Tải bản đầy đủ (.docx) (148 trang)

Quản lý hoạt động giáo dục hướng nghiệp ở các trường THPT huyện nghĩa hưng, tỉnh nam định đáp ứng yêu cầu đổi mới giáo dục

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (835.19 KB, 148 trang )

Bộ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC sư PHẠM HÀ NỘI 2

LƯƠNG THẾ DŨNG

QUẢN LÝ HOẠT ĐỘNG GIÁO DỤC
HƯỚNG NGHIỆP Ở CÁC TRƯỜNG THPT HUYỆN
NGHĨÃ HƯNG, TỈNH NAM ĐỊNH
ĐÁP ỨNG YÊU CẦU ĐỔI MỚI GIAO DỤC

LUẬN VĂN THẠC sĩ KHOA HỌC GIÁO DỤC

Hà Nội, 2016


Bộ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC sư PHẠM HÀ NỘI 2
___•____•_________•___ •

LƯƠNG THÉ DŨNG

QUẢN LÝ HOẠT ĐỘNG GIÁO DỤC
HƯỚNG NGHIỆP Ở CẰC TRƯỜNG THPT
HUYỆN
NGHĨÃ HƯNG, TỈNH NẠM ĐỊNH
ĐÁP ỨNG YÊU CẦU ĐỎI MỚI GIAO DỤC
Chuyên ngành: QUẢN LÝ GIÁO DỤC
Mã sổ: 60 14 01 14

LUẬN VĂN THẠC sĩ KHOA HỌC GIÁO DỤC


Người hướng dẫn khoa học: TS. Nguyễn Mai Hương


3

LỜI CẢM ƠN
Tác giả xin chân thành cảm ơn tất cả các thầy cô giáo, cán bộ quản lý trường Đại học Sư phạm Hà Nội 2 đã tạo
điều kiện thuận lợi cho tác giả trong thời gian học tập và nghiên cứu tại nhà trường.

Tác giả xin chân thành cảm ơn các đồng chí Lãnh đạo, Chuyên viên Sở Giáo dục và Đào tạo tính Nam Định;
cán bộ quản lý, giáo viên, học sinh ở các trường THPT huyện Nghĩa Hưng, tỉnh Nam Định đã đã tạo điều kiện, tham
gia đóng góp ý kiến, cung cấp thông tin, tư liệu cho tác giả trong quá trình học tập, điều tra, nghiên cứu và hoàn
thành luận văn này.
Đặc biệt, tác giả xin được bày tỏ lòng biết ơn sâu sắc tới TS. Nguyễn Mai Hương, người hướng dẫn khoa học
đầy ừách nhiệm, đã tận tâm giúp đỡ tác giả trong việc định hướng nghiên cứu đề tài. Trong suốt quá trình nghiên cứu
và hoàn thành luận văn này, tác giả đã nhận được những lòi chỉ bảo ân cần, cùng với những góp ý sâu sắc về kiến
thức, kinh nghiệm quý báu của TS. Nguyễn Mai Hương.
Dù đã rất cố gắng nỗ lực hết mình trong việc học tập, nghiên cứu lý luận, khảo sát thực tiễn, song luận văn này
vẫn còn nhiều thiếu sót. Kính mong được sự đóng góp ý kiến của các thày cô, các đồng nghiệp và những người quan
tâm đến đề tài.
Xin chân thành cảm ơn!
Nam Định, ngày 29 tháng 6 năm 2016 Tác giả luận văn

Lương Thế Dũng


4

LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan rằng số liệu và kết quả nghiên cứu trong luận văn này là

trung thực và không trùng lặp với các đề tài khác. Tôi cũng xin cam đoan rằng
mọi sự giúp đõ cho việc thực hiện luận văn này đã được cảm ơn và các thông
tin trích dẫn trong luận văn đã được chỉ rõ nguồn gốc.
Tác giả luận văn

Lương Thế Dũng


5

MUC LUC
••


6

2.1.1.................................................................................................................
2.2.1.
huynh

Thực trạng về nhận thức của học sinh, CBQL, giáo viên và phụ


DANH MUC CÁC TỪ VIẾT TẮT
BCHTW
BGH
CBQL


Ban chấp hành Trung ương

Phụ huynh học sinh
Ban giám hiệu
QLGD.
Quản lý giáo dục
Cán bộ quản lý
QTGD
Quá trình giáo dục
Cao
đẳng

ĐT

SGK nghiệp hóa - Hiện
Sáchđại
giáo
Công
hóakhoa
SHHN
Sinh hoạt hướng
nghiệp
Chính phủ
SL
Số lượng
Cơ sở vật chất
THCN
Trung học chuyên

sở sản xuất
nghiệp
THCS

Trung học cơ sở
Đại học
THPT
Đại
học Sư phạm Trung học phổ thông
TL tạo
Tỷ lệ
Đào

GDHN
GDPT

TNCS
Thanh niên Cộng sản
Giáo dục hướng nghiệp
TT dục phổ thông Thông tư
Giáo

CNH-HĐH
CP
CSVC
CSSX
ĐH
ĐHSP

GDTX

UBND
Giáo
dục và Đào tạo Uỷ ban nhân dân

XH dục thường xuyên
Xã hội
Giáo

GV

XHCN
Giáo
viên

HĐGDHN
HN

Hoạt động giáo dục hướng
nghiệp
Hướng nghiệp

HS

Học sinh

HSPT
KTTH-HN
KT-XH

Học sinh phổ thông
Kỹ thuật tổng họp - Hướng
nghiệp
Kinh tế - Xã hội


NN

Nghề nghiệp

NV

Nhân viên

NXB

Nhà xuất bản

PTTH

Phổ thông trung học

GD&ĐT

Xã hội chủ nghĩa


DANH MUC BẢNG SỐ LIÊU • •
Bảng 2.1. Thống kê số lượng học sinh THPT từ năm học 2011-2012

