồng thời, vận dụng kiến thức được
trang bị xây dựng những phương án đối phó phù hợp với điều kiện của địa
phương mình. Đây là vấn đề có ý nghĩa quan trọng trong đánh giá ý thức quốc
phòng và an ninh của cán bộ chủ chốt xã, phường, thị trấn tỉnh Bến Tre.
Những yếu tố này có mối quan hệ chặt chẽ với nhau, vừa phản ánh các
cấp độ cấu thành ý thức quốc phòng và an ninh, vừa phản ánh cấp độ tư
tưởng, lý luận và cấp độ tâm lý, tình cảm của ý thức quốc phòng và an ninh
của cán bộ chủ chốt xã, phường, thị trấn thông qua hành động thực tiễn thực
hiện nhiệm vụ quân sự, quốc phòng địa phương. Được biểu hiện trong nhận
thức về đường lối, quan điểm của Đảng Cộng sản Việt Nam, tư tưởng Hồ Chí
Minh về nhiệm vụ quốc phòng và an ninh, xây dựng nền quốc phòng toàn
dân, an ninh nhân dân. Không những thế, ý thức quốc phòng và an ninh của
24
cán bộ chủ chốt xã, phường, thị trấn tỉnh Bến Tre còn thể hiện ở sự giác ngộ
chính trị ngày càng cao về trách nhiệm, nghĩa vụ của mình đối với việc thực
hiện nhiệm vụ quân sự, quốc phòng địa phương; ở niềm tin vào sự tất thắng
của sự nghiệp bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa trong mọi tình
huống. Do đó, bên cạnh được trang bị những kiến thức, nội dung chương trình
chuẩn theo quy định của Bộ, cần trang bị những hiểu biết về kinh nghiệm của
địa phương, những mô hình hay, việc luyện tập, tác nghiệp trên bản đồ giúp
họ có kiến thức toàn diện hơn.
Trên cơ sở nhận thức rõ sự nghiệp của toàn dân dưới sự lãnh đạo của
Đảng, sự quản lý của Nhà nước, trong đó Quân đội nhân dân và công an nhân
dân là lực lượng nòng cốt. Từ đó, mỗi cán bộ chủ chốt xã, phường, thị trấn
cần hiểu rõ việc thực hiện nghĩa vụ, quyền hạn của mình đối với sự nghiệp
bảo vệ Tổ quốc nói chung, nhiệm vụ xây dựng kế hoạch chiến đấu trị an xã,
phường, thị trấn nói riêng. Đồng thời, nắm vững đối tác, đối tượng, về hợp tác
và đấu tranh, những vấn đề có tính nguyên tắc trong xử lý mối quan hệ giữa
đối tượng và đối tác của cách mạng Việt Nam trong tình hình hình mới:
“thống nhất nhận thức về đối tượng và đối tác; nắm vững đường lối, quan
điểm, yêu cầu nhiệm vụ bảo vệ Tổ quốc trong tình hình mới; nâng cao ý thức
trách nhiệm và tinh thần cảnh giác trong thực hiện nhiệm vụ quốc phòng, an
ninh” [25, tr.109]. Bên cạnh đó, cần nắm chắc âm mưu thâm độc của kẻ thù
đối với cách mạng Việt Nam đặc biệt là chiến lược “Diễn biến hòa bình” đối
với cơ sở, lợi dụng vấn đề nhạy cảm như nhân quyền, dân chủ, dân tộc, tôn
giáo để gây mất ổn định chính trị - xã hội ở địa phương.
1.1.2. Vai trò ý thức quốc phòng và an ninh của cán bộ chủ chốt xã,
phường, thị trấn tỉnh Bến Tre
Ý thức quốc phòng và an ninh của cán bộ chủ chốt xã, phường, thị
trấn tỉnh Bến Tre là cơ sở thống nhất nhận thức về sự nghiệp xây dựng và
bảo vệ Tổ quốc ở địa phương nhằm củng cố nền tảng cho quá trình nhận thức
và bảo vệ Tổ quốc trong tình hình mới.
25
Cán bộ chủ chốt xã, phường, thị trấn tỉnh Bến Tre có vị trí vai trò rất
quan trọng trong thực hiện nhiệm vụ quân sự, quốc phòng địa phương. Ở
cơ sở họ là những cán bộ được giao nhiệm vụ trực tiếp tổ chức, chỉ huy,
triển khai thực hiện các nhiệm vụ trên giao. Do đó, kết quả hoàn thành
nhiệm vụ quốc phòng và an ninh ở địa phương phụ thuộc rất lớn vào chất
lượng công tác của lực lượng này.
Trong thời kỳ mới Đảng, Nhà nước và nhân dân ta đang ra sức đẩy
mạnh sự nghiệp công nghiệp hóa hiện đại hóa đất nước, phấn đấu vì mục tiêu:
Dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh. Quá trình xây dựng và
bảo vệ Tổ quốc xã hội chủ nghĩa hiện nay, Đảng ta tiếp tục khẳng định bảo vệ
Tổ quốc xã hội chủ nghĩa là một trong hai nhiệm vụ chiến lược của cách
mạng Việt Nam, là nhiệm vụ “trọng yếu, thường xuyên” của Đảng, Nhà nước
và nhân dân ta trong giai đoạn hiện nay. Để đạt được yêu cầu trên cán bộ chủ
chốt xã, phường, thị trấn tỉnh Bến Tre phải được nâng cao chất lượng toàn
diện cả về phẩm chất và năng lực. Với sự nghiệp quốc phòng toàn dân kết
hợp với an ninh nhân dân đòi hỏi cán bộ chủ chốt xã, phường, thị trấn trước
hết phải được nâng lên về ý thức quốc phòng và an ninh, đây là vấn đề rất
quan trọng trong tình hình hiện nay. Nhằm làm cho cán bộ chủ chốt xã,
phường, thị trấn tỉnh Bến Tre này vững niềm tin, thành thạo tiến hành công
quân sự, quốc phòng ở địa phương, hoàn thành mọi nhiệm vụ trong bất kỳ
tình huống nào. Ý thức quốc phòng và an ninh của cán bộ chủ chốt xã,
phường, thị trấn tỉnh Bến Tre làm cho họ ngày càng tin tưởng hơn vào sự
thắng lợi của sự nghiệp cách mạng mà Đảng và nhân dân ta đang tiến hành.
Việc nhận thức đúng về nhiệm vụ công tác quân sự, quốc phòng địa phương
có vai trò quan trọng, giúp họ có kỹ năng tốt trong thực hiện công tác tư tưởng.
Chủ tịch Hồ Chí Minh - người cha thân yêu của lực lượng vũ trang đánh giá rất
cao vai trò của công tác tư tưởng, Người cho rằng, lãnh đạo quan trọng nhất là
lãnh đạo công tác tư tưởng, phải hiểu tư tưởng của mỗi cán bộ để giúp đỡ thiết
26