DANH MỤC CÁC BIỂU ĐỒ, sơ ĐỒ


9

MỞ ĐẦU

1. Lý do chọn đề tài
Hiện nay nước ta đã và đang ừong quá trình đổi mới từ cơ cấu kinh tế bao
cấp sang nền kinh tế thị trường theo định hướng XHCN, hướng tới hội nhập
vào nền kinh tế toàn cầu. Để góp phần nâng cao khả năng cạnh tranh của nền
kinh tế đất nước, việc đào tạo nghề nghiệp phải tuân thủ các quy luật khách
quan của thị trường, đặc biệt là thị trường lao động, phải đáp ứng và phát triển
được nguồn nhân lực có trí tuệ cao, có tay nghề thành thạo, có phẩm chất tốt
gắn liền với một nền khoa học, công nghệ sản xuất hiện đại.
Vấn đề phân luồng học sinh sau THPT hiện nay đang được ngành giáo
dục quan tâm. số lượng học sinh tốt nghiệp THPT cũng đã và đang tạo áp lực
cho nền kinh tế xã hội về lao động, việc làm và tiềm năng phát triển thị trường
lao động.
Hoạt động GDHN cho học sinh có ý nghĩa rất to lớn. về mặt giáo dục, đó
là việc điều chỉnh hứng thú nghề nghiệp của học sinh theo hướng phân công lao
động xã hội, góp phần vào việc cụ thể hóa các mục tiêu đào tạo của nhà trường
phổ thông, về mặt kinh tế, hoạt động GDHN giúp khai thác và sử dụng họp lý
tiềm năng lao động của lực lượng lao động trẻ, từ đó giúp nâng cao năng suất
lao động xã hội.

về

mặt xã hội, hoạt động GDHN có chức năng thực hiện

đường lối giáo dục của Đảng và Nhà nước.
Chiến lược phát triển kỉnh tế - xã hội 2011-2020 xác định: “Mở rộng giáo
dục mầm non, hoàn thành phổ cập mầm non 5 tuổi. Thực hiện phổ cập giáo
dục tiểu học và trung học cơ sở với chất lượng ngày càng cao. Phát triển mạnh
và nâng cao chất lượng dạy nghề và giáo dục chuyên nghiệp ”, [15].
Tại Báo cáo chính trị của Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa XI tại
Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ


xn

của Đảng khẳng định: "Giáo dục là

quốc sách hàng đầu. Phát triển giáo dục và đào tạo nhằm nâng cao dân trí,


1
0

đào tạo nhân lực, bồi dưỡng nhân tài. Chuyển mạnh quá trình giáo dục chủ yểu
từ trang bị kiến thức sang phát triển toàn diện năng lực và phẩm chất người
học; học đi đôi với hành, lỷ luận gắn với thực tiễn. Phát triển giáo dục và đào
tạo phải gẳn với nhu cầu phát triển kỉnh tế - xã hội, xây dựng và bảo vệ Tổ
quốc, với tiến bộ khoa học - công nghệ, yêu cầu phát triển nguồn nhân lực và
thị trường lao động", [31].
Nghị quyết số 29-NQ/TW tại Hội nghị Ban Chấp hành Trung ương Đảng
lần thứ 8 khóa XI về đổi mới căn bản toàn diện giáo dục và đào tạo đã đề ra
nhiệm vụ: "Trước mẳt, ổn định hệ thống giáo dục phổ thông như hiện nay. Đẩy
mạnh phân luồng sau trung học cơ sở; định hướng nghề nghiệp ở trung học
phổ thông. Tiếp tục nghiên cứu đổi mới hệ thống giáo dục phổ thông phù hợp
với điều kiện cụ thể của đất nước và xu thể phát triển giáo dục của thế giới",
[16].
Vấn đề dạy học công nghệ, giáo dục lao động và hướng nghiệp đã được
chú ừọng đổi mới cho phù hợp với bối cảnh Việt Nam đang chủ động tích cực
hội nhập vào nền kinh tế khu vực và thế giới. Đồng thời, công tác quản lý
GDHN có vai trò ngày càng quan trọng góp phần vào việc cơ cấu lại và phát
triển nguồn nhân lực, đáp ứng nhu cầu của sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại
hóa đất nước.

Tuy vậy, giáo dục hướng nghiệp hiện nay vẫn chưa được các cấp quản lý
giáo dục và các trường học quan tâm đúng mức. Chất lượng hoạt động hướng
nghiệp chưa đáp ứng được yêu càu của học sinh và xã hội, học sinh phổ thông
cuối các cấp học chưa được chuẩn bị chu đáo để lựa chọn nghề nghiệp, lựa
chọn ngành học phù hợp với bản thân và yêu cầu của xã hội.
Thực tế những năm qua, ở huyện Nghĩa Hưng, tỉnh Nam Định phong trào
giáo dục đã có những bước tiến đáng kể; công tác quản lý nhà trường THPT nói
chung và quản lý hoạt động dạy học nói riêng ngày càng được đổi mới đem lại


1
1

hiệu quả ngày càng cao về chất lượng dạy học. Tuy nhiên kết quả giáo dục
THPT của huyện Nghĩa Hưng, tỉnh Nam Định ừong thời gian qua chưa tương
xứng với tiềm năng vốn có của địa phương. Việc phân luồng sau trung học cơ
sở còn gặp nhiều khó khăn, do công tác giáo dục hướng nghiệp ừong các nhà
trường chưa được coi trọng.
Việc tìm kiếm biện pháp trong công tác quản lý hoạt động giáo dục hướng
nghiệp ở các trường THPT nhằm nâng cao hiệu quả giáo dục và đào tạo là vấn
đề cấp thiết hiện nay vừa có tầm chiến lược trong quá trình phát triển nhà
trường tương lai lại vừa đáp ứng mục tiêu kinh tế - văn hoá - xã hội của địa
phương. Đó là những lý do thúc đẩy tôi chọn, nghiên cứu đề tài “Quản lý hoạt
động giáo dục hướng nghiệp ở các trường THPT huyện Nghĩa Hưng, tỉnh
Nam Định đáp ứng yêu cầu đổi mới giáo dục”.
2. Mục đích nghiên cứu
Trên cơ sở nghiên cứu lý luận và tìm hiểu thực trạng, đề xuất một số biện
pháp quản lý hoạt động giáo dục hướng nghiệp ở các trường THPT huyện
Nghĩa Hưng, tỉnh Nam Định nhằm góp phần nâng cao chất lượng và hiệu quả
giáo dục hưởng nghiệp cho học sinh, đáp ứng yêu cầu đổi mới giáo dục.

3. Khách thể và đối tượng nghiên cứu
3.1.

Khách thể nghiên cứu: Công tác quản lý hoạt động giáo dục

hướng nghiệp ở trường THPT.
3.2.

Đối tượng nghiên cứu: Các biện pháp quản lý hoạt động giáo

dục hướng nghiệp ở các trường THPT huyện Nghĩa Hưng, tỉnh Nam
Đinh.
4. Giả thuyết khoa học
Công tác quản lý hoạt động GDHN ở các trường THTPT ở huyện Nghĩa
Hưng, tính Nam Định trong thời gian qua đã thu được một số kết quả nhất định,
góp phần nâng cao chất lượng giáo dục - đào tạo của huyện Nghĩa Hưng nói


1
2

riêng và tỉnh Nam Định nói chung. Tuy nhiên vấn đề quản lý hoạt động giáo
dục hướng nghiệp cho học sinh ở các trường THPT thuộc huyện Nghĩa Hưng
chưa thực sự có hiệu quả. Nếu áp dụng họp lý các biện pháp quản lý hoạt động
GDHN được đề xuất thì sẽ nâng cao được chất lượng GDHN trong nhà trường,
thực hiện được mục tiêu phát triển giáo dục của địa phương, đáp ứng yêu cầu
đổi mới giáo dục.
5. Nhiệm vụ nghiên cứu
Hệ thống hóa một số vấn đề lý luận về quản lý hoạt động GDHN ở các
trường THPT. Khảo sát thực ừạng quản lý hoạt động GDHN của các trường

THPT trên địa bàn huyện Nghĩa Hưng. Đồ xuất biện pháp quản lý hoạt động
GDHN đối với các trường THPT huyện Nghĩa Hưng đáp ứng yêu càu đổi mới
giáo dục hiện nay. Khảo sát tính khả thi của các biện pháp.
6. Giới hạn và phạm vi nghiên cứu
-

Nghiên cứu thực trạng hoạt động GDHN và quản lý hoạt động GDHN ở
các trường THPT thuộc huyện Nghĩa Hưng, tinh Nam Định.

-

Chủ thể quản lý là cấp quản lý của nhà trường mà người đứng đầu là
Hiệu trưởng.

-

Thời gian nghiên cứu: Các năm học 2013-2014, 2014-2015, 2015-2016.

7. Phương pháp nghiên cứu
7.1.

Nhóm các phương pháp nghiên cứu lý luận: Phân tích, tổng họp,

khái quát hóa và hệ thống hóa các vấn đề lý luận, khái niệm hoá các
vấn đề lý luận từ các văn bản, tài liệu, Nghị quyết của Đảng, Chính
phủ, Bộ GD&ĐT, Sở GD&ĐT về nâng cao hiệu quả quản lý hoạt
động giáo dục hướng nghiệp liên quan đến đề tài.
7.2.

Nhóm các phương pháp nghiên cứu thực tiễn: quan sát, điều tra,


phỏng vấn, tổng kết kỉnh nghiệm, phương pháp chuyên gia, phương
pháp khảo nghiệm để thu thập thông tin.


1
3

Phương pháp điều tra bằng bảng hỏi: Đây là phương pháp sử dụng một
phiếu trưng cầu ý kiến với một hệ thống câu hỏi đã được soạn sẵn, nhằm thu
thập những thông tin cần thiết về vấn đề quản lý nghiên cứu. Dùng phương
pháp này sẽ giúp cho điều tra trên một diện rộng một số lượng lớn khách thể
khảo sát trong một thời gian ngắn đồng thời dễ khái quát vấn đề nghiên cứu.
Phương pháp quan sát: Sử dụng các quan sát để thu thập thông tin về công
tác quản lý hoạt động giáo dục hướng nghiệp trong các trường THPT huyện
Nghĩa Hưng và ghi chép trung thực những nhân tố có liên quan đến đối tượng
và mục đích nghiên cứu.
Phương pháp phỏng vấn: Phỏng vấn trực tiếp CBQL, GV, PHHS và tham
khảo ý kiến các chuyên gia để có kết luận thỏa đáng trong việc đánh giá thực
ừạng nâng cao hiệu quả quản lý hoạt động giáo dục hướng nghiệp.
7.3.

Nhóm các phương pháp thống kê toán học: xử lý các số liệu để

phân tích rút ra nhận xét.
8. Cấu trúc của luận văn
Ngoài phần mở đầu, phụ lục, kết luận và kiến nghị luận văn cấu trúc gồm
3 chương.
Chương 1: Cơ sở lý luận về quản lý hoạt động giáo dục hướng nghiệp ở
trường THPT.

Chương 2: Thực hạng quản lý hoạt động giáo dục hướng nghiệp ở các
trường THPT huyện Nghĩa Hưng, tỉnh Nam Định.
Chương 3: Một số biện pháp quản lý hoạt động giáo dục hướng nghiệp ở
các trường THPT huyện Nghĩa Hưng, tỉnh Nam Định đáp ứng yêu cầu đổi mới
giáo dục.
Chương 1
Cơ SỞ LÝ LUẬN VỀ QUẢN LÝ HOẠT ĐỘNG GIÁO DỤC HƯỚNG
NGHIỆP Ở TRƯỜNG THPT


1
4

1.1.

Tổng quan nghiên cứu vấn đề

Hướng nghiệp là một bộ phận quan trọng của nền giáo dục phổ thông. Đổi
mới phương pháp quản lý, nội dung GDHN trong nhà trường hiện nay là một
yêu cầu ngày càng cấp thiết, vì công tác GDHN phải đóng góp hơn nữa vào
việc giải quyết việc làm cho thanh niên, vấn đề đặt ra ở đây không phải tạo ra
việc làm thật nhiều cho thế hệ trẻ, mà là định hướng cho thế hệ ừẻ vào những
ngành nghề phù hợp với khả năng và nhu cầu phát triển chung của đất nước, tạo
cho mỗi thanh niên nhiều cơ hội để lựa chọn ngành nghề thích họp, thành thạo
một nghề.
Vấn đề chọn nghề của thanh niên không những ảnh hưởng quyết định đến
tương lai, hạnh phúc, cuộc đời của các em mà còn gắn liền đến sự phát triển
kinh tế xã hội của đất nước, liên quan đến “quốc kế dân sinh”.
1.1.1.
-


Vấn đề giáo dục hướng nghiệp ở một số nước trên thế giới

Cộng hòa Pháp: Sau THCS, bậc THPT là quá trình dần định hướng học
sinh đi vào trung học chuyên ban gồm ba phương thức đào tạo: phổ
thông học ừong 3 năm cho văn bằng tú tài phổ thông; công nghệ học
trong 3 năm cấp bằng tú tài công nghệ và học ừong 2 năm cấp bằng kỹ
thuật viên; chuyên nghiệp cấp các văn bằng: chứng chỉ khả năng nghiệp
vụ hoặc chứng chỉ học chuyên nghiệp và bằng tú tài chuyên nghiệp.

-

Vương Quốc Anh: Học sinh của chương trình giai đoạn từ 11 đến 14 tuổi
và giai đoạn từ 14 đến 16 tuổi có thể lựa chọn nghề nghiệp của mình
theo bảng danh mục và hoàn thành chương trình hướng nghiệp này họ sẽ
nhận được một chứng chỉ để làm cơ sở cho việc nhận bằng quốc gia...
Mục đích của giáo dục phổ thông là nhằm trang bị cho học sinh vốn kiến
thức tiếp thu chương trình đào tạo hướng nghiệp và giáo dục đại học ở
những giai đoạn sau. Tất cả các học sinh 16 tuổi đều phải có hai tuần thử
việc ở các công ty địa phương như là một phần của chương trình đào tạo


1
5

hướng nghiệp chung.
-

Trung Quốc: Giáo dục nghề nghiệp không những là trụ cột quan trọng
của việc xã hội hoá sản xuất và hiện đại hoá phát triển, mà là khâu quan

trọng thúc đẩy trình độ lực lượng sản xuất không ngừng nâng cao. Trước
sự phát triển của khoa học kỹ thuật và sự thay thế ngành nghề nhanh
chóng, giáo dục nghề nghiệp phải không ngừng điều chỉnh phương pháp,
nội dung, phương tiện giáo dục để thích ứng với yêu cầu của sự tiến bộ
kỹ thuật và sự điều chỉnh ngành nghề. Sự phát triển của giáo dục nghề
nghiệp trong giai đoạn chiến lược này sẽ quá độ từ giáo dục nghề nghiệp
sơ cấp, trung cấp là chủ yếu sang giáo dục nghề nghiệp cao cấp là chính,
từ giáo dục mang tính đặc thù sang giáo dục chung, từ giáo dục cụ thể
sang giáo dục thông dụng.

-

Malaixia: Giáo dục THPT phân ra các ban: ban văn chương, ban khoa
học, ban kỹ thuật và dạy nghề. Học sinh chọn học các ban khác nhau căn
cứ vào kết quả thi hết lớp 9. Trong khuôn khổ chương trình tích họp,
ngoài các môn chính ra, học sinh lớp 10 và 11 ở các trường THPT được
phép chọn học các môn học tự chọn trong các nhóm môn học khác nhau.
Kỳ thi tú tài của Malaixia được tổ chức khi học sinh học hết 11. Một số
học sinh trượt kỳ thi này có thể gia nhập thị trường lao động. Ngoài ra,
các môn dạy nghề, kỹ thuật và cơ khí cũng được đưa vào chương trình
trung học, phù họp với chính sách cho phép học sinh các trường phổ
thông có cơ hội học các môn này.

-

Nhật Bản: Các trường THPT được nhóm thành: chương trĩnh phổ thông,
chương trình dạy nghề và chương trình phối họp toàn diện. Năm thứ
nhất của trường THPT được dành cho giáo dục phổ thông cho tất cả học
sinh.
Năm thứ hai chương trình được chia thành dự bị đại học và dạy nghề.



1
6

Năm thứ ba, chương trình dành cho học sinh sẽ lên học đại học lại được chia
thành khoa học nhân văn và xã hội, khoa học và công nghệ. Vì vậy, ngay cả các
trường THPT chung cũng có ba chuyên ngành sau khi tốt nghiệp. Các chưomg
trình dạy nghề dành ít thời gian hom cho các môn vãn hóa và tất nhiên nhấn
mạnh các môn hướng vào nghề đặc thù. Khi đủ 15 tuổi các em nhập học THPT
và sẽ quyết định sẽ theo chương trình phổ thông, dạy nghề hay chương trình
phối họp toàn diện.... Ngay ở lớp học đầu tiên bậc THPT, nền giáo dục Nhật
Bản đã quan tâm đến công tác hướng nghiệp cho các em học sinh, tuỳ theo
chương trình mà có môn học đặc thù để các em hướng vào nghề nghiệp tương
lai.
-

Hàn Quốc: Chương trình của cấp trung học bậc trung gồm có 11 môn cơ
sở, các môn tự chọn, các hoạt động ngoại khóa. Trong các môn tự chọn
có các khóa đào tạo kỹ thuật nghề nhằm tạo mối quan hệ chặt chẽ giữa
giáo dục và nghề nghiệp cho học sinh.

-

Cuba: Tổ chức lao động sản xuất trong nhà trường phổ thông được
Chính phủ Cuba đặc biệt coi ừọng. Ở tất cả các trường trung học cơ sở
và THPT nông thôn, trường vừa học vừa làm, THPT năng khiếu đã tham
gia lao động sản xuất 15 tiết/tuần. Học sinh THPT thảnh phố phải về
nông thôn tham gia thu hoạch mía, cà phê, thuốc lá ... 30 ngày/ năm ...


1.1.2.

Công tác giáo dục hướng nghiệp ở Việt Nam

THPT là bậc học cuối của hệ thống giáo dục phổ thông, là giai đoạn
chuẩn bị tích cực, trực tiếp cho thế hệ trẻ đi vào cuộc sống lao động sản xuất và
cuộc sống xã hội, làm nghĩa vụ công dân, đồng thời là giai đoạn chuẩn bị cho
một bộ phận thanh niên học sinh học tiếp lên bậc cao hơn. GDHN là một bộ
phận quan trọng của nền giáo dục phổ thông, có một vị trí đặc biệt quan trọng
nhằm bồi dưỡng, hướng dẫn học sinh chọn nghề phù họp với thể lực, năng
khiếu, sở thích của cá nhân và nhu cầu của xã hội.


1
7

Công tác hướng nghiệp được chính thức đưa vào trường phổ thông từ
19/03/1981 theo Quyết định 126/CP của Chính phủ về công tác hướng nghiệp
ừong trường phổ thông và việc sử dụng hợp lý học sinh THCS, THPT tốt
nghiệp ra trường. Quyết định nêu rõ vai trò, vị trí, nhiệm vụ công tác hướng
nghiệp, phân công cụ thể chính quyền các cấp, các ngành kỉnh tế, văn hóa từ
trung ương đến địa phương có nhiệm vụ tạo mọi điều kiện thuận lợi trực tiếp
giúp đỡ các trường phổ thông trong việc đào tạo, sử dụng họp lý và tiếp tục bồi
dưỡng học sinh phổ thông sau khi ra trường. Ban hành kèm Quyết định 126/CP
của Chính phủ là Thông tư 31/TT-BGDĐT ngày 17/8/1981 của Bộ GD&ĐT về
việc hướng dẫn thực hiện quyết định nêu trên. Nội dung thông tư nêu rõ mục
đích, nhiệm vụ và hình thức hướng nghiệp cho học sinh trong nhà trường phổ
thông, đồng thời phân công trách nhiệm cụ thể cho từng thành viên đang công
tác tại trường phổ thông, cho dù đang đảm nhận chức vụ công tác nào đều phải
hoàn thành nhiệm vụ được giao trong công tác GDHN.

Như vậy có thể thấy rằng trải qua một thòi gian dài, vấn đề GDHN hiện
nay vẫn là một vấn đề giành được sự quan tâm của toàn xã hội. Bởi vậy, có
nhiều đề tài khoa học, nhiều báo cáo khoa học cũng như nhiều học viên cao học
đã và đang nghiên cứu về hoạt động GDHN. Những nhà nghiên cứu đã đi tiên
phong trong nghiên cứu GDHN có thể kể tới các nhà giáo dục học như: Phạm
Tất Dong, Đặng Danh Ánh...
Một số đề tài đã được nghiên cứu như:
-

“Thực trạng quản lý hoạt động GDHN ở các trường THPT thành phố
Cần Thơ” của tác giả Đào Vãn Lê.

-

“Tìm hiểu thực trạng công tác quản lý hoạt động hướng nghiệp cho học
sinh THPT tại thành phố Hồ Chí Minh và đề xuất một số biện pháp” của
tác giả Nguyễn Hữu Thiện.
Ngoài ra còn rất nhiều đề tài khác về quản lý hoạt động GDHN mà qua


1
8

đó, có thể nhận thấy vấn đề GDHN ngày càng được quan tâm. Các công trình
nghiên cứu chủ yếu tập trung quan tâm tới việc đổi mới nội dung, phưorng pháp
GDHN, các biện pháp quản lý GDHN... nhằm nâng cao chất lượng cho hoạt
động GDHN.
1.2. Môt sổ khái niêm cơ bản của đề tài
••
1.2.1.

1.2.1.1,

Nghề và đào tạo nghề
Nghề

a. Nghề nghiệp
Theo tác giả E. A. Klimốp thì: “Nghề nghiệp là một lĩnh vực sử dụng sức
mạnh vật chẩt và tỉnh thần của con người một cách có giới hạn, cần thiết cho
xã hội (do sự phân công lao động xã hội mà có), nó tạo cho mỗi con người khả
năng sử dụng lao động của mình để thu lẩy những phương tiện cho việc tồn tại
và phát triển ”, [3].
Chúng ta có thể hiểu về nghề nghiệp như một dạng lao động vừa mang
tính xã hội (sự phân công xã hội), vừa mang tính cá nhân (nhu cầu bản thân),
trong đó con người với tư cách là chủ thể hoạt động đòi hỏi để thoả mãn những
nhu càu nhất định của xã hội và cá nhân.
Nghề luôn là cơ sở giúp cho con người có “nghiệp” (việc làm) và từ đó
tạo ra sản phẩm thoả mãn nhu cầu cá nhân cũng như nhu cầu xã hội. Còn nếu
như một người nào đó chỉ có nghề mà không có nghiệp, người đó được coi là
người thất nghiệp.
Như vậy, nghề là một lĩnh vực hoạt động lao động mà ừong đó nhờ có đào
tạo, con người có được những tri thức, những kĩ năng để làm ra các sản phẩm
vật chất và tinh thần nào đó, đáp ứng được những nhu cầu của bản thân và xã
hội.
b. Nghề phổ thông
Hiểu theo nghĩa thông thường, nghề phổ thông là những nghề phổ biến,


1
9


thông dụng đang cần phát triển ở địa phương, nắm được nghề này học sinh có
thể tự tạo việc làm, dễ sử dụng ừong các thành phần kinh tế tại chỗ của cộng
đồng dân cư.
Là những nghề có kĩ thuật tương đối đơn giản, mọi người đều có thể học
được và phục vụ ngay cho cuộc sống của họ, quá trình dạy nghề không đòi hỏi
phải có trang thiết bị phức tạp.
Thời gian đào tạo nghề ngắn, tối thiểu là 90 tiết tối đa đến 180 tiết.
Nguyên liệu dùng cho việc dạy nghề dễ kiếm, phù hợp với điều kiện kinh
tế, khả năng đàu tư của địa phương.
Yếu tố tác động đến việc xác định lĩnh vực nghề nghiệp của cá nhân là
lĩnh vực đào tạo của họ. Ngày nay, người ta không chỉ chuyển đổi nhiều công
việc khác nhau trong suốt lộ trình nghề nghiệp của cuộc đời, mà còn đồng thời
có thể được đào tạo ở nhiều lĩnh vực khác nhau.
Những yếu tố ừên cho thấy, việc cần thiết phải xác định khái niệm nghề
nghiệp trong môi trường xã hội đầy biến đổi và phải liên tục tìm hiểu, phân biệt
nhiều khái niệm kề cận và liên quan đến khái niệm nghề nghiệp truyền thống
như: việc làm, nghiệp vụ, sự nghiệp, công việc...
1.2.1.2,

Đào tạo nghề

Công tác dạy nghề phải gồm bao gồm các thành phần:
-

Giáo dục trí tuệ;

-

Giáo dục thể lực;


-

Dạy kỹ thuật nhằm giúp học sinh nắm vững được những nguyên lý cơ
bản của tất cả các quá trình sản xuất đồng thời biết sử dụng các công cụ
sản xuất đơn giản nhất.
Tổ chức Lao động quốc tế (ILO) định nghĩa: Dạy nghề là cung cấp cho

người học những kỹ năng cần thiết để thực hiện tất cả các nhiệm vụ liên quan
tới công việc nghề nghiệp được giao"


2
0

Theo Bộ Lao động, Thương binh và Xã hội: Đào tạo nghề là hoạt động
dạy và học nhằm ữang bị cho người lao động những kiến thức, kĩ năng và thái
độ lao động càn thiết để người lao động sau khi hoàn thành khóa học hành được
một nghề trong xã hội.
Luật Giáo dục nghề nghiệp số 74/2014/QH13: "Đào tạo nghề nghiệp là
hoạt động dạy và học nhằm trang bị kiến thức, kỹ năng và thái độ nghề nghiệp
cần thiết cho người học để có thể tìm được việc làm hoặc tự tạo việc làm sau
khỉ hoàn thành khóa học để nâng cao trình độ nghề nghiệp", [26].
Từ các định nghĩa trên chúng ta thấy dạy nghề có ý nghĩa quan trọng ừong
việc giải quyết việc làm cho người lao động nó là yếu tố cơ bản thuận lợi cho
quá trình tìm việc làm và thực hiện công việc của người lao động. Dạy nghề
giúp cho người lao động có kiến thức chuyên môn kỹ năng và thái độ nghề
nghiệp từ đó họ có thể tìm được việc làm phù hợp với trình độ và năng lực của
bản thân trong các cơ quan doanh nghiệp, tổ chức lao động sản xuất, hay có thể
tự tạo đặc công việc cho bản thân.
1.2.2.

1.2.2.1.

Hướng nghiệp và giáo dục hướng nghiệp
Hướng nghiệp

Theo từ điển tiếng Việt, “Hướng nghiệp” được giải thích là “thi hành
những biện pháp nhằm đảm bảo sự phân bố tối ưu (có chú ý tới năng khiếu,
năng lực, thể lực) nhân dân theo ngành và loại lao động” hoặc được hiểu là
“giúp đỡ lựa chọn hợp lý ngành nghề”.
Hướng nghiệp là hoạt động định hướng nghề nghiệp của các nhà sư phạm
cho học sinh nhằm giúp họ chọn nghề phù họp với hứng thú, năng lực của cá
nhân và yêu cầu nhân lực của xã hội.
- Ở góc độ giáo dục học, hướng nghiệp là “một hoạt động của tập thể sư
phạm, cán bộ thuộc các cơ quan nhà nước khác nhau, được tiến hành với mục
đích giúp học sinh chọn nghề đúng đắn, phù họp với năng lực, sở thích, thể lực


2
1

và tâm lý cá nhân và với cả nhu cầu của xã hội. Hướng nghiệp là một bộ phận
cấu thành của quá trình giáo dục học tập trong nhà trường”.
- Còn theo các nhà Tâm lý học thì hướng nghiệp là một hệ thống các biện
pháp tâm lý sư phạm và y học giúp cho thế hệ trẻ chọn nghề có tính đến nhu
cầu xã hội và năng lực bản thân.
I.2.2.2.

Giáo dục hướng nghiệp

GDHN là hoạt động định hướng nghề nghiệp của các nhà sư phạm cho

học sinh, nhằm giúp họ chọn một nghề phù họp với hứng thú, năng lực của cá
nhân và yêu càu nhân lực của xã hội.
K. K. Platonov đã đưa ra tam giác hướng nghiệp như sau:

Theo tam giác hướng nghiệp này, mỗi hoạt động GDHN thuộc các góc
của tam giác hướng nghiệp được dựa trên cơ sở là hai yếu tố cơ bản tương ứng
với các cạnh giao thoa tạo nên góc đó.
Dựa trên tam giác hướng nghiệp của K.K. Platonov ta thấy:
Định hướng nghề nghiệp phải dựa trên hai yếu tố là: “thị trường lao động”
và “các nghề và yêu cầu của chúng”. Định hướng nghề nghiệp là việc thông tin
cho học sinh về đặc điểm hoạt động và yêu cầu phát triển của các nghề trong xã
hội, đặc biệt là các nghề và các noi đang cần nhiều lao động trẻ tuổi có văn hoá,
thông tin cho học sinh về những yêu cầu tâm sinh lý của mỗi nghề, về tình hình


2
2

phân công và yêu cầu điều chỉnh lao động ở cộng đồng dân cư, về hệ thống
trường lớp đào tạo nghề của Nhà nước, tập thể và tư nhân.
Định hướng nghề gồm: Giáo dục nghề nghiệp và tuyên truyền nghề
nghiệp. Trong đó giáo dục nghề nghiệp giúp học sinh làm quen với một số nghề
cơ bản, phổ biến của địa phương và xã hội, đồng thời tìm hiểu xu thế phát triển
các ngành nghề cùng với những yêu cầu tâm sinh lý do ngành nghề đó đặt ra
cho người lao động. Giáo dục nghề nghiệp tạo điều kiện ban đầu để học sinh
phát triển năng lực tương ứng với hứng thú nghề nghiệp đã hình thành, giáo dục
học sinh thái độ đúng đắn, uốn nắn những biểu hiện lệch lạc ừong dự định chọn
nghề của học sinh. Khác với giáo dục nghề nghiệp, tuyên truyền nghề nghiệp
làm cho học sinh chú ý đến những nghề đang phát triển có nhu càu cấp thiết về
nhân lực, giới thiệu các gương mặt thành đạt trong nghề nghiệp, sáng tạo trong

lao động sản xuất, qua đó điều chỉnh hứng thú, động cơ chọn nghề của học sinh.
Tư vấn nghề phải dựa trên hai yếu tố là “các nghề và yêu cầu của chúng”
và “phẩm chất, năng lực, hoàn cảnh cá nhân”.
Ở trường phổ thông, GDHN là hình thức hoạt động của thầy và ừò, có
mục đích giáo dục học sinh trong việc chọn nghề, giúp các em tự quyết định
nghề nghiệp tương lai ừên cơ sở phân tích có khoa học về năng lực, hứng thú
của bản thân và nhu càu nhân lực của các ngành sản xuất trong xã hội.
1.2.3.
1.2.3.1.

Quản lý - quản lý hoạt động giáo dục hướng nghiệp
Quản lý

a. Khái niêm
Theo tác giả Hà Thế Ngữ - Đặng Vũ Hoạt: “Quản lý là một quá trình
định hướng, quá trình có mục tiêu, quản lỷ là một hệ thống, là quá trình tác
động đến hệ thống nhằm đạt được mục tiêu nhất định ”, [22].
Tác giả Nguyễn Minh Đạo cho rằng: “Quản lý là sự tác động liên tục có
tổ chức, cỏ định hướng của chủ thể quản lỷ lên khách thể quản lý về các mặt


2
3

văn hoá, chỉnh trị, kinh tế, xã hội bằng một hê thống luật lệ, các chỉnh sách,
các nguyên tẳc, các phương pháp và biện pháp cụ thể nhằm tạo ra môi trường
và điều kiện cho sự phát triển của đối tượng”, [17].
Như vậy, khái niệm quản lý có thể được biểu đạt bởi nhiều cách khác
nhau. Tuy nhiên, mặc dù các tác giả có các quan niệm khác nhau về quản lý
nhưng họ đều thống nhất:

-

Quản lý luôn tồn tại với tư cách là một hệ thống gồm các yếu tố: chủ thể
quản lý (người quản lý, tổ chức quản lý); khách thể quản lý (người bị
quản lý, đối tượng quản lý) gồm con người, trang thiết bị kỹ thuật, vật
nuôi, cây ừồng.... và mục đích hay mục tiêu chung của công tác quản lý
do chủ thể quản lý áp đặt hay do yêu cầu khách quan của xã hội hoặc do
có sự cam kết, thoả thuận giữa chủ thể quản lý và khách thể quản lý, từ
đó nảy sinh các mối quan hệ tương tác với nhau giữa chủ thể quản lý và
khách thể quản lý.

-

Bản chất của hoạt động quản lý là cách thức tác động (tổ chức, điều
khiển, chỉ huy) họp quy luật của chủ thể quản lý đến khách thể quản lý
trong một tổ chức nhằm làm cho tổ chức vận hành đạt hiệu quả mong
muốn và đạt được mục tiêu đề ra.

-

Quản lý là một hoạt động mang tính tất yếu của xã hội. Chủ thể quản lý
và khách thể quản lý luôn có quan hệ tác động qua lại và chịu tác động
của môi trường. Con người là yếu tố trung tâm của hoạt động quản lý vì
thế quản lý vừa là khoa học vừa là nghệ thuật. Người quản lý phải nhạy
cảm, linh hoạt và mềm dẻo.
Từ những phân tích trên như vậy: Quản lý là sự tác động có ý thức của

chủ thể quản lý để lãnh đạo, hướng dẫn, điều khiển các quá trình xã hội, hành vi
và hoạt động của con người nhằm đạt được mục đích đúng ý chí của nhà quản
lý và phù họp với quy luật khách quan.



2
4

b. Chức năng của quản lý
Ngày nay có rất nhiều quan điểm khác nhau khi bàn về các chức năng của
quản lý, nhưng nhìn chung các tác giả đều thống nhất rằng các chức năng của
quản lý bao gồm:
-

Lập kế hoạch

-

Tổ chức thực hiện

-

Chỉ đạo hoạt động

-

Kiểm tra, đánh giá
Các chức năng này được thể hiện cụ thể như sau:

-

Lập kế hoạch là chức năng đàu tiên của hoạt động quản lý giúp chủ thể
tiếp cận mục tiêu một cách họp lý và khoa học. Kế hoạch là văn bản

trong đó xác định mục tiêu, mục đích đối với thành tựu tương lai của tổ
chức và các con đường, các biện pháp, cách thức để đạt được mục tiêu,
mục đích đó. Chức năng kế hoạch hoá có các nội dung cơ bản sau:
+ Xác định, hình thành mục tiêu (phương hướng) đối với tổ chức.
+ Xác định và đảm bảo (có tính chắc chắn, có tính cam kết) về các nguồn

lực của tổ chức để đạt được mục tiêu này.
+ Quyết định xem những hoạt động nào là càn thiết để đạt được các mục
tiêu, xác định các hoạt động ưu tiên.
-

Tổ chức là quá trình hình thảnh cấu trúc, quan hệ giữa thành viên, giữa
các bộ phận trong một tổ chức nhằm làm cho họ thực hiện thành công kế
hoạch và đạt được mục tiêu tổng thể của tổ chức. Nhờ thực hiện chức
năng tổ chức có hiệu quả, người quản lý có thể phối hợp, điều phối tốt
hơn các nguồn lực và nhân lực.
Chức năng tổ chức gồm năm bước:
+ Bước một: Lập danh sách các công việc cần phải hoàn thành để đạt

được mục tiêu của tổ chức.


2
5

+ Bước hai: Phân chia toàn bộ công việc thành những nhiệm vụ để các
thành viên hay các bộ phận (nhóm) trong tổ chức thực hiện một cách thuận lợi
và họp lôgic. Đây gọi là bước phân công lao động.
+ Bước ba: Kết họp các nhiệm vụ một cách lôgic và hiệu quả. Đây là bước
phân chia bộ phận.

+ Bước bốn: Thiết lập một cơ chế điều phối, sự liên kết hoạt động của các
cá nhân, các nhóm, các bộ phận một cách họp lý sẽ tạo điều kiện để đạt được
các mục tiêu của tổ chức một cách dễ dàng và hiệu quả hơn.
+ Bước năm: Theo dõi, đánh giá tính hiệu nghiệm của cấu trúc tổ chức và
tiến hành những điều chỉnh cần thiết.
-

Chỉ đạo thực hiện bao gồm việc liên kết, liên hệ với người khác và động
viên họ hoàn thành những nhiệm vụ nhất định để đạt được các mục tiêu
của tổ chức.
Chỉ đạo tập trung vào các nhiệm vụ sau:
+ Nhận thức lĩnh hội quan điểm, xây dựng tầm nhìn, lý tưởng và sứ mệnh

của hệ thống.
+ Làm sáng tỏ được thực trạng vận động của hệ thống, phân tích các mâu
thuẫn ừong quá trình phát triển, phát hiện ra nhân tố mới.
+ Tổng kết được quy luật, xu thế phát triển của hệ thống.
+ Đề xuất các phương án chiến lược phát triển hệ thống.
-

Kiểm tra, đánh giá là chức năng cuối cùng trong bốn chức năng cơ bản
của quản lý. Kiểm tra đề cập đến các phương pháp và cơ chế được sử
dụng để đảm bảo rằng các hành vi, hoạt động và thành tựu phải tuân thủ,
phù hợp với mục tiêu, kế hoạch và chuẩn mực của tổ chức. Kiểm ừa,
đánh giá có bốn bước:
+ Bước một: Xác định tiêu chuẩn (chuẩn mực) và phưomg pháp đo lường

thành tựu.



